Đề tài Phát triển thị trường Up CoM ở Việt Nam

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG UPCoM Thị trường UPCoM (Unlisted Public Company Market) của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng thị trường OTC nhưng phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị ở Việt Nam, và là bước đệm để tiến tới xây dựng một thị trường OTC hiện đại tại Việt Nam. Vì vậy lý luận tổng quan về thị trường UPCoM được dựa trên lý luận tổng quan về thị trường OTC. Để UPCoM đạt được mục tiêu đề ra chúng ta cần hiểu rõ và nắm vững cơ sở lý luận, đồng thời nghiên cứu mô hình thị trường OTC của một số nước trên thế giới nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho việc phát triển thị trường UPCoM ở Việt Nam. 1.1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP TRUNG (THỊ TRƯỜNG OTC) 1.1.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán (TTCK) phi tập trung TTCK phi tập trung là loại TTCK xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển TTCK. Việc mua, bán chứng khoán chủ yếu được thực hiện thông qua các quầy của ngân hàng, các công ty chứng khoán (CTCK). Phương thức giao dịch chủ yếu là mua bán trực tiếp thủ công, thương lượng giá. Khi TTCK phát triển, hoạt động của thị trường được thực hiện bởi một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư ở các địa điểm phân tán khác nhau mà không có trung tâm giao dịch. Các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường này là chứng khoán chưa niêm yết, chủ yếu là của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc giao dịch được thực hiện thông qua mạng điện thoại, internet; giá cả chứng khoán giao dịch được xác định dựa trên cơ sở thỏa thuận, thương lượng. Chính vì vậy, TTCK phi tập trung còn được gọi là “thị trường qua quầy” - thị trường OTC (Over the counter market). TTCK phi tập trung được đặt dưới sự quản lý, điều hành của các tổ chức do háp luật quy định và chịu sự quản lý của nhà nước. Với sự phát triển của kỹ thuật tin học, TTCK phi tập trung phát triển rất mạnh và nhanh, trở thành một loại hình TTCK hiện đại.

pdf79 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2310 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường Up CoM ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22/QĐ- TTGDHN ngày 9/11/2007 về việc ban hành Quy chế công bố thông tin trên TTGDCK Hà Nội. Hiện nay, công tác tổ chức, công bố thông tin tại SGDCK Hà Nội đã được thực hiện theo đúng quy định và yêu cầu các tổ chức tham gia thị trường phải chỉ định người phụ trách công bố thông tin. Việc quản lý công bố thông tin của toàn thị trường đã đảm bảo tính chuyên nghiệp, hiệu quả, kịp thời. SGDCK Hà Nội tiến hành công bố thông tin giao dịch tức thời, thông tin giao dịch của mỗi ngày giao dịch, công bố các thông tin định kỳ, bất thường theo yêu cầu của các tổ chức tham gia thị trường. Các thông tin này được công bố trên các phương tiện: Website của HNX, bản tin thị trường hàng ngày, các trạm đầu cuối tại CTCK và liên kết phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng. 2.2.2.3. Đánh giá chung về hoạt động của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Sự ra đời của SGDCK Hà Nội đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống tổ chức của TTCK, góp phần vào quá trình hoàn thiện hệ thống thể chế thị trường tài chính Việt Nam. Đặc biệt việc thành lập thị trường UPCoM đặt dưới sự quản lý của SGDCK Hà Nội được xem là bước thử nghiệm cần thiết trước khi chúng ta hội đủ các điều kiện để thiết lập TTCK phi tập trung với sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường, hoạt động theo mô hình như thông lệ quốc tế. Sự ra đời của SGDCK Hà Nội và việc thành lập thị trường UPCoM bước đầu đã đạt được một số đóng góp chính như sau: Một là, đã góp phần hỗ trợ tích cực cho tiến trình cổ phần hoá DNNN và gắn kết giữa cổ phần hoá với niêm yết, đăng ký giao dịch trên TTCK. Thực hiện cơ chế đấu giá bán cổ phần DNNN cổ phần hóa, bán bớt cổ phần nhà nước nắm giữ một cách công khai, minh bạch trên cơ sở cung cấp cho công chúng đầu tư đầy đủ thông tin về doanh nghiệp để tham dự đấu giá, khắc phục được tình trạng cổ phần hoá 55 khép kín trong nội bộ như trước đây gây thất thu cho ngân sách Nhà nước và làm thiệt hại cho nhà đầu tư. Quá trình đấu giá được thực hiện công khai, người đầu tư tham gia nhiều hơn, giá trị doanh nghiệp được xác định một cách khách quan theo hướng thị trường, đảm bảo hài hòa lợi ích của các tổ chức, cá nhân đầu tư, doanh nghiệp cổ phần hoá và tài sản nhà nước trong doanh nghiệp. Qua đó doanh nghiệp được tiếp cận với TTCK ngay từ đầu, hiểu được những lợi ích và những cơ hội do TTCK mang lại. Hai là, với cơ chế đăng ký giao dịch và thủ tục chấp thuận do SGDCK Hà Nội quyết định, hệ thống giao dịch khá linh hoạt, SGDCK Hà Nội mở ra cơ hội để các doanh nghiệp chưa niêm yết có điều kiện đăng ký giao dịch, thu hẹp thị trường cổ phiếu tự do và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia huy động vốn thông qua hoạt động phát hành chứng khoán trên TTCK tập trung. Thị trường này là kênh huy động vốn hữu hiệu để các doanh nghiệp đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn phục vụ cho kế hoạch kinh doanh của mình. Đây là một bước chuẩn bị để tiến tới xây dựng một thị trường OTC hiện đại trong thời gian tới. SGDCK Hà Nội ra đời là nơi mở ra nhiều cơ hội đầu tư mới cho các nhà đầu tư bên cạnh việc đầu tư các chứng khoán niêm yết chính thức tại SGDCK TP.HCM. Bên cạnh những đóng góp tích cực của SGDCK Hà Nội cho sự phát triển và tăng trưởng của TTCK Việt Nam nói riêng và nền kinh tế của đất nước nói chung thì SGDCK Hà Nội vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định: Một là, SGDCK Hà Nội được tổ chức với phương châm trở thành một khu vực chung cho các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, nhưng thực tế trên thị trường hầu hết vẫn chỉ có các doanh nghiệp lớn tham gia, số lượng tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ cả về số lượng cũng như quy mô giao dịch trên thị trường. Hai là, hầu hết các công ty đăng ký giao dịch trên thị trường này là các DNNN cổ phần hóa nên tỷ lệ vốn thuộc sở hữu Nhà nước còn khá cao do đó khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch còn thấp. 56 Ba là, quản lý Nhà nước về TTCK Hà Nội còn nhiều khó khăn, bất cập do hệ thống pháp lý thị trường chưa hoàn chỉnh, các chính sách khuyến khích đối tượng tham gia thị trường (thuế, phí,…) chưa thống nhất và chưa thực sự phát huy tác dụng. Bốn là, hiện nay vẫn chưa xây dựng và hình thành được hệ thống các nhà tạo lập thị trường chuyên nghiệp, một nhân tố quan trọng của TTCK phi tập trung nên các chứng khoán giao dịch trên thị trường chưa thực sự sôi động và chưa có tính thanh khoản cao. Việc vắng bóng các nhà tạo lập thị trường là một trong những nguyên nhân cơ bản kiềm hãm sự phát triển của TTCK trong thời gian qua. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những mặt tiêu cực trong giao dịch chứng khoán trên TTCK phi tập trung ở Việt Nam hiện nay như hiện tượng bất cân xứng thông tin, cổ đông lớn ép cổ đông nhỏ, mua bán theo bầy đàn, điển hình là giao dịch của những cổ phiếu OTC trong năm 2006, có những cổ phiếu của các ngân hàng hay CTCK mới thành lập chưa hoạt động nhưng đã bán gấp 10 lần mệnh giá … 2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TỰ DO (THỊ TRƯỜNG CHỢ ĐEN) 2.3.1. Phương thức giao dịch trên thị trường TTCK tự do ở Việt Nam hoạt động từ trước khi có thị trường chính thức và là một bộ phận cấu thành của hệ thống TTCK Việt Nam. Có thể nói thị trường tự do bắt đầu được hình thành kể từ khi các DNNN cổ phần hóa, và sự ra đời của Luật doanh nghiệp cho phép phát hành và chuyển nhượng chứng khoán công ty nói chung. Đặc điểm của thị trường này là hoàn toàn do khu vực tư nhân đứng ra tự tổ chức, vận hành thị trường, chưa có sự quản lý và tổ chức của Nhà nước. Hoạt động của thị trường này chiếm tỷ trọng lớn so với thị trường chính thức: ¾ Nếu thị trường niêm yết có khoảng 643 doanh nghiệp thì thị trường tự do có hơn 3,000 doanh nghiệp. Thị trường chính thức có tổng giá trị niêm yết của các doanh nghiệp là 333,788 tỷ đồng thì thị trường tự do ước tính trên 1,000,000 tỷ đồng. 57 ¾ Thị trường niêm yết có khoảng hơn 300 CTCK hoạt động thì thị trường tự do có hàng trăm, hàng ngàn nhà môi giới hoạt động tự do, không cần có chứng chỉ của UBCK Nhà nước. Thị trường chính thức có thể xác định được số lượng các nhà đầu tư , nhưng không thể tính được con số này ở thị trường tự do vì ở thị trường này bất kỳ ai đều có thể trở thành nhà đầu tư. Các chứng khoán trên thị trường tự do được mua bán chủ yếu là cổ phiếu của những công ty làm ăn có hiệu quả, đang chuẩn bị làm thủ tục niêm yết, đăng ký niêm yết, hoặc của những DNNN được cổ phần hóa. Khi SGDCK bắt đầu mở cửa, tình hình mua bán trên thị trường tự do có phần bị ảnh hưởng, nếu giá cổ phiếu trên thị trường chính thức tăng hoặc giảm thì giá trên thị trường tự do cũng có chiều hướng tăng hoặc giảm theo. Việc mua bán cổ phiếu trên thị trường tự do được tổ chức thực hiện tại các quán cà phê hoặc yết giá công khai trên mạng Internet với sự tham gia của hàng trăm nhà môi giới nhưng lại không có giấy phép hành nghề. Đây là thị trường tự phát, ra đời do yêu cầu của thị trường và chưa có các quy định tổ chức, hoạt động và điều chỉnh. Việc mua bán cổ phiếu trên mạng Internet được thực hiện khi truy cập tại các trang Web. Thông qua đó, ta có thể biết được tình hình mua bán chứng khoán trên thị trường tự do như: giá mua bán chứng khoán, danh sách các công ty cổ phần có kết quả kinh doanh tốt… Đây là hình thức kinh doanh trên mạng được hình thành tự phát theo nhu cầu mua bán trên thị trường tự do. Trên thực tế, hàng hóa và doanh số giao dịch trên TTCK ở thị trường tự do phong phú và đa dạng hơn tại các SGDCK, bao gồm các loại cổ phiếu của nhiều ngành nghề như: ngân hàng, hàng hải, tiêu dùng, công nghệ thông tin... Thị trường tự do đã và đang là sân chơi cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết, các doanh nghiệp không đăng ký giao dịch. Việc giao dịch trên thị trường tự do ở một số nơi khá thuận tiện, nhanh chóng, thanh toán sòng phẳng, chuyển quyền sở hữu nhanh và có thông tin tốt phục vụ cho quyết định mua bán chứng khoán. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì thực tế cho thấy thị 58 trường tự do đã xuất hiện những hành vi tiêu cực đặc trưng của thị trường, đó là hoạt động thao túng giá, tung tin đồn sai lệch, mua bán nội gián kiếm lời, mua bán với những thông tin chưa đầy đủ và chính xác, kinh doanh chứng khoán trốn thuế,… Để hạn chế những mặt tiêu cực này, việc phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp cổ phần hóa đang dần được quản lý chặt chẽ, đảm bảo tính công bằng, công khai, định giá theo nguyên tắc thị trường thông qua các phiên đấu giá tại SGDCK và các CTCK, làm lợi cho Ngân sách Nhà nước và công bằng cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường. 2.3.2 Tình hình giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết Tại TTCK tự do thông thường vào cuối năm, thông tin về cổ tức cũng như các đợt huy động vốn mới của các công ty chưa niêm yết làm cho thị trường trở nên sôi động. Tại đây không chỉ mua bán cổ phiếu của các công ty có khả năng niêm yết, đăng ký giao dịch mà các nhà đầu tư cũng chẳng ngần ngại trả giá cao để có được quyền mua cổ phiếu chưa phát hành rộng rãi của các công ty có tiềm năng phát triển. Hiện tượng này là do: ¾ Tâm lý thích cầm tiền mặt hoặc sở hữu thứ gì đó cụ thể hơn là đầu tư lâu dài vào mua cổ phiếu của công chúng đầu tư. ¾ Do tính thanh khoản của cổ phiếu chưa niêm yết không cao nên các nhà đầu tư không nắm giữ lâu dài. ¾ Rất đông người lao động không có đủ tiền mua cổ phiếu do công ty phát hành, vì vậy họ bán quyền mua để không phải lo công ty làm ăn thua lỗ. Việc mua bán cổ phiếu của các công ty chưa niêm yết được thực hiện do các cá nhân trong công ty mua bán với nhau, song cũng có nhiều trường hợp một người trong công ty đứng ra gom cổ phiếu của nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ rồi bán ra ngoài để ăn chênh lệch. Hoạt động giao dịch trên thị trường tự do mạnh, song giá cả và mọi giao dịch mua bán lại nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý thị trường. Cụ thể: 59 ¾ Cổ phiếu của một công ty có thể được tung tin cao gấp nhiều lần so với mệnh giá nhưng không ai có thể trả lời chính xác là tại mức giá đó có diễn ra giao dịch thực sự hay không. ¾ Các nhà đầu tư thường mất cảnh giác với những tin đồn về ngày lên sàn của các cổ phiếu nên không phân tích, đánh giá một cách cẩn thận nên rất dễ bị lừa. ¾ Các nhà đầu tư lão luyện thường tung tin về các giao dịch với mức giá rất cao. Các giao dịch đó có thật nhưng điều quan trọng là nó được giao dịch với khối lượng rất nhỏ và vì vậy họ đã đánh lừa được các nhà đầu tư non nớt. Tại thị trường tự do, cổ phiếu giao dịch sôi động chủ yếu là của những doanh nghiệp có chế độ công bố thông tin rõ ràng, minh bạch và rộng rãi. Đây cũng là những đơn vị có khả năng niêm yết trên TTCK… Với các nhà đầu tư có kinh nghiệm, những thông tin về tình hình kinh doanh, đội ngũ lãnh đạo và ngay cả tỷ lệ sở hữu Nhà nước cũng ảnh hưởng mạnh đến giá cả. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, ở một số doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu Nhà nước trên 51%, ý kiến của Hội đồng quản trị không có trọng lượng khiến cho mọi quyết sách không được linh động kéo theo giá cổ phiếu xuống thấp. Hiện nay, những hoạt động chuyển nhượng trên thị trường này diễn ra một cách tự phát và hoàn toàn bị thả nổi, chủ yếu qua cò nên tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nhà đầu tư. Bản thân nhà đầu tư cũng ngại mua cổ phiếu chưa niêm yết bởi khó chuyển nhượng trên thị trường. Vì vậy cần có sự quản lý của Nhà nước và những định hướng nhất định cho loại thị trường này. 2.3.3. Đánh giá chung về hoạt động của thị trường chứng khoán tự do Trong quá trình hoạt động TTCK tự do đã bộc lộ những mặt tích cực và hạn chế như sau: 2.3.3.1. Mặt tích cực của thị trường chứng khoán tự do: Trong giai đoạn hiện tại, TTCK tự do đã thu hút và đáp ứng khá nhiều nhu cầu mua bán chứng khoán ở Việt Nam, thực hiện chức năng của một TTCK như huy động vốn cho nền kinh tế, lưu động hóa nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp cổ phần. TTCK tự do đã thực sự thể hiện vai trò khá quan trọng trong việc 60 huy động và phân bổ nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Khi thị trường chính thức chưa được tổ chức đầy đủ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, chưa tổ chức được thị trường cho tất cả các loại hình doanh nghiệp của nền kinh tế và đặc biệt là chưa được tổ chức thuận tiện, đáp ứng nhu cầu đa dạng cho những người tham gia thị trường, thì thị trường tự do thể hiện khá hữu dụng và hữu hiệu. 2.3.3.2. Mặt hạn chế của thị trường chứng khoán tự do: Do không được quản lý chặt chẽ nên giá chứng khoán trên thị trường tự do thường biến động lớn, người mua và người bán dễ bị tác bị tác động tâm lý, thường mua bán theo phong trào, không thuận lợi mua bán cho các nhà đầu tư nói chung. Thị trường tự do hiện nay là một trong những yếu tố bất cập của hệ thống TTCK Việt Nam, nhưng không phải ở bản thân hoạt động thị trường mà trên phương diện chưa được quản lý hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Tuy thị trường có vai trò và vị trí nhất định trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng phần lớn nhu cầu phát hành và giao dịch chứng khoán cho các công ty và các nhà đầu tư, nhưng thực tế thị trường đã bộc lộ những mặt tiêu cực như sau: ¾ TTCK tự do không đảm bảo tính công bằng, minh bạch và đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia thị trường. Những nhà hoạt động kinh doanh trên thị trường hoạt động trong điều kiện không công bằng, trốn thuế…, gây thiệt hại và ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường chính thức. ¾ Xét về tổng thể, vĩ mô, TTCK tự do không đảm bảo sự phát triển hài hòa, đồng bộ, phù hợp với các lĩnh vực và các mục tiêu kinh tế - xã hội khác khi nằm ngoài quỹ đạo quản lý và định hướng phát triển chung của Nhà nước. ¾ Hoạt động của thị trường tự do hiện tại và về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến thị trường chính thức, gây bất bình đẳng trong việc mua bán cổ phiếu của các nhà đầu tư tham gia TTCK, hệ quả tất yếu là không đảm bảo sự phát triển lành mạnh, ổn định của tổng thể hệ thống TTCK nói chung. Những mặt trái của TTCK tự do nếu không được kiềm chế và ngăn chặn không những gây ra những rủi ro đối với chính thị trường này mà còn lây lan đối 61 với toàn bộ hệ thống thị trường tài chính nói chung và gây hậu quả tiêu cực không lường cho nền kinh tế - xã hội, đặc biệt là đối với một thị trường nhạy cảm và mang tính dây chuyền lớn như TTCK. 2.4. MỐI LIÊN HỆ GIỮA THỊ TRƯỜNG UPCoM VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TỰ DO Qua tìm hiểu về thực trạng hoạt động của thị trường UPCoM, TTCK tập trung và TTCK tự do ta thấy thị trường UPCoM chưa thực sự thực hiện được mục tiêu thu hẹp hoạt động của TTCK tự do, là bước đệm để xây dựng thị trường OTC hiện đại nhằm thúc đẩy TTCK nói chung và TTCK tập trung nói riêng. Thứ nhất, thị trường UPCoM chưa thu hẹp được hoạt động của TTCK tự do và phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của 2 sàn niêm yết. Thị trường UPCoM được thành lập với mục đích thu hẹp hoạt động của thị trường tự do nhưng thực tế lại không diễn ra như dự kiến khi vẫn còn rất nhiều cổ phiếu của các công ty đang trôi nổi ngoài thị trường tự do, có nhiều mã thanh khoản tốt trên thị trường tự do nhưng một thời gian dài không quan tâm đến UPCoM như MB- Ngân hàng Quân đội, EIB-Ngân hàng Eximbank, PGD- CTCP Phân phối Khí thấp áp Dầu Khí Việt Nam... Hầu hết các doanh nghiệp đều chờ khi có đủ điều kiện thì tiến thẳng lên sàn niêm yết, không qua UPCoM vì cho rằng sàn UPCoM chỉ dành cho những doanh nghiệp nhỏ, cổ phiếu có tính thanh khoản thấp và ít được nhà đầu tư quan tâm. Vì vậy mục tiêu thu hẹp thị trường tự do có lẽ còn lâu mới đạt được. Ngoài ra hoạt động của thị trường UPCoM không những không thúc đẩy mà còn phụ thuộc vào hoạt động của 2 sàn niêm yết. Khi giao dịch trên hai sàn niêm yết diễn ra sôi nổi thì UPCoM mới thực sự có những phiên tăng điểm với biên độ nhẹ, khi VN-Index và HNX-Index lao dốc thì UPCoM-Index không bị loại trừ. Thậm chí có những phiên UPCoM-Index giảm điểm trong khi chỉ số tại hai sàn niêm yết tăng liên tục. Nguyên nhân là do điều kiện để các công ty đại chúng đăng ký giao dịch trên UPCoM dễ hơn so với việc niêm yết trên sàn nên nhà đầu tư nhận thấy hàng 62 hóa trên sàn niêm yết chất lượng và hấp dẫn hơn, đầu tư trên sàn niêm yết sẽ ít gặp rủi ro hơn. Thứ hai, thị trường UPCoM chưa trở thành môi trường đầu tư linh hoạt, an toàn, hấp dẫn cho nhà đầu tư. Vì có rất ít hàng hóa tham gia trên thị trường, tính thanh khoản thấp, thiếu thông tin, không được các CTCK quan tâm hỗ trợ nên thị trường UPCoM vẫn chưa thực sự được nhiều nhà đầu tư quan tâm và tham gia giao dịch. Các nhà đầu tư có xu hướng tham gia trên SGDCK do có nhiều hàng hóa lựa chọn, tính thanh khoản cao hơn, thông tin minh bạch hơn... hoặc giao dịch trên thị trường tự do tuy có rủi ro cao hơn nhưng tính thanh khoản và tỷ suất sinh lợi mang lại cũng cao hơn, phương thức và thời gian thanh toán linh hoạt hơn... Thứ ba, thị trường UPCoM chưa thực sự là kênh huy động vốn hiệu quả cho các công ty đại chúng chưa niêm yết trên TTCK. Với tính thanh khoản thấp và cơ chế giao dịch không khác gì so với hai sàn niêm yết, thị trường UPCoM chưa thực sự là kênh huy động vốn hiệu quả cho các công ty đại chúng chưa niêm yết và là bước đệm để các công ty này tiến lên niêm yết trên SGDCK. Thực tế hiện nay đa số các doanh nghiệp thay vì chuẩn bị lên sàn UPCoM như kế hoạch ban đầu, thậm chí có một số doanh nghiệp đã được cấp giấy phép giao dịch trên sàn UPCoM đã chuyển hướng sang sàn chứng khoán tập trung như ngân hàng Sacombank và Ngân hàng Đại á mặc dù đã làm thủ tục giao dịch cổ phiếu trên UPCoM nhưng đã từ bỏ ý định và niêm yết thẳng trên HoSE. Ngay cả các CTCK là những đối tượng nòng cốt của UPCoM cũng chưa nhiệt tình. Mặc dù UBCKNN đã gửi công văn ngày 22/4/2009 yêu cầu các CTCK phải đăng ký giao dịch trên UPCoM nhưng hiện tại mới chỉ có 5 CTCK là công ty đại chúng đăng ký giao dịch. Thứ tư, thị trường UPCoM chưa thực sự thúc đẩy các CTCK phát triển theo hướng tạo lập thị trường đảm bảo hoạt động trên thị trường UPCoM cũng như TTCK Việt Nam và nhằm mục tiêu xa hơn là hướng tới xây dựng thị trường OTC hiện đại trong tương lai. 63 UPCoM là thị trường được tổ chức trên nguyên tắc thị trường tự do có tổ chức, với mục tiêu hướng tới xây dựng thị trường OTC hiện đại trong tương lai nên việc thiết lập các nhà tạo lập thị trường là điều kiện cần thiết. Giao dịch trên UPCoM với vai trò chính là các nhà tạo lập thị trường mà trung tâm là các CTCK nhưng thời gian qua các CTCK rất ít quan tâm đến thị trường, chưa đáp ứng được yêu cầu của một nhà tạo lập thị trường Mặc dù số lượng các CTCK làm thành viên của hệ thống UPCoM nhiều nhưng vẫn chưa thể đảm nhận được vai trò của các nhà tạo lập thị trường do quy mô hạn chế và nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Bên cạnh đó các công ty này cũng chưa thực hiện tốt vai trò của mình trong việc hoàn tất đăng ký lưu ký và đăng ký giao dịch. Ngoài ra phần lớn các CTCK đều chưa tận dụng ưu thế của phương thức giao dịch thỏa thuận một cách hiệu quả. Nhiều công ty đã không chủ động trong việc chia lệnh để thực hiện lệnh với khách hàng nên chưa phát huy vai trò trung tâm của mình trong việc giao dịch cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đáng kể đến tính thanh khoản trên thị trường. Tóm lại, với 108 công ty đăng ký giao dịch trên sàn tính đến thời điểm cuối năm 2010, thị trường UPCoM đã phần nào hạn chế thị trường tự do, mở ra cơ hội cho các công ty chưa niêm yết cũng như các nhà đầu tư. Tuy nhiên thị trường này cũng bộc lộ và tồn tại nhiều hạn chế, chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp lớn, tính thanh khoản thấp, quy mô nhỏ chưa tương xứng với tiềm năng thị trường, chưa thu hẹp được hoạt động của thị trường tự do, tiến trình đăng ký, lưu ký chứng khoán còn chậm so với mục tiêu đề ra… Do những hạn chế này nên thị trường UPCoM thực sự chưa thúc đẩy hoạt động của 2 sàn niêm yết, chưa trở thành môi trường đầu tư linh hoạt và hấp dẫn cho nhà đầu tư và doanh nghiệp, đặc biệt là chưa thúc đẩy các CTCK phát triển theo hướng tạo lập thị trường đảm bảo hoạt động trên thị trường UPCoM cũng như 64 TTCK Việt Nam và nhằm mục tiêu xa hơn là hướng tới xây dựng thị trường OTC hiện đại trong tương lai. Sở dĩ như vậy là do thị trường còn mới, hàng hoá chưa đa dạng và kém chất lượng, cơ chế giao dịch chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, cơ chế công bố thông tin còn lỏng lẻo, các công ty chứng khoán chưa thực hiện tốt vai trò là các nhà tạo lập thị trường… Kết luận chương 2 Qua phân tích về thực trạng hoạt động của thị trường UPCoM và mối liên hệ với TTCK tập trung và thị trường tự do ta thấy sau một năm rưỡi đi vào hoạt động, mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng thực tế thị trường UPCoM vẫn chưa đạt được những mục tiêu mà SGDCK Hà Nội, những nhà đầu tư và doanh nghiệp kỳ vọng. Để UPCoM thực sự là bước đệm trong việc xây dựng thị trường OTC hiện đại, góp phần hoàn thiện TTCK Việt Nam, chúng ta cần có những giải pháp phù hợp để khắc phục những tồn tại của thị trường UPCoM cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường này. 65 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG UPCoM Ở VIỆT NAM 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG UPCoM Theo đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu đến năm 2020 giá trị vốn hóa TTCK đạt 70% GDP và thị trường vốn của chúng ta sẽ phát triển tương đương với thị trường các nước trong khu vực. Với mục tiêu đó, TTCK là thành phần chủ đạo để đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của TTCK đối với sự phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải hoàn thiện và phát triển TTCK bền vững, trong đó thị trường UPCoM đóng vai trò quan trọng vì có tiềm năng phát triển lớn trong tương lai, là nơi huy động vốn cho các công ty chưa niêm yết, góp phần hoàn thiện TTCK Việt Nam và thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội theo chủ trương của Nhà nước đề ra. 3.1.1. Quan điểm phát triển: Thị trường UPCoM được phát triển theo quan điểm sau: ¾ Xây dựng, hoàn thiện và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ giữa TTCK sơ cấp và thứ cấp. Phát triển thị trường UPCoM cả về quy mô và chất lượng nhằm thúc đẩy thị trường phát triển một cách bền vững, đảm bảo hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. ¾ Học hỏi kinh nghiệm phát triển TTCK ở các quốc gia có TTCK vững mạnh. Nâng cao và củng cố vị thế của TTCK Việt Nam trên trường quốc tế. ¾ Tạo dựng nền tảng pháp lý thống nhất và chặt chẽ để TTCK vận động và phát triển, đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, cũng như có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia. 3.1.2. Định hướng phát triển: Để thị trường UPCoM thực sự là kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp chưa niêm yết, thực hiện tốt vai trò thu hẹp thị trường tự do, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư và hướng tới xây dựng thị trường OTC hiện đại, chúng ta cần định hướng phát triển như sau: 66 ¾ Chính phủ và các cơ quan chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý cho thị trường UPCoM. ¾ Phát triển thị trường UPCoM theo hướng chuyên biệt, mở rộng quy mô về số lượng và chất lượng, tạo nên một thị trường sôi động, minh bạch và chuyên nghiệp nhằm thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức như Ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, các tổ chức và cá nhân nước ngoài, quỹ đầu tư... ¾ Xây dựng đại lý chuyển nhượng, cho phép các CTCK được phép tổ chức thị trường song song với UPCoM. ¾ Tăng cường đào tạo nhân lực cho thị trường UPCoM, đặc biệt là hệ thống các nhà tạo lập thị trường thông qua việc nâng cao năng lực tài chính và năng lực hoạt động nhằm hình thành hệ thống các nhà tạo lập thị trường chuyên nghiệp. ¾ Phát triển hệ thống định mức tín nhiệm trong nước. Tăng cường tính minh bạch thông tin qua việc bắt buộc các công ty đại chúng phải định mức tín nhiệm. ¾ Xây dựng cơ sở hạ tầng thị trường hiện đại có khả năng tích hợp với các hệ thống công bố thông tin, giám sát của cơ quan quản lý. ¾ Nâng cao kiến thức và nhận thức cho các nhà quản lý tài chính tại các doanh nghiệp và cho nhà đầu tư về lợi ích của TTCK nói chung và thị trường UPCoM nói riêng. 3.2. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG UPCoM Để thị trường UPCoM đạt được mục tiêu đề ra, hướng tới xây dựng thị trường OTC hiện đại trong tương lai, chúng ta cần có các giải pháp khắc phục những tồn tại và nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của thị trường UPCoM. 3.2.1. Nhóm giải pháp khắc phục những tồn tại của thị trường UPCoM 3.2.1.1. Giải pháp để thị trường UPCoM thu hẹp được hoạt động của TTCK tự do: Để thị trường UPCoM thực sự sôi động, thu hẹp được hoạt động của thị trường chứng khoán tự do cần phải thu hút được đông đảo các công ty đại chúng có chất lượng cũng như các nhà đầu tư tham gia thị trường. Khi thị trường UPCoM hấp 67 dẫn được nhà đầu tư thì sẽ có nhiều công ty lớn, uy tín tham gia thị trường và ngược lại. Thực tế cho thấy nhiều công ty đại chúng cho rằng UPCoM là sân chơi của các doanh nghiệp có chất lượng thấp, do đó không muốn tham gia vì sợ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Bên cạnh đó nhà đầu tư cũng không mặn mà với UPCoM do không nắm rõ về thông tin của các doanh nghiệp đăng ký giao dịch trong khi sàn niêm yết có nhiều hàng hóa có chất lượng và hấp dẫn hơn. Vì vậy, mặc dù chứng khoán được giao dịch trên UPCoM là các chứng khoán chưa được niêm yết trên thị trường tập trung nhưng cũng phải quy định những tiêu chuẩn nhất định về điều kiện giao dịch như: tổng giá trị tài sản, vốn lợi nhuận... Có như vậy những công ty đại chúng có uy tín nhưng chưa đủ điều kiện để niêm yết trên sàn sẽ sẵn sàng đăng ký giao dịch trên UPCoM vì sàn này cũng có những tiêu chuẩn nhất định. Khi UPCoM có các doanh nghiệp uy tín tham gia thị trường thiết nghĩ sẽ cuốn hút được nhiều nhà đầu tư. 3.2.1.2. Giải pháp để thị trường UPCoM trở thành môi trường đầu tư linh hoạt, an toàn và hấp dẫn cho nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp: Thứ nhất, thực hiện công khai hoá thông tin của doanh nghiệp. Việc minh bạch và công bố thông tin một cách rõ ràng được xem là một trong những điều kiện tiên quyết thu hút các doanh nghiệp cũng như nhà đầu tư tham gia TTCK nói chung và thị trường UPCoM nói riêng vì thông tin đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư và khả năng sinh lợi của nhà đầu tư. Để hạn chế đến mức thấp nhất thông tin bất cân xứng trên TTCK tạo niềm tin cho nhà đầu tư, cần phải có những biện pháp sau: Một là, xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động công bố thông tin mà nền tảng là Luật Kế toán Việt Nam và Luật Chứng khoán. Hiện nay việc công bố thông tin trên TTCK được thực hiện theo Thông tư 09/2010/TT-BTC ban hành ngày 01/3/2010 thay thế Thông tư 38/2007/TT-BTC ban hành ngày 18/4/2007. Tuy nhiên cần có những quy định chi tiết về giao dịch 68 trong nội bộ nhằm đưa ra những ràng buộc để người tổ chức phát hành không thể có một đặc quyền cũng như ưu thế nào có thể đưa đến sự cạnh tranh không công bằng với những nhà đầu tư bên ngoài nhằm hạn chế tối đa khả năng những chủ thể này lợi dụng ưu thế của mình mua bán chứng khoán để trục lợi cá nhân trong tình huống những nhà đầu tư khác không biết. Hai là, cơ quan quản lý Nhà nước cần đưa ra các tiêu chuẩn công bố thông tin sao cho thích ứng với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; quy định việc công bố thông tin định kỳ phải trở thành điều kiện bắt buộc đối với doanh nghiệp đặc biệt là công ty cổ phần, cũng như áp dụng chế độ kiểm toán bắt buộc và thực hiện chế độ công khai tài chính đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trên thị trường, lành mạnh hóa và bình đẳng môi trường kinh doanh. Để làm được điều này đòi hỏi phải củng cố và phát triển các tổ chức kiểm toán độc lập về cả lượng và chất, đặc biệt chú trọng vấn đề đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức kiểm toán độc lập. Ba là, hoàn thiện công tác thanh tra và giám sát thị trường với mục đích ngăn ngừa các hành vi gian lận về công bố thông tin trên TTCK. Các vi phạm về chế độ công bố thông tin cũng như các hành vi bị pháp luật cấm thực hiện luôn nảy sinh và ngày càng đa dạng về hình thức và mức độ, vì vậy công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin đối với hoạt động của doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc. Bốn là, xây dựng các chế tài về xử lý vi phạm trong lĩnh vực công bố thông tin trên TTCK. Đối với vấn đề này, trước hết UBCKNN cần thực hiện việc xây dựng các văn bản hướng dẫn chi tiết các xử lý vi phạm về công bố thông tin trong Luật chứng khoán. Xác định và chuẩn hóa những nội dung vi phạm về công bố thông tin, chuẩn hóa một số khái niệm cũng như giải thích làm rõ để xác định một cách cụ thể hành vi vi phạm cũng như phân loại các cấp độ vi phạm. Cuối cùng, cần có các chế tài đủ mạnh để xử lý các trường hợp tung tin thất thiệt làm sai lệch tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như giá cả chứng khóan. 69 Thứ hai, nên có cơ chế sàng lọc những cổ phiếu không có tính thanh khoản trong thời gian dài. Thực tế cho thấy hơn một nửa cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM không có giao dịch trong một thời gian dài. Điều này đã gây ảnh hưởng xấu đến thị trường, làm mất lòng tin của nhà đầu tư và doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Vì vậy cần phải có cơ chế sàng lọc những cổ phiếu này để lành mạnh hoá thị trường, hướng UPCoM trở thành sàn giao dịch của những cổ phiếu tiềm năng nhằm giới thiệu cơ hội đầu tư đến với các nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư lớn thay vì nhà đầu tư nhỏ lẻ. 3.2.1.3. Giải pháp để thị trường UPCoM thực sự là kênh huy động vốn hiệu quả cho các công ty đại chúng chưa niêm yết trên TTCK: Để các công ty đại chúng chưa niêm yết có thể huy động vốn trên thị trường UPCoM thì chúng ta cần có các giải pháp thu hút nhà đầu tư đến với thị trường. Thứ nhất, cần có những chính sách, chế tài để các công ty đại chúng có uy tín và chất lượng tham gia thị trường. Mặc dù UPCoM là sàn giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết nhưng cũng cần phải có những tiêu chuẩn cụ thể để sàng lọc và chọn được những công ty có chất lượng tham gia giao dịch. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường, qua đó sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư đến với thị trường. Thứ hai, ngoài việc khuyến khích các nhà đầu tư trong nước tham gia thị trường chúng ta cũng cần có các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia TTCK qua việc xem xét, mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam, tiến tới xóa bỏ giới hạn về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông nước ngoài đối với những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm quyền kiểm soát; khuyến khích các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài góp vốn, mua cổ phiếu hoặc liên doanh với các ngân hàng, công ty trong nước thành lập các CTCK. 70 3.2.1.4. Giải pháp thúc đẩy các CTCK phát triển theo hướng các nhà tạo lập thị trường: Tính đến cuối tháng 12/2010, ở thị trường UPCoM có 92 CTCK đăng ký làm thành viên hệ thống giao dịch. Tuy nhiên, các Công ty này chưa thể đảm nhận được vai trò của các nhà tạo lập thị trường do quy mô hiện nay còn hạn chế, nguồn nhân lực cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, vì vậy chất lượng của các dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn niêm yết chưa cao, công tác cung cấp thông tin, báo cáo còn chưa đảm bảo về mặt thời gian và nội dung, hệ thống thông tin, phục vụ giao dịch thiếu đồng bộ. Để thực sự là các nhà tạo lập thị trường trên thị trường UPCoM, các CTCK cần đảm bảo các điều kiện sau: Thứ nhất, về năng lực tài chính: Hoạt động của nhà tạo lập thị trường là mua bán chứng khoán với khách hàng thông qua tài khoản của mình để hưởng chênh lệch giá, có nghĩa vụ luôn duy trì hoạt động của chứng khoán đó, do vậy đối với thị trường UPCoM cho phép một số các CTCK có tiềm lực tài chính đứng ra làm nhà tạo lập thị trường khi đáp ứng các điều kiện sau: ¾ Là thành viên giao dịch tại SGDCK; ¾ Có mức vốn tối thiểu là 500 tỷ đồng Vì vậy để đáp ứng được yêu cầu trở thành nhà tạo lập thị trường các CTCK cần tăng vốn dưới nhiều hình thức như: Đối với các CTCK là công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu và giữ lại một phần lợi nhuận để tăng vốn điều lệ; đối với các CTCK trách nhiệm hữu hạn một thành viên (trực thuộc ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tài chính) có thể bổ sung thêm vốn từ công ty mẹ hoặc chuyển thành công ty cổ phần để huy động vốn từ phát hành cổ phiếu. Bên cạnh đó, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn cũng là một yếu tố bảo đảm cho việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn một cách hiệu quả. Thứ hai, về năng lực hoạt động: 71 Nhà tạo lập thị trường phải đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định khi thực hiện báo giá chứng khoán như sau: ¾ Tạo lập thị trường ít nhất 2 loại chứng khoán và nhiều nhất 8 loại chứng khoán; ¾ Cung cấp báo giá 2 chiều liên tục cho chứng khoán đó; ¾ Có khả năng và sẵn sàng thực hiện giao dịch ít nhất là một đơn vị giao dịch thông thường theo báo giá; ¾ Bảo đảm báo giá của mình hợp lý trong mối quan hệ với thị trường hiện tại của chứng khoán đó; ¾ Tuân thủ giới hạn chênh lệch giá tối đa cho trước; ¾ Báo cáo dữ liệu giao dịch hàng tháng và các thông tin khác theo yêu cầu của trung tâm; ¾ Báo cáo khối lượng giao dịch hàng ngày của các loại chứng khoán mà mình chịu trách nhiệm tạo thị trường và thực hiện những chức năng này trong suốt thời gian giao dịch. Để đạt được các tiêu chuẩn trên các CTCK cần: ¾ Hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật: Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị và phần mềm máy tính quản lý các hoạt động của các CTCK phải tương thích với hệ thống phần mềm của UPCoM. Vì vậy, các CTCK cần nắm bắt được những thông tin, thông số về kỹ thuật để tiến hành nâng cấp, cải tiến hệ thống phần mềm, đảm bảo tích hợp tốt với hệ thống máy tính của thị trường UPCoM. Tại các sàn giao dịch của CTCK cần sớm xây dựng phòng thông tin riêng để người đầu tư có thể khai thác và cập nhật thông tin một cách dễ dàng. Phòng này thực hiện việc truyền tải các thông tin từ UBCKNN, SGDCK, lưu trữ các thông tin về tổ chức niêm yết, các tài liệu phân tích diễn biến giao dịch. Ngoài ra cũng cần phát triển và hoàn thiện nội dung trang web của công ty để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tốt nhất cho các nhà đầu tư. ¾ Nhanh chóng mở rộng các hoạt động dịch vụ, triển khai toàn bộ các dịch vụ được cấp phép hoạt động, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành đối với các 72 công ty niêm yết và chưa niêm yết, các công cụ của thị trường tiền tệ, tư vấn cổ phần hóa. Với tư cách là những nhà tạo lập thị trường, các CTCK cần có các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư như cho phép nhà đầu tư ký quỹ một phần tiền để mua thay vì phải có đủ 100% trong tài khoản, hoặc liên kết với các ngân hàng tài trợ vốn cho nhà đầu tư... ¾ Không ngừng nâng cao và phát huy nguồn nhân lực, đặc biệt coi trọng công tác đào tạo. Đội ngũ nhân viên của các công ty này phải thành thạo và am hiểu nghiệp vụ kinh doanh cũng như sử dụng công nghệ thông tin hiện đại. Muốn vậy các CTCK cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, cũng như thường xuyên tổ chức các đợt học tập, tham quan, khảo sát ở nước ngoài để tích lũy kinh nghiệm và vận dụng linh hoạt vào thực tế ở Việt Nam. ¾ Cùng với sự ra đời của Hiệp hội chứng khoán, bên cạnh việc không ngừng nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động, các CTCK cũng cần có sự liên kết để tạo sức mạnh trong hoạt động nghiệp vụ. 3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường UPCoM: Để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường UPCoM chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau: 3.2.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý. Để thị trường UPCoM vận hành tốt cần phải có một hệ thống pháp lý hoàn thiện mang lại một sân chơi công bằng, minh bạch cho nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần có một cơ quan quản lý thị trường có năng lực. Hiện nay hoạt động của thị trường UPCoM được điều chỉnh bởi luật Chứng khoán số 70/206/QH11; Quyết định 108/2008/QĐ-BTC ngày 20/11/2008 của Bộ Tài chính ban hành quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết tại HNX; Thông tư 95/2010/TT-BTC ngày 30/6/2010 sửa đổi, 73 bổ sung Quyết định 108/2008/QĐ-BTC; và các quy chế, quy định do SGDCK Hà Nội ban hành. Kể từ khi thị trường UPCoM đi vào hoạt động cho đến nay, SGDCK Hà Nội đã từng bước sửa đổi và ban hành những quy chế, quy định nhằm thúc đẩy thị trường phát triển như: quy chế thành viên giao dịch, quy chế giao dịch, quy chế niêm yết, quy chế công bố thông tin. Tuy nhiên thực tế sau khi những quy chế này chính thức được áp dụng thì thị trường UPCoM vẫn luôn trong trạng thái tẻ nhạt, KLGD thấp, số lượng các công ty đăng ký giao dịch có tăng nhưng vẫn còn rất thấp so với mục tiêu đặt ra và chỉ số UPCoM-Index đã giảm hơn một nửa so với phiên giao dịch đầu tiên. Do vậy, Chính phủ cũng như Bộ Tài chính và các cơ quan quản lý cần tiếp tục rà soát, bổ sung và sửa đổi nhằm hoàn thiện khung pháp lý. Quốc Hội phải từng bước hoàn thiện Luật chứng khoán cho phù hợp với đặc thù của một TTCK sơ khai đang từng bước phát triển và hội nhập như nước ta hiện nay. Ngoài ra, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm bớt sự chồng chéo và mâu thuẫn. Để hàng hoá trên thị trường UPCoM thực sự có chất lượng cũng cần quy định những tiêu chuẩn cụ thể đối với các Công ty đăng ký giao dịch. Bên cạnh đó, Chính phủ cần sớm hoàn thiện và ban hành các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK bổ sung cho Nghị định 36/2007/NĐ- CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 14/2007/NĐ-CP, trong đó quy định: “Chứng khoán của công ty đại chúng phải đăng ký, lưu ký tập trung và giao dịch tại TTCK theo hướng dẫn của Bộ Tài chính”. Đồng thời cũng có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các trường hợp không tuân thủ như: trước mắt UBCK sẽ không cho phép các công ty này thực hiện việc phát hành thêm, về lâu dài có thể Luật hoá đưa ra biện pháp kiên quyết hơn là không công nhận các kết quả phát hành của công ty đại chúng vi phạm… Có như vậy, các công ty đại chúng sau khi đăng ký lưu ký chứng khoán tại TTLKCK buộc phải thực hiện niêm yết chứng khoán tại hai sở hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường UPCoM. 74 Mặt khác, SGDCK cần có những quy định chặt chẽ hơn về công bố thông tin, giao dịch cũng như về cách tính chỉ số UPCoM-Index để tăng khả năng thu hút nhà đầu tư. Cuối cùng, SGDCK cần ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các CTCK tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ cũng như cơ chế hỗ trợ khuyến khích các quỹ đầu tư chứng khoán trong và ngoài nước tham gia thị trường. 3.2.2.2. Nâng cao năng lực của thị trường UPCoM Việc nâng cao năng lực của thị trường UPCoM cần tập trung vào các vấn đề sau: Thứ nhất, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin Qua tìm hiểu về kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trường OTC ở một số nước trên thế giới ta thấy hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin ở các thị trường này rất quy mô và hiện đại. Do vậy, để thị trường UPCoM thực sự phát triển như mong muốn, chúng ta phải từng bước nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin ở thị trường này bằng cách: ¾ Hoàn thành nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin của TTLKCK, kết nối với thành viên lưu ký. ¾ Đầu tư đường truyền Internet có tốc độ cao nhằm hỗ trợ nhà đầu tư truy cập vào các trang web thông tin của các CTCK hay tới hệ thống thông tin của HNX từ các thành viên một cách nhanh chóng, tránh được hiện tượng tắc nghẽn đường truyền, cũng như xây dựng hệ thống mạng lớn để có thể liên kết tất cả các thành viên thị trường trên cả nước. ¾ Hệ thống mạng nội bộ trong từng CTCK cũng như UPCoM phải có độ bảo mật và an toàn cao. Thứ hai, tăng cường đào tạo nhân lực cho thị trường UPCoM Thị trường UPCoM ra đời với mục tiêu là bước đệm để tiến tới xây dựng thị trường OTC hiện đại nhưng lại có xuất phát điểm rất thấp về cơ sở hạ tầng, về kinh nghiệm tổ chức, quản lý và vận hành thị trường, vì vậy việc đào tạo nhân lực cho thị 75 trường này là một việc làm cấp bách và cần thiết, đòi hỏi một quá trình dài và chi phí rất cao. Trong điều kiện khó khăn đó, UBCKNN cần phải xây dựng một chiến lược đào tạo có hệ thống, kết hợp đào tạo trong nước và đào tạo nước ngoài cũng như kết hợp giữa đào tạo cơ bản và lâu dài. Sự phát triển nguồn nhân lực của thị trường UPCoM ở nước ta trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: ¾ Tổ chức liên tục các chương trình phổ cập những kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK trên các phương tiện thông tin đại chúng. ¾ Cập nhật và chuẩn hóa các chương trình đào tạo về chứng khoán theo đúng chuẩn mực quốc tế đối với những người làm công tác giảng dạy về chứng khoán, những người làm việc tại UBCK Nhà nước, những người làm trong CTCK cũng như những người kinh doanh chứng khóan. ¾ Khai thác có hiệu quả sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán như tuyển chọn những sinh viên giỏi, có năng khiếu kinh doanh và trình độ ngoại ngữ cao để gửi đi đào tạo và thực tập ở các TTCK của các nước tiên tiến nhằm hình thành đội ngũ cán bộ nòng cốt cho TTCK, đặc biệt là thị trường OTC hiện đại trong tương lai. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần có các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích nhằm thu hút các chuyên gia nước ngoài làm việc trong lĩnh vực chứng khoán đến Việt Nam làm việc; cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập tổ chức nghiên cứu và đào tạo về chứng khoán và TTCK tại Việt Nam dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngòai. ¾ Công tác đào tạo cần chú trọng đến các nghiệp vụ cơ bản và chuyên sâu của thị trường UPCoM, đặc biệt là nghiệp vụ của các nhà tạo lập thị trường nhằm nhanh chóng tạo ra đội ngũ các nhà tạo lập thị trường chuyên nghiệp. Những vấn đề này sẽ nâng cao chất lượng đào tạo về chứng khoán và TTCK, nâng cao trình độ quản lý về TTCK, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh chứng khoán và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản trị doanh nghiệp. 76 Để thực hiện mục tiêu hướng tới thị trường OTC hiện đại thì những vấn đề này phải luôn được chú trọng và ưu tiên thực hiện. 3.2.2.3. Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường chứng khoán Việt Nam Tính minh bạch trong thông tin là một trong những điều kiện để phát triển TTCK. Vì vậy dịch vụ đánh giá tín nhiệm với các thông tin chính xác, kịp thời sẽ cung cấp thêm cho các cơ quan giám sát TTCK và các cơ quan quản lý tài chính công cụ để quản lý và giám sát, cung cấp thông tin để cho phép các nhà đầu tư kiểm soát và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh, đồng thời đối với các nhà phát hành nó được dùng như là một chiến lược huy động vốn. Do đó việc xây dựng hệ thống định mức tín nhiệm (ĐMTN) ở Việt Nam hiện nay đã trở nên cấp thiết. Để tổ chức ĐMTN tồn tại và phát triển trong giai đoạn TTCK Việt Nam còn non trẻ cần chú trọng các vấn đề sau: Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng khung pháp lý về hoạt động ĐMTN. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các Công ty ĐMTN trong nước ra đời, đồng thời thu hút sự tham gia của các công ty, tổ chức ĐMTN uy tín trên thế giới. Thứ hai, hoạt động ĐMTN là một bộ phận của TTCK, nó liên quan chặt chẽ tới hoạt động của toàn TTCK và ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, vì vậy cần phải có sự đồng bộ hóa các quy định có liên quan đến hoạt động ĐMTN với các quy định khác có liên quan. Ngoài ra cần giám sát và có quy định xử phạt đối với các hành vi sai trái khi tổ chức ĐMTN đưa ra các kết quả xếp hạng tín nhiệm không trung thực. Thứ ba, tiêu chuẩn hóa các thông tin tài chính của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý không chỉ dừng lại ở việc khuyến khích xếp hạng tín nhiệm mà còn phải ban hành các quy định về ĐMTN bắt buộc. Thứ tư, các nhà quản lý và các tổ chức ĐMTN cần làm cho công chúng cũng như các doanh nghiệp hiểu được lợi ích mà ĐMTN mang lại và công nhận, xem công tác ĐMTN là một trong những nhân tố toàn diện nhất để nhận biết những rủi ro tiềm ẩn. 77 Để làm được điều này, các tổ chức ĐMTN phải tạo được sự tin cậy, tín nhiệm từ phía những người ủy thác và công chúng đầu tư, đảm bảo hoạt động theo nguyên tắc độc lập, khách quan, chuyên nghiệp và có tính tin cậy cao. Muốn vậy một tổ chức ĐMTN phải đảm bảo các yêu cầu sau: Thứ nhất, tính khách quan: Phương pháp đánh giá tín nhiệm cần phải chặt chẽ, có hệ thống và phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương pháp đánh giá nào đó. Các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà soát và điều chỉnh kịp thời theo những thay đổi về tình hình tài chính. Thứ hai, tính độc lập: Tổ chức ĐMTN cần phải độc lập và không chịu các sức ép về kinh tế hoặc chính trị có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá. Quá trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn về lợi ích có thể phát sinh do thành phần của Hội đồng quản trị hoặc cơ cấu cổ đông của công ty gây ra càng tốt. Thứ ba, tính minh bạch: Tổ chức ĐMTN độc lập cần công khai các thông tin về phương pháp đánh giá, bao gồm các khái niệm về khả năng không trả được nợ, khoảng thời gian đánh giá, ý nghĩa của mỗi bậc xếp hạng; tỷ lệ không trả được nợ trong thực tế ứng với mỗi nhóm xếp hạng; xu hướng thay đổi các kết quả đánh giá... Thứ tư, các nguồn lực: Một tổ chức ĐMTN độc lập cần phải có đủ các nguồn lực cần thiết để thực hiện việc đánh giá với chất lượng cao nhằm cho phép các tổ chức này tiếp xúc thường xuyên với cán bộ quản lý và nghiệp vụ tại các tổ chức đang được đánh giá để bổ sung các thông tin quan trọng cho việc đánh giá. Các kết quả đánh giá cần phải dựa trên sự kết hợp các phương pháp định tính và định lượng. Nguồn lực thẩm định tín dụng cũng nên làm việc theo nhóm. Thứ năm, tính tin cậy: Trong một chừng mực nhất định, độ tin cậy của các kết quả đánh giá đạt được nhờ các tiêu chí đã nêu trên. Ngoài ra, lòng tin của nhà đầu tư và các tổ chức độc lập khác đối với kết quả đánh giá của một tổ chức ĐMTN độc lập cũng là bằng chứng về độ tin cậy của các kết quả đánh giá này. Độ tin cậy của một tổ chức ĐMTN độc lập cũng thể hiện ở việc các tổ chức này sử dụng các 78 quy trình nội bộ nhằm tránh không cho các thông tin mật được sử dụng sai mục đích. Cuối cùng, để hệ thống ĐMTN thành công còn phụ thuộc vào khuôn khổ chính sách dẫn dắt như sau: ¾ Hợp tác và tiếp thu kinh nghiệm, chuyên môn từ các tổ chức ĐMTN nổi tiếng trên thế giới. Tuy nhiên, với mục đích phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước, trong giai đoạn đầu nên hạn chế sự tham gia của các tổ chức ĐMTN nước ngoài, chỉ dừng ở mức hỗ trợ, thu hút vốn nước ngoài. Việc tham gia vào các mảng thị trường khác của các tổ chức này chỉ nên cho phép khi đã qua một số giai đoạn nhất định, với điều kiện lộ trình đó phải được minh bạch và có độ tin cậy cao. ¾ Để đảm bảo chất lượng ĐMTN, việc thực thi công tác kiểm soát, giám sát và phân định trách nhiệm rõ ràng phải được chú trọng. Ngoài ra, việc lựa chọn quyền sở hữu đối với các tổ chức ĐMTN đòi hỏi phải xem xét kỹ tới quy mô và tính chuyên nghiệp cần thiết... Mô hình công ty cổ phần và liên doanh là phù hợp nhất cho công ty ĐMTN chuyên nghiệp vì TTCK Việt Nam còn lạ lẫm với hoạt động xếp hạng tín nhiệm, do đó chúng ta cần có những cổ đông chiến lược nước ngoài nhằm phát huy lợi thế của một quốc gia đi sau. 3.2.2.4. Phát triển công cụ phái sinh liên quan đến chứng khóan Đầu tư chứng khoán luôn chứa đựng rủi ro nên việc bảo hiểm cho các khoản rủi ro này trong quá trình đầu tư là điều cần thiết. Khi thị trường phát triển đến giai đoạn cao tất yếu dẫn đến việc hình thành các sản phẩm phái sinh nhằm đa dạng hóa và đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư từ khả năng sinh lợi, đến mục tiêu giảm thiểu, hoán đổi rủi ro. Hiện nay TTCK Việt Nam nói chung và thị trường UPCoM khá đơn điệu, chỉ dừng lại ở nghiệp vụ mua bán giao ngay, làm hạn chế mục đích đầu tư và tính linh hoạt của thị trường. Vì vậy, cần phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh trên TTCK, đặc biệt là quyền chọn mua, bán chứng khoán. Công cụ phái sinh này mặc dù được đánh giá là rất hữu hiệu trong phòng ngừa rủi ro, giúp nhà đầu tư tự tin hơn khi tham gia thị trường nhưng cũng có tính 79 hai mặt. Vì vậy để áp dụng vào TTCK Việt Nam cần xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này như đưa ra các quy định về số lượng quyền chọn tối đa của các nhà đầu tư để hạn chế tình trạng lũng đoạn thị trường... Bên cạnh đó cần thực hiện đồng bộ với việc phát triển quy mô thị trường, hệ thống giao dịch, hệ thống tài chính ngân hàng, sự hiểu biết về thị trường của công chúng đầu tư và tăng cường khả năng giám sát thị trường của cơ quan quản lý. Kết luận chương 3 Để thị trường UPCoM đạt được các mục tiêu mà SGDCK Hà Nội cũng như nhà đầu tư và các doanh nghiệp kỳ vọng chúng ta cần phải thực hiện được các giải pháp nêu trên nhằm thu hút được nhà đầu tư và doanh nghiệp tham gia thị trường, tăng cường nguồn nhân lực và cơ sở vật chất cho thị trường. Việc thực hiện các giải pháp này đòi hỏi phải có thời gian và sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, Ngành, SGDCK và đặc biệt là các CTCK trong vai trò là các nhà tạo lập thị trường. Nếu làm được như vậy thị trường UPCoM sẽ có một sự thay đổi mang tính chiến lược và trở thành một cấu phần hữu ích của TTCK Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphat_trien_thi_truong_upcom_o_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan