Đề tài Phát triển xuất khẩu gạo - Thực trạng và giải pháp

Bước sang năm 2002, cả sản lượng, giá lúa gạo trong nước cũng như giá xuất khẩu đều tăng so với năm 2001. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long tuy diện tích gieo cấy bị giảm khoảng 10 nghìn ha do hạn hán và lũ sớm nhưng sản lượng vẫn tăng khoảng 1 triệu tấn so với năm trước, đạt 17,52 triệu tấn. Xuất khẩu gạo cả năm giảm 13,1% về lượng và tăng 16% về trị giá. Xuất khẩu gạo trong các năm tiếp theo cũng rất khả quan. Đáng chú ý trong năm 2005, nhờ điều hành tốt nên chúng ta đã xuất khẩu gạo đạt con số kỷ lục 5,25 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu gạo lại vượt ngưỡng trên 1 tỷ USD. Tình hình này vẫn tiếp tục được duy trì trong năm 2006. sang anưm 2007, thực hiện cân đối cung- cầu gạo trong nước, chỉ tiêu xuất khẩu gạo mà Chính phủ đưa ra chỉ thị trong năm là khoảng 4,5 triệu tấn, hiện các doanh nghiệp đã ký được khoảng 3,5 triệu tấn. Số còn lại sẽ giao vào những tháng cuối năm hoặc sang quý I-2008. Tổng kết hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam qua gần 20 năm qua có thể rút ra một số bất cập cơ bản sau: Thứ nhất, nhìn chung vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, giá thành còn cao và giá trị gia tăng thấp. Một vấn đề qaun trọng được đặt ra là việc quản lý chuỗi cung ứng gạo cũng như tính toán chuõi giá trị gạo còn nhiều hạn chế, nên giá thành và chất lượng hạt gạo làm ra còn kém sức cạnh tranh, chưa có nhãn hiệu cạnh tranh cao như gạo Thái Lan. Đặc biệt, những hoạt động trong chuỗi cung ứng như nàh cung ứng đầu vào, người sản xuất, chế biến, phân phối, tiếp thị và tiêu dùng chưa thật sự gắn kết với nhau để xây dựng thương hiệu, tạo ra sản phẩm chất lượng ổn định, uy tín trên thị trường. Đây chính là thách thức lớn trong sản xuất và xuất khẩu gạo ra nước ngoài cũng như nước ngoài vào Việt Nam trong bói cảnh hội nhập WTO. Thứ hai, trong những năm gần đây lúa thu hoạch rộ mùa đều rơi vào tình trạng rớt giá. Điều này chứng tỏ mối liên kết giữa người sản xuất và hệ thống phân phối chưa gắn kết với nhau. Bên cạnh đó, ở các khâu sản xuất, chế biến và kinh doanh lúa gạo còn nhiều hạn chế.

doc84 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2168 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển xuất khẩu gạo - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gưỡng cho phép lúa sẽ nảy mầm hoặc có biến đổi về chất lượng, nhưng phần lớn kho dự trữ của ta rất khó để hạt lúa duy trì độ ẩm đó. Mặt khác, 80% lượng thóc của Việt Nam lại được xay xát và chế bién tại các cơ sở nhỏ và các hộ nông dân không được trang bị đồng bộ về phơi sấy và kho chứa,. Bởi hệ thống nhà máy xay xát đánh bóng gạo xuất khẩu những năm gần đây tuy có được trang bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố trí ở TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trong khi đó những vùng và địa phương có nhiều hàng hoá phục vụ xuất khẩu khác ở ĐB SCL và ĐBSH, duyên hải NTB… lại không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo hiện đại. Chính vì những lý do trên nên tỷ lệ tấm, rạn vỡ hạt, tỷ lệ tạp chất, độ đục còn cao so với gạo Thái Lan và Mỹ. Điều này là trở ngại rất lớn đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam. * Giá cả (Giá trong nước và giá xuất khẩu): Theo Cục Chế biến nông lâm sản và nghề muối, tỷ lệ tổn thất sau khi thu hoạch đối của lúa gạo của Việt Nam vào loại cao nhất tại Châu á, dao động trong khoảng 9-17%, thậm chí 20-30%, tuỳ theo từng khu vực và mùa vụ. Điều này đồng nghĩa với việc giá thành gạo Việt Nam bị đẩy lên 9-17%. Trong khi đó tại một số quốc gia sản xuất nông nghiệp lớn, như ấn Độ, con số này chỉ là 3-3,5%;’ Bangladesh 7%; Pakistan 2-10%, Indonesia 6-17%, Nepan 4-22%...(theo Vinanet). Nguyên nhân chủ yếu do sự yếu kém của cơ sở hạ tầng ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và ngành lúa gạo nói riêng. Bên cạnh những yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng làm tăng chi phí xuất khẩu, mức độ chênh lệch cao giữa giá trong nước và giá tại cảng là điều bất lợi cho xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thương mại thế giới. Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam có lợi thế hơn nhiều so với Thái Lan: chi phí lao động bằng 1/3, tỷ lệ diện tích được tưới gấp 2 lần, hệ số quay vòng đất gấp 1,33 lần, năng suất gấp 1,5 lần các chỉ tiêu liên quan về giá vật tư đầu vào bằng 50-80% chi phí của Thái Lan. Do vậy chi phí sản xuất lúa gạo ở Việt Nam bình quân từ 90-110 USD /tấn, đặc biệt vụ Đông Xuân 2002 giá thành sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 920-1000 đồng/kg, trong khi chi phí của Thái Lan là 120-150USD/tấn (tỷ giá 35bat/USD). Tuy nhiên, chênh lệch giữa giá gạo trong nước và giá giao tại cảng lại khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam cao. Điều đó xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ. Chi phí bốc dỡ xếp hàng và chi phí tại cảng Sài Gòn cao chiếm 1,6% giá xuất khẩu, ở Thái Lan chi phí này bằng ẵ Việt Nam, tốc độ bốc dỡ chậm so với Thái Lan 6 lần, làm tốn thêm 6.000USD/ngày. III. ƯU NHƯỢC ĐIỂM VỀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. ƯU ĐIỂM XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY + Việt Nam đã trở thành nước xuât khẩu gạo hàng đầu trên thị trường thế giới. + Sản xuất và xuất khẩu gạo luôn được nhà nước chú trọng đầu tư nhằm đảm bảo an ninh lương thực cũng như phát huy lợi thế so sánh trong xuất khẩu mặt hàng này. + Điều kiện hiển nhiên thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, chi phí sản xuất tương đối thấp. Các vùng trồng lúa chất lượng ban đầu được hình thành cùng với nhiều giống lúa được hình thành cùng với nhiều giống lúa mới cho năng xuất cao, chất lượng khẳ năng chịu sâu bệnh tốt đã và đang được nghiên cứu áp dụng… nhằm cơ cấu loại giống lúa. Xuất nhập khẩu tăng liên tục trong vài năm qua và thị trường xuất khẩu gạo ngày càng được mở rộng với sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp và cả doanh nghiệp tư nhân. Năm 2007, sản lượng lúa cả nước đã đạt khoảng 36 triệu tấn và năm 2007 cả nước đã xuất khẩu được 4,3 tỷ USD. Giá gạo của cả nước ta cũng hơn 1,4 tỷ USD giá gạo của nước ta cũng đã tăng lên một bậc với một mức giá bình quân đạt 293 USD/ tấn, tăng 42 USD/ tấn so với năm 2006. Hiện nay gạo nước ta đã xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó nhiều thị trường “khó tính” như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.. gạo Việt Nam cũng đã chinh phục được. Vị thế cường quốc thứ hai về xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn chưa được khẳng định ở ngôi “á quân” chỉ đứng sau người thái. Riêng tại Đồng Băng Sông Cửu Long theo đánh giá của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2007 người dân trồng lúa ở các tỉnh ĐBSCL đều được mùa, với giá bình quân 3000 đồng/kg lúa năm 2007, nông dân các tỉnh phía nam đã tăng thu thêm 2100 tỷ đồng. * NHƯƠC ĐIỂM XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY + Về quản lý điều hành: Việc chỉ đạo đánh giá tình hình sản xuất, tình hình thị trường tiêu thụ của Bắc Bộ, ngành chức năng mặc dù đã được khắc phục nhiều trong những năm gần đây nhưng vẫn còn một số khâu còn yếu. Hiệp hội chỉ mới đóng vai trò là cầu nối giữa các cơ quan quản lý với doanh nghiệ chưa thực sự là tổ chức có đủ khẳ năng bảo về quyền lợi của doanh nghiệp thông qua hoạt động của mình. Vai trò của uỷ ban nhân dân các tỉnh đã được nâng cao, gắn liền từ khâu sản xuất đến tiêu thụ nhưng mới chỉ có một phạm vi hạn chế của địa phương, từng thời điểm, chưa đáp được yêu cầu chung về tổng thể ở tầm quốc gia. + Tình trạng yếu kém trong việc phối hợp giữa các doanh nghiệp cùng bán cho một nhánh mua nên tình trạng ép giá vẫn chưa thoát… Có giai đoạn do không tính toán và bám sát tình hình nên các doanh nghiệp tập chung ký hợp đồng và giao hàng với khối lượng lớn trong cùng thời gian. Làm vượt khả năng về nguồn hàng xay xát, chế biến, vận chuyển, bao bì, bóc dở…. Làm mất cân đối trên một số mặt, ảnh hưởng đền giá cả thị trường và giảm hiệu quả xuất khẩu. + Chưa giải quyết được nghịch lý trong xuất khẩu kim ngạch xuất khẩu gạo của chúng ta sẽ còn cao hơn nữa nên việc điều hành hàng xuất khẩu gạo tạo ra được tiến độ xuất khẩu phù hợp với sự lên xuống của giá cả thế giới. Đây là điểm yếu của chúng ta. Nên năm nào xuất khẩu gạo cũng bị thua thiệt, có năm tới hàng chục triệu USD. Trong những năm vừa qua để phù hợp với yêu cầu của thị trường,chất lượng gạo của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, loại gạo chất lượng trung bình chiếm tỉ lệ từ 22,4%(năm 1996) tăng lên 85%(năm 2003).Loại gạo chất lượng thấtp chiếm tỉ lệ 23% giảm xuống còn 8%.Nhưng so với gạo Thái Lan thì gạo xuất khẩu của Việt Nam phần lớn có chất lượng trung bình.Qua khảo sát cho thấy gạo xuất 5% tấm của Việt Nam mới đạt 35%; 15% tấm chiếm 40%; 25% tấm chiếm 12%; các loại khác là 13%. Do chất lượng gạo chưa cao nên giá bình quân các loại gạo xuất khẩu luôn thấp hơn giá gạo bình quân của Thái Lan.Khoảng cách chênh lệch giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan loại 5% tấm năm 200 là 40-50 USD/tấn so với Thái Lan.Còn so sánh tất cả các loại gạo của Việt Nam xuất khẩu thì hàng của ta luôn thấp hơn hàng Thái Lan khoảng 12-24 USD/tấn.Thách thức về thị trường và thương hiệu thì gạo Việt Nam được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau bao gồm Châu á 46%; Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu Mỹ 1%; các nước khác 13%. Ngoài ra Việt Nam còn xuất sang Trung Quốc , ấn Độ, Pakistan… Phần lơn các khu vực thị trường này có trình độ tiêu dùng thấp, khả năng thanh toán hạn chế. So với giá gạo Thái Lan việc gạo Việt Nam giành được những thị trường tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU GẠO TRONG THỜI GIAN TỚI. I – Phương hướng phát triển ngành lương thực của Việt Nam trong thời gian tới và những vấn đề đặt ra cho xuất khẩu gạo. Xuất phát từ tình hình thực tế trong và ngoài nước, căn cứ vào các mục tiêu của chiến lược chung về phát triển kinh tế - xã hội theo đó nội dung cơ bản của công tác xuất nhập khẩu trong thời gian tới đây đươc định hướng cụ thể là : nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, chuyển dịch cơ ấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ chất xấm cao. Thúc đẩy xuất khẩu, dịch vụ về nhập khẩu, chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, đảm bảo cán cân thương mạỉ ở mức hợp lý, mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới, chớp thời cơ thuận lợi tạo ra sự phát triển đột biến, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước ta và các nước trong khu vực. * Dự báo xuất khẩu gạo của thế giới giai đoạn 2007 - 2016 Theo dự báo của USDA thì Châu Á vẫn là khu vực xuất khẩu gạo lớn nhất trong giai đoạn 2007 – 2016 - Thái Lan và Việt Nam, hai nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, được dự báo có lượng xuất khẩu tiếp tục tăng do sản lượng tăng cao bởi năng suất được tăng lên, tiêu dùng gạo trên đầu người giảm, đặc biệt ở Thái Lan. Xuất khẩu gạo của hai nướcnày chiếm gần ½ lượng gạo xuất khẩu của cả thế giới trong thập kỷ tới. Việt Nam sẽ chủ yếu xuất khẩu gạo hạt dài, Thái Lan xuất khẩu gạo thơm, gạo hạt dài và một số loại gạo hạt dẻo khác. - Ấn Đọ : là nước xuất khẩu gạo thứ ba trên thê giới. Nước này trở thành nước xuất khẩu lớn kể từ những năm 1990 mực dù lượng xuất khẩu hay dao động và phụ thuộc vào sản lượng gạo cũng như dự trữ trong nước. Xuất khẩu gạo được dự tính sẽ tăng trong thập kỷ tới do giá gạo cao đang kích thích sản xuất và xuất khẩu. Ấn Độ xuất khẩu gạo gạo hạt dài chất lượng thấp và gạo basmati chất lượng cao. - Hoa Kỳ : Sẽ vẫn là nhà xuất khẩu lớn thứ tư thế giới, nhu cầu trong nước tăng, diện tích reo trồng và năng suất tăng chậm đang hạn chế Hoa Kỳ tăng xuất khẩu gạo. Hoa Kỳ xuất khẩu goạ hạt dài, hạt trung bình và hạt ngắn - Pakistan : là nước xuất khẩu đứng thứ năm với sản lượng và diện tích reo trồng tăng mạnh trong những năm qua. Tuy nhiên, Pakistan có ít khả năng mở rộng hơn nữadiện tích reo trồng bởi khu vực nông nghiệp đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước tưới và cơ sở hạ tầng xuống cấp nghiêm trọng. Lượng gạo xuất khẩu đựoc dự báo sẽ tăng rất chậm, đạt khoảng 3,1 triệu tấn vào năm 2016. Pakistan xuất khẩu gạo basmati chất lượng cao và gạo hạt dài chất lượng thấp. - Trung Quốc : Xuất khẩu gạo giảm khoảng hơn 1 triệu tấn từ năm 2003 đến nay. Trong giai đoạn 2007 – 2016 nếu tăng thì xuất khẩu của nước này chỉ tăng không đáng kể. Sản lượng gạo và tiêu dùng trên đầu ngưòi có thể giảm nhẹ. Trung Quốc xuất khẩu gạo hạt ngắn và trung bình chất lượng cao sang thị trường Đông Bắc Á, gạo hạt dài chất lượng thấp sang khu vực cận Sahara và một số nước có thu nhập thấp. * Triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam Theo Viện nghiên cứu Thương mại, Việt Nam có rất nhiều cơ hội tăng sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu. Trong khi các nước có tiềm năng cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu gạo như Myanmar, Pakistan và Campuchia. Còn đang chậm hơn trong nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất và tìm cách mở rộng thị trường. Nếu Việt Nam tận dụng được cơ hội nhu cầu thị trường thế giới đang lên, đồng thời tăng cường có hiệu quả việc áp dụng các kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất cùng với cải thiện cơ chế chính sách và phương thức túi tiền thương mại để bắt kịp Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ trong cạnh tranh xuất khẩi vào các thị trường mới tiềm năng, Việt Nam sẽ có thể mở rộng xuất khẩu trên cả hai thị trường gạo phẩm cấp cao và gạo chất lượng trung bình. Tổng thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới có thể ở mức 17 – 18%, khối lượng gạo xuất khẩu có thể đạt được cao nhất 5,2 triệu tấn/năm trong vòng năm năm tới. Ngược lại, nếu Việt Nam chỉ dừng lại ở năng lực cạnh tranh hiện tại, đồng nghĩ với việc Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ sẽ có cơ hội tiếp tục giữ vững thị phần của họ ở khu vực thị trường gạo chất lượng cao trong khi đó lợi thế không nhiều về khả năng cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam so với nhóm 3 nước đang phát triển sẽ càng bị thu hẹp, với xu thế phảt triển của các nước đang vươn lên, thị phần của Việt Nam sẽ bị thu hẹp xuống còn 13 – 14% Với xu thế phát triển của đất nước, tương quan với tình hình thị trường và các nước cạnh tranh xuất khẩu có thể nhận định chung : Việt Nam vẫn là một trong các nước có nhiều khả năng và nằm trong 4 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới trong vòng mười năm tới. * Phương hướng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam - Mục tiêu và phương hướng sản xuất lúa gạo với nông nghiệp Việt Nam, sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là ngành quan trọng bậc nhất nhằm thực hiện ba mục tiêu (1) Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực trong bất kỳ tình huống nào (2) Tăng năng suất cây trồng và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam. (3) Đảm bảo nguòn nguyên liệu cung ứng cho công nghiẹp xuất phát từ mục tiêu trên các định hướng cơ bản đựoc đề xuất là : + Tăng cường thâm canh, tăng năng suất, kết hợp khai hoang tăng vụ ở những nơi có điều kiện, trong đó định hướng chủ yếu lâu dài là thâm canh tăng năng suất kết hợp với nâng cao chất lượng lúa gạo. Tuy nhiên, với một số diện tích trong lúa kém hiệu quả ở ĐBSCL không nên tiếp tục canh tác mà có thể sẽ chuyển sang các loại hoa màu khác hay nuôi trồng thuỷ sản sao cho có hiệu quả kinh tế cao hơn. + Đa dạng hoá trong sản xuất, đa dạng hoá về chủng loại gạo, đa dạng hoá về phẩm cấp các giống lúa, đa dạng hoá nguồn lúa gạo cho xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường quốc tế để có cơ cấu sản xuất thích hợp, tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng năng suất vừa tăng chất lượng gạo. Tuy nhiên việc áp dụng khoa học kỹ thuật phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thía và phát triển bền vững. II - Mục tiêu, quan điểm phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới. * Mục tiêu chủ yếu là : (1) Tăng lượng gạo xuất khẩu trên cơ sở vẫn phải đảm bảo lương thực quốc gia và có lãi cho người sản xuất và người xuất khẩu. (2) Mở rộng thị trường xuất khẩu bằng cách xây dựng một hệ thống phân phối trên thị trường quốc tế và chú trọng chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. (3) Nâng cao kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở nâng cao giá gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế. * Quan điểm : + Đa dạng hoá nhiều loại với các chủng loại khác nhau để có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới, cơ cấu của chủng loại sản phẩm phải thay đổi theo chiều hướng tích cực ngày càng có nhiều chủng loại chất lượng cao, đặc sản phù hợp, giảm tỷ lệ các loại gạo phẩm cấp thấp. + Đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo đồng thời xác định và có sự ưu tiên đối với thị trường xuất khẩu gạo chiến lược, lâu dài bằng ổn định số lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá, khi có cơ hội phải chiếm lĩnh và biến những thị trường tiềm năng thành những thỉ trường quen thuộc và truyền thống của mình. + Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu ở mọi nơi, mọi lúc, mỗi quy mô của khách hàng. Điều đó đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước phải có cơ chế quản lý sinh hoạt mềm dẻo thích ứng với kịp thời những biến động của thị trường + Tham gia các tỏ chức quốc tế để có điều kiện cho gạo của Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới một cách sâu, rộng, + Xây dựng mọi cơ sở nền tảng cho xuất khẩu gạo phù hợp với nhu cầu thị trường và tập quán thương mại Quốc tế. III - Giải pháp phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam 1. Giải pháp về sản xuất lúa hàng hóa a) Hình thành các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu. Cần phải nhanh chóng hình thành các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu, chỉ có như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường, tăng sức cạnh tranh. Nước ta vẫn chủ yếu xuất khẩu những loại gạo mà ta có chưa hẳn là xuất khẩu cái mà thị trường cần đến. Nhà nước đã xác định vùng chuyên canh lúa xuất khẩu là Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. b) Giải pháp về sản xuất và chế biến * Về chế biến : Do gạo phẩm cấp thấp hiện nay đang có nhu cầu cao trên thế giới nên khâu chế biến chưa đòi hỏi cấp bách lắm. Tuy vậy để có hiệu quả lâu dài, ngay từ bây giờ phải đầu tư theo hướng tiếp tục đầu tư vào khâu xay xát, chế biến, từng bước đầu tư cải tạo cơ sở hạ tầng, tự nạo vét, xây dựng thêm nhiều cảng sông, các kho chứa đủ tiêu chuẩn : hoang thiện “ công nghệ sau thu hoạch” để nâng cao chất lượng, nhà nước có chủ trương hỗ trợ cho việc hiện đại hoá chế biến gạo xuất khẩu, như vậy mới giảm được tỷ lệ mất mát sau thu hoạch. Để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu gạo đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản đầu tư cho phát triển gạo chất lượng cao có nhiều tiềm năng xuất khẩu hơn cũng như khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới bằng các giải pháp sau : + Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các loại giống khiu cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng. Cũng có thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang thị trường có nhu cầu khác nhau, giảm diện tích gạo có chất lượng thấp, mở rộng hơn nữa diện tích gạo có chất lượng cao nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. + Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch các vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể trong việc ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ, nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước của thời kỳ đó. * Về sản xuất : Giảm giá thành sản xuất là yếu tố cơ bản quyết định đối với xuất khẩu đặc biệt trong thực tế cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu hiện nay. Gần đây nhiều yếu tố liên quan đến đầu vào của sản xuất lúa đã được chính phủ giao cho các bộ ngành nghiên cứu tháo gỡ nhằm giảm giá thành sản xuất. Đối với sản xuất lúa hàng hoá cũng cần có những chinh sách ưu đãi riêng kể cả việc xem xét miễn thuế nông nghiệp trược hết đối với những vùng quy hoạch trồng lúa dành riêng cho xuất khẩu. * Về tổ chức thu mua hàng hoá : Tổ chức lại hệ thống mua gom gạo xuất khẩu theo hướng giảm dần các giao dịch tự do thông qua tư thương, tăng các giao dịch bằng trực tiếp giữa doanh nghiệp xuất khẩu và nông dân. Việc tổ chức thu mua phải đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu cũng như người dân nhằm giải quyết thoả đáng quan hệ giữa nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận. Hoàn thiện hệ thống chính sách của Nhà nước về đầu tư, tín dụng, tiền tệ, xuất khẩu, thuế, đất đai, bảo hiểm và trợ giá đào tạo nhân lực và phát huy vai trò của hiệp hội sản xuất và kinh doanh lương thực trong phạm vi cả nước. * Về khâu nâng cao kỹ thuật canh tác Cần cử cán bộ chuyên môn xuống cấp xã để truyền đạt kỹ thuật, hướng dẫn canh tác cho các hộ nông dân trồng lúa xuất khẩu theo quy trình đã biên soạn trước cho từng loại giống lúa và quy trình này thông qua hoạt động thực tiễn phải được thường xuyên nâng cao cho phù hợp. Đổi mới chính sách ruộng đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân canh tác theo hướng tăng cả về diện tích reo trồng, năng suất cũng như chất lượng lúa. * Về giống lúa : Để đáp ứng cho quy hoạch diện tích lúa xuất khẩu thì cần một số lượng lớn giống siêu nguyên chủng và nguyên chủng của cả nước và muốn thực hiện được khối lượng lúa giống rất lớn như vậy thì theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và PTNT thì cần quán triệt phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, phát huy sức mạnh nội lực từ dân bằng những biện pháp sau : - Tăng cường đầu tư trại giống cấp tính để sản xuất đầu dòng, cung cấp cho các điểm trình diễn, câu lạc bộ, các tổ chức nhân giống sau đó cung ứng đến mọi tổ chức, cá nhân, hộ nông dân sản xuất kinh doanh giồng thương phẩm đại trà thành một mạng lưới rộng rãi, được phép mua bán, trao đổi trực tiếp với nông dân, tạo thị trường giống sôi động, đều khắp. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, diện tích sản xuất giống chiếm 3% diện tích đại trà nên mỗi tỉnh trung bình cần khoảng trên trên 2000 hộ nông dân tham gia sản xuất lúa giống xác nhận để cung cấp cho nông dân. - Các hội đồng giống các tỉnh trồng lúa xuất khẩu xác định các giống lúa xuất khẩu phù hợp với địa phương, đặt hàng với các cơ quan khoa học sản xuất hạt siêu, mỗi trà một loại giống để nâng cao độ đồng đều của hạt lúa xuất khẩu, nguyên chủng các giống lúa xuất khẩu (OM1490, 2031, 1723, OMCS99, Ỉ64, 62032, VND95 – 20, MTL145, lúa thơm Việt Nam …) - Đối với các viện, trường, các cơ quan nghiên cứu, quản lý ở trung cương về giống lúa cần thu thập, đánh giá và bảo quản quỳ gen ưu việt, có lợi thế so sánh để cung cấp nguyên liệu cho việc tạo giống có năng suất cao, chất lượng tốt kết hợp giữa chọn tạo giống ở trong nước với nhập nội giống mứoi cùng với phương tiện công nghệ hiện đại nhằm tranh thủ thời gian trong công tác tạo giống. - Dùng kinh phí khuyến nông để mở nhiều đợt tập huấn, hội thảo, tham quan, trình diễn, chuyển giao kỹ thuật…nhằm phổ cập và nâng cao kiến thức về giống cho nông dân : do các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp với các tổ chức , hợp tác xã, hộ nông dân và các tổ chức quần chúng để tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi cơ cấu giống lúa. - Có cơ chế chính sách về quản lý, sản xuất lúa giống, khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước và liên doanh với nước ngoài được phép sản xuất và kinh doanh lúa giống, có đăng ký và chịu sự quản lý của Nhà nước như miễn giảm thuế, trợ giá giồng gốc, bản quyền tác giả về gióng, về hợp tác quốc tế xuất nhập khẩu giống. - Các Tổng công ty, công ty, các đầu mối xuất khẩu gạo cần liên kết với các địa phương, với hợp tác xã, với hộ nông dân, ký kết hợp đồng đầu tư với bao nhiêu sản phẩm, mua bán theo phẩm cấp, giá cả của các chủng loại lúa gạo để nông dân yên tâm sản xuất nguồn kinh phí đầu tư cho công tác giồng nên tính một phần từ lãi xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp. 2. Khắc phục những hạn chế trong xuất khẩu gạo a) Đối với các doanh nghiệp Nhìn một cách tổng quan về sản xuất, dự trữ, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua với những mặt đã đạt được thì ngoài ra còn không ít những hạn chế và cần phải khắc phục ngay trong thời gian tới đó là : Các doanh nghiệp cần chủ động để vào cuộc, trước đây các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thường chỉ quan tâm đến thị trường tiêu thụ và một chút về lưu thông trong nước có một số doanh nghiệp thì quan tâm đến công đoạn chế biến, có rất ít doanh nghiệp còn quan tâm đến sản xuất hàng hoá, nông dân sẵn sàng làm gạo xuất khẩu, nhưng những vướng mắc của họ là giá mua và nếu thất thu thì chưa có ai cùng chịu. Giả dụ như chúng ta có giống chuẩn, có chuyển giaﶍ công nghệ kỹ thuật hoàn hảo thông qua hệ thống khuyến nông nhưng nếu không giải đáp được vướng mắc trên lúa nông dân thì việc có gạo chất lượng cao phù hợp cho xuất khẩu vẫn sẽ còn là xa vời. Đã đến lúc doanh nghiệp phải bỏ vốn ra hợp tác với người sản xuất công bố giá mua gạo trước thời vụ, chia sẻ với người sản xuất khi gặp thiên tai, mất mùa… thì người dân mới yên tâm làm lúa xuất khẩu. Một trong những tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển là người sản xuất có ký hợp đồng tiêu thụ trước khi sản xuất hay không ở các nước kinh tế phát triển, việc ký hợp đồng tiêu thụ trong sản xuất khu vực nông nghiệp đạt mức rất cao, có nước đến 100%. Chính vì vậy, các công ty lương thực cần thấy rõ trách nhiệm của mình mà đầu tư thích đáng vào sản xuất lúa, gạo xuất khẩu. Doanh nghiệp phải chú trọng công tác “ hậu mãi” đối với khách hàng, đặc biệt là với người tiêu dùng nếu không sẽ quanh quẩn trong tình trạng buôn bán chụp giật, không thể có bán hàng tin cậy và không giành được tình cảm của người tiêu thụ đặc biệt là trong xu hướng tiêu dùng luôn thay đổi với chất lượng phục vụ ngày càng cao hơn. Doanh nghiệp có trách nhiệm và bảo đảm phần lớn thị trường tiêu thụ, giữ tín nhiệm gạo xuất khẩu Việt Nam ở thị trường đó, cũng như người sản xuất phải có trách nhiệm tự bảo vệ uy tín về hàng hoá của mình. Làm xuất khẩu nhưng không thể xem nhẹ việc phục vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường. b) Các chính sách về thị trường Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường ngoài nước. Để tăng sức cạnh tranh cho hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần phải có giải pháp đồng bộ, không chi là tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí mà còn phải mở rộng ra ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường…Các giải pháp cụ thể như : + Tổ chức tốt công tác thông tin thị trường, nên phân loại thông tin thành hai nhóm để có hình thức tổ chức và cơ chế điều hành thích hợp là : nhóm thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu, chỉ đạo và tổ chức xây dựng chiến lược thị trường và nhóm thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh tác nghiệp. Thông tin phải thiết thực, chính xác và toàn diện về : thị trường và điều kiện thâm nhập thị trường, cung cầu và giá cả, hệ thống luật pháp, chính sách và cơ chế điều hành, tập quán, văn hoá kinh doanh… cho cả hai đối tượng quản lý nhà nước và doanh nghiệp. + Đề ra chiến lược thâm nhập thị trường tầm cỡ quốc gia lẫn doanh nghiệp. Muốn cả cơ quan quản lý và các doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm vững điều kiện thâm nhập thị trường nhập khẩu, hiểu biết thấu đáo đối thủ cạnh tranh để xác định chiến lược kinh doanh hợp lý và vấn đề có tính nguyên tắc để xuất khẩu có hiệu quả. Điều kiện thâm nhập thị trường ở đây là điều kiện toàn diện của nước nhập khẩu trên phương diện luật pháp và các chính sách, cơ chế điều hành đặc biệt là chính sách thuế, phi thuế và các rào cản kỹ thuật nói chung, phong tục tập quán và văn hoá kinh doanh nói riêng… Còn nghiên cứu đối thủ cạnh tranh là chủ yếu nghiên cứu những thị trường mà họ đã xuất khẩu đáng kể. Giải pháp này giúp thành công trong tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại ở tầm nhà nước cũng như việc thực hiện các cuộc đàm phán cấp chính phủ và doanh nghiệp. + Quan tâm xây dựng thương hiệu gạo và quảng cáo sản phẩm. Vấn đề này rất đáng lưu ý đơi với gạo của Việt Nam vì vai trò quan trọng của thương hiệu và quảng cáo, không chỉ đáp ứng yêu cầu kinh doanh trước mắt mà còn phục vụ cho cả một chiến lược kinh doanh lâu dài. Biện pháp này đòi hỏi chính phủ và doanh nghiệp nước ta phải nâng cao hơn nữa nhận thức về việc xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam. + Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước thuộc thị trường truyền thống như : Inđônêxia, Cuba, Malaixia đồng thời mở rộng ra các thị trường mới nhất là các nước châu Phi, đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu lớn các loại gạo có phẩm cấp thấp, giá rẻ mà Việt Nam có thể dễ dàng đáp ứng. + Thị trường Trung Quốc : Trong đề án đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đến năm 2010 của Bộ Thương mại, gạo là một trong mười bốn mặt hàng có triển vọng xuất khẩu nhất. Chúng ta cần khai thác hơn nữa thị trường Trung Quốc với số dân đông nhất thế giới này (khoảng 1,3 tỷ người); Trung Quốc là thị trường có mức tiêu thụ lớn, trong những năm gần đây Trung Quốc nhập khẩu khá nhiều gạo của Việt Nam nhưng chủ yếu là nhập khẩu biểu ngạch. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo sang Trung Quốc, nhà nước phải có sự chỉ đạo đồng nhất trong hoạt động xuất khẩu : Thực hiện đàm phán, ký kết các hiệp định Thương mại ở các cấp độ khác nhau, bảo đảm quan hệ ngoại thương lâu dài và ổn định nhằm tránh những rủi ro và tổn thất. + Thị trường các nước ASEAN : Trong giai đoạn thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm lúa gạo của Việt Nam nói riêng thị trường ASEAN đóng vai trò quan trọng và chiếm một tỷ lệ lớn. Tuy nhiên từ năm 1996 đến nay đã có những thay đổi, xu hướng giảm tỷ lệ bởi đặc trưng cơ bản của các nước ASEAN là có cơ cấu sản phẩm nông nghiệp giống nhau nên các nước này nhập khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu là hình thức tạm nhập, tài xuất đặc biệt là Singapore nên không phù hợp với yêu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, thị trường ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu gạo quan trọng của Việt Nam. 3. Giải pháp về quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu gạo trong thời gian tới Phải phối hợp đồng bộ giữa tổ điều hành thị trường. Trong nước, hiệp hội lương thực, các doanh nghiệp lớn và các bộ ngành có liên quan để đưa ra chỉ thị điều hành xuất khẩu được chính xác. Đồng thời tăng cường công tác thông tin về giá cả hàng hoá và các dịch vụ về thị trường. Phổ biến kịp thời các cơ chế chính sách của Nhà nước, dự báo về chiều hướng cung cầu của hàng hoá và dịch vụ các thông tin chiến lược, chiến thuật và các biện pháp điều hành xuất khẩu của Nhà nước. Trên cơ sở đó sẽ nâng cao hiệu ứng và tính linh hoạt trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Để có giải pháp ứng phó Quốc tế điều tiết nguồn cung trong các điều kiện cụ thể nhằm tác động vào thị trường và giá có lợi cho ta. a. Về mặt hàng : Bỏ hạn ngạch, chỉ tiêu xuất khẩu nhưng cần công bố số lượng định hướng xuất khẩu hàng năm. Phải công bố số lượng định hướng xuất khẩu gạo vì lý do dưới đây. - Căn cứ vào nghị quyết của chính phủ về một số chủ trương và chính sách về chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thì lúa gạo là ngành sản xuất có thế mạnh của nước ta. Phải đảm bảo an ninh lương thực đủ lúa gạo dự trữ quốc gia và số lượng cần thiết để xuất khẩu. việc công bố kế hoạch có định hướng xuất khẩu hàng năm còn cần được hướng dẫn cụ thể về số lượng từng mùa vụ, có như vậy doanh nghiệp xuất khẩu mới chủ động tính toán trong kinh doanh - Đã nhiều lần xẩy ra, khi thị trường tiêu thụ thuận lợi, doanh nghiệp ồ ạt ký kêt hợp đồng, tập trung giao hàng… với số lượng vượt quá khả năng về hàng hoá, chế biến, bốc xếp, vận tải, bao bì dần dần đều mức cân đối với khả năng ở hầu hết các khâu nêu trên, làm giá trị thị trường biến động, doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và nhà nước đã phải can thiệp bằng những mệnh lệnh hành chính. - gạo là mặt hàng nhạy cảm. Biến động giá lúa gạo do việc kiểm soát yếu kém sẽ ảnh hưởng ngay đến đời sống của 80% dân số là nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia. - Vẫn còn những yếu tố đe doạ an ninh lương thực Quốc gia, đó là nhu cầu lương thực ngày càng tăng do tỷ lệ dân số vẫn còn cao đó là diện tích đất sản xuất lương thực có xu hướng bị thu hẹp do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh tróng cùng với hiệu quả kinh tế thấp từ ngành trồng lúa. Cần phải xác định là xuất khẩu gạo trước hết là để khuyến khích sản xuất - kế hoạch xuất khẩu do vậy phải được kiểm soát tốt trong quá trình thực hiện. b, Về quản lý doanh nghiệp xuất khẩu Bỏ đầu mối nhưng trước mắt không nên thực hiện ngay lập tức theo nghĩa hoàn toàn tự do. Với lại những năm tới đây gạo vẫn là mặt hàng phép chỉ định doanh nghiệp xuất khẩu cũng như quy định hạn ngạch xuất khẩu mà không vi phạm cam kết quốc tế. Tuy vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu, không nên có những quy định thu thêm bất kỳ một loại phí, lệ phí nào đối với doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng như không nên quy định về khả năng tài chính tối thiểu của doanh nghiệp. Việc can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ các cơ quan quản lý phải dần được loại bỏ. Tuy nhiên, cần có một số điều kiện nhất định đối với doanh nghiệp xuất khẩu gạo như sau : + Doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu ngành hàng. + Là hội viên hiệp hội lương thực + Cam kết xuất khẩu các loại gạo theo tiêu chuẩn gạo xuất khẩu Việt Nam. Trường hợp xuất khẩu các loại gạo nhái với quy định phải được cơ quan chức năng đồng ý. - Để giúp cơ quan chức năng điều hành xuất khẩu phù hợp với số lượng định hướng xuất khẩu, doanh nghiệp phải gửi đăng ký xuất khẩu hàng năm từ 12 tháng trước. - Hàng tháng có báo cáo kết quả xuất khẩu về Bộ Thương Mại c) Về giải pháp phát triển thị trường Nhà nước phải lựa chọn được cơ cấu, xây dựng chính sách khuyến khích sản xuất, chế biến, xuất khẩu và Nhà nước định hướng, dự báo thị trường, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi và có những cam kết quốc tế để doanh nghiệp yên tâm hoạt động Về tình hình thị trường có thể thấy rõ các doanh nghiệp của ta nhìn chung chưa có được những hợp đồng lớn, để giải quyết vấn đề hợp đồng lớn cần nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm những thoả thuận ở cấp chính phủ. Để hỗ trợ cho quá trình đàm phán và ký kết những thoả thuận như vậy. Nước xuất khẩu cần phải có những thể hiện nhất định với nước nhập khẩu vấn đề thứ nhất ( gạo trả chậm) đã đựoc chính phủ bàn bạc nhiều lần và gần đây đã chấp nhận cho bộ thương mại được đàm phán bán gạo trả chậm với khối lượng rất lớn. * Bình ổn thị trường Ổn định thị trường lương thực trong nước liên quan đến nhiều yếu tố mà xuất khẩu chỉ là một. Muốn ổn định, gia tăng giá trị xuất khẩu cần có chính sách thị trường đang và hiệu quả Nhà nước phải lựa chọn cơ cấu và định hướng dự báo thị trường uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo trực tiếp các doanh nghiệp trực thuộc và doanh nghiệp có trách nhiệm lo đảm bảo phần lớn thị trường tiêu thụ ổn định đảm bảo giữ tín nhiệm gạo Việt Nam ở các thị trường đó. Người sản xuất phải có trách nhiệm tự bảo đảm uy tín về hàng hoá của mình, tổ chức lại sản xuất. Nhưng nội dung cụ thể nên được thể hiện rõ trong cơ chế là. + Uỷ ban nhân dân tỉnh phối hợp hiệp hội ngành hàng chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải có kế hoạch và chủ động ký hợp đồng tiêu thụ lúa gạo với nông dân + Cần giữ một số thị trường đặc biệt có lợi nhuận cao hoặc có sự can thiệp của chính phủ và giao một vài doanh nghiệp tập chung giao dịch dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Bộ Thương Mại và hiệp hội phần lớn lợi nhuận thu được từ các dịch vụ xuất khẩu từ những thị trường này bổ sung trực tiếp vào quỹ bảo hiểm xuất khẩu - Về kế hoạch trả nợ hàng năm để không trái với các thoả thuận song phương đã ký với các nước, các doanh nghiệp được tự do giao dịch, nhưng ngoài việc tự đảm bảo hiệu quả kinh doanh phải có tỷ lệ đóng góp nhất định cho quỹ bảo hiểm xuất khẩu - Trước mắt để ổn định thị trường trong nước nên giao một số doanh nghiệp có năng lực mua tạm giữ hoặc bán ra hay lưu thông để đề phòng, can thiệp khi có biến động ảnh hưởng đến tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy cần có quy định giá sàn tối thiểu và cơ chế đảm bảo giá sàn này. - Về lâu dài thực hiện một số trung tâm lúa gạo để người sản xuất thuận tiện trong việc tiêu thụ hàng hoá của họ làm như vậy sẽ tránh được cách giải quyết theo kiểu tình thế, hiệu quả không cao như việc mua lúa gạo tạm trữ thường làm xưa nay. Mặt khác cần có tác động và can thiệp từ khâu sản xuất, ví dụ nhà nước giải quyết trợ cấp để hạ giá thành * Một số kiến nghị + Tiếp tục củng cố và phát triển vùng lúa chất lượng cao một triệu ha ở Đồng bằng Sông Cửu Long và 300.000 ha ở Đồng bằng Sông Hồng + Nhà nước cần đầu tư nghiên cứu phát triển giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng gạo tốt, chịu được sâu bệnh. Trang bị đầy đủ cho nông dân kiến thức về hình thức canh tác, thời vụ gieo trồng, đặc điểm của từng giống lúa + Nâng cao hiệu quả của chính sách “đồn điền đổi thửa” nhằm giảm dần tình trạng canh tác manh mún nhỏ lẻ như hiện nay và nâng cao hiệu quả kinh tế trên mỗi thửa ruộng. Đồng thời rà soát lại các chính sách về đất đai củng cố các quyền về đất (quyền sở hữu, mua bán, chuyển nhượng, cho thuê…) để tạo cho người nông dân thuận lợi trong việc mở rộng sản xuất và yên tâm đầu tư dại hạn cho sản xuất. + Cần quan tâm đầu tư, nâng cấp công nghệ thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch (chẳng hạn như dùng máy sấy thay cho phơi thóc bằng ánh sáng mặt trời). Tăng cường đầu tư cho công nghiệp xây xát chế biến gạo và phân bố đều trên cả các vùng trồng gạo xuất khẩu. + Tăng cường quản lý chất lượng gạo xuất khẩu, nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu từ khâu trồn, thu hoạch, bảo quản đến khâu xau xát, chế biến và đóng gói theo tiêu chuẩn thống nhất phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, xây dựng quy chế bắt buộc và áp dụng tiêu chuẩn ISO cho chất lượng gạo xuất khẩu. + Tăng cường dự trữ nhằm giảm thiểu các biến động bất lợi của thị trường thế giới và các thiệt hại do thiên tai gây ra xây dựng hệ thống kho dự trữ và tổ chức lại hệ thống mua gom, dự trữ gạo xuất khẩu. + Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực chế biến gạo cũng như chế biến một số lương thực, thực phẩm khác. Điều này một mặt mở rộng mối quan hệ giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến mặt khác góp phần cải thiện công nghệ xay xát và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu + Nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng và thông tin nhằm đưa thông tin cập nhật về giám giống, phương thức canh tác lúa gạo mới nhất đến nông dân và doanh nghiệp. Trợ cấp cho việc phát hành các chuyên san về lúa gạo, lập các website giao dịch gạo, phổ biến cho nông dân các kỹ thuật, giống cây trồng thông qua truyền hình, đài phát thanh. + Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch các vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể trong việc ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ, nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước. + Đổi mới chính sách ruộng đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân,ꅰcanh tác theo hướng tăng cả về diện tích gieo trồng, năng suất cũng như chất lượng lúa + Một yếu tố quan trọng gây hạn chế chất lượng gạo và công nghệ sau thu hoạch. Thóc chủ yếu được phơi nắng nên chất lượng kém, tỷ lệ hạt gẫy vỡ trong xay xát cao, ở Thái Lan, hong khô thóc được tách thành một giai đoạn riêng trong công nghệ sau thu hoạch do đó tỷ lệ hạt gãy vỡ cao nhất chỉ là 25%. Công nghệ sau thu hoạch của Việt Nam kém hiệu quả do quá tập trung vào công đoạn xay xát mà chưa quan tâm đến các công đoạn khác và một phần do việc đầu tư nâng cấp công nghệ không đem lại lợi tức cao, đây là khâu rất yếu hiện nay vì vậy trong những năm tới cần tập trung giải quyết theo các hướng : đầu tư cơ sở hạ tầng thoàn thiện công nghệ sau thu hoạch nhằm giảm tỷ lệ tổn thất xuống thấp nhất đồng thời tăng cường quản lý chất lượng gạo xuất khẩu. 4. một số giải pháp phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam Từ ngày 7/11/2006,Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sau gần một năm thực thi các cam kết gia nhập WTO đã cho thấy còn không ít các hạn chế trong thực tiễn. Gạo là một trong những mạt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đang và sẽ phải đối mặt với những vấn đề gì trước khi mở khi nước ta trở thành thành viên của WTO? 3.1. Nhìn lại thực tạng xuất khẩu gạo của Việt Nam Trong gần 20 năm qua cho thấy hoạt động này có nhiều bước thăng trầm. Năm 1989 đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Năm 1989 là năm mà lần đầu tiên Việt Nam lại tái xúât hiện trên thị trường thế giới với tư cách là nước xuất khẩu gạo lớn, đứng thứ ba trên thế giới sau Thái Lan và Hoa Kỳ. Bảng1. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam gd 1989- 1999. Đơn vị: Số lượng: Nghìn tấn Kim ngạch: Triệu USD Năm Số lượng Kim ngạch 1989 1.372 310,2 1990 1.478 275,4 1991 1.016 229,9 1992 1.953 405,1 1993 1.649 335,7 1994 1.962 420,9 1995 2.025 538,8 1996 3.047 868,4 1997 3.682 891,3 1998 3.793 1.006 1999 4.550 1.035 Nguồn: Kinh tế Việt Nam và thế giới 2001-2002 Bảng 1 cho ta thấy trong 10 năm qua mặc dù tình hình thời tiết có những năm không thuận lợi, lại thêm khó khăn của cuộc khủng hoàng tài chính nhưng, số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng, nếu so sánh năm 1999 và năm 1989 thì lượng gạo xuất khẩu đã tăng lên gấp hơn 3 lần (so sánh tương đối). Tuy nhiên, diễn biến cụ thể trong từng năm thì lại có những biến đổi khác nhau. Nhìn vào số lượng gạo xuất khẩu gd 1989-1999 cho thấy xuất khẩu gạo của nước ta có xu hướng tăng qua các năm. năm 1991, xuất khẩu gạo của nước ta giảm và tụt xuống mức thấp nhất so với các năm trước đó do giá gạo trên thị trường thế giới giảm nhanh, khi đó, Pakistan đã thay thế vị trí thứ ba về xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, ngay năm sau, năm 1992, Việt Nam đã nhanhn chóng chiếm lính lại vị trí đó với mức xuất khẩu đạt 1,953 triệu tấn, tăng 92,2% so với năm trước. Năm 1995, mặc dù xuất khẩu gạo của nước ta đạt 2,025 triệu tấn, cao hơn hẳn so với các năm trước đó, nhưng vị trí thứ ba lại vị ấn Độ chiếm lĩnh. Năm 1996, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo với mức lơn hơn hẳn, do đó cũng vào đúng năm này làn đầu tiên kể từ năm 1989 khối lượng gạo xuất khẩu của nước ta vượt 3 triệu tấn/ năm. năm 1997, tình hình quốc tế có sự thay đổi do xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ bắt nguồn từ Thái Lan. Do đó, tình hình thị trường xuất khẩu nói chung và thị trường gạo nói riêng đều biến động mạnh. Tuy nhiên, số lượng gạo của Việt Nam vấn tăng nhanh và đạt ở mức cao 3,682 triệu tấn. Cũng từ năm 1997, Chính Phủ có cơ chế riêng để điều hành xuất khẩu gạo hàng năm (Quyết định số 141/1997/QĐ-TTg, Quyết định số 12/1998/QĐ-TTg) với nội dung cơ bản là : ĐIũu hành xuất khẩu gạo bằng hạn ngạch xuất khẩu. Năm 1998, do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên hầu hết lượng lúa của các nước ở Nam bán cầu đều bị sụt giảm dẫn đến nhập khẩu ồ ạt với khối lượng lớn ở một số nước như: Indonesia, Banglades, Philipines, Nigeria. Nên số lượng gạo luôn bán trên toàn cầu đạt mức cao. Vào năm này, Việt Nam cũng tham gia tích cực và đạt 3,793 triệu tấn, lần đầu tiên đưa kim ngạch xuất khẩu gạo lên trên 1 tỷ USD. Năm 1999, khối lượng gạo buôn bán trên thị trường thế giới giảm 12,6% (3,6 triệu tấn) so với năm 1998. năm này lượng dự trữ lương thực ở một số nước nhập khẩu chính ở mức khá cao, hầu hết các nước xuất khẩu lúa gạo được mùa do thời tiết thuận lợi hơn các năm trước. Sản lượng tăng và dự trữ dồi dào là nguyên nhân làm cho các nước nhập khẩu giảm lượng nhập khẩu. Tuy nhiên, do có sự nhận định tình hình đúng đắn, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 250 và các chỉ thị bổ xung hướng dẫn các doanh nghiệp xuất khẩu gạo vào những thời điểm cần thiết nên đã đạt được kết quả trong điều hành xuất khẩu gạo khá tốt. tính chung trong năm 1999, cả nước xuất khẩu được 4,55 triệu tấn gạo với kim ngạch đạt 1,035 tỷ USD, đạt kỷ lục cao nhất về số lượng trong gd 1989-1999. nhờ đó, nước ta được xếp vào vị trí thứ hai sau Thái Lan về các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Bản 2. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam gd 2000-2006 Năm Số lượng (Nghìn tấn) Kim ngạch (Triệu USD) 2000 3.500 668 2001 3.729 625 2002 3.240 725,5 2003 3.813 720,5 2004 4.059 950,3 2005 5.250 1.407,2 2006 4.643 1.275,9 Nguồn : Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Bước sang gd tiếp theo, 2000-2006, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã có những bước tăng trưởng ngoạn mục. Năm 2000, xuất khẩu gạo có kém hơn về số lượng và kim ngạch xuất khẩu so với năm 1999. nhưng sự sụt giảm này là tất yếu và phù hợp quy luật chung của cả thế giới, bởi vì năm 2000, lượng gạo buôn bán trên toàn cầu chỉ đạt 22,69 triệu tấn, giảm 9,2% So với năm trước. Xuất khẩu gạo năm 2001 đạt3,729 triệu tấn, trị giá 625 triệu USD, tăng 6,5% về lượng, nhưng chỉ băng 94% về trị giá so với năm 2000. giá cạo xuất khẩu bình quân giảm 25,3 USD/tấn so với mức giá bình quân của năm 2000. Đây là một kết quả tích cực trong bối cảnh chung bất lợi ở cả thị trường trong và ngoài nước. ở mức trong nước, sản xuất lương thực giảm do ảnh hưởng bởi lũ lụt kéo dài ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long và miền Trung. Bước sang năm 2002, cả sản lượng, giá lúa gạo trong nước cũng như giá xuất khẩu đều tăng so với năm 2001. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long tuy diện tích gieo cấy bị giảm khoảng 10 nghìn ha do hạn hán và lũ sớm nhưng sản lượng vẫn tăng khoảng 1 triệu tấn so với năm trước, đạt 17,52 triệu tấn. Xuất khẩu gạo cả năm giảm 13,1% về lượng và tăng 16% về trị giá. Xuất khẩu gạo trong các năm tiếp theo cũng rất khả quan. Đáng chú ý trong năm 2005, nhờ điều hành tốt nên chúng ta đã xuất khẩu gạo đạt con số kỷ lục 5,25 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu gạo lại vượt ngưỡng trên 1 tỷ USD. Tình hình này vẫn tiếp tục được duy trì trong năm 2006. sang anưm 2007, thực hiện cân đối cung- cầu gạo trong nước, chỉ tiêu xuất khẩu gạo mà Chính phủ đưa ra chỉ thị trong năm là khoảng 4,5 triệu tấn, hiện các doanh nghiệp đã ký được khoảng 3,5 triệu tấn. Số còn lại sẽ giao vào những tháng cuối năm hoặc sang quý I-2008. Tổng kết hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam qua gần 20 năm qua có thể rút ra một số bất cập cơ bản sau: Thứ nhất, nhìn chung vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, giá thành còn cao và giá trị gia tăng thấp. Một vấn đề qaun trọng được đặt ra là việc quản lý chuỗi cung ứng gạo cũng như tính toán chuõi giá trị gạo còn nhiều hạn chế, nên giá thành và chất lượng hạt gạo làm ra còn kém sức cạnh tranh, chưa có nhãn hiệu cạnh tranh cao như gạo Thái Lan. Đặc biệt, những hoạt động trong chuỗi cung ứng như nàh cung ứng đầu vào, người sản xuất, chế biến, phân phối, tiếp thị và tiêu dùng chưa thật sự gắn kết với nhau để xây dựng thương hiệu, tạo ra sản phẩm chất lượng ổn định, uy tín trên thị trường. Đây chính là thách thức lớn trong sản xuất và xuất khẩu gạo ra nước ngoài cũng như nước ngoài vào Việt Nam trong bói cảnh hội nhập WTO. Thứ hai, trong những năm gần đây lúa thu hoạch rộ mùa đều rơi vào tình trạng rớt giá. Điều này chứng tỏ mối liên kết giữa người sản xuất và hệ thống phân phối chưa gắn kết với nhau. Bên cạnh đó, ở các khâu sản xuất, chế biến và kinh doanh lúa gạo còn nhiều hạn chế. Thứ ba, chất lượng gạo chưa ổn định dẫn đến giá bán ra thị trường xuất khẩu thấp, đặc biệt là gạo của Việt Nam luôn bán hơn gạo Thái Lan xuất khẩu cùng loại từ 30-40 USD/tấn;’ gạo chất lượng cao xuất khẩu còn thấp. Thứ tư, không chỉ trên thị trường thế giới, hạt gạo Việt Nam cũng đang phải chịu sức ép cạnh tranh ngay trong nước; nhất là tại các thành phố lớn vẫn có mặt gạo Thái Lan. Những lợi thế về chi phí lao động thấp đang dần mất đi trong quá trình tăng trưởng kinh tế và hộ nhập kinh tế quốc tế. Do đó, bên cạnh các yếu tố về đảm bảo chất lượng, giá cả, mẫu mã, kênh phan phối… cần phải xây dựng thương hiệu cho hạt gạo Việt Nam. 3.2. Trong biểu cam kết về thương mại hàng hoá của Việt Nam khi gia nhập WTO. Chúng ta đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quyh định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, dop là nước đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt Nam đã yêu cầu và WTO đã chấp nhận cho Việt Nam hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp cho phi nông nghiệp, quyền kinh doanh,vv… Cam kết chính thức về trợ cấp nông nghiệp là: không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên Việt Nam bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy địn phải cắt giảm, nhìn chung ta duy trì được ở mức không quắ 10 % giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này. các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. 3.3. Các giải pháp vĩ mô nhằm phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam được đề xuất như sau: Thứ nhất, tiến hành thông tin, tuyên truyền những kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế và những cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam khi gia nhập WTO cho nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, từ đó tạo ra một tư duy mới trong nhận thức và tổ chức sản xuất và xuất khẩu gạo. thứ hai, nghiên cứu và sớm áp dụng những giải pháp trong trợ cấp nông nghiệp phù hợp với cam kết của Việt Nam và quy định của WTO tạo cơ sở pháp lý đúng đắn nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam. Thứ ba, Chính phủ có chính sách khuyến khích nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Để làm được điều này, ngay từ khâu thu hoạch phải được làm tốt, chú trọng đầu tư cho khâu chế biến và công nghiệp, chế biến để giảm tỷ lệ ổn tổn thất. Thứ tư, xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu của Việt Nam. Để có được thương hiệu đủ sức cạnh trqanh, có uy tín trên thị trường, chúng ta cần tạo sự gắn kết 4 nhà bằng cách xây dựng công ty cổ phần, gồm các cổ đông là nhà nông, nhà chế biến, nhà đầu tư kinh doanh, nhà khoa học. KẾT LUẬN Trong những năm vừa qua cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, ngành sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta đó đạt được những thành tựu hết sức to lớn lúa hàng hóa và xuất khẩu gạo đó cú tỏc động tích cực cùng với sự phát triển chung của kinh tế đất nước mặc dù chỉ là một mặt hàng cụ thể như lúa gạo có một vai trũ, ý nghĩa hết sức to lớn đối với đời sống củ người dân. Biến động giá lúa gạo do việc kiểm soát yếu kém sẽ ảnh hưởng ngay đến đời sống của hơn triệu dân do đó sẽ ảnh hưởng ngay đến vấn đề an ninh, xó hội. Trên thế giới các nhà nghiên cứu đó đưa ra nhận định rằng trên thế giới có đủ khả năng sản xuất ra một lượng lương thực để nuôi sống hơn 6 tỷ người nhưng vẫn có thể bị thiếu đói với hơn 700 triệu ha đang được sử dụng để sản xuất lương thực chưa kể đến việc tăng năng suất cây trồng và mở rộng thêm diện tích sản xuất là đảm bảo được vấn đề lương thực cho cả nhân loại trong đó chủ yếu là gạo. quyền lợi tiếp cận và được đáp ứng nhu cầu lương thực của con người chưa được đảm bảo và quan tâm đúng mức ở nhiều quốc gia đó là chưa kể đến việc tăng năng suất cây trồng và mở rộng diện tích sản xuất là đảm bảo được vấn đề lương thực cho cả nhân loại trong đó chủ yếu là gạo. Q Quyền lợi tiếp cận và được đáp ứng nhu cầu lương thực của con người chua được đảm bảo và quan tâm đúng mức ở nhiều quốc gai đó là chưa kể đến những thiên tai lũ lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra ở mọi nơi trên thế giới. Với Việt Nam trong thời gian tới gạo vẫn là mặt hàng được quan tâm hỗ trợ hàng đàu cho các khâu tự sản xuất chế biến dự trữ đều xuất khẩu vỡ hiện nay chỳng ta phải duy trỡ và ổn định và sản lượng lương thực do chứa đựng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia. Sản xuất hàng hóa và xuất khẩu gạo có tác động tích cực đến việc phát huy nguồn lực trong nước góp phần đáng kể vào quá trỡnh cụng nghiệp húa- hiện đại hóa đất nước góp phần đáng kể vào quá trỡnh cụng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước góp phần rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước trên thế giới góp phần vào chương trỡnh xúa đói giảm nghèo của chính phủ. Chúng ta đó đi qua được những chặng đường gian nan nhất trong việc phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo và trong thời gian sắp tới. Chúng ta lại có những điều kiện mới, có những cơ hội mới MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11501.doc
Tài liệu liên quan