Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt bởi đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa chấp nhận vừa không đồng đều nên không thể nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước Đại hội VI. Mở ra nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế nước ta thực sự được đổi mới đạt được những thành tựu to lớn : Từ một nước đói kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở thành một nước không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa, xuất khẩu ra nước ngoài (đặc biệt là lúa , gạo).
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1750 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Bản thân khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của phái đối lập, song thống nhất đã bao hàm trong nó sự đối lập.
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau, "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chỉnh hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, mặt đối lập chưa thể hiện có sự xung khắc gay gắt, người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau, tồn tại trong một sự vật hiện tượng liên kết hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, khi hai mặt ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, sự vật cũ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất giữa hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn. Có như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy Lênin khẳng định: "Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập".
Khi bàn về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin khẳng định rằng: "Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa nó chính là nó khi có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ tương đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của các mặt đối lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động và tuyệt đối".
2.4. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến trình độ nhất định, hội tụ đủ các điều kiện cần thiết mới chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thường xuyên diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, sự chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người. Chuyển hoá các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú.
Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán vị đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn, xét về mặt phương diện chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới cao hơn về trình độ.
Phương thức thứ hai: Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc là động lực của mọi quá trình phát triển.
Phần II
Nền kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
I. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nước ta xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế mới. Sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết hình thức, qui mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn.
Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò đối với sản xuất và đời sống. Mỗi thành phần kinh tế đều có những thế mạnh riêng rất cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài làm hình thành kinh tế tư bản Nhà nước.
Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá là do : phần công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hh chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai mọt nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú, đa dạng chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi lích giữa các tổ chức trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau.
II. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế.
Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân Mặc dù các thành phần kinh tế nàycó sự khác nhau về hình thức sở hữu, về cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta vàchúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của Nhà nước.
1. Kinh tế Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như : Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trí của kinh tế Nhà nước là rất quan trọng và to lớn.
Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà nước tạo lực lượng về kinh tế để Nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hướng, đòn bẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như : Giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh,... Đồng thời kinh tế Nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội.
Mấy năm qua khu vực kinh tế Nhà nước có chuyển biến tích cực biểu hiện ở: Tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước tăng từ 36% năm 1991 lên đến 43,6% năm 1994. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt. Tuy nhiên, nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với năng lực sẵn có. Hiệu quả kinh doanh còn thấp, một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lãi. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế Nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế Nhà nước phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm, bổ xung những tri thức “cập nhật” nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này.
2. Thành phần kinh tế hợp tác.
Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn. Vì vậy, Đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao.
Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hưởng lợi quá theo cổ phần và kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phần vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Hợp tác xã có thể huy động vốn cả trong lẫn ngoài.
Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể phải có sự đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sở hữu, quản lí và quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân lời ăn lỗ chịu.
Sự tồn tại, phát triển của kinh tế hợp tác là một tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng đặc biệt là trong kinh tế hợp tác xã nông nghiệp.
3. Kinh tế tư bản Nhà nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung trong ngành dịch vụ (64%). Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP. Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Lênin đã chỉ rõ “Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa”. Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thu hút đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển thành phần kinh tế này. Đó là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bước gớp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Vì vậy Việt Nam cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ đủ khả năng đảm đương được công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn định. Tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu tư nước ngoài.
4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, mục đích kinh doanh chủ yếu nuôi sống mình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể tiểu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đảng và Nhà nước chủ trương giúp đỡ thành phần kinh tế tiểu thủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song nó còn có những hạn chế không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Do đó cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt đất để nó hoà nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển đất nước.
5. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thức như : Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 1991, sau khi có luật Doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản Nhà nước phát triển khá mạnh và sẽ trở thành một lực lượng đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay có 12.109 Doanh nghiệp tư nhân với số vốn đăng ký 2.234 tỷ đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn có 5583 Công ty với tổng số vốn 3 tỷ đồng. Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Mặt khác việc tư nhân hoá các Doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân được phát triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa rất lớn và đòi hỏi phải được sự quan tâm đúng mức của Đảng- Nhà nước.
Nhà nước cần khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh. Những nhà đầu tư tư nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh trước pháp luật, được tôn trọng trong xã hội. Chính sách của Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân phát triển trong những ngành và lĩnh vực pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế Kinh doanh tạo lực phát triển xây dựng tình đoàn kết, hợp tác giữa chủ và thợ phát triển Kinh doanh có hiệu quả. Tất cả các thành phần kinh tế trên tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ.
III- Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Nền kinh tế hàng hóa quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện :
Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập nhau mà gắn bó đan xen thâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế Mỗi thành phần kinh tế có vai trò, chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn vì yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất.
Tất cả các thành phần kinh tế đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta. Vì vậy các thành phần này đều phát huy mọi tiềm lực hiện có để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các thành phần kinh tế đều khác nhau về nhiều mặt cho nên sự thống nhất này bao hàm những mặt khác biệt nhau và đối lập nhau. Chúng tồn tại trong mẫu thuẫn.
Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có sự mâu thuẫn là do đặc điểm sở hữu của các thành phần kinh tế là khác nhau nên lợi ích kinh tế giữa các thành phần là khác nhau, trái ngược nhau nên mâu thuẫn nhau. Ngay trong mỗi thành phần kinh tế các Doanh nghiệp cũng mâu thuẫn lẫn nhau vì chúng đều là các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường.
Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển trong hệ thống thống nhất của nền kinh tế qúa độ trong đó chứa đựng những sự đối lập, một mặt bài trừ, như định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau. Mặt khác chúng thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung chịu sự quản lý của Nhà nước. Tuỳ vào khả năng và trình độ xã hội hoá của từng thành phần và sự hợp tác giữa chúng mà giải phóng mọi năng lực sản xuất Kinh doanh, mở rộng thị trường tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống người dân.
IV. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
Quy luật không những chỉ ra quan hệ giữa các mặt đối lập mà còn chỉ ra cho chúng ta thấy nguồn gốc,động lực của sự phát triển. Chính vì thế trong sự phát triển các thành phần kinh tế nước ta hiện nay bên cạnh mặt thống nhất còn song song phát triển theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy đó mới chỉ là khả năng vì thực trạng kinh tế xã hội nước ta và tương quan lực lượng trong bối cảnh quốc tế như hiện nay khi vận mệnh của đất nước phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa chưa phải là một cái gì không thể đảo ngược lại. Có quyết tâm cao kiên định chưa đủ mà phải có đường lối sáng suốt khôn ngoan của chính Đảng cách mạng tiên tiến giàu trí tuệ và đặc biệt phải có bộ máy Nhà nước mạnh. Mâu thuẫn cơ bản trên còn thể hiện giữa mặt bên gồm những lực lượng và khuynh hướng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong tất cả các thành phần kinh tế đựơc sự cỗ vũ khuyến khích hướng dẫn bảo trợ của những lực lượng chính chính xã hội tiên tiến với một bên là khuynh hướng tự phát và những lực lượng gây tổn hại cho quốc tế nhân sinh. Mâu thuẫn cơ bản này được quyết định những mâu thuẫn kinh tế xã hội khác cả về chiều rộng cả về chiều sâu trong quá trình phát triển kinh tế Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi có sự khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ vì hiện nay sự phát triển đó còn thấp chưa tương ứng với tiềm năng hiện có. Tuy nhiên, đường lối đó cũng đòi hỏi thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Chỉ có như vậy mới làm cho các thành phần kinh tế khác phát triển phát huy tốt vai trò chỉ đạo và hợp thành nền tảng kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, nhưng không có vai trò vị trí như nhau trong quá trình hình thành và xây dựng chế độ kinh tế xã hội mới. Như vậy bên cạnh quan hệ thống nhất có liên quan mật thiết với nhau của các thành phần kinh tế còn tồn tại những mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế đó. Những mâu thuẫn này tạo động lực và tiền đề cho sự phát triển của nền kinh tế. Năm thành phần kinh tế nước ta đến nay, không chỉ có mâu thuẫn bên ngoài giữa các thành phần kinh tế mà còn có mâu thuẫn bên trong bản thân các thành phần kinh tế đó. Muốn hiểu đúng bản chất của sự vật, muốn xác định xu thế phát triển của nó phải tìm cho được mâu thuẫn bên trong của sự vật đó. Bên trong bản thân các thành phần kinh tế còn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích các ngành trong thành phần kinh tế đó, những ngành độc quyền như công nghiệp quốc phòng, ngân hàng Nhà nước, bưu chính viễn thông không phải là không chịu sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Ngành nào cũng muốn kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế hiện nay thực hiện điều đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng chính sự cạnh tranh đó đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển cao hơn với chất lượng và số lượng sản phẩm ngày càng phong phú hơn. Chuyển sang kinh tế thị trường tất yếu phải hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong thời đại ngày nay, mọi nền kinh tế dân tộc đều không hướng tới xuất khẩu, không có mũi nhọn vươn lên ra ngoài thì không thể đưa nền kinh tế trong nước tăng trưởng theo kịp bước tiến hoá chung của nhân loại. Nền ngoại thương Việt Nam những năm 1981 - 1982 còn nhỏ bé và mất cân đối nghiêm trọng. Tổng kim ngạch không vựơt quá 500 triệu USD và tỷ lệ xuất nhập là 1/4 (xuất 1 thì nhập 4). Những năm đầu thay đổi (1986-1987) kim ngạch xuất khẩu đã trên 1 tỷ USD, năm 1992 gần 2 tỷ USD và năm 1992 trên 2,4 tỷ với cán cân ngoại thương cân bằng. Đó là những bước tiến hết sức quan trọng tại những cơ sở, những tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta. Đó là do sự cạnh tranh gay gắt của các ngành kinh tế quốc doanh, mà ngành nào cũng cho mình là then chốt. Đấu tranh và phát triển là hai mặt của hiện tượng, là quan hệ nhân quả của một vấn đề. Có đấu tranh mới có phát triển vì vậy như bất kỳ một giá trị nào, sự đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Trong cơ chế thị trường mặc dù là sự cạnh tranh rất khốc liệt "thương trường là chiến trường" nhưng những gì còn tồn tại được và mặt hàng nào được người tiêu dùng chấp nhận, đó chính là do sự nỗ lực đổi mới của bản thân ngành đó. Chính vì vậy các doanh nghiệp không thể ngồi yên thụ động mà phải đổi mới, cải tiến đáp ứng nhu cầu của thị trường, thúc đẩy tính năng động sáng tạo và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là tính ưu việt của mâu thuẫn. Nhưng bên cạnh đó những mâu thuẫn này cũng đã nẩy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Đó là sự coi trọng lợi ích và tiền, vì tiền họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điều này có sự ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung của xã hội nhất là xã hội Việt Nam ta muốn coi trọng những giá trị văn hoá truyền thống và đạo đức con người. Tính mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế là còn ở chỗ do lợi ích lâu dài giữa các thành phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế có lợi ích riêng. Quá trình phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội, quá trình phát triển sức sản xuất, cải tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý kinh tế, thực hiện mạnh mẽ sự phân công lao động sẽ khắc phục tình hình mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế.
V- Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường.
Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội: sở hữu xã hội chủ nghĩa tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân, còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu tập thể như quan niệm trước đây...
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể và sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này khái quát lại chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức lại có nhiều phương thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý.
1. Về sở hữu toàn dân.
Trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu Nhà nước.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chống, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh, Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu của toàn dân.
ở nước ta hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã qui định rõ: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân". Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về tệ nạn xã hội đất đai là lãnh thổ nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả hai phương diện có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là tư liệu sản xuất, hay nói chính xác hơn, đó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo qui luật của thị trường và chịu sự điều tiết của quy luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng. Chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân song người nông dân có quyền sửdụng ổn định lâu dài thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: "trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho người nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề về thừa kế, chuyển quyền sử dụng đất...." (Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ VII- Nhà xuất bản sự thật - Hà Nội năm 1991). Như vậy hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế.
2. Về sở hữu Nhà nước.
Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ có ở nước ta mà còn có những nước khác trong hệ thống các nươchính sách xã hội chủ nghĩa thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong một thời gian khá lâu, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt đến sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh mà chúng ta ra sức quốc doanh cho nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành sở hữu không phỉa của một chủ thể cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà Nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu Nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ở nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nước.
3. Về sở hữu tập thể.
ở nước ta trước đây sở hữu tập thể chủ yếu tốn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hoá ở nước ta diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng với quyền sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay cần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đã biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng, đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bổtong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta duỷtì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin đã khẳng định: "Chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa".
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao động lại với nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường, hợp tác xã đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc. (Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 0 1996). Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình hình thực tiễn ở đất nước ta hiện nay.
VI- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong điều kiện lịch sử nhất định. Kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình đọ văn minh và phát triển xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật như sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,.. nền kinh tế nước ta đang tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ phát triển, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng được đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng. Con người không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện y tế hiện đại để chăm sóc giữ gìn sức khoẻ. Con người không thể có trí tuệ minh mẫn, phát triển nếu các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học không được đáp ứng. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển con người cho thế kỷ XXI.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. Đây là những kết quả đáng mừng, đáng được phát huy. Nó thể hiện sự phát triển và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên chủ nghĩa xã hội từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.
Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến: kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển toàn diện, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả. Từ đó, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời con người Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp cho con người mở rộng các quan hệ buôn bán giao lưu, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá đạo đức theo tiêu chí thị trường như chữ tín trong chất lượng và giao dịch... Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những nơi, kinh tế thị trường không những không làm cho người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn, mà ngược lại, còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành gã nô lệ sùng bài đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên phẩm chất, văn hoá, đạo đức, luận lý... Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Đơn giản ví dụ như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ làm sôi động thị trường nhưng cũng làm sói mòn nhân cách và phẩm chất con người. Ngoài ra, đi kèm với kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội để đưa đến rối loạn, khủng hoảng cho gia đình, hạt nhân - tế bào của xã hội. Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng... là những căn bệnh trầm kha không dễ bề khắc phục trong kinh tế thị trường. Thật không sai khi hình dung kinh tế thị trường là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cẩn thận sẽ bị đứt tay.
Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chínhlà hai mặt đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố huy hoại dân tộc con người. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định "sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Như vậy Đảng ta vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như nội dung của Nghị quyết TW 5 đã nếu. Đây chính là công cụ, là phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quết mâu thuẫn đã nêu trên.
Phần III.
Nhân tố và giải pháp khắc phục khó khăn Trong QUá TRình xây dựng nền kinh tế thị trường
1. Giải pháp khắc phục khó khăn.
Để khắc phục những khó khăn và hạn chế nêu trên Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện các giải pháp sau: song song với việc phát triển mạnh các thành phần kinh tế phải đảm bảo cho kinh tế Nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và khả năng điều tiết được các thành phần kinh tế khác. Để thực hiện được điều này cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau :
Kinh tế Nhà nước phải được quan tâm đầu tư đúng mức: Hiện đại hoá quy trình công nghệ,vận dụng kịp thời những thành tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh. Kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, kinh doanh có lãi. Nhà nước phải độc quyền ngoại thương vì chỉ có độc quyền ngoại thương Nhà nước mới có thể tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp phát triển và định hướng được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cần đảm bảo thu nhập của các cán bộ công nhân trong khu vực kinh tế Nhà nước phải cao hơn ngoài khu vực kinh tế Nhà nước, để tránh tình trạng chảy máu chất xám.
Giải pháp lớn thứ hai là: phải thường xuyên cải tiến và đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện quan hệ sản xuất trên các mặt sở hữu, tổ chức sản xuất - Kinh doanh và phân phối tiêu thụ sản phẩm. Phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát Doanh nghiệp Nhà nước đối với tất cả các thành phần kinh tế. Phải tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhanh chóng giao đất giao rừng cho người lao động ở nông thôn và miền núi, thực hiện phân phối lại nhiều lần để đảm bảo cho người nghèo có điều kiện phát triển.
Thứ ba là đảm bảo được niềm tin của quần chúng nhân dân lao động vào chủ nghĩa xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Xu hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển kinh tế sẽ không thể thực hiện được nếu như quần chúng nhân dân lao động mất niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó phải củng cố niềm tin của dân vào Đảng vào xã hội chủ nghĩa.Phải khắc phục được tệ nạn tham nhũng đang trở thành quốc nạn trong xã hội ta.
Giải pháp thứ tư là hoàn thiện hệ thống pháp luật sử phạt nghiêm minh. Hoàn thiện tổ chức của các cơ quan pháp luật để không còn hiện tượng, chồng chéo lẫn nhau. Chức năng, nhiệm vụ các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải rõ ràng. Cần đảm bảo tính chất công bằng, hợp lý của luật pháp ngày trong bản thân các điều luật ban hành.Phổ cập giáo dục pháp luật trong toàn dân, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật cho tất cả mọi người. Giữ vững quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam. Để làm được điều này cần đề phòng hai nguy cơ sau:
Nguy cơ xâm lược tác động từ bên ngoài theo chiều hướng đối lập về bản chất và nguy cơ phân liệt, biến loạn từ bên trong nội bộ Đảng
Bên cạnh những giải pháp đó đồng thời phải xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi và các nhà quản lý vĩ mô có tài cần phải liên kết họ lại. Mặt khác thi hành các chính sách như : chính sách mở cửa tạo thuận lợi cho sự hợp tác, văn hoá, khoa học với nước ngoài, các chính sách về thuế quan xuất nhập khẩu hàng hoá, chính sách về luật đầu tư ngày càng được cải tiến bổ sung đã có tác dụng tích cực cho sự phát triển mạnh nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
Để hỗ trợ cho sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp chúng ta đã đẩy mạnh mặt trận ngoại giao, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và y tế.
Tất cả những giải pháp trên kết hợp với việc quản lý kinh tế - xã hội bằng luật pháp theo mô hình Nhà nước pháp quyền đã có sức sống và đang trở thành hiện thực. Đó là thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được.
2. Những nhân tố bảo đảm việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan
Xu hướng khách quan sự tăng trưởng kinh tế của nhân loại đến một trình độ nhất định làm xuất hiện sự phát triển kinh tế thị trường. Nhưng kinh tế thị trường có thể phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa. Như thế xu hướng khách quan chưa đủ đảm bảo để kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn đòi hỏi các nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan bảo cho sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam là :
Thứ nhất : Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng hoạt động với tư cách là người tổ chức và lãnh đạo, định hướng mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng cần nâng cao được nhận thức với nội dung cơ bản là : xác định mục tiêu chính trị, định hướng chính trị cho sự phát triển kinh tế xã hội công bằng, cương lĩnh đường lối chiến lược phát triển, bằng những nguyên tắc và chính sách lớn trong đối nội và đối ngoại.
Yêu cầu của mọi sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, sáng tạo trong hoạch định cương lĩnh, chiến lược và sách lược nhằm hiện thực hoá bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội trong cuọc sống.
Thứ hai : Xây dựng Nhà nước Việt Nam vững mạnh, trong sạch quản lý kinh tế xã hội có hiệu quả.
Phải xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền là nấc thang của văn minh nhân loại trong lĩnh vực quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước nước pháp quyền đạt trình độ phát triển rực rỡ trong chủ nghĩa tư bản. ngày nay Đảng ta cũng sử dụng nó để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy có quy luật gì, đặc điểm nào của Nhà nước pháp quyền mà chủ nghĩa tư bản sử dụng thì phù hợp còn Việt Nam lại không vì Việt Nam đi theo chủ nghĩa xã hội. Điều này phải thật rõ ràng để khi xây dựng và thực thi pháp luật Nhà nước pháp quyền Việt Nam không rơi vào tình trạng mất định hướng, “chắp vá” sẽ rất nguy hiểm đối với một “cỗ máy” trong sản xuất công nghiệp và càng nguy hiểm đối với một bộ máy Nhà nước khi vận hành không theo một mục đích. Định hướng xã hội chủ nghĩa là phải làm cho kinh tế xã hội phát triển. Như thế cơ chế, chính sách của Nhà nước phải khoa học, sáng tạo và đồng bộ nhằm hướng sự phát triển toàn diện xã hội.
Nhà nước phải có môi trường pháp lý, xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần phải có sự quản lý của Nhà nước. Nội dung và phương tiện quản lý của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế là pháp luật và hành lang pháp lý. Vậy phải tạo môi trường pháp lý để tất cả các thành phần kinh tế cạnh tranh và phát triển trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ ba : Tính nhân dân, tính dân tộc trong phát triển kinh tế.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phương tiện, phương thức khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo của cả cộng đồng dân tộc. Như vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước phải hướng tới sự giải phóng mọi tiềm năng của đất nước của nhân dân như : Khả năng làm giàu, tính tự giác, lòng yêu xã hội chủ nghĩa. Tất cả phải hướng tới mục tiêu “dân là gốc” - “gốc là của mọi quyền lực”.
Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn mười năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn tuy nhiên những thành tựu đó lại làm phát sinh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã cảnh báo. Nguy cơ đó bắt đầu từ các nguyên nhân sau.
Do năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước chưa nâng lên kịp thời với yêu cầu hiện nay, lại bị quốc nạn quan liêu tham nhũng làm yếu đi. Để khắc phục chúng ta cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước . Vai trò của Đảng thể hiện ngay từ việc Đảng đã chủ động thúc đẩy, lựa chọn tạo mọi điều kiện cần thiết cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được hình thành, tồn tại và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo Đảng không chỉ giải quyết những mâu thuẫn nẩy sinh trong quá trình phát triển kinh tế mà còn hoàn thiện, bổ sung những chính sách về kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát hiện và ngăn chăn kịp thời những biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết tính chất định hướng XHCN của sự phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay. Vai trò quản lý điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước là yếu tố không thể thiếu được, một đòi hỏi khách quan của sự phát triển nền kinh tế.
Nhà nước điều chỉnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và định hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế. Nhà nước tạo môi trường kinh tế thuận lợi, môi trường pháp lý cần và đủ cho sự hoạt động của nền kinh tế tạo ra những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế . Vai trò của nhà nước thể hiện ở chức năng điều tiết, kiểm tra, kiểm soát các thành phần kinh tế, đảm bảo sự thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Như vậy Đảng và nhà nước có vai trò hết sức quan trọng và to lớn trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Kết luận
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt bởi đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa chấp nhận vừa không đồng đều nên không thể nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước Đại hội VI. Mở ra nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế nước ta thực sự được đổi mới đạt được những thành tựu to lớn : Từ một nước đói kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở thành một nước không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa, xuất khẩu ra nước ngoài (đặc biệt là lúa , gạo).
Mặc dù vậy vẫn còn khó khăn đang tồn tại đòi hỏi Đảng và nhà nước phải có chính sạch, biện pháp để khắc phục và thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển hết khả năng của chúng và cần phải giữ để cho thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế phát triển vận hành theo cơ chế thị trường cần phải phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế ; đảm bảo cho thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế phát triển không chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước cần không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo cho thị trường trong nước ổn định, thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư của nước ngoài. Xử phạt thật nghiêm minh đối với những kẻ lợi dụng chức quyền của mình để tham ô tài sản nhà nước. Phải đào tạo đội ngũ cán bộ quan lý kinh tế có trình độ cao, năng lực quản lý tố, quan trọng là đạo đức, tư cách tốt. Muốn có được điều đó đòi hỏi được nâng cao giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ từ khi còn là học sinh, sinh viên. Lý thuyết cần phải gắn liền với thực tiễn để khi ra trường có thể thích ứng một cách nhanh nhất với yêu cầu của công việc trong nền kinh tế thị trường sôi động.
Tài liệu tham khảo
1. Kinh tế chính trị Mác - Lê nin tập 2
2. Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam
Tập thể tác giả : PGS, PTS Nguyễn Tình Gia chủ biên
NXB : chính trị quốc gia Hà nội - 1998
3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tác giả : PTS Nguyễn Cúc.
NXB : Thống kê - Hà nội - 1995
4. Văn kiện đại hội VIII.
5. Một số nhận thức mới về con đường xã hội chủ nghĩa của Việt nam.
Tác giả : PTS Đào Duy Quát - Cao Thái
NXB : Tư tưởng - văn hoá - 1992.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35370.doc