Đề tài Phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài do 2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3. Mục tiêu nghiên cứu 4. Đối tượng, khách thểvà phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu 4.2 Khách thể nghiên cứu 4.3 Phạm vi nghiên cứu 5.Phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận 5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể 6.Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 6.1 Giả thuyết nghiên cứu 6.2 Khung lý thuyết II> NỘI DUNG CHÍNH. Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TỄN 1.Cơ sở lý luận 1.1 Lý thuyết nghiên cứu giới và phát triển trong Xã hội học về Giới 1.2 Phương pháp tiếp cận giới 1.3 Lý thuyết tương tác biểu trưng giới 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 3. Những khái niệm công cụ 3.1 Khái niệm giới 3.2 Khái niệm Bình đẳng và bất bình đẳng giới 3.3 định kiến giới 3.4 Lãnh đạo và quản lý 3.5 Địa vị xã hội Chương II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1.Tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trên thế giới 2.Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam 2.1 Phụ nữ Việt Nam tham gia lãnh đạo, quản lý trong lịch sử 2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ trong công tác lãnh đạo và quảnlý 2.3 Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay 2.3.1 trong cơ Quan lập pháp 2.3.2 trong cơ quana hành pháp 2.3.3 Trong cơ quan tư pháp 2.3.4 Trong các cấp Đảng uỷ 2.3.5 Trong các đoàn thể chính trị xã hội 3. Nguyên nhân phụ nữ Việt Nam còn ít tham gia hoạt động chính trị - xã hội 3.1 Định kiến giới về năng lực 3.2 Gánh nặng gia đình 3.3 Chính sách của Đảng và Nhà nước 3.4 Văn hoá truyên thống, những tập tục phong kiến III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chon đề tài Vấn đề bình đẳng giới là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong những thập kỷ qua. Một trong những khía cạnh nằm trong mối quan tâm ấy là hiện tượng phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý đang ngày càng có xu hướng gia tăng. Ngày nay, vấn đề giải phóng phụ nữ tăng cường sự tham chính của phụ nữ đã và đang gắn liền với vấn đề bình đẳng giới và được thực hiện bằng hành động thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở những khái niệm, ý tưởng trừu tượng hay những tuyên bố pháp lý. Nhà xã hội học Chủ Nghĩa Xã hội không tưởng Phurie (XIX) cho rằng: "Giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ cùng với nam giới là một thước đo của văn minh". Việt Nam là một trong những quốc gia sớm tham gia ký và phê chuẩn Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Việt Nam đang tích cực xây dựng một xã hội bình đẳng, dân chủ và văn minh, vấn đề nam nữ bình quyền được chú trọng hơn bao giờ hết .Việt Nam cũng là nước được Liên hiệp Quốc đánh giá cao trong việc nỗ lực rút ngắn khoảng cách Bình đẳng giới trong giáo dục, việc làm, tiền lương Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần của phụ nữ, củng cố và tăng cường vị trí và đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội, tạo điều kiện và cơ hội cho cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn vào việc quản lý Nhà nước và xã hội. Trước kia phụ nữ thường bị trói buộc trong phạm vi gia đình với những tư tưỏng "trọng nam khinh nữ", "nam nội nữ ngoại" nên cơ hội cho phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội nói chung và hoạt động lãnh đạo quản lý nói riêng hầu như là không có. Nâng cao vị thế, vai trò phụ nữ, tạo điều kiện cho họ tham gia vào hoạt động chính trị, vào công tác lãnh đạo quản lý là vấn đề hết sức cần thiết cho sự phát triển xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Chỉ thị 37/CT-TW ngày 16-5-1994 khẳng định: " Nâng cao tỷ lệ nữ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội là một yêu cầu quan trọng để htực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ". Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về giới cũng đều cản trở sự phát triển bền vững, tạo nên xung đột xã hội .Vì vậy, hướng tới sự bình đẳng giới mang ý nghĩ hết sức sâu sắc về cả kinh tế, văn hoá, chính trị. Một trong những chỉ tiêu quan trọng mà Liên hiệp Quốc đã khuyến nghị các quốc gia phải đạt dược trong tương lai là: đảm bảo không ít hơn 30% phụ nữ ở các cương vị hoạch định và giải quyết các chính sách và chủ trương. Phụ nữ Việt Nam đã có nhiều đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên vị thế và vai trò của họ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của họ.Trong quá trình tham gia công tác lãnh đạo quản lý, phụ nữ ngày càng có nhiều thuận lơi, song cũng khá nhiều rào cản ảnh hưởng tới con đường lãnh đạo của họ mà bao trùm là định kiến giới về năng lực, từ phía gia đình, Chính sách xã hội và những phong tục lạc hậu, kéo theo những bất cập khác khi họ tiếp cận hay tham gia công tác lãnh đạo quản lý. Vì thế để phụ nữ tự tin trên con đường lãnh đạo quản lý cùng nam giới, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp phù hợp hơn để vị thế và vai trò của phụ nữ được nâng lên một tầm cao hơn. Vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài :"Phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay". 2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần kiểm định, bổ sung những luận cứ, luận chứng cho một số lý thuyết Xã hội học và củng cố lý luận của một số chuyên ngành có liên quan: Xã hội học Giới và phát triển, Xã hội học quản lý, Xã hội học Gia đình, xã hội học chính trị Ứng dụng một số lý thuyết, phạm trù xã hội học cơ bản vào nghiên cứu đề tài, hướng đến tìm hiểu tình hình thực trạng và những bất cập khi những người phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.Từ đó góp phần đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm thúc đây quá trình giải phóng và nâng cao vị thế cho người phụ nữ, hướng tới sự bình đẳng giới. 3.Mục tiêu nghiên cứu -Tìm hiểu thực trạng của người phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ởViệt Nam hiện nay. -Tìm hiểu một số bất cập mà phụ nữ hay vướng phải khi làm công tác lãnh đạo -Đưa ra các giải pháp hỗ trợ để tháo gỡ những bất cập này. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu. Thực trạng phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ơe Việ Nam hiện nay. 4.2 Khách thể nghiên cứu. Những người phụ nữ Việt Nam tham gia công tác lãnh đạo, quản lý. 4.3 Phạm vi nghiên cứu. 4.3.1 Không gian. - Truy cập internet với các trang web có liên quan . - Các văn bản, các báo cáo của các tổ chức như văn phòng quốc hội, Bô nội vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. - Những bài viết về chủ đề phụ nữ và bình đẳng giới trên các trang báo điện tử - Các sách báo, tạp chí chuyên ngành có liên quan tới: Tạp chí Xã hôi học, Tạp chí Giáo dục và lý luận, tạp chí khoa học xã hội 4.3.2 Thời gian . -Tháng 3 năm 2008 5.Phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng: Khi xem xét đánh giá mọi hiện tượng, sự kiện xã hội phải đặt trong mối quan hệ toàn diện vơi điều kiện kinh tế- xã hội đang vận động biến đổi liên tục.Ở báo cáo này khi nghiên cứu về thực trạng của phụ nữ Việt Nam trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, ta phải đặt trong điều kiện cụ thể của đất nước và con người, xem xét các nhân tố, các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng, đi sâu vào nghiên cứu bản chất của hiện tượng. Chủ nghĩa Duy vật lịch sử : Phải nhìn nhận, đánh giá các sự kiện xã hội ở những hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử cụ thể trên quan điểm kế thừa và phát triển. 5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể. * Phương pháp phân tích tài liệu : Là phương pháp chủ đạo chủ đạo được sử dụng trong báo cáo nhằm giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra.Các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã được đọc và phân tích để thu thập thông tin . 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 6.1 Giả thuýet nghiên cứu - Xã hội càng phát triển thì người phụ nữ ngày càng có cơ hội được khẳng định được vị thế và năng lực của mình . Họ được thể hiện mình, đặc biệt trong lĩnh vực công tác lãnh đạo và quản lý. Số người phụ nữ tham gia vào đôị ngũ lãnh đạo và quản lý ngày càng có xu hướng gia tăng. - Tuy nhiên số lượng ấy vẫn còn ít, chậm và không liên tục do nhiều nguyên nhân mà chủ đạo là do định kiến giới bao trùm: định kiến về năng lực phụ nữ, rồi từ phía gia đình, chính sách xã hội, phong tục tập quán truyêng thống .kéo theo hàng loạt những thiệt thòi đối với nữ cán bộ.

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2643 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bổ sung những luận cứ, luận chứng cho một số lý thuyết Xã hội học và củng cố lý luận của một số chuyên ngành có liên quan: Xã hội học Giới và phát triển, Xã hội học quản lý, Xã hội học Gia đình, xã hội học chính trị… Ứng dụng một số lý thuyết, phạm trù xã hội học cơ bản vào nghiên cứu đề tài, hướng đến tìm hiểu tình hình thực trạng và những bất cập khi những người phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.Từ đó góp phần đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm thúc đây quá trình giải phóng và nâng cao vị thế cho người phụ nữ, hướng tới sự bình đẳng giới. 3.Mục tiêu nghiên cứu -Tìm hiểu thực trạng của người phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ởViệt Nam hiện nay. -Tìm hiểu một số bất cập mà phụ nữ hay vướng phải khi làm công tác lãnh đạo -Đưa ra các giải pháp hỗ trợ để tháo gỡ những bất cập này. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu. Thực trạng phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ơe Việ Nam hiện nay. 4.2 Khách thể nghiên cứu. Những người phụ nữ Việt Nam tham gia công tác lãnh đạo, quản lý. 4.3 Phạm vi nghiên cứu. 4.3.1 Không gian. - Truy cập internet với các trang web có liên quan . - Các văn bản, các báo cáo của các tổ chức như văn phòng quốc hội, Bô nội vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. - Những bài viết về chủ đề phụ nữ và bình đẳng giới trên các trang báo điện tử - Các sách báo, tạp chí chuyên ngành có liên quan tới: Tạp chí Xã hôi học, Tạp chí Giáo dục và lý luận, tạp chí khoa học xã hội… 4.3.2 Thời gian . -Tháng 3 năm 2008 5.Phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng: Khi xem xét đánh giá mọi hiện tượng, sự kiện xã hội phải đặt trong mối quan hệ toàn diện vơi điều kiện kinh tế- xã hội đang vận động biến đổi liên tục.Ở báo cáo này khi nghiên cứu về thực trạng của phụ nữ Việt Nam trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, ta phải đặt trong điều kiện cụ thể của đất nước và con người, xem xét các nhân tố, các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng, đi sâu vào nghiên cứu bản chất của hiện tượng. Chủ nghĩa Duy vật lịch sử : Phải nhìn nhận, đánh giá các sự kiện xã hội ở những hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử cụ thể trên quan điểm kế thừa và phát triển. 5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể. * Phương pháp phân tích tài liệu : Là phương pháp chủ đạo chủ đạo được sử dụng trong báo cáo nhằm giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra.Các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã được đọc và phân tích để thu thập thông tin . 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 6.1 Giả thuýet nghiên cứu - Xã hội càng phát triển thì người phụ nữ ngày càng có cơ hội được khẳng định được vị thế và năng lực của mình . Họ được thể hiện mình, đặc biệt trong lĩnh vực công tác lãnh đạo và quản lý. Số người phụ nữ tham gia vào đôị ngũ lãnh đạo và quản lý ngày càng có xu hướng gia tăng. - Tuy nhiên số lượng ấy vẫn còn ít, chậm và không liên tục do nhiều nguyên nhân mà chủ đạo là do định kiến giới bao trùm: định kiến về năng lực phụ nữ, rồi từ phía gia đình, chính sách xã hội, phong tục tập quán truyêng thống...kéo theo hàng loạt những thiệt thòi đối với nữ cán bộ. 6.2 Khung lý thuyết Năng lực Gánh nặng Gia đình Chính sách xã hội Phong tục truyền thống Định kiến giới Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý Điều kiện kinh tế - xã hội NỘI DUNG CHÍNH Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.Cơ sở lý luận 1.1 Lý thuyết nghiên cứu giới và phát triển Giới và phát triển(GAD) là cách tiếp cận cho rằng : tiếp tục chú trọng đến phụ nữ một cách tách biệt là bỏ qua một thực tế là nam giới có vị thế áp đảo với phụ nữ. Khi kiện định quan điểm cho rằng không nên nghiên cứu phụ nữ một cách tách rời, GAD đã chú trọng đến các mối quan hệ giới khi đề ra các biện pháp để giúp họ trong quá trình phát triển. Việc sử dụng thuật ngữ giới như một công cụ để phân tích đem lại sự thuận lợi hơn khái niệm phụ nữ trong phát triển vì nó không chỉ tập trung vào phụ nữ , mà còn tập trung vào các vai trò và các nhu cầu của phụ nữ và nam giới. Phương pháp GAD xem giới như một vấn đề xuyên suốt có liên quan đến toàn bộ các quá trình kinh tế, xã hội và chính trị. Xem xét toàn bộ tổ chức xã hội và đời sống chính trị trong trật tự để hiểu được sự thể hiện của những đặc điểm cụ thể của xã hội, GAD quan tâm đến cấu trúc xã hội của giới và sự sắp đặt các vai trò của giới cụ thể, những trách nhiệm và những mong đợi đối với phụ nữ và nam giới, hoan nghênh sự đóng góp tiềm tàng của nam giới, chia sẻ một sự quan tâm chung đối với các vấn đề bình đẳng giới và công bằng xã hội. GAD phân tích một cách bản chất về sự đóng góp của phụ nữ trong bối cảnh công việc được thực hiện cả bên trong và bên ngoài gia đình, bao gồm cả sự sản xuất không tạo ra sản phẩm, đặc biệt quan tâm đến sự áp bức phụ nữ trong gia đình, một lĩnh vực được coi là "phạm vi riêng tư".Nó cũng nhấn mạnh đến sự tham gia của Nhà nước trong việc thúc đẩy hành động giải phóng phụ nữ, mà nhờ đó, phụ nữ ở rất nhiều nước có sự giúp đỡ trong đời sống. Một xu hướng khác trong cách tiếp cận vấn đề quan hệ giới là thông qua sự phân tích xem nam và nữ làm gì.Từ góc độ xã hội học, mối quan tâm chính ở đây là coi giới như một quan hệ xã hội . 1.2 Phương pháp tiếp cận giới Cách tiếp cận giới là cách nhìn nhận vấn đề qua "lăng kính giới".Có nghĩa là xem xét một cách cụ thể xem nam giới và nữ giới và phụ nữ có địa vị như thế nào? thuộc nhóm người nào?Vận dụng quan điểm tiếp cận giới trong nghiên cứu cần phải dựa trên sự phân tích khách quan, khoa học, dựa trên số liệu thực tế để không có cái nhìn thiên lệch về giới nào.Từ đó, có thể đưa ra các giải pháp, khuyến nghị hữu hiệu nhằm thiết lập sự bình đẳng giới trên mọi mặt, phát huy năng lực và khả năng sáng tạo của cả hai giới đóng góp vào sự phát triển chung của cả đất nước. 1.3 Lý thuyết tương tác biểu trưng giới Lý thuyết này cho rằng : "mối tương quan giới là sản phẩm của quá trình tương tác giữa các cá nhân nam và nữ. Mối tương tác này bị quy định bởi các quy tắc,các biểu tượng, các ký hiệu và được bộc lộ qua các hành vi, thái độ và suy nghĩ của nhau trong quá trình giao tiếp.Trong giao tiép hàng ngày đã hình thành nên một phức hợp các biểu tượng có ý nghĩa chung là phân biệt địa vị, lao động và hành vi giới [4,24] Vai trò giới được xác định thông qua hàng loạt các hệ thống biểu tượng do chính người phụ nữ và nam giới tạo ra và sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Theo quan niệm truyền thống thì nam giới có tính cách mạnh mẽ, độc lập, quyết đoán…do đó có vai trò đối ngoại, phụ nữ rụt rè, lệ thuộc, sống tình cảm nên đảm nhận vai trò đối nội trong gia đình.Trong giao tiếp hàng ngày vì thế đã hình thành nên những biểu tượng tuân theo sự phân công ấn định như vậy. Do vậy khi có sự thay đổi trong hệ thống biểu tượng mà ở đây là sự tham gia và thành công trong công tác lãnh đạo, quản lý của phụ nữ thì theo lý thuyết tương tác biểu trưng giới sẽ tạo ra những phản ứng đáp lại từ xã hội, thiết lập nên các biểu tượng mới, xác định địa vị và tương ứng là vai trò của mỗi giới. 2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu Trong vài thập kỷ gần đây, Giới là vấn đề được đông đảo các quốc gia trên thế giới quan tâm , nhìn nhận và đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau thông qua nhiều hội nghị thế giới và khu vực. Giới là lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam. Hội nghị quốc tế lần đâu tiên về phụ nữ do Liên Hợp Quốc tổ chức được diễn ra trong năm 1948 gồm hai vấn đề nổi bật đó là bình đẳng giới về kinh tế và bình đẳng về chính trị ( phụ nữ có quyên bầu cử). Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu về giới đã xuất hiện với nhiều hướng nghiên cứu và nhiều cách tiếp cận khác nhau, với mục đích là đều hướng tới nghiên cứu về phụ nữ, về địa vị, via trò của họ trong xã hội, góp phần nâng cao vị thế của họ bằng cách đưa ra nhưng thông tin, những hiểu biết về vấn đề giới và bình đẳng giới. Nhưng trong thực tế, hoạt động nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận giới vẫn chưa được đề cập tới và còn là một mảng thiếu hụt. Ở hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc mô tả tình hình đời sống, hoạt động của phụ nữ mà chưa khái quát nên thành những luận định có tính lý luận để kiểm chứng. Nhờ có sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, sự nỗ lực của các cơ quan đoàn thể, các tổ chức mà nhiều công trình nghiên cứu phân tích, điều tra, khảo sát, đánh giá về thực trạng bình đẳng giới đã có những bước tiến rõ rệt hơn những năm trước.Từ trước tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề cụ thể trong bình đẳng giới , về địa vị, vai trò của phụ nữ trong hàng loạt các vấn đề xã hội, mà vấn đề vai trò của phụ nữ trong quản lý lãnh đạo cũng thu hút được khá nhiều các nhà nghiên cứu, các tổ chức xã hội,… Ngoài các văn bản đã được ban hành thì hàng loạt các cơ sở, trung tâm nghiên cứu cũng được hình thành mà đấu tiên phải kể tới là Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, Viện Gia đình & Giới thuộc Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Trung tâm nghiên cứu khoa học về lao động nữ thuộc Bộ lao động Thương binh và xã hội, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… và không thể không kể tới hàng loạt các bài báo và các công trình nghiên cứu khác về giới đã được công bố : " Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý" (Trung tâm nghiên cứu khoa học lao động nữ-Nxb CTQG, Hà Nội , 1997) ; "Phụ nữ, giới và phát triển" ( Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng, NXB PHụ nữ, Hà Nội, 2000); " Mười năm bước tiến của phụ nữ Việt Nam" ( Lê Thi, Đỗ Thị Bình, Nxb Phụ nữ hà Nội, 1997); "Phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới trong đổi mới" ( Nxb Pụ nữ,1998); … 3. Những khái niệm công cụ 3.1 Khái niệm giới: -Theo điều 5, luật bình đẳng giới của Quốc Hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 số 73/2006/QH 11 ngày 29 tháng 11-2006: "Giới chỉ đặc điểm của, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội". Nó luôn luôn biến đổi theo thời gian và có sự khác biệt theo không gian và thời gian. -Giới là phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ.Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới và phụ nữ, liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế và xã hội chứ không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một người nam giới và một người phụ nữ nào. Các vai trò giới là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở phụ nữ và nam giới liên quan đến những đặc điểm và năng lực mà xã hội coi là thuộc về đàn ông hay đàn bà ( trẻ em trai hay trẻ em gái ) trong một xã hội hoặc một nền văn hoá nào đó. Đó cũng là các mối quan hệ qiữa phụ nữ và nam giới: ai nên làm gì, ai là người ra quyết định, khả năng tiếp cận các nguồn lực và các lợi ích.Thông thường mọi người thường phải chịu rất nhiều áp lực buộc phải tuân thủ các quan niệm xã hội này. -Phân biệt giữa khái niệm GIỚI(Gender) và GIỚI TÍNH (Sex): Giới tính là khái niệm dùng để chỉ những sự khác biệt về mặt sinh học giữa phụ nữ và nam giới, đặc biệt là khái niệm về chức năng sinh sản.Nếu như giới là sản phẩm của xã hội thì giới tính là sản phẩm của sinh học, giới có thể thay đổi thì giới tính lại bất biến không thay đổi… 3.2 Bất bình đẳng và bất bình đẳng giới: -"Bình đẳng giới được coi là sự bình đẳng về pháp luật, về cơ hội tiếp cận(bao gồm cả nguồn vốn, nguôn lực và thành quả lao động). về tiếng nói , tức khả năng tác động và đóng góp cho quá trình phát triển" -Bình đẳng giới là việc nam nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng. -"Bất bình đẳng giới là khái niệm chỉ sự không ngang bằng nhau về các cơ hội và lợi ích khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội"[3] 3.3 Định kiến về giới "Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ." [14] Theo từ điển thuật ngữ giớí của Chương trình Lương thực Thế Giới : "Định kiến giới được hiểu là những hành động chống lại phụ nữ ( hoặc nam giới ) dựa trên cơ sở nhận thức rằng giới tính này không có quyền bình dẳng với giới kia và không có quyền lợi như nhau." [15] 3.4 Khái niệm lãnh đạo và quản lý: -"Lãnh đạo là những tác động có ý thức của chủ thể quản lý vào đối tượng bị quản lý trên cơ sở phát huy một cách tối đa những năng lực của cấp dưới nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất những mục tiêu của tổ chức.Nếu lãnh đạo hướng hành vi chủ đạo của mình vào kết quả hoạt động tập thể thì quản lý bám sát mục tiêu cụ thể gắn liền với các thao tác"[6,251] - Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có ý thức hướng mục đích của chủ thể vào đối tượng theo một quy trình nhất định nhằm đạt hiệu quả tối ưu so với yêu cầu đặt ra [6,105] -Giữa hai khái niệm lãnh đạo và quản lý có nhiều điểm tương đồng mặc dù đây là hai khái niệm khác nhau.Tuy vậy, với phạm vi nghiên cứu đề tài, hai khái niệm này không có sự tách biệt. 3.5 Địa vị xã hội Địa vị xã hội là vị trí xã hội mà tương ứng với nó là những quyền hạn và nghĩa vụ xác định. Đó là sự lượng giá, sự thẩm định của xã hội về phẩm chất hay uy tín của một người nào đó tương ứng với cương vị của anh ta.[6,30] Chương II - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trên thế giới. Phụ nữ trên thế giới nhìn chung trong vài thập kỷ qua đã đạt được rất nhiều tiến bộ trong việc tham gia chính quyền ở các cấp và ngày càng chiếm giữ những vị trí quan trọng như Tổn thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Đại biểu Quốc hội…Tuy nhiên chưa ở nước nào có phụ nữ bình đẳng hoàn toàn so với nam giới trong lĩnh vực này và các vị trí chủ chốt ra quyết định vẫn chủ yếu do nam giới nắm giữ. Tại Hội nghị thế giới lần thứ 4 họp tại Bắc Kinh (Trung Quốc) tháng 9 năm 1995 vấn đề phụ nữ tham gia hoạtđộng chính trị và lãnh đạo đất nước rất được quan tâm bởi các đại biểu đại diện chính phủ cũng như diễn đàn các tổ chức phi chính phủ. Hiện nay, ở các nước trên thế giới, phụ nữ tham gia quốc hội đạt tỷ lệ cao chưa từng có.Theo Liên minh nghị viện thế giới (IPU), trong năm 2006 tỷ lệ phụ nữ tham gia quốc hội là 17%, tăng 11% so với 12 năm trước. Một kỷ lục khác là phụ nữ cũng được bầu làm chủ tịch tại 35/262 hội nghị hoặc nghị viện trên thế giới, trong đó có những nước lần đầu bầu phụ nữ làm chủ tịch quốc hội như Gambia, Israel, Swaziland, Turkmenistan và Mỹ - nơi bà Nancy Pelosi hiện là Chủ tịch Hạ Viện.Tuy nhiên tỷ lệ phụ nữ tham gia quốc hội tăng chậm.Các nước có tỉ lệ phụ nữ tham gia cao nhất trong quốc hội là Rwanda và Thụy Điển với gần 50%, tiếp đến là các nước Costa Rica, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch. Ở Canada, phụ nữ chiếm 35% trong quốc hội, Đức: 31,6%, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE): 22,5%, CHDCND Triều Tiên: 20,1%, Anh: 18,9%, Mỹ: 16,3% và Pháp: 12,2%. Bảng 1 : Tỷ lệ nữ trong các nghị viện phân theo các châu lục Vùng Tỷ lệ(%) Thế giới 17.7 Các nước Bắc Âu 41 Nam Mỹ 38.6 Châu Âu 19.1 Châu Phi Hạ Sahảa 16.8 Châu Á 16.4 Thái Bình Dương ( gồm cả Úc và Newzeland ) 14.5 Các nước Ả Rập 8.6 (Nguồn: tác giả xử lý số liệu Theo Reuters, Economic Times,chủ nhật,04/03/2007) Phụ nữ ngày càng có vai trò lớn hơn trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt là lĩnh vực chính trị. Do vậy, xu hướng phụ nữ tham gia bộ máy lãnh đạo chính trị ở các quốc gia sẽ ngày càng tăng cao. Khu vực Bắc Âu đứng đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong Quốc hội, chiếm khoảng 41%; đứng thứ hai là khu vực Nam Mỹ; còn lại các Châu lục khác tỷ lệ nữ trong các nghị viện đều dưới 20%. Tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo trên thế giới hiện nay chiếm 17.7%. Mặc dù tỷ lệ này cao hơn so với 10% vào năm 1995, nhưng vẫn còn cách xa mức tối thiểu cần thiết là 30% để gia tăng ảnh hưởng của phái nữ trên chính trường. Thực tế đã chứng minh rằng trong nhiều trường hợp, khi phụ nữ tham gia lãnh đạo, họ đã nêu ra nhiều vấn đề mới trong các chương trình hoạt động.Họ có những cách nhìn mới và phương pháp mềm dẻo, sáng tạo.Dư luận đã thừa nhận sự tham gia đông đảo của phụ nữ trong chính phủ Na Uy đã thúc đẩy việc thực hiện các quyền của phụ nữ,bảo vệ hoà bình, bảo vệ môi trường và viện trợ nhằm mục đích phát triển. Hay tại Thụy Điển , phụ nữ tham gia hoạt động cả trong và ngoài chính phủ đã tích cực góp phần vào việc ngăn chặn sự tham gia của các nước này vào cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân [7]. Phụ nữ đã chứng tỏ được vai trò quan trọng của họ trong việc giải quyết xung đột, chống đói nghèo trên toàn thế giới, nhưng tỷ lệ lãnh đạo nữ vẫn còn rất hạn chế dù đã được cải thiện. Khảo sát của EC tại 262 Thượng viện và Hạ viện ở 189 quốc gia trên toàn thế giới cho biết chỉ có 30 phụ nữ đứng đầu cơ quan lập pháp. Trong khu vực EU, 24% ghế nghị sĩ hiện do phụ nữ chiếm giữ, so với 16% cách đây 1 thập kỷ. (ứ bảy, 08 Tháng ba 2008, 09:15 GMT+7 ) ) Theo khảo sát của EC, mặc dù vấn đề bình đẳng giới ngày càng được quan tâm và cải thiện, nhưng phái yếu cũng chỉ chiếm 24% ghế Bộ trưởng trong các Chính phủ. Phụ nữ đang chiếm đa số trong Chính phủ Phần Lan, Na Uy. Tại Thụy Điển, 46% quan chức Chính phủ là phái nữ và tỷ lệ này ở Tây Ban Nha là 41%. Ngược lại, ở Thổ Nhỹ Kỳ chỉ có một phụ nữ là thành viên Nội các. Tại quốc gia Đông Âu Rumania không có phụ nữ nào là thành viên Chính phủ. Một số quan chức châu Âu vừa đề nghị, phụ nữ nên nắm quyền lãnh đạo ít nhất 1 trong 3 cơ quan của EU là Nghị viện châu Âu, EC và Hội đồng châu Âu. Hiện cả 3 cơ quan này đều do nam giới đứng đầu. Trong số 12 Chủ tịch Nghị viện châu Âu kể từ 1979 đến nay, chỉ có 2 phụ nữ. Theo như nhận định của Tổ chức Châu Á (AF),trụ sở tại Mỹ, đưa ra trong báo cáo nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 năm nay: Phụ nữ đang đảm nhận những vai trò lãnh đạo lớn hơn trong chính trị và kinh doanh ở Châu Á nhưng sự hiện diện của họ trong các cơ quan bầu cử ở cấp quốc gia vẫn còn ít.Theo thống kê của AF, phụ nữ hiện chiếm trung bình khoảng 16.4% số ghế trong Quốc hội.Tuy nhiên , họ vẫn hiếm khi được giữ những trọng trách ở những bộ quan trọng như Tài chính, Nội vụ,Quốc phòng mà thường được giao ở các bộ bên lĩnh vực xã hội Y tế, Môi trường hoặc những cơ quan có ít kinh phí và ít trọng lượng chính trị. Bảng 2: Phụ nữ trong Quốc hội ở các nước Châu Á – TBD (%) Tên nước Tỷ lệ nữ trong Quốc hội Tên nước Tỷ lệ nữ trong Quốc hội Niu di-lân Việt Nam CHDC Đông Timo Úc CHDCND Lào CHDCND Trung Hoa CHDCND Triều Tiên 29.2 27.3 26.2 25.3 25.0 21.8 20.1 Philippin Singapo Malayxia Thái Lan Campuchia Inđônêxia Hàn Quốc 17.8 11.8 10.4 9.2 9.0 8.0 5.9 (Nguồn: Tổ chức Liên minh Quốc hội,2002) Việt Nam là nước có tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội cao nhất ở Châu Ấ và đứng thứ hai trong khu vực châu Á – TBD, sau Niu di-lân (29.2%).Chỉ có 10 quốc gia trên thế giới có số nữ nghị sĩ Quốc hội cao hơn tỷ lệ trên (Cu Ba, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Iceland, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Nam Phi và Thuỵ Điển ). Những con số trên phần nào thể hiện được tình hình lãnh đạo của phụ nữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng . Những con số ấy cho thấy xu hướng gia tăng nhưng phụ nữ vẫn chưa có đại diện đầy đủ trong chính quyền, đảng phái chính trị và ở cả Liên hiệp Quốc. 2. Thực trạng tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam. 2.1 Phụ nữ Việt Nam tham gia lãnh đạo, quản lý trong lịch sử Đánh giá vai trò của phụ nữ đối với lịch sử phát triển của đất nước, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: "non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta,trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ "[8, 432] Hình ảnh người phụ nữ Việt nam đã được in đậm trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc của đất nước trong hàng chục thế kỷ. Hình ảnh Hai Bà Trưng với hàng trăm nữ tướng và đội quân nữ tham gia khởi nghĩa (năm 40 SCN) đã tạo nên truyền thống anh hùng bất khất của dân tộc ta.Trưng Vương đi vào lịch sử như một nữ anh hùng của dân tộc, là người phụ nữ đầu tiên tham gia lãnh đạo đất nước,… Bên cạnh những nữ tướng, trong thời kỳ này còn có những phụ nữ chấp chính tài ba như Nguyên phi Ỷ Lan, Thái hậu Dương Vân Nga… Tiếp bước các nữ anh hùng dân tộc là thế hệ phụ nữ - chiến sĩ cách mạng sau này. Nhiều chiến công lãnh đạo cách mạng đã ngoan cường, trung thành với dân với Đảng. Nguyễn Thị Minh Khai, lãnh tụ đầu tiên của phong trào phụ nữ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập; Bí thư thành uỷ đầu tiên của Sài Gòn – Gia ĐỊnh, linh hồn của cuộc khởi nghĩa nam Kỳ: Hoàng Thị Ngân – Bí thư đoàn phụ nữ cứu quốc Bắc Bộ…. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước lại ghi nhận những đóng góp của những phụ nữ như: Nguyễn Thị Thập, nữ đại biểu Quốc hội từ khoá I đến VI với 18 năm là Chủ tịch hội .Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1956 – 1980), 24năm giữ cượng vị Phó chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1956 -1980); bà Nguyễn Thị Định, phó tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng niềm Nam và đến năm 1980 là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thống nhất, đồng thời là Phó chủ tịch Liên đoàn phụ nữ quốc tế…[10] Có thể nói rằng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc cũng như hiện nay, phụ nữ Việt Nam luôn có những đại diện xứng đáng cho giới của mình trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển đất nước.Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, phụ nữ Việt Nam đã có những cống hiến, hy sinh to lớn, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc; trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, chị em tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. 2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ trong công tác lãnh đạo và quản lý được thể hiện trong các văn bản về chủ trương đường lối của Đảng liên quan đến vấn đề về phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản di chúc đã ghi rõ: "Đảng và Chính phủ ta cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để người phụ nũ phụ trách ngày thêm nhiều mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân người phụ nữ thì phải cố gắng. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng cho phụ nữ" [ 10, 12] Chỉ thị số 44 CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban chấp hành TW Đảng chủ trương "tiếp tục thực hiện nam - nữ bình đẳng, nâng cao vai trò cán bộ nữ trong quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước". Để đảm bảo chủ trương này được thực hiện một cách nhất quán và xuyên suốt, Chỉ thị đã nêu rõ: " Vấn đề cán bộ nữ phải đặt trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước". Nghĩa là chủ trương đưa vấn đề tiến bộ của phụ nữ trong công tác lãnh đạo và quản lý vào trong dòng chính, trong guồng máy thường xuyên của Nhà nước bảo đảm tính bền vững và lâu dài.Theo tinh thần đó, chỉ thị tiếp tục nhấn mạnh: " Điều cần hết sức chú ý là sau khi đề bạt phải tiếp tục bồi dưỡng tạo điều kiện để chị em hoàn thành nhiệm vụ " [11,13] Nhất quán với đường lối đã định, mười năm sau, ngày 16/5/1994, Chỉ thị 37 CT?TW lại tiếp tục nêu: "Việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thực sự thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ ".. Một năm sau tại Hội nghị thế giới về phụ nữ tổ chức tại Bắc kinh (Trung Quốc) tháng 9/1995, chính phủ Việt Nam đã cùng các nước nhất trí thông qua cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000 nhằm thúc đẩy sự tiến bộ và tăng cường quyền lực cho phụ nữ trên thế giới.Thực hiện cương lĩnh nêu trên, ngày 4/10/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến naă 2000. Bản kế hoạch đề ra 11 mục tiêu, trong đó có mục tiêu số 4 là "Nâng cao Vai trò, vị trí của nguời phụ nữ trong việc tham gia bộ máy lãnh đạo và ra quyết định". Nhằm đạt được mục tiêu này, bản kế hoạch đã đề ra các chỉ tiêu phấn đấu chủ yếu: Cán bộ nữ trong các cơ quan dân cử các cấp phải đạt từ 20-30%; cán bộ nữ trong các cấp chính quyền, tư vấn đạt từ 15-20%; đối với các bộ , ngành đông nữ cần có phụ nữ tham gia lãnh đạo chủ chốt; đối với cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước có từ 30% trở lên cần có cấp trưởng hoặc cấp phó là nữ… Đảng, Nhà nước đã có những chính sách đối với lao động nữ nhằm tạo điều kiện để họ tham gia quản lý Nhà nước như: chế độ thai sản, chế độ làm việc, được bảo đảm về mặt pháp lý trong luật Dân sự, luật hôn nhân – gia đình, luật lao dộng…được quan tâm và phát huy trong các chế độ chính sách của Nhà nước. 2.3 Thực trạng tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay Ý thức được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, phụ nữ Việt Nam đã không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực trong các lĩnh vực công tác, đảm nhiệm những trọng trách quan trọng. Hầu hết các cán bộ nữ đều khẳng định được vị trí, năng lực của mình và hiệu quả hoạt động ngày càng tăng. Tỷ lệ nữ lãnh đạo các cấp, các ngành đã được tăng lên trong những năm gần đây, rõ nhất là trong hệ thống dân cử. 2.3.1 Trong cơ quan Lập pháp: Bảng 3: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội qua các kỳ Khoá Số lượng nữ Tổng số đại biểu Tỷ lệ/tổng số(%) XII (2007- 2012) 127 493 25.76 XI (2002 – 2007) 136 498 27.31 X (1997 – 2002) 118 450 26.22 IX (1992 – 1997) 73 395 18.48 VIII (1987 – 1992) 88 496 17.74 VII (1981 – 1987) 108 496 21.77 VI (1976 -1981) 132 492 26.83 V (1975 -1976) 137 424 32.31 IV (1971 – 1975) 125 420 29.76 III (1964 -1971) 62 366 16.94 II (1960 -1964 ) 49 362 13.54 I (1946 -1961) 11 403 2.7 ( Nguồn : Tác giả xử lý trên cơ sở số liệu của Văn phòng Quốc hội) [11,151] Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, quyết định các vấn đè trọng yếu của đất nước. Sự gia tăng nữ Đại Biểu Quốc hội có ý nghĩa chính trị và xã hội hết sức to lớn. đặt những con số này với một số nước trong khu vực ( Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc…) có thể thấy được sự vượt bậc của phụ nữ nước ta. Ghi chú: Từ 1 đến 12 là từ khoá I đến khoá XII Biểu 1: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội qua các kỳ Quan sát biểu 1 ta có thể thấy được sự biến đổi về tỷ lệ nữ Đại Biểu Quốc hội diến ra theo 3 giai đoạn.Giai đoạn đầu từ khoá I đến khoá V số lượng nữ đại biểu tăng một cách nhanh chóng và dần đều qua các khoá, cao nhất là 32.3 % vào khoá V (1975-1976), con số cao nhất từ trước tới nay. Giai đoạn 2, ngay trong khoá sau – khoá VI (1976-1981), là thời điểm chiến tranh vừa kết thúc thì nam giới lại khẳng định được vị trí ban đầu của mình còn tỷ lệ nữ đại biểu thì tiếp tục giảm một cách bất ngờ xuồng còn 17.8%. Giai đoạn 3, từ khoá VIII (1986-1992) tới khoá XI(2002-2007): Nhờ có chỉ thị số 37 năm 1994 của Ban chấp hành TW Đảng ( tất cả các cấp quản lý Nhà nước và Đảng phải có từ 20% đến 30% vị trí được bầu do phụ nữ đảm nhiệm ) mà tỷ lệ nữ cán bộ đã tăng lên từ 17.8% (khoá VIII ) lên 27.3 (khoá XI). Tuy trong 3 khoá gần đay số nữ đại biểu trong Quốc hội tăng chậm nhưng với con số 27.3%( khoá XI ) đã dẫn đầu Châu á, điều này cho thấy phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước, cho bộ mặt chính trị của quốc gia.Nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII (2007-2012) tuy tỷ lệ nữ cán bộ trong Quốc hội có giảm khoảng 1.5 %, nhưng điều đó chưa nói lên được điều gì. Bảng 3a. Cơ cấu giới tính và chức vị lãnh dạo của đại biểu Quốc hội. Giới tính Chức vụ Khoá VIII Khoá IX Khoá X Khoá XII Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Đại Biểu Quốc hội 82.2 17.8 81.5 18.5 73.8 26.2 74.24 25.76 Phó Chủ tịch 80 20 100.0 0.0 75.0 25.0 80 20 Chủ nhiệm ban 57.7 42.9 77.8 22.2 66.7 33.3 77.8 22.2 Tại buổi tọa đàm về công tác tuyên truyền bình đẳng giới trong kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII, giữa Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ (UBQGVSTBPN) và báo giới, (6/4/2007) tại Hà Nội, bà Trần Thị Mai Hương, Phó Chủ tịch UBQGVSTBPN, đã cho biết: "mặc dù Việt Nam đứng đầu châu Á về sự tham gia của phụ nữ cho biết trong Quốc hội là 27,3% khoá XI, nhưng tỷ lệ này vẫn chưa tương xứng với năng lực đóng góp của phụ nữ." Bảng 3b. Cơ cấu giới tính các chức vụ lãnh đạo trong QH khoá X, XI Giới tính Chức vụ Khoá X(1997-2002) Khoá XI(2002-2007) Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ UBTV Quốc hội: -Chủ tịch -Phó chủ tịch 10 1 4 0 71.4 100. 28.6 0.00 11 1 2 0 84.6 100 15.4 0.00 Các Uỷ Ban khác: -Chủ tịch -Phó chủ tịch 191 6 21 57 2 4 77.0 75.0 84.0 23.0 25.0 16.0 224 6 24 71 2 8 75.9 75.0 75.0 24.1 25.0 25.0 Đoàn thư ký: -Trưởng đoàn -Các thư ký 7 1 6 1 0 1 87.5 100 85.7 12.5 0.00 14.3 8 1 7 3 0 3 72.7 100 70.0 27.3 0.00 30.0 (Nguồn : Văn phòng Quốc hội,2003) [12, 41] ( (*) : Tác giả xử lý số liệu dực trên số liệu của Văn phòng QH ) Một thực tế không thể phủ nhận là tỷ lệ nữ đại biểu trong Quốc hội không chỉ ngày càng có xu hướng gia tăng về số lượng mà còn cả về trình đọ và chất lượng khi họ tham gia công tác quản lý, lãnh đạo. Bảng 4. Số lượng và tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội có trình độ từ đại học trở lên Khoá Tổng số nữ ĐBQH Trình độ từ ĐH trở lên Số lượng Tỷ lệ % VI (1976-1981) 132 14 10.6 VII (1981-1987) 108 12 11.1 VIII (1987 – 1992) 88 43 48.9 IX ( 1992-1997) 73 43 58.9 X (1997 – 2002) 118 104 88.1 XI (2002-2007) 136 125 91.9 XII (2007-2012)(*) 127 116 91.4 ( Nguồn :Văn phòng Quốc hội, 2003) [ 12.42] ( (*):Tác giả xử lý trên cơ sở số liệu của Văn phòng Quốc hội,2007) [15] So với các giai đoạn trước, phụ nữ tham gia Quốc hội không chỉ tăng lên về số lượng mà còn tăng lên cả về chất lượng. Cụ thể, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội có học vấn từ ĐH trở lên tăng từ 10.6% ( khoá VI) leê tới 58.9%( khoá IX) , 87.28% ( khoá X), 90.4% ( khoá XII ). Với trình độ học vấn cao của mình, các nữ đại biểu Quốc hội đã tự tin và tích cực tham gia vào các hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội.Tỷ lệ nữ đại biểu tham gia vào các Uỷ ban ngày càng có xu hướng tăng lên. Song, "hầu hết nữ đại biểu chỉ làm việc tại Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban về vấn đề xã hội, Uỷ ban văn hoá giáo dục –thanh thiếu niên, nhi đồng ( trung bình nữ chiếm 40.1% đến 43.6% ).Trong khi đó ở các Uỷ ban kinh tế- ngân sách , Uỷ ban đối ngoại, Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban khoa học công nghệ và Môi trường, nữ chỉ chiếm từ 11.8 đến 11.9%, thậm chí không có nữ trong Uỷ ban quốc phòng- an ninh, tức là cac lĩnh vực có vai trò quyết định quan trọng thì đại diện của phụ nữ càng hiếm hoi."[ 11, 150]. Mặc dù phụ nữ Việt Nam tham gia chính trường chiếm vào tỷ lệ cao so với khu vực và trên với thế giới. Bảng 5: Cơ cấu giới tính nữ đại biểu Quôc hội theo vùng Vùng Khoá IX Khoá X Khoá XI Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Toàn quốc Đồng Bằng Sông Hồng Đông Bắc Tây Bắc Bắc Trung Bộ Duyên Hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng Bằng Sông CL 73 19 9 4 9 6 4 9 13 18.5 17.6 22.5 28.7 17.0 19.6 22.2 17.0 16.7 18 25 15 6 12 10 6 16 28 26.2 25.0 24.2 37.5 21.8 26.3 26.1 23.9 31.5 136 25 22 6 12 12 8 19 32 27.3 24.0 30.6 31.6 20.3 28.0 25.8 25.7 33.3 (Nguồn: Báo cáo hành chính của Văn phòng Quốc hội,2003) [12,44] Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rõ một điều rằng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tại một số vùng như Tây Bắc và Đồng Bắng Sông Cửu Long luôn vượt trội hẳn so với tỷ lệ nữ đại biểu toàn quốc.Nếu như khoá IX tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội toàn quốc là 18.5% thì ở Tây Bắc là 28.7%, vào khoá X, tỷ lệ nữ ĐBQH là 26.2% thì ở Tây Bắc chiếm tới 37.5%, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long chiếm 31.5%.Sang khoá tiếp theo XI vẫn tiếp diễn. Điều đặc biệt ở đây là Đồng Bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ là 2 khu vực có 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh ( là 2 trung tâm kinh tế-văn hoá-chính trị của gương mặt đất nước ) thì tỷ lệ nữ ĐBQH ở các khu vực này đều thấp hơn hẳn so với tỷ lệ chung của cả nưởctong 3 khoá gần đây. Ngược lai, một số vùng có điều kiện kinh tế- xã hội hạn chế , khó khăn thì tỷ lệ nữ ĐBQH lại có xu hướng gia tăng qua các khoá. Tại Hội đồng nhân dân các cấp- cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương, vị thế của phụ nữ cũng được dần được nâng cao hơn.Tỷ lệ nữ Đại biểu hội dồng nhân dân các cấp đã tăng những chưa đạt được chỉ tiêu dề ra trong Chỉ thị 37 ( 20-30 % thành viên nữ ở tất cả các lĩnh vực lãnh đạo quản lý ).Nhờ có sự quan tâm luôn kịp thời của Đảng và Chính phủ nên số lượng đã tăng lên. Bảng 6: Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ . Nhiệm kỳ Cấp 1985-1989 1989- 1994 1994-1999 1999-2004 2004-2009 Tỉnh /Thành Phố Quận / Huyện Xã / Phường 28.6 19.4 19.7 12.2 12.3 13.2 20.4 18.0 14.4 22.5 20.7 16.3 23.9 23.0 19.5 ( Nguồn: Ban tổ chức Chính phủ , 1993-2000) [12,47] Bảng 6 cho ta thấy càng xuống cấp cơ sở thì tỷ lệ nữ đại biểu HĐND càng thấp. Nhiệm kỳ (1989-1994) giảm xuống tương ứng ở các cấp so với nhiệm kỳ trước.Nhưng đến các nhiệm kỳ sau lại tăng lên , cụ thể ở nhiệm kỳ gần đây (2004-2009) đã tăng lên ttương ứng ở các cấp là: 23.95, 23.0%, 19.5%. Tỷ lệ nữ trong các cơ quan dân cử (HĐND các cấp) ngày càng tăng, nhiệm kỳ 2004-2009 cao hơn so với nhiệm kỳ trước.Toàn quốc có 3 Chủ tịch, 32 Phó Chủ tịch UBND là nữ, tăng gấp rưỡi so với nhiệm kỳ 1999-2004. 2.3.2 Trong cơ quan hành pháp Trong cơ quan hành pháp vị thế của phụ nữ cũng được nâng cao, song vẫn không đáng kể. Ở cấp TW đã có 1 nữ phó chủ tịch nước mà trước đây không có. Số lượng nữ thứ trưởng, bộ trưởng cũng tăng lên. Tuy nhiên, lại cứ xuống cấp cơ sở thì tỷ lệ lại càng thấp. Điều này chưa tương xứng với sự phát triển của đội gnũ cán bộ nữ hiện nay. Bảng 7. Cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước %() Chức danh Nhiệm kỳ (1889-994) Nhiệm kỳ (1994- 1999) Nhiệm kỳ (1999-2004) Phó Chủ tịch nước 16.67 100.0 100.0 Bộ trưởng & tương đương 9.50 11.90 11.29 Thứ trưởng & tương đương 7.00 7.30 12.85 Vụ trưởng & tương đương 13.30 13.0 12.10 Vụ phó & tương đương 8.90 12.10 8.10 ( Nguồn : Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, 2003) [12,50] Bảng 9: Tỷ lệ nữ trong các cấp lãnh đạo ở chính quyền địa phương địa phương (%) Cấp Nhiệm kỳ(1994-1999) Nhiệm kỳ (1999-2004) Cấp Tỉnh /thành Chủ tịch Phó chủ tịch Giám đốc sở & tương đương Phó giám đốc sở & tương đương 1.89 11.60 4.40 8.50 1.64 12.50 7.38 9.90 Cấp huyện/ Quận Chủ tịch Phó chủ tịch Trưởng phòng & tương đương Phó trưởng phòng & tương đương 1.80 8.50 19.50 20.62 5.27 8.43 11.70 16.00 Cấp xã / phường Chủ tịch Phó chủ tịch 2.17 3.11 3.02 2.40 (Nguồn: Ban tổ chức chính phủ , 2003 ) [12] Tỷ lệ nữ lao động trong cấp chính quyền địa phương từ tỉnh trở xuống có xu hướng tăng trong những năm gần đây nhưng không đáng kể, còn các cấp huyện, xã không tăng mà còn giảm xuống.Cũng giống như trong hệ thống HĐND, càng xuống cấp cơ sở thì tỷ lệ nữ cán bộ càng thấp. Tỷ lệ nữ cán bộ quản lý Nhà nước ở cấp TW có tăng nhưng không đáng kể, chủ yếu ở lĩnh vực văn hoá - xã hội. Ở các ngành như kinh tế, công nghiệp, khoa học và công nghệ…ít có nữ giới giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt như bộ trưởng, thứ trưởng. 2.3.3 Trong cơ quan tư pháp. Tỷ lệ nữ tham gia công tác trong các cơ quan pháp luật cũng tăng lên, góp phần vào việc bảo vệ trật tự, kỷ cương, giữ nghiêm phép nước và cũng nhằm góp phần bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Bảng10: Tỷ lệ nữ làm công tác pháp luật Chức danh Năm 1989 Năm 1992 Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % Thẩm phán 2379 18 1514 32 Uỷ viên công tố 4630 31 5086 32.26 Luật sư 550 7.24 2168 34 Nhân viên pháp luật 1800 33.33 2168 34 ( Nguồn :Uỷ ban Pháp luật Quốc hội , 1993) [ 12.53] Bảng 11: tỷ lệ nữ trong cơ quan tư pháp (cấp TW) Toà án nhân dân tối cao Viện kiểm soát nhân dân Chức danh Phó tránh án Thẩm phán Chuyên viên, thẩm phán viên Tỷ lệ % 15.38 16.66 40.53 Chức danh Phó viện trưởng Vụ trưởng, vụ phó Trưởng phòng Kiểm soát viên cao cấp Tỷ lệ % 20 4.5 13.63 9.34 (Nguồn : Vụ Tổ chức cán bộ, T5/2000) [12,54] Nhìn vào bảng số liệu ta thấy một điều rất khác lạ đó là ở cấp huyện quận có sự tăng đột biến 2.3.4 Trong các cấp Uỷ Đảng Tỷ lệ nữ tham gia cấp Đảng ít khi nắm giữ những vị trí quyết định.Tỷ lệ trung bình nữ Bí thư chỉ vào khoảng 3- % đến 8% ở mọi cấp. Mặt khác, đa số những thành viên nữ trong cấp Uỷ Đảng thường đảm nhận những công việc hành chính, công tác kiểm tra, dân vận hơn là những nhiệm vụ mang tính chiến lược. Bảng 12:Cán bộ nữ lãnh đạo các ban Đảng tỉnh/thành. Ban ngành Chức danh Tỷ lệ % Ban dân vận Trưởng ban Phó trưởng ban 18.3 14.61 Uỷ ban kiểm tra Chủ nhiệm Phó chủ nhiệm 22.95 26.22 Ban tổ chức Trưởng ban Phó trưởng ban 8.3 20.76 Ban tuyên giáo Trưởng ban Phó trưởng ban 6.55 11.02 ( Nguồn : Ban tư tưởng Văn hoá TW,2003) [12.55] 2.3.5 Trong các đoàn thể chính trị xã hội Bảng 13: Cán bộ nữ tham gia trong mặt trận và các đoàn thể chính trị ở cấp TW Chức danh 1994 2003 Chủ tịch Phó chủ tịch Uỷ viên đoàn chủ tịch & tương đương Uỷ viên ban chấp hành Trưởng ban Phó ban 20.0 23.8 27.7 27.7 20.0 39.0 33.3 25.6 29.6 29.9 25.0 39.0 (Nguồn: Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,2003) [12] Sự tham gia tích cực của phụ nữ trong các tổ chức chính trị - xã hội đã góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển đất nước. Tỷ lệ nữ đại biểu tham gia các đoàn thể hiện nay chưa cao nhưng đã có chuyển biến tích cực. Ở TW Đoàn TNCS HCM đã đạt 18.5%, ở Hội Nông dân Việt Nam đạt 17.2%, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đạt 175, Hội Chữ Thập Đỏ là 26.6% 3. Nguyên nhân phụ nữ Việt Nam còn ít tham gia hoạt động chính trị - xã hội Phụ nữ Việt nam đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước.Tuy nhiên, vai trò và vị trí của họ vẫn chưa xứng đáng với năng lực và sự đóng góp ấy, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách nhằm xoá bỏ khoảng cách giữa nam giới và nữ giới trong nhiều lĩnh vực. Những phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo quản lý đã không ngừng phấn đấu nỗ lực để vươn lên trên con đường sự nghiệp nhưng khoảng cách giới vẫn còn khá xa, bởi họ gặp không ít những khó khăn hơn so với nam giới. Một trong những khó khăn mà họ mắc phải khi tham gia công tác lãnh đạo quản lý là định kiến giới bao trùm (về năng lực, định kiến giới trong gia đình, những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, những nét văn hoá truyền thống những tập quán phong kiến nặng nề),..kéo theo hàng loạt nhưng khó khăn là "sự thiếu đủ loại: thiếu thời gian, thiếu đào tạo và thiếu thông tin, thiếu tự tin, thiếu tiền bạc, thiếu sự ủng hộ, thiếu động cơ tinh thần, thiếu mạng lưới phụ nữ và tinh thần đoàn kết giữa phụ nữ"(Theo Liên Minh Quốc hội).[13,144] 3.1 Định kiến giới về năng lực. Qua nhiều khảo sát thực tế cho thấy, hiện nay vẫn tồn tại nhiều mô hình tập thể lãnh đạo độc quyền là nam giới. Đó là những mô hình bất bình đẳng trong hệ thống chính trị. Hiện nay ở nhiều Bô, nhiều nghành TW, tập tể chủ chốt vẫn là nam.Những định kiến về giới cho rằng, phụ nữ yếu đuối, tự ti, thụ động, thứ yếu, phụ thuộc và là người không có tính ra quyết định; ngược lại định kiến vè nam giới cho rằng, nam giới luôn mạnh mẽ, độc đoán, là người ra quyết định…Thật ra đó là do xã hội đã gán cho nam hoặc nữ những đặc điểm trên và làm cho họ thiệt thòi về khía cạnh nào đó. Thế nên định kiến giới về năng lực của hai giới đã ăn sâu vào tiềm thức của cả hai giới rằng : Phụ nữ không đủ mạnh mẽ để làm lãnh đạo, nam giới không có khả năng chăm sóc gia đình, con cái… Từ định kiến trên khiế cho cả hai giới đều mắc phải những hạn chế, bất lợi khác nhau mà chủ yếu vẫn thiên về nữ giới nhiều hơn. Vì thế, khi đề bạt hay bổ nhiệm một chức vụ lãnh đạo nào đó phụ nữ thường ít có cơ hội hơn nam giới, bởi định kiến giới cho rằng nam giới có năng lực quyết định tốt hơn. Bảng 11: Đánh giá về tiềm năng lãnh đạo (%) [2,76] Phẩm chất Cần thiết nhất đối với người lãnh đạo Đúng với nam lãnh đạo Đúng với nữ lãnh đạo Mạnh mẽ, cứng rắn Kiên định Thận trọng Tự tin Quyết đoán Chủ động Sáng tạo Yếu đuối Tuân thủ Tình cảm Tế nhị, ý tứ Tự ti TÍnh kiềm chế Khiếm tốn 94.8 78.4 73.9 73.0 62.2 60.3 44.1 0.9 2.1 8.9 4.7 13.6 11.5 5.9 94.1 88.5 85.7 77.9 78.6 92.0 77.0 2.3 3.3 0 12.7 10.3 9.2 13.8 10.6 3.5 15.7 18.3 14.1 4.5 13.6 95.3 83.8 65.7 65.3 64.1 52.8 52.6 Qua bảng trên ta có thể thấy được sự phân biệt khá lớn giữa hai giới. Có 7 phẩm chất được xác định là cần thiết đối với nhà lãnh đạo: mạnh mẽ, kiên định, thận trọng, tự tin, quyết đoán, chủ động, sáng tạo. Những phẩm chất được ít cho là cần thiết đối với nhà lãnh đạo nlà: yếu đuối, tự ti, tuân thủ, tế nhị- ý tứ, khiếm tốn, tình cảm, tính kiềm chế.Điêù đáng nói ở đây là những phẩm chất được số đông cho là đúng với nam lãnh đạo lại trùng với 7 phẩm chất được cho là cần thiết đối với nhà lãnh đạo; ngược lại, những phẩm chất dược cho là đúng với nữ lãnh đạo lại thuộc vào nhóm những phẩm chất được ít người cho là cần thiết đối với nhà lãnh đạo. Điều này có nghĩa là trong tâm niệm của phần lớn mọi người, nữ giới được đánh giá là không phù hợp với vai trò lãnh đạo bằng nam giới do họ không có những đặc điểm, phẩm chất phù hợp để làm lãnh đạo.Chính những định kiến này là trở lực lớn khiến phụ nữ phải vwotj qua nếu uốn tiếp cận tới các vị trí lãnh đạo, quản lý. 3.2 Gánh nặng gia đình. Mâu thuẫn hạnh phúc gia đình và công danh sự nghiệp luôn là vấn đề nan giải đối với nữ cán bộ. Theo báo cáo kết quả khảo sát định tính Bộ, ngành TW, 2004 : Cán bộ nữ tham gia toạ đàm ghi nhận 3 mô hình xử lý nan đề: hạnh phúc gia đình hoặc là thăng tiến công danh chính trị. Có hai mô hình cực đoan: 1.Vì hạnh phúc gia đình từ bỏ con đường sự nghiệp công danh chính trị; 2.thăng tiến công danh chính trị nhưng không có hạnh phúc gia đình( không lấy được chồng, ly thân hoặc ly hôn…) Mô hình 1 phổ biến trong nữ giới hiện nay, còn mô hình thứ 2 không phổ biến, có thì chủ yếu ở tầng 3, 4 cấp của hệ thống chính trị.Có một mô hình thứ 3 là hợp lý hợp tình đó là vẹn cả đôi đường, nhưng giá mà nữ cán bộ phải trả khá đắt là phải cố gắng "vẹn cả đôi đường", tăng gấp bội lần so với nam cán bộ đồng nghiệp, đồng môn, đồng cấp bậc. Một nữ cán bộ trong cuộc khảo sát định tính của Bộ, ngànhTW, 2004: " Một khi làm tốt công tác ở cơ quan tốt thì rõ ràng ảnh hưởng đến gia đình, mà gia đình mất cân bằng rõ ràng ảnh hưởng đến công tác của chúng ta, hai cái này luôn đi đôi với nhau, không bao giờ có thể tách rời được nhau cả…phụ nữ muốn làm tốt hơn nam giới thì phải nỗ lực gấp 2, gấp 3 lần " [1,6] . Tuy nhiên cũng có không ít cán bộ nữ ngày nay thành đạt trong hệ thống chính trị nhờ sự hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ từ phái chồng và gia đình chồng trong sự nghiệp cũng như trong việc chăm lo gia đình. Đây là mô hình gia đình công bằng giới phù hợp với mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội, cần được nhân rộng toàn xã hội. Định kiến giới ảnh hưởng không nhỏ làm hạn chế tỷ lệ nữ cán bộ lãnh đạo quản lý. Những tàn dư phong kiến về phân biệt, đối xử phụ nữ ( nhất là ở vùng sâu, vùng xa) còn có những hiện tượng công khai, ngang nhiên. 3.2 Chính sách xã hội . Một điều đáng quan tâm hiện nay là những cản chở về cơ chế, chính sách đối với sự thăng tiến cảu phụ nữ. Một số chính sách đối với cán bộ nữ hiện nay đã không còn phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước về bình đẳng giới và yêu cầu thực tiễn đặt ra, vẫn chậm được nghiên cứu sửa đổi làm ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển và hạn chế đóng góp của đội ngũ cán bộ nữ nước ta. Ví dụ : trong phong trào phụ nữ " Giỏi việc nứơc, đảm việc nhà", vẫn còn dư âm của định kiến giới, coi việc nhà là việc của đàn bà, con gái; còn ở cơ quan là việc của đàn ông, con trai.Đây là áp lực xã hội mang tính hệ thống khiến cho thành tích tham gia chính trị của phụ nữ bị hạn ché, tăng trưởng chậm và không liên tục.[1] Hay tại "Điều 145 bộ luật lao động quy định tuổi nghỉ hưu của nam là 60, nữ là 55; Thông báo 155/TB_Tc/TW ngày 15/7/1998 quy định tuổi bổ nhiệm, đề bạt đối với cán bộ nam là 55 tuổi trở xuống, đối với cán bộ nữ là từ 50 tuổi trở xuống …" vì thế cán bộ nữ đã thấp lại bị hạn chế bởi tuổi nghỉ hưu và tuổi đề bạt nên càng thiệt thòi hơn.[13,151] 3.4 Văn hoá truyền thống, tập tục phong kiến Ở Việt Nam những tập tục phong kiến , những nét văn hoá truyền thống được coi là cổ hủ, lạc hâu cũng đã cản bước không ít tới việc phụ nữ tham gia chính trị.Nam giới có thể đi đêm về hôm, làm những điều họ thích…Những chuẩn mực bao đời nay gán vào nam giới là chuyện bình thường, còn với phụ nữ thì có mấy ai chấp nhận những hành vi này? Chúng ta đang bước vào trình độ văn minh của xã hội XHCN nhưng những tâm tính, sở thích, cách suy nghĩ vẫn mang nặng tư tưởng " trọng nam khinh nữ ". Điều đó cũng được thể hiện ngay trong cả khi tiến hành bầu cử HĐND, thái độ của người dân vẫn thiên về phía nam giới nhiều hơn.[1] III.KẾT LUẬN 1. Kết luận Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý trong những năm gần đây có sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng dựa trên cơ chế mới. Họ là những lực lượng dồi dào, tiềm năng mà phong trào phụ nữ đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện - đại hoá đất nước. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể có tăng nhưng không đáng kể trong vài năm qua. Sự gia tăng ấy vẫn chậm và không bền vững, chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đặc biệt càng xuống cấp cơ sở, số lượng nữ cán bộ càng ít. Tỷ lệ nữ trong các cơ quan ban ngành còn thấp, chưa tương xứng với năng lực của họ.Phần lớn nữ cán bộ đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo thấp, chỉ ở cấp phó hoặc làm những công việc có tính chất xã hội. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho cán bộ nữ trong công tác lãnh đạo quản lý, song họ vẫn gặp không ít những rào cản gây ảnh hưỏng tiêu cực tới hiệu quả công việc bởi họ cùng một lúc phải đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau. 2.Khuyến nghị Để giúp phụ nữ bình đẳng hơn trong công tác quản lý lãnh đạo, giúp họ khẳng định đựơc vai trò và vị thế của mình trong xã hội hiện đại, tác giả xin đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những bất cập đối với phụ nữ khi tiếp cận hay tham gia vào công tác quản lý lãnh đạo. 1.Nâng cao nhận thức vai trò của các cấp uỷ đảng, của thủ trưởng đơn vị về thực hiện bình đẳng giới, nâng cao năng lực của phụ nữ. 2.Xây dựng chiến lược cán bộ nữ trong tổng thể chiến lược công tác của cán bộ của Đảng; chú trọng công tác phát hiện, đào tạo nguồn, bồi dưỡng và bổ nhiệm, sử dụng và luân chuyển cán bộ nữ, đưa họ vào chương trình quy hoạch chung của các cấp, ngành địa phương thì mới có cán bộ nữ. 3.Tăng cường cải cách thể chế, luật pháp trên nền tảng của phát triển kinh tế - xã hội. 4.Nghiên cứu xây dựng khả thi mô hình bộ phận chuyên trách cán bộ nữ. Từng ngành nghề, chức vụ, cấp bậc nhất định mà đảm bảo cơ cấu giới hợp tình hợp lý. 5. Triển khai lồng ghép giới vào các bộ luật, pháp lệnh, công tác tổ chức, cán bộ trong hệ thống chính trị. 6. Đồng bộ triển khai thực hiện tốt luật bình đẳng giới trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội. MỤC LỤC 1. Võ Thị Mai, "Về năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị" 2. Nghiên cứu Gia đình & Giới , Q18-số 2-2008,tr 75 3. Hoàng Bá Thịnh, Bài giảng xã hội học về giới 4. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc," xã hội học Giới & Phát triển",Nxb ĐAIh học Quốc Gia Hn 2000. 5. Luật bình đẳng giới của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 số 73/2006/QH XI ngày 29 tháng 11 năm 2006. 6. Vũ Hào Quang,xã hội học quản lý ,nxb ĐHQGHN,2000 7. Dương Thị Duyên" Phụ nữ và chính quyền", tạp chí khoa học về phụ nữ, số 2/1996 (tr13,14) 8. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb ĐHQGHN,200,T6 9. Hoàng Bã Thịnh, " Giáo trình xhh về giới",HN,T6/2007. 10. Nguyễn Phương Thảo,"phụ nữ và hoạt động chính trị", Tạp chí KH về phụ nữ,số3/1999,tr13-14 11. Phan Thị Thanh, "Tiến bộ về bình đẳng giới trong công việc ở VN", NXb Lao động-XH,HN,2001 12. Nguyễn Thị Xuân,"Phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý: thực trạng và một số khó khăn", khoá luận tốt nghiệp/2006 13. 14. Luật bình đẳng giới của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 số 73/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006. 15. "Tạp chí Gia đình và Giới",Q18,số 2, 2008 Viện Gia đình và Giới, Viện KHXHVN I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài do………………………………………………… 1 2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn………………………………………… 2 3. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………. 2 4. Đối tượng, khách thểvà phạm vi nghiên cứu………………………… 3 4.1 Đối tượng nghiên cứu………………………………………………. 3 4.2 Khách thể nghiên cứu………………………………………………. 3 4.3 Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………. 3 5.Phương pháp nghiên cứu……………………………………………… 3 5.1 Phương pháp luận………………………………………………….. 3 5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể……………………………………. 3 6.Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết……………………………. 4 6.1 Giả thuyết nghiên cứu………………………………………………. 4 6.2 Khung lý thuyết…………………………………………………….. 4 II> NỘI DUNG CHÍNH. Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TỄN…………………………. 5 1.Cơ sở lý luận…………………………………………………………. 5 1.1 Lý thuyết nghiên cứu giới và phát triển trong Xã hội học về Giới….. 5 1.2 Phương pháp tiếp cận giới…………………………………………. 6 1.3 Lý thuyết tương tác biểu trưng giới…………………………………. 6 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu……………………………………. 6 3. Những khái niệm công cụ……………………………………………. 8 3.1 Khái niệm giới………………………………………………………. 8 3.2 Khái niệm Bình đẳng và bất bình đẳng giới………………………… 8 3.3 định kiến giới……………………………………………………….. 9 3.4 Lãnh đạo và quản lý……………………………………………….. 9 3.5 Địa vị xã hội………………………………………………………… 9 Chương II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU………………………………….. 10 1.Tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trên thế giới …………… 10 2.Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam…………… 13 2.1 Phụ nữ Việt Nam tham gia lãnh đạo, quản lý trong lịch sử…………. 13 2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ trong công tác lãnh đạo và quản lý……………………………………………………... 14 2.3 Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.16 2.3.1 trong cơ Quan lập pháp……………………………………………….. 16 2.3.2 trong cơ quana hành pháp……………………………………………… 22 2.3.3 Trong cơ quan tư pháp…………………………………………………. 23 2.3.4 Trong các cấp Đảng uỷ………………………………………………… 24 2.3.5 Trong các đoàn thể chính trị xã hội…………………………………… 25 3. Nguyên nhân phụ nữ Việt Nam còn ít tham gia hoạt động chính trị - xã hội……………………………………………………… 26 3.1 Định kiến giới về năng lực……………………………………………….. 26 3.2 Gánh nặng gia đình………………………………………………………... 28 3.3 Chính sách của Đảng và Nhà nước…………………………………….. 29 3.4 Văn hoá truyên thống, những tập tục phong kiến…………………… 29 III KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ …………………………………… 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXHH05.doc
Tài liệu liên quan