Đề tài Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2002-2010

Tuy nhiên, khoảng cách giữa mong muốn và khả năng, giữa mục tiêu và kết quả, giữa lý thuyết và thực tế lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc không ít vào cách tiếp cận và giải quyết vấn đề đang đặt ra cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và sản xuất, xuất khẩu nông sản nói riêng của Việt Nam từ nay đến năm 2010. Hy vọng rằng Việt Nam, với những tiềm năng dồi dào sẵn có trong sản xuất nông nghiệp cả về đất đai, điều kiện tự nhiên và nguồn lao động

doc99 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2002-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp từ 80% xuống 72 - 73%. Trong đó: Giá trị lương thực từ 40% xuống 32 -33% + Giá trị sản xuất lâm nghiệp từ 4,2% lên 5,8 - 6% + Giá trị ngư nghiệp từ 15,1% lên 21 - 22% - Giá trị sản lượng trên đơn vị diện tích sản xuất tăng 1,25 đến 1,3 lần - Thu nhập bình quân đầu người nông thôn tăng 1,7 lần 2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp 2.1. Chuyển dịch cơ cấu theo ngành hàng (1) Phát triển các cây trồng vật nuôi có giá trị cao gắn với thị trường trong nước và khả năng cạnh tranh xuất khẩu - Lúa: Giữ ổn định diện tích lúa khoảng 4 triệu ha trên các vùng đất canh tác có điều kiện tưới tiêu chủ động. Đối với các loại đất trồng lúa kém hiệu quả thì chuyển sang cây trồng có hiệu quả hơn. Sử dụng giống có năng suất chất lượng cao, tiếp tục hỗ trợ sản xuất giống lúa lai trong nước để nâng cao tỷ lệ sản xuất giống lúa lai trong nước từ 20% hiện nay lên 40 -50% vào năm 2005, đồng thời coi trọng sử dụng các giống lúa có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sản lượng lúa dự kiến khoảng 34 triệu tấn, xuất khẩu gạo 3,5 triệu tấn/năm - Cao su: Tập trung thâm canh tăng năng suất trên diện tích cao su hiện có, chỉ mới trồng khoảng 50 ngàn ha trên diện tích thích hợp ở miền Trung và Tây Nguyên. Năm 2005 sản lượng mủ khô dự kiến 440 ngàn tấn, năng suất 13,5 tạ/ha. Đẩy mạnh khâu tìm kiếm thị trường, đặc biệt chú trọng tới thị trường Trung Quốc - Chè: Tiếp tục đầu tư thâm canh diện tích chè hiện có, mở rộng khoảng 15 ngàn ha chè để năm 2005 có khoảng 105 ngàn ha, chú trọng trồng các giống chè mới năng suất cao. Các vùng cao mở rộng diện tích chè Shan tuyết và chè chất lượng cao nhập nội - Điều: Đưa diện tích điều từ 235 ngàn ha hiện nay lên 300 ngàn ha năm 2005, năng suất tăng từ 7 tạ/ha lên 10 tạ/ha; sản lượng điều quả đạt 240 ngàn tấn tương đương 50 tấn điều nhân - Rau quả: Đưa ngành rau trở thành một trong những ngành xuất khẩu. năm 2005, kim ngạch xuất khẩu rau quả dự kiến 500 triệu USD + Cây ăn quả: Chú trọng phát triển các loại cây ăn quả nhiệt đới (nhãn, vải, xoài, dừa, chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, chuối...), nghiên cứu phát triển vùng cây ăn quả ôn đới ở miền Bắc. Năm 2005, diện tích cây ăn quả dự kiến 840 ngàn ha + Cây rau: Nâng cao chất lượng rau, giảm dư lượng thuốc trừ sâu, tăng dần diện tích trồng rau theo quy trình rau sạch. Diện tích rau năm 2005 đạt 600 ngàn ha, sản lượng 9 triệu tấn - Cây khác: Phát triển các cây trồng có thị trường xuất khẩu khác như lạc, tơ tằm, quế, hồi,... áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm - Chăn nuôi lợn xuất khẩu: Đẩy mạnh chăn nuôi lợn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, phát triển các giống lợn có chất lượng cao và quy trình chăn nuôi phù hợp với yêu cầu thị trường, gắn với việc xây dựng các cơ sở chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo năm 2005 xuất khẩu trên 80 ngàn tấn thịt. - Phát triển thuỷ sản: - Dự kiến năm 2005, sản lượng thuỷ sản đạt 2400 nghìn tấn, trong đó: + Tiêu dùng nội bộ là 1300 nghìn tấn + Xuất khẩu là 450 nghìn tấn, giá trị xuất khẩu là 3 tỷUSD (2) Mở rộng sản xuất cây trồng vật nuôi thay thế nhập khẩu - Mía đường: ổn định diện tích mía 330 ngàn ha, thâmcanh năng suất bình quân lên 55 - 60 tấn/ha, chữ đường 10 CCS. Gắn nhà máy chế biến với xây dựng vùng nguyên liệu, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (thuỷ lợi, giao thông và các công trình phúc lợi) cho vùng nguyên liệu - Cây bông: Mở rộng diện tích trồng bông lên 60 - 80 ngàn ha, tập trung ở vùng Tây Nguyên, duyên hải miền trung và đồng bằng sông Cửu Long. Đưa giống bông mới vào sản xuất nhằm đạt sản lượng bông xơ 2,5 - 3,5 vạn tấn, bảo đảm 30% nhu cầu trong nước - Ngô: Đưa diện tích ngô lên 1 triệu ha vào năm 2005, sử dụng các giống ngô lai để đạt năng suất bình quân 30 tạ/ha, sản lượng 3 triệu tấn - Các cây khác: Đẩy mạnh sản xuất đậu tương, thuốc lá, đưa diện tích đậu tương từ 130 ngàn ha năm 20021 lên 500 ngàn ha năm 2005, thuốc lá từ 25 ngàn ha lên 30 ngàn ha - Sản xuất lâm nghiệp: Tiếp tục việc giao đất khoán rừng, khoán quản lý bảo vệ 11 triệu ha rừng, làm giàu rừng 900 ngàn ha, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung 750 ngàn ha, trồng rừng tập trung chất lượng cao, nguyên liệu chủ lực của sản xuất công nghiệp giấy, ván ép gỗ xây dựng Xây dựng vùng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến trên 1 triệu tấn bột giấy và 1 triệu m3 ván nhân tạo tới năm 2010, diện tích 1,75 triệu ha, trong đó rừng sản xuất 1,5 triệu ha, gồm rừng làm nguyên liệu giấy 600 ngàn ha, rừng nguyên liệu ván nhân tạo 200 ngàn ha, rừng nguyên liệu gỗ trụ mỏ 40 ngàn ha, rừng gỗ XDCB, đồ mộc 200 ngàn ha. Phát triển chế biến lâm sản, đưa kim ngạch xuất khẩu lâm sản từ 350 triệuUSD năm 20021 lên 600 triệuUSD năm 2005, tiến tới lâm nghiệp phải trở thành ngành xuất khẩu lớn đóng góp cho sự tăng trưởng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp - Sản xuất muối: Dự kiến sản lượng muối sản xuất năm 2005 là 1,2 triệu tấn để đảm bảo nhu cầu muối ăn và muối công nghiệp. Duy trì diện tích đồng muối hiện có, ngăn chặn tìnhtrạng tuỳ tiện chuyển đồng muối thành đất nuôi trồng thuỷ sản. Tiếp tục thực hiện 22 dự án thuộc chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng trực tiếp phục vụ sản xuất muối, cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống diêm dân - Chăn nuôi bò: Đẩy mạnh chương trình sinh hoá đàn bò để nâng cao chất lượng bò thịt, tạo đàn bò nền để phát triển đàn bò lai hướng sữa. Phấn đấu năm 2005 có đàn bò sữa trên 100 ngàn con. (3) Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản - Tập trung đưa tiến bộ kỹ thuật vào khâu sau thu hoạch để giảm tổn thất sau thu hoạch (hao hụt lúa gạo còn 8 - 9%, rau quả dưới 10%). Đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản lúa, bảo quản và chế biến hoa, quả, rau, đậu và thịt, thuỷ sản nâng cao chất lượng sản phẩm để đến năm 2010 đảm bảo chế biến công nghiệp 100% cao su, cà phê, chè, điều, 90% mía, 30% rau quả và thịt,... - Công nghệ chế biến gạo + Đối với gạo tiêu thụ nội địa: Duy trì 300.000 máy xay xất nhỏ (công suất 0,8 -1 tấn/h) tai các cụm dân cư ở các vùng nông hôn. Cải tiến các máy xay xát để tăng tỷ lệ thu hồi lên 67 -685 + Đối với xay xát gạo chất lượng cao và gạo xuất khẩu: Tổ chức thành các trung tâm chế biến lớn theo công nghệ liên hoàn, khép kín từ khâu lam khô, bảo quản, bốc dỡ, chế biến với hệ thống thiết bị đồng bộ (bóc vỏ, xát trắng, phân loại, tách màu). Tỷ lệ thu hồi đạt từ 70% trở lên. Quy mô các trung tâm chế biến có công suất từ 20.000 tấn/năm. Những nơi có lượng thóc không lớn có thể sử dụng quy mô 10.000 tấn/năm - Công nghiệp chế biến cà phê: ứng dụng công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, cải tiến hệ thống quản lý chất lượng nhằm tạo cho cà phê Việt Nam có uy tín cao trên thị trường thế giới. Đa dạng hoá sản phẩm chế biến từ cà phê phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa như: cà phê rang xay, hoà tan, cà phê khử cafein, cà phê hảo hạng, cà phê đặc biệt... Phấn đấu đến 2005, tỷ lệ cà phê chế biến sâu đạt 20-25%. Trên cơ sở các mô hình đã có như dây chuyền xát ước của Braxin 10 tấn quả tươi/giờ, các dây chuyền xát khô như Anh, Braxin công suất từ 1 - 4 tấn nhân/giờ, tổ chức nghiên cứu, thiết kế và chế tạo trong nước, đồng thời nâng cao trình độ hiện đại hoá, tự động hoá các dây chuyền. Đầu tư xây dựng thêm 02 trung tâm chế biến sâu ở Hà Nội và Quy Nhơn, mỗi nhà máy 1.000 tấn sản phẩm/năm - Công nghệ chế biến cao su: Đối với thị trường nội địa, đưa thị phần chế biến sản phẩm cao su công nghiệp, dân dụng và y tế trong nước từ 20% hiện nay lên 35 -%. Tiếp tục nâng cấp, hoàn chỉnh thiết bị, đồng bộ hoá dây chuyền các nhà máy. Trang bị các loại xe chuyên dùng để vận chuyển mủ nước về nhà máy, giải quyết tốt vấn đề môi trường tại khu vực chế biến. Để đáp ứng yêu cầu phát triển xây dựng thêm nhà máy mới. Các tỉnh miền Trung ( Thanh Hoá, Nghẹ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) xây dựng 14 - 15 nhà máy quy mô nhỏ (1.200 - 1.500 tấn/năm). Các tỉnh Tây Nguyên xây dựng thêm 18 nhà máy quy mô vừa, vùng Đông Nam bộ 9 - 10 nhà máy quy mô lớn (6.000 -20.000 tấn/năm). Để đạt được mục tiêu xuất khẩu, cần cải tiến công nghệ, cơ cấu sản phẩm hợp lý: mủ cốm SVR 3L, SVR 5L chiếm khoảng 45% (hiện nay là 74 - 75%), mủ kem 20%, mủ cao su kỹ thuật RSS, SR và SVR 10, SVR 20 chiếm khoảng 30 -40% - Công nghiệp chế biến chè Tuỳ theo quy mô diện tích vùng nguyen liệu sẽ lựa chọn một trong 3 cấp quy mô công suất của nhà máy chế biến: Vùng dưới 50 -300 ha, áp dụng quy mô nhà máy công suất 2 -6 tấn búp tươi/ngày Những vùng chè tập trung lớn có diện tích tren 300 ha có thể sử dụng ghép nhiều dây chuyền công suất 12 tấn búp tươi/ngày Về công nghệ: Tiếp tục sử dụng công nghệ OTD, CTC và sông đôi trong chế biến hè đen, đồng thời cải tiến công nghệ chè xanh của Trung Quốc, ứng dụng các công nghệ chè cảu Nhật Bản, Đài Loan. Đa dạng hoá sản phẩm, ché biến các loại chề đặc sản (chè San Tuyết), chè thực phẩm, chè thuốc. Xây dựng các trung tâm tinh chế, đấu trộn để ổn định và nâng cao chất lượng chè xuất khẩu. Tăng cường độ đổi mới, hiện đại hoá thiết bị, nhất là các khâu tự động hoá kiểm tra nhiệt độ cao sấy chè, đóng gói sản phẩm và vệ sinh công nghiệp. Hiện nay toàn quốc có 76 cơ sở chế biến chè công nghiệp với tổng công suất 1.192,5 tấn búp tươi/ngày. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2010, cần phải đầu tư 138 nhà máy với công suất mỗi nhà máy 12 tấn búp tươi/ngày. Giai đoạn 20021 -– 2005, đầu tư 62 dây chuyền sản xuất để đáp ứng sản lượng chè những vùng thâm canh đã có, 31 dây chuyền do tăng thêm các diện tích trồng mới. - Công nghiệp chế biến đường mía: Giai đoạn 20021 -– 2005 không đầu tư thêm nhà máy mới, mở rộng hết công suất khi có điều kiện. Tập trung đầu tư xây dựng ổn định vùng nguyên liệu đủ cho 44 nhà máy hoạt động hết công suất thiết kế, có cơ cấu giống mía rải vụ hợp lý để kéo dài vụ ép lên trên 150 ngày. Những nhà máy không có đủ nguyên liệu cương quyết di chuyển đến những vùng có điều kiện hơn. Từ sau 2006, căn cứ vào nhu cầu thị trường trong nước có khả năng mở rộng xuất khẩu, sẽ tiếp tục mở rộng công suất hoặc đầu tư thêm một số nhà máy lớn, hiện đại - Công nghiệp chế biến rau quả Đầu tư công nghệ bảo quản rau quả tươi, đóng gói phù hợp để xuất khẩu và phục vụ nhu cầu nội tiêu. Nâng cấp và đổi mới công nghệ thiết bị các nhà máy chế biến rau quả cũ. Xây dựng mới các nhà máy với công nghệ, thiết bị hiện đại có quy mô phù hợp với từng vùng nguyên liệu. Vùng tập trung 10.000 -– 50.000 tấn/năm; vùng có diện tích nhỏ, phân tán 1.000 -– 2.000 tấn/năm. Sản phẩm rau quả chế biến bao gồm các loại rau chế biến theo kiểu muối, đóng hộp, sấy khô như nấm, dưa chuột, dưa bao tử, ngô bao tử, măng, khoai mỡ, khoai tây chiên. Về nước quả chú trọng các loại nước dứa, xoài,...… đây là mặt hàng mũi nhọn của ngành chế biến rau quả trong thời gian tới. Chú trọng đầu tư về bao bì sản phẩm, đảm bảo mẫu mã đẹp, phù hợp với yêu cầu của sản phẩm. Hiện đại hoá các hệ thống vận chuyển, hệ thống bảo quản sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất trung bìn xuống 15% Tổng số rau quả chế biến (cho cả nội tiêu và xuất khẩu) là 820.000 tấn sản phẩm. Dự kiến chế biến công nghiệp khoảng 650.000 tấn sản phẩm và dân tự chế biến 170.000 tấn sản phẩm. Để đảm bảo đủ năng lực chế biến cho các sản phẩm rau quả xuất khẩu( bao gồm các loại rau quả đóng hộp, sấy, muối, nước quả cô đặc, nước quả giải khát...…) cần phải nâng cấp cải tạo các nhà máy cũ hiện có và lắp mới các dây chuyền chế biến đồng bộ, hiện đại( 650.000 tấn/ năm) dự kiến đến năm 2010 quy hoạch phát triển 24 nhà máy chế biến rau quả tại các vùng. - Công nghiệp chế biến điều: Đến 2005 xây dựng thêm các nhà máy chế biến nhân mới. Về công nghệ : ứng dụng phương pháp tách vỏ điều bằng hơi nước quá nhiệt thay thế phương pháp chao dầu để tránh ô nhiễm môi trường. Đa dạng hoá và tổng hợp lợi dụng các sản phẩm từ nhân điều, chú ý các công nghệ chế biến sau nhân phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Tận dụng các phụ phẩm từ vỏ điều (dầu điều, ván ép). Nghiên cứu biện pháp thu hồi quả điều và công nghiệp chế biến đồ uống. -Công nghiệp chế biến dầu thực vật: Hiện nay có 5 nhà máy chế biến với tổng công suất trên 300 ngàn tấn/ năm. Giai đoạn 20021-2005 không đầu tư thêm các nhà máy tinh luyện. Tại các địa phương trồng dừa, lạc tập trung sẽ đầu tư hoặc nâng cấp các cơ sở sản xuất dầu thô cung cấp cho các nhà máy tinh luyện để đạt sản lượng 400.000 tấn/ năm. Giai đoạn 2006-2010 sẽ đầu tư mới 01 nhà máy tinh luyện dầu ở Hải Phòng, công suất 120.000 tấn/năm, tại Đà Nẵng 01 nhà máy 150.000 tấn/năm, tại Cần Thơ 01 nhà máy 120.000 tấn/năm.Mở rộng nhà máy Nhà Bè từ 480.000 lên 120.000 tấn/năm. Một số địa phương có nguồn cám tập trung tại các nhà máy chế biến gạo xuất khẩu như: Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Long An sẽ xây dựng mỗi tỉnh 01 nhà máy trích ly dầu cám có công suất 10.000 tấn/năm. -Công nghiệp chế biến dâu tằm: Củng cố và đưa toàn bộ thiết bị ươm tơ tự động có tổng công suất 850 tấn/năm vào hoạt động có hiệu quả. Nâng cấp 1.000 tấn công suất các dây chuyền ươm tơ cơ khí để sản xuất tơ chất lượng cao. Sau năm 2005 xây dựng thêm 5 nhà máy ươm tơ tại các tỉnh trọng điểm với tổng công suất bổ sung là 650 tấn/năm, xây dựng nhà máy kéo sợi spul silk công suất 100 tấn sản phẩm/năm. - Chế biến bông: Đối với những vùng bông tập trung như Tây Nguyên, Đông Nam bộ xây dựng các nhà máy chế biến có công suất 20.000 –- 30.000 tấn/năm, công nghệ hiện đại. Những vùng khác, trang bị các dây chuyền nhỏ, công suất 10 -– 20 tấn/ngày do cơ khí trong nước chế tạo - Công nghiệp chế biến thịt, sữa: Cải tạo nâng cấp các cơ sở chế biến cũ và đầu tư xây dựng 8 cơ sở chế biến thịt với tổng công suất chế biến 85 ngàn tấn/năm tập trung chủ yếu ở ĐBSH (5 cơ sở), ĐNB, ĐBSCL và Bắc Trung Bộ. Về chế biến sữa: Từ 20021 -– 2005 cần đầu tư phát triển thêm năng lực sản xuất 235 triệu lít, giai đoạn 2006 -– 2010 cần tăng thêm 300 triệu lít. Các nhà máy chế biến sữa (bao gồm sữa bò và sữa đậu nành) được phân bố theo các vùng có chăn nuôi bò sữa và thị trường tiêu thụ lớn như Hà Nội, Quẩng Ninh, Thành phố HCM, Lâm Đồng, Nghệ An, Thanh Hoá, Bình Định. - Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản: Thực hiện mục tiêu đến năm 2010 sản xuất 1 triệu m3 ván nhân tạo. ở những vùng có quy hoạch trồng rừng như Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ sẽ xây dựng các nhà máy ván sợi quy mô 30.000 - – 54.000 m3 sản phẩm/năm. Với sản phẩm đồ gỗ sản xuất từ ván nhân tạo xây dựng qyu mô từ 5.000 -– 10.000 m3 sản phẩm/năm. Đối với các vùng như ĐBSH, ĐBSCL chủ yếu tiếp nhận nguyên liệu từ các vùng khác, chế biến các sản phẩm mộc gia dụng, mộc mỹ nghệ và các sản phẩm song mây Đối với 1.200 cơ sở chế biến hiện có: Đầu tư theo chiều sâu ở những nơi có điều kiện để sản xuất các đồ mộc cao cấp phục vụ cho xuất khẩu Đối với các cơ sở mới: Tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất ván dăm 153 ngàn m3/năm, ván sợi ép 183 ngàn m3 /năm, và ván bã mía 94 ngàn m3/năm. Chuẩn bị và triển khai thực hiện chương trình sản xuất giấy và bột giấy( công suất gần 2 triệu tấn/ năm) với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. - Chế biến muối: Mục tiêu đề ra đến năm 2010, sản xuất 02 triệu tấn muối, trong đó cho tiêu dùng (ăn) 600 ngàn tấn, cho công nghiệp 1 triệu tấn, xuất khẩu 400 ngàn tấn. Để đảm bảo toàn dân được sử dụng muối chất lượng cao, từ nay đến 2005 thực hiện xây dựng mới 34 nhà máy sản xuất muối tinh và muối tách trộn iốt với tổng công suất 550.000 tấn/năm. Cải tạo, nâng cấp và mở rộng để đến năm 2010 đạt 12.000 ha muối công nghiệp. Trong đó xây dựng mới đồng muối Quán Thẻ (Ninh Thuận), Bình Dương (Quảng nam) và mở rộng các đồng muối Vĩnh Hảo, Phương Cựu. Xây dựng thêm các xí nghiệp sản xuất các hoá chất sau muối như thạch cao, phân bón, Magiê ôxít. - Chế biến thuỷ sản Hiện có 196 nhà máy chế biến thuỷ sản. Dự kiến năm 2005 có 220 nhà máy với tổng công suất cấp đông là 1500 tấn/ngày, công suất chế biến đạt 2300 tấn/ngày, có khả năng chế biến trên 320 nghìn tấn sản phẩm. 2.1 Chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp theo ùng (1) Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Là vùng trọng điểm sản xuất lúa góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước đồng thời cũng là vùng lúa xuất khẩu trọng điểm của cả nước. Bảo đảm ổn định diện tích lúa 4 triệu ha. Trong 5 năm 20021 -– 2005 chuyển khoảng 400 -– 500 ngàn ha sang nuôi trồng thuỷ sản, gieo trồng các cây khác như: bông, đậu tương, ngô (2) Vùng Tây Nguyên: Là vùng trọng điểm phát triển cây công nghiệp dài ngày và lâm nghiệp. Tuy nhiên trong những năm tới (20021 - 2005) giảm 70 nghìn ha cà phê vối (diện tích khó khăn về nước tưới, già cỗi, năng suất thấp..) sang cà phê giống mới có năng suất, chất lượng cao và giao giống các cây khác như bông, đậu tương, ngô...… bảo vệ diện tích rừng hiện có đồng thời khoanh nuôi tái sinh trồng mới rừng, nâng độ che phủ rừng. Việc phát triển phảttiển rừng phải gắn với việc xây dựng các vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến bột giấy, giấy, ván nhân tạo. (3) Vùng Miền núi bắc bộ Miền núi bắc bộ là vùng trọng điểm phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả...… cần bảo vệ diện tích rừng hiện có đồng thời khoanh nuôi tái sinh, trồng mới rừng, tăng độ che phủ rừng. Việc phát triển rừng phải gắn với xây dựng các vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến bột giấy, giấy, ván nhân tạo. (4) Vùng đồng bằng sông Hồng: Đồng bằng sông Hồng cũng là vùng trọng điểm sản xuất lúa thâm canh góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước. Xây dựng vùng lúa xuất khẩu đặc sản khoảng 300 nghìn ha. Ngoài lúa vùng Đồng bằng sông Hồng còn là vùng trọng điểm nuôi lợn xuất khẩu (5) Vùng ven biển Các tỉnh ven biển có tiềm năng phát triển đánh bắt hải sản và nuôi trồng thuỷ sản lớn cần phát huy tối đa lợi thế tự nhiên vùng và khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu để thúc đẩy ngành thuỷ sản có bước phát triển đột phá trong 5 - 10 năm tới. Đây là địa bàn chủ yếu thực hiện mục tiêu phát triển ngành thuỷ sản đã trình bày ở trên. n III Các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp. 1. Công tác quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ Để chương trình chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp, có hiệu quả trước hết phải sớm nghiên cứu rà soát lại quy hoạch ngành và lãnh thổ nhằm phát huy lợi thế của từng ngành trên từng lãnh thổ. Gắn các lợi thế củaảu ngành, vùng với thị trường trong nước và quốc tế, Chính phủ uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp và PTNN phối hợp với các ngành liên quan tập trung chỉ đạo hướng dẫn các ngành, địa phương xây dựng quy hoạch ngành, vùng phát triển hàng hoá tập trung quy mô lớn, gắn với cơ sở chế biến công nghiệp, thị trường tiêu thụ; quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi, giao thông, cơ sở công nghiệp chế biến; tổ chức hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, thông tin thị trường, hình thành các chương trình, dự án đầu tư có mục tiêu. 2. Tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Tập trung nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, để tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, nhân nhanh các giống tốt đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Nghiên cứu và đẩy mạnh mẽ chuyển giao công nghệ mới về chế biến và bảo quản nông sản cũng như các tiến bộ kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp; trang thiết bị cơ khí hoá nông nghiệp, điện khí hoá nông thôn. Tiếp tục sắp xếp và từng bước đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu khoa học. Có chính sách động viên các nhà khoa học,các cơ sở nghiên cứu của Nhà nước hoạt động có hiệu quả cao hơn, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, hộ gia đình nông dân giỏi tham gia phát triển và chuyển giao công nghệ, đảm bảo cho công tác nghiên cứu trong nước và nhập nội các loại giống tốt, công nghệ tiên tiến của các nước ngoài để nông nghiệp nước ta sớm đạt tới trình độ công nghệ ngang bằng với các nước trong khu vực. Đầu tư nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ phải được coi là ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp -– nông thôn 3. Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 3.1. Tiếp tục đẩy mạnh thuỷ lợi. Thực hiện đa dạng hoá mục tiêu, hiện đại hoá quản lý và xã hội hoá công tác thuỷ lợi. Phát triển thuỷ lợi theo hướng lợi dụng tổng hợp, khai thác theo lưu vực sông, phục vụ đa mục tiêu: cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, nước cho dân sinh, phát điện, giao thông, thuỷ sản, du lịch,...… Trong nông nghiệp chuyển mạnh sang đầu tư làm thuỷ lợi phục vụ tưới cà phê ở Tây Nguyên, chè và cà phê chè (TDMNPB), mía (miền Trung) và các cây rau màu khác. Đầu tư thoã đáng cho thuỷ lợi nuôi trồng thuỷ sản. - Tiếp tục củng cố hệ thống đê sông Hồng và sông Thái Bình để chống đỡ an toàn với các trận lũ lịch sử đã xẩy ra. Nâng cao mức bền vững của hệ thống đê biển, đê ngăn mặn ở ĐBSCL, các tỉnh ven biển miền Bắc, miền Trung đảm bảo chống được các trận bão biển có sức gió cấp 9, cấp 10. Tăng cường khả năng thoát lũ phân lũ, thích nghi phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai. - Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong xây dựng, quản lý và khai thác các công trình thuỷ lợi, bảo vệ tài nguyên nước chốngô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước. - Tăng cường hơn nữa quyền hạn trách nhiệm của các cấp địa phương trong đầu tư, quản lý, vận hành và khai thác thuỷ lợi, phát huy cao sự tham gia của công dân, nhất là thông qua các Hợp tác xã. 3.2 Tăng cường hệ thống thú y, bảo vệ thực vật, khuyến nông ngang trình độ trong khu vực để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển và hội nhập của nông nghiệp 3.3. Đẩy mạnh cơ khí hoá nông nghiệp - Tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ nôngdân sử dụng ngày càng nhiều các loại máy móc, thiết bị cơ khí trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông lâm sản, trước hết là các khâu lao động nặng nhọc, độc hại, nâng cao năng suất lao động. Nâng tỷ lệ làm đất bằng cơ giới lên 70% vào năm 2010 (hiện nay là 30%), sử dụng máy sấy lúa Hè thu ở ĐBSCL. - Phát triển công nghiệp chế tạo trong nước, đáp ứng 100% nhu cầu về công cụ cầm tay, bơm nước, máy làm đất, máy tuốt lúa, xay xát lúa, chế biến chè, cà phê, điều, sơ chế cao su. 3.4. Điện khí hoá nông thôn Nhà nước hộ trợ vốn, kỹ thuật cùng với sức dân để phấn đấu trong 5 năm tới hoàn thành cơ bản việc đưa điện lưới đến 90% xã để cấp điện sản xuất và tiêu thụ ở nông thôn; phát triển thuỷ điện nhỏ và các loại hình cấp điện khác phục vụ các vùng cao, vùng xa. 3.5.5 Phát triển giao thông nông thôn Nhà nước ưu tiên dành vốn hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn, hình thành mạng lưới đảm bảo giao thông thông suốt mọi thời tiết để lưu thông vận chuyển hàng hoá, trước hết là ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung; nối các thị trấn, thị tứ, khu công nghiệp với mạng lưới đường quốc gia. Phấn đấu đến năm 2005 có đường cho phương tiện cơ giới đi đến tất cả các xã hoặc cụm xã, các tụ điểm công nghiệp ở nông thôn có đường cho xe hai bánh hoặc đường dân sinh đến xã, cụm xã ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới khó khăn; xoá bỏ cầu khỉ, tiếp tục mở rộng đường ô tô đi được, nhựa hoá 15 -– 20% mặt đường nông thôn, riêng đối với đồng bằng là 50%. 3.6. Hệ thống thông tin ở nông thôn Xây dựng và phát triển nhanh mạng lưới bưu chính viễn thông ở nông thôn, bảo đảm tính sẵn sàng, tính tiếp cận và tính phổ cập thông tin trong mọi lĩnh vực, mọi thời tiết, mọi điều kiện và mọi đối tượng 3.7. Phát triển các chương trình phục vụ thương mại - Hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn, mỗi xã có ít nhất một chợ; Xây dựng hệ thống chợ bán buôn ven đô thị lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chợ nổi ở đồng bằng sông Cửu Long, chợ các đường biên, chợ khu vực; đầu tư xây dựng trung tâm bán buôn ở các vùng hàng hoá tập trung. - Xây dựng các bến cảng sông biển phục vụ xuất nhập khẩu nông sản, nhanh chóng nâng cấp cảng Cần Thơ làm đầu mối xuất khẩu nông sản và nhập khẩu vật tư hàng hoá cho đồng bằng sông Cửu Long. - Đầu tư xây dựng các kho ngoại quan, phòng trưng bày giao dịch hàng nông sản và công nghiệp, thủ công mỹ nghệ từ nông thôn ở các thị trường lớn như Nhật Bản, Châu Âu, Nga, Mỹ...… 3.8. Xây dựng các thị tứws, thị trấn làm trung tâm công nghiệp, thương mại, văn hoá - xã hội ở các đại bàn nông thôn Thúc đẩy sự ra đời của các thị trấn, thị tứ, các tụ điểm công nghiệp -– dịch vụ tại các vùng nông thôn. Tuỳ theo điều kiện cụ thể từng địa phương quy hoạch khu đất đai thuận tiện và phát triển các kết cấu hạ tầng và các dịch vụ công cộng như giao thông, điện, bưu điện, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, hình thành trung tâm công nghiệp - dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các cơ sở bảo quản, chế biến, buôn bán nông sản và vật tư nông nghiệp 4. Tiếp tục đổi mới chính sách tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp 4.1- – Chính sách đất đai Các địa phương rà soát lại quy hoạch đất đai, công bố hướng dẫn nông dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Hộ có nhu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất được tạo điều kiện làm thủ tục chuyển đổi nhanh và thuận lợi. Quy hoạch bố trí diện tích xây dựng các khu công nghiệp nông thôn, đơn giản hoá thủ tục cho các hộ, HTX, tư nhân thuê đất để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; thuê đất xây dựng trang trại chăn nuôi quy mô lớn theo hướng công nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân, nông dân được góp vốn bằng giá trị sử dụng đất để hình thành doanh nghiệp 4.2- – Chính sách thị trường : Giảm thuế nhập khẩu phân bón NPK xuống bằng 0%, bỏ khấu trừ đầu vào 2- 3%. Đơn giản hoá và thông thoáng thủ tục nhập khẩu nguyên liệu và vật tư nông nghiệp. Thực hiện quản lý xuất khẩu theo tiêu chuẩn, chất lượng. Phát triển thông tin thị trường và xúc tiến thương mại. 4.3- – Chính sách thuế: Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 35% xuống còn 25%; bỏ chính sách thu thuế thu nhập bổ sung 25%. 4.4- – Chính sách đầu tư: - Tăng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn; - Tiến hành đầàu tư theo chương trình; - Mở rộng phân cấp đầu tư cho địa phương; - Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu đầu tư theo hướng tăng mạnh cho việc đầu tư các công trình thuỷ lợi tưới cho cây công nghiệp, cây ăn quả; xây dựng các cơ sở hạ tâng phục vụ thương mại, bao gồm đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các chợ, trung tâm buôn bán hàng hoá nông sản, kho tàng, bến cảng, phương tiện vận tải chuyên dùng, cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng. - Dành kinh phí thoả đáng cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học - Tăng vốn trung hạn và dài hạn cho các hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân vay vốn sản xuất kinh doanh ở nông thôn; ưu tiên cho vay đối với các sản phẩm mới chuyển đổi; vay phát triển ngành nghề mới. 5 –. Phát triển nguồn nhân lực Tăng cường các cơ sở đào tạo, kể cả đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất kỹthuật, hoàn chỉnh chương trình nội dung giảng dạy phù hợp; Có chính sách hỗ trợ con em nông dân, nhất là dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, để họ có điều kiênh theo học ở các bậc đầu tư. Ưu tiên đầu tư cán bộ kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản (mỗi năm 600 ngàn người); Đào tạo cán bộ HTX (3000 lượt người/năm); Chú trọng đào tạo nông dân, chủ trang trại mỗi năm khoảng 1 triệu người. 6. - Tổ chức sản xuất - Tạo điều kiện thuận lợi cho họ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá tập trung, tiêu thụ sản phẩm dễẽ dàng, đạt hiệu quả kinh tế cao. - Củng cố hợp tác xã hiện có, thành lập các HTX mới theo luật để làm tốt dịch vụ sản xuất và chuyển giao công nghệ cho nông thôn; tổ chức quỹ tín dụng nhân dân đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất và huy động tiền gửi tiết kiệm trong dân cư. - Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hợp đồng sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm của nông dân. Phấn đấu năm 2005 có ít nhất 30% nông dân sản xuất và bán sản phẩm thông qua hợp đồng với doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp ký hợp đồng sản xuất với nông dân như cho vay vốn ưu đãi, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nguyên liệu, ưu đãi tiêu thụ...… Đổi mới hoạt động các nông lâm trường theo hướng đảm bảo các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản và tiêu thụ sảnphẩm hàng hoá cho nông dân trong vùng. 7. Một số giải pháp tước mắt. Trên đây là một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đã được Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ KH và ĐT) tổng hợp và báo cáo. Có thể nói đó là những giải pháp tốt nhất và mang tính khả thi cao. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ sẽ còn không ít vướng mắc cần phải giải quyết. Việt nam giai đoạn 20021-2010. Để các giải pháp trên có tính khả thi cần tập trung vào các vấn đề sau: Xin kiến nghị một số giải pháp tháo gỡ trước mắt như sau: Thứ nhất: Muốn tổ chức nông nghiệp theo quy hoạch ngành lãnh thổ cần tổ chức lại hình thức sản xuất trong nông nghiệp. Cụ thể vẫn lấy quy mô của hộ gia đình là chính, từng bước chuyển đổi ruộng đất, bố trí lại đồng ruộng tạo điều kiện cho cơ giới hoá. Từ kinh tế hộ gia đình làm nòng cốt, phát triển quy mô kinh tế trang trại. Ưu điểm của hình thức kinh tế trang trại là khắc phục sự manh mún, nhỏ lẻ, chất lượng thấp của kinh tế hộ gia đình. Tạo ra quy mô kinh tế rộng hơn, hiện đại hơn và rõ ràng với năng suất cao hơn. Trên các vùng chuyên canh tập trung hình thành mô hình trang trại sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại hơn, gắn sản xuất với chế biến và xuất khẩu, tạo những tiền đề cơ bản để phát triển nông nghiệp hàng hoá gắn với thị trường xuất khẩu. Trong sản xuất nông nghiệp nên hình thành những vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, quy mô lớn, gắn với công nghiệp chế biến, vận chuyển và tiêu thụ theo nguyên tắc đất nào, cây ấy... để phát huy thế mạnh và tiềm năng đất đai, khí hậu, nguồn nước trong sản xuất nông sản hàng hoá với chất lượng cao. Nhằm tạo ra một số sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như cà phê, cao su, hạt điều..Tổ chức lại nền nông nghiệp hàng hoá Những diễn biến trong nông nghiệp những năm gần đây, nhất là trong năm qua (năm 20021) cho thấy nền nông nghiệp nước ta cần được tổ chức lại nhằm đáp ứng được những yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Một mâu thuẫn lớn đang đặt ra đối với nền nông nghiệp nước ta là: có nhiều sản phẩm có khối lượng hàng hoá lớn nhưng lại được sản xuất được sản xuất ra ở những nông hộ có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ. Vì thế mà chất lượng nông sản hàng hoá thấp, người sản xuất trực tiếp không nắm bắt được thông tin thị trường, hậu quả là sản xuất và phân phối nông phẩm của nước ta chịu những thua thiệt không nhỏ. Tuy thế, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nói chung và những đặc thù của nước ta, lại không thể tổ chức những doanh nghiệp lớn trực tiếp sản xuất nông phẩm nguyên liệu. Về điểm này, bài học về tập thể hoá trước đây còn nguyên giá trị. Còn đường giải quyết mâu thuẫn này là phải tìm ra những hình thức kinh tế ngõ hầu kết hợp được hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông phẩm, trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước, với hàng triệu hộ nông dân. Tổ chức một nền nông nghiệp hợp đồng. Thông qua việc ký kết hợp đồng với các hộ nông dân hoặc những tổ chức kinh tế của họ, những doanh nghiệp này hướng dẫn kinh tế hộ nông dân sản xuất cái gì, bao nhiêu, với chất lượng, chủng loại như thế nào nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường trong nước và ngoài nước. Đây chính là vai trò dẫn dắt, chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước với nông dân. Đến lượt mình, các doanh nghiệp này cũng phải tự cải tạo mình, đủ mạnh để đứng vững trên thị trường trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, cũng cần phải khuyến khích các doanh nghiệp khác ( doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) tham gia vào nền nông nghiệp hợp đồng. Nền nông nghiệp hợp đồng còn đòi hỏi các hộ nông dân phải liên kết lại, để có thể trở thành những đối tác có đủ sức mạnh với các doanh nghiệp. Mặt khác, chính doanh nghiệp cũng cần đến những hợp tác xã của nông hộ trong việc ký kết và đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế. Như vậy, sẽ ra đời những Hợp tác xã trên cơ sở tất yếu của những quan hệ hợp đồng giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp chế biến, thương mại kinh doanh hàng nông sản. Những Hợp tác xã thể nhân này của nông dân có thể cùng với các doanh nghiệp tổ chức nên các Hợp tác xã pháp nhân, tạo thành những doanh nghiệp nông - – công nghiệp mạnh, trong đó, hộ nông dân có thể tham gia vào các doanh nghiệp chế biến, thương mại dưới hình thức cổ đông. Điều nói trên không phải bắt nguồn từ sự suy luận logic thuần tuý. Nó có những căn cứ thực tiễn cụ thể của nền nông nghiệp nước ta thông qua các hoạt động của một số doanh nghiệp như Hội mía đường Lam Sơn và các HTX của những người trồng mía, như Nông trường Sông Hởu mà thực chất đang hoạt động như một công ty thương mại, gắn kết chặt chẽ với nông dân, với các doanh nghiệp chế biến nông lâm sản, với các cơ quan nghiên cứu -– triển khai như nhiều doanh nghiệp khác như ngành chè, cao su,…... Vấn đề là ở chỗ, cần nhận thức rõ khuynh hướng đúng đắn này, chủ động tổ chức nên một nền nông nghiệp mới, nền nông nghiệp hợp đồng, nhiều tầng, gắn kết chặt chẽ các thành phần kinh tế tạo thnàh một thể thống nhất. Bằng cách đó nông nghiệp nước ta sẽ đáp ứng tốt những đòi hỏi của thị trường ngoài nước cũng như trong nước. Thứ hai: Tiến hành CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn, không phải chỉ thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế, lực lượng sản xuất, mà còn thay đổi căn bản cả quan hệ sản xuất, tư duy và lối sống của mọi tầng lớp dân cư trong khu vực này. Cần có được sự giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề kinh tế, tổ chức, quản lý và kỹ thuật...Trong đó cung ứng đủ vốn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nhu cầu CNH phải là mục tiêu hàng đầu. Khó khăn là nguồn vốn “đầu tư...từ đâu ?”. Lấy nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách nhà nước và nguồn viện trợ ODA. Nhưng ngân sách thì có hạn, thu hút vốn tiết kiệm của nhân dân là giải pháp tốt nhất để huy động vốn. Tuy vây hiệu quả chưa thực sự cao, gần đây trước tình trạng khan hiếm tiền mặt các tổ chức tín dụng, ngân hàng đưa ra biện pháp tăng lãi suất tiền gửi và tỏ ra có chuyển biến tích cực đó là dấu hiệu đáng mừng. Hiện nay nguồn vốn “chảy” về nông thôn khá đa dạng. Ngoài các ngân hàng thương mại còn có các tổ chức quốc tế, tổ chức tín dụng, như quỹ tín dụng nhân dân, quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ xoá đói giảm nghèo...Nhưng hầu hết các tổ chức tín dụng lại chỉ cho vay đơn điệu chưa vượt qua “khung cửa” xoá đói. Tình trạng phổ biến là việc cho vay món nhỏ, thời gian ngắn, thường là 5 đến 6 tháng, theo một chu kỳ cây trồng vật nuôi. Bên cạnh nhu cầu vay vốn để sản xuất nông- lâm -ngư nghiệp theo thời vụ, nông dân còn cần phải vay vốn để chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chuyển đổi mùa vụ theo hướng sản xuất hàng hoá. Vvốn này không thể ngắn hạn “ăn ngay” mà phải có thời gian chuyển đổi. dường như ngân hàng chưa nhìn ra tầm chiến lược này để giúp nông dân tạo ra sản phẩm hàng hoá, giải quyết việc làm. Mà, thường nóng vội, sợ mất vốn hoặc thiếu một tầm nhìn vĩ mô đối với nông nghiệp và nông thôn đang trên đường tiến lên CNH-HĐH. Một thực tế ai cũng thừa nhận: nông thôn là một thị trường rộng lớn, chiếm trên 76% dân số cả nước. Thế nhưng cho đến nay nước ta hầu như chưa có tín dụng nông thôn, tín dụng hiện nay chỉ giành cho nông nghiệp. Số nông dân được vay vốn ngân hàng cũng hãy còn rất ít và chỉ sử dụng vào mục đích sản xuất. Nguồn cung cấp tín dụng từ ngân hàng cho tiêu dùng phục vụ nhu cầu căn bản của đời sống nhân dân, bao gồm từ ăn mặc, ở, đi lại, học hành đến trị bệnh, mua sắm các phương tiện sinh hoạt gia đình ở khu vực nông thôn còn rất khiêm tốn. Những chương trình tín dụng của các đoàn thể khác ngoài ngân hàng ngày càng mở rộng và có tác dụng cụ thể nhưng không mang tính chuyên nghiệp và cũng không vượt quá xoá đói giảm nghèo. Vì thế, bức tranh tín dụng ở nông thôn chưa mấy sáng sủa. Giải pháp là: Cần phải tạo ra cách nhìn mới đối với nông thôn . Nhìn một các toàn diện kênh tín dụng tiêu dùng ở nông thôn phải được cấp cho cả hai phía. Phía người mua (nông dân), phía người bán (dịch vụ). Nếu thực hiện được tín dụng loại này, ngân hàng làm một công được ba việc: Thứ nhất: Giải toả được nguồn vốn đang ứ đọng. Thứ hai: Kích thích được nhu cầu tiêu dùng. Thứ ba: Phát triển sản xuất kinh doanh. Hiện tạiai có nhiều loại hình thức tín dụng được áp dụng một cách khá rộng rãi, như bán trả góp....Tại sao các loại hình tín dụng này không được áp dụng ở nông thôn? Nơi mà các nhà kinh doanh tiền tệ đã phải thừa nhận rằng thị trường cho vay vốn an toàn nhất, nợ quá hạn thấp nhất (dưới 5%). Hiện nay, mặc dù chính phủ quy định đối với nông dân khi vay vốn không cần phải thế chấp. Nhưng trong thực tế, muốn vay vốn, nông dân vẫn loay hoay với thủ tục “sổ đỏ” “sổ xanh” cũng chỉ vay được tối đa 10 triệu đồng. Đã đến lúc nông dân, nông thôn cần một cách nhìn mới của ngân hàng và các tổ chức tín dụng: rằng nông nghiệp, nông thôn nước ta đang trên đà phát triển rất cần các điều kiện sinh hoạt để xích lại gần với cuộc sống thành thị, với cơ chế thị trường. Nông thôn đang cần nhiều loại hình tín dụng để phát triển nông thôn, từng bước nâng cao thu nhập của nông dân, từ đó tạo ra sức mua, tăng sức bán cho thị trường. Về giải pháp huy động vốn ODA đây là nguồn vốn viện trợ nước ngoài rất quan trọng cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo ra năng lực sản xuất mới, đặc biệt là công nghệ chế biến và công nghệ sau thu hoạch... Một thuận lợi đối với Việt Nam trong thời gian tới là các nhà tài trong trợ cũng cam kết sẽ ưu tiên tập trung ODA vào đầu tư cho khu vực nông nghiệp và nông thôn. Để tăng tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA-vẫn được coi là quá chậm so với tiềm năng của nó cần phải có những thay đổi trong cách tiếp cận nguồn vốn này. Sau đây là một số biện pháp cụ thể: Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả ODA vào nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong thời gian tới. Nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch thu hút và sử dụng ODA theo từng ngành và từng địa phương. Các ngành, các địa phương và các đơn vị xin sử dụng vốn ODA cần tính toán chính xác hiệu quả và xác định đâỳ đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn có chọn lọc và phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Hoàn thiện các quy định về quy trình và thủ tục đầu tư. Đơn giản hoá các quy trình ra quyết định và có quy chế cụ thể với các nhà tài trợ. Trong khâu tổ chức thực hiện cần đổi mới cơ chế quản lý và năng lực điều hành cuả các cơ quan quản lý và sử dụng vốn ODA, đặc biệt là các địa phương nơi có dự án sử dụng ODA. Tất cả các dự án sử dụng vốn ODA phải thực hiện tốt quy trình đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Ưu tiên và phân bổ vốn đối ứng cho các dự án, đề ra các biện pháp chống tham nhũng để một mặt đảm bảo chất lượng công trình, mặt khác giữ được uy tín với các đối tác cung cấp ODA của nước ngoài. Có các biện pháp đồng bộ nhằm đẩy nhanh tốc độ giải ngân... Thực hiện tốt công tác nghiên cứu và thực hiện dự án, thẩm định và xét duyệt dự án, hướng dẫn đấu thầu và xét chọn nhà thầu; có chính sách và biện pháp hữu hiệu đối với công tác di dân và tái định cư, giải phóng mặt bằng kịp thời cho thực hiện dự án... Chú trọng công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ ở tất cả các cấp, cả trung ương và địa phương nơi có dự án. Nâng cao năng lực quản lý và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính và các địa phương... kịp thời sử lý các vấn đề phát sinh, bổ sung và điều chỉnh chính sách,cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện dự án đầu tư, đồng thời thực hiện tốt chức năng giám sát kiểm tra và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Vừa qua nhân chuyến thăm của thủ tướng Nhật Bản- Ông Kuzơmi đã cam kết tiếp tục hỗ trợ nguồn vốn ODA và chuyển giao công nghệ cho chính phủ và nhân dân ta bất chấp nền kinh tế lớn thứ hai thế giới- Nhật Bản đang có dấu hiệu xu hướng phát triển chững lại (Nhật Bản là nước Viện trợ ODA lớn nhất đối với nước ta). Thứ ba: Đổi mới cơ chế điều hành xuất nhập khẩu. Trước hết thủ tục xuất nhập khẩu cần đơn giản hơn nữa, tránh tình trạng chồng chéo, rườm rà trong khâu thủ tục. Ví dụ Để xuất khẩu được lương thực ra nước ngoài, mặc dù đã có đại lý và chi nhánh ở thị trường này. Nhưng khi xuất hàng đi, lại phải làm thủ mua bán với một đối tác nào đó để có thể xuất hàng trả chậm, thực ra là xuất cho chính chi nhánh của mình ở nước ngoài. Và dù là vẫn bán hàng cho chi nhánh công ty nhưng hợp đồng lại là hợp đồng ngoại. Nếu như sắp tới đây Việt Nam mở rộng giao thương với nước ngoài, các doanh nghiệp chúng ta mở nhiều chi nhánh và đại lý ở nước ngoài mà cứ phải làm như cách trên thì rất khó. Cơ chế cần có tính dài hạn, việc sửa đổi cơ chế xuất nhập khẩu nên hoàn thành trong thời gian nhanh nhất có thể. Để doanh nghiệp có thể chủ động lập kế hoạch làm ăn, ký kếtêt hợp đồng xuất nhập khẩu cả năm. Tránh tình trạng hàng tại cảng chờ thủ tục từ các cơ quan chức năng. Thứ tư: Hàng hoá nông sản, những giải pháp để gia tăng xuất khẩu, tiêu thụ Về lâu dài, các giải pháp “tạm trữ, ưu đãi lãi suất, ưu đãi thuế” chỉ là giải pháp tình thế. Nhà nước đã áp dụng mức thuế 0% với tất cả các loại nông lâm sản, xoá bỏ hầu hết các biên pháp phi thuế như đầu mối, giấy phép, hạn ngạch...để thúc đẩy xuất khẩu. Việc phải làm là tiếp cận thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Cần bố trí tham tán nông nghiệp để theo dõi thông tin và thực hiện các hoạt động giao dịch thương mại nông sản, trước mắt ở các thị trường lớn như Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Mỹ... Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn dự kiến triển khai ngay một số nội dung xúc tiến thương mại nông sản; phối hợp tổ chức các hội chợ chuyên đề về nông sản, chăn nuôi, rau quả, sản phẩm rừng... Hỗ trợ một phần kinh phí và tổ chức đầu mối giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm các nước; tổ chức các buổi tham quan vùng sản xuất, nơi trưng bày hàng hoá, hội thảo để giới thiệu với khách hàng trong và ngoài nước, giới thiệu và hướng dẫn các doanh nghiệp, hàng hoá qua trang web. Các phương tiện thông tin đại chúng nên giảm chi phí quảng cáo với hàng nông lâm sản. Các cơ sở phải đào tạo cán bộ thị trường, xúc tiến tiêu thụ nông sản giúp dân. Như vậy sẽ tiêu thụ hết lượng nông sản hàng hoá chất lượng cao làm ra. Kết luận Cơ cấu nông nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, bị chi phối bởi cơ cấu của ngành kinh tế khác, có khả năng ảnh hưởng rất lớn trên mọi phương diện về mặt kinh tế cũng như xã hội của đất nước ta. Trong điều kiện tự do hoá thương mại và bên cạnh đó cũng để chuẩn bị tiền đề đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2010, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có định hướng, chiến lược và chính sách chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hương công nghệp hoá, hiện đại hoá…...Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sẽ đóng góp một phần lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung. Đề tài “Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 20021-2010”, đã cố gắng phân tích, luận giải các nội dung nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu để phát huy các lợi thế cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, từ lý luận, thực trạng và triển vọng về thị trường của Việt Nam trên con đường tự do hoá thương mại, đề tài đã chỉ thấy những tồn tại, cơ hội, thách thức cần phải giải quyết trên con đường phát triển để tiến tới một nền nông nghiệp hàng hoá hướng mạnh vào xuất khẩu, ngày càng nâng cao khả năng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam ra thị trường thế giới và khu vực . Tuy nhiên, khoảng cách giữa mong muốn và khả năng, giữa mục tiêu và kết quả, giữa lý thuyết và thực tế lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc không ít vào cách tiếp cận và giải quyết vấn đề đang đặt ra cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và sản xuất, xuất khẩu nông sản nói riêng của Việt Nam từ nay đến năm 2010. Hy vọng rằng Việt Nam, với những tiềm năng dồi dào sẵn có trong sản xuất nông nghiệp cả về đất đai, điều kiện tự nhiên và nguồn lao động, với định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng trong việc tăng cường phát huy nội lực sẽ taọ ra những sản phẩm nông nghiệp phong phú về chủng loại, với nhiều tầng về chất lượng, có khối lượng lớn và giá trị xuất khẩu ngày càng được cải thiện, tạo nên sức lan toả mạnh mẽ của “ hương vị “ sản phẩm Việt Nam trên thị trường nông sản thế giới. Mục lục Lời mở đầu 1 phần I Cơ cấu nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp trong phát triển kinh tế I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp 3 1. Khái niệm về cơ cấu của một ngành kinh tế 3 1.2. Khái niệm về cơ cấu lao động. 5 1.3. Khái niệm cơ cấu đầu tư: 6 2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành 6 3. Cơ cấu nông nghiệp và sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. 8 3.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp: 8 3.2. Sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. 9 II. Cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 10 1. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel. 10 2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. 10 3. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. 11 3.1. Xã hội truyền thống. 12 3.2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh. 12 3.3. Giai đoạn cất cánh. 13 3.4. Giai đoạn trưởng thành 13 3.5. Giai đoạn mức tiêu dùng cao 13 4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima. 14 4.1. Cách đặt vấn đề của Harry T.Oshima 14 4.2. Bắt đầu quá trình tăng trưởng: tạo việc làm trong thời gian nhàn rỗi. 15 4.3. Hướng tới có việc làm đầy đủ 15 4.4. Sau khi có việc làm đầy đủ. 16 III. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 17 1. Vấn đề vốn trong sản xuất nông nghiệp. 18 2. Nguồn nhân lực. 19 3. Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. 20 4. Thị trường trong và ngoài nước. 20 5. Một số các yếu tố khác. 21 IV. ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 22 4.1 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế 24 4.2 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với các vấn đề xã hội 25 III. Kinh nghiệm của một số nước. 25 1. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp. 25 1.1. Các nước Nics 26 2.2. Chính sách phát triển nông nghiệp ở các nước asean 26 2. Phương hướng và bước đi của CNH-HĐH của một số nước. 27 Phần II Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông -lâm -ngư nghiệp I. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo kế hoạch 5 năm 19961997-20010 29 II. Đánh giá thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam 19961997-20010 29 A. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. 29 B. Đánh giá thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam 19961997-20010 29 1. Những thành tựu chủ yếu. 31 2. Kết quả sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. 32 2.1. Về nông nghiệp. 32 2.1.1. Sản xuất lương thực 32 2.1.2. Chăn nuôi 39 2.2. Lâm nghiệp. 40 2.3. Thuỷ sản. 42 2.3.1. Kết quả đạt được. 42 I. Đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp trong những năm qua 44 1. Những thành quả chuyển dịch cơ cấu nông, lâm ngư nghiệp 44 1.1 Cơ cấu kinh tế ngành đã có bước chuyển dịch theo hướng tích cực 44 1.2 Cơ cấu sản phẩm ngành nông, lâm, ngư nhiệp chuyển dịch theo hướng tăng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu 45 1.3 Cơ cấu chất lượng ngành sản xuất nông nghiệp dịch chuyển theo hướng nâng cao chất lượng giống cây, giống con, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập nông dân 45 2. Những tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp 46 2.1. Cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp còn lạc hậu 46 2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp còn chậm, mang tính tự phát chạy theo thị trường 46 3. Nguyên nhân tồn tại yếu kém trong chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp 47 3. Đánh giá việc thực hiên cơ cấu vốn đầu tư trong nông nghiệp. 48 3.1. Kết quả đạt được. 49 3.2. Một số tồn tại trong lĩnh vực đầu tư nông nghiệp. 51 Phần III Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp Việt Nam thời kỳ 20021-2010 54 I. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. 54 1. Định hướng phát triển. 54 II. Phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp thời kỳ 20021-2010 56 1. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp. 56 1.1 Mục tiêu chung: 56 1.2 Mục tiêu cụ thể: 57 2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp 57 2.1. Chuyển dịch cơ cấu theo ngành hàng 57 III Các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp. 66 1. Công tác quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ 66 2. Tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. 66 3. Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 67 3.1. Tiếp tục đẩy mạnh thuỷ lợi. 67 3.2 Tăng cường hệ thống thú y, bảo vệ thực vật, khuyến nông ngang trình độ trong khu vực để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển và hội nhập của nông nghiệp 67 3.3. Đẩy mạnh cơ khí hoá nông nghiệp 67 3.4. Điện khí hoá nông thôn 68 3.5. Phát triển giao thông nông thôn 68 3.6. Hệ thống thông tin ở nông thôn 68 3.7. Phát triển các chương trình phục vụ thương mại 68 3.8. Xây dựng các thị tứ, thị trấn làm trung tâm công nghiệp, thương mại, văn hoá - xã hội ở các đại bàn nông thôn 69 4. Tiếp tục đổi mới chính sách tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp 69 4.1- Chính sách đất đai 69 4.2- Chính sách thị trường : 69 4.3- Chính sách thuế: 70 4.4- Chính sách đầu tư: 70 5. Phát triển nguồn nhân lực 70 6. Tổ chức sản xuất 71 7. Một số giải pháp tước mắt. 71 Kết luận 78 Mục lục Lời mở đầu 1 phần I Cơ cấu nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp trong phát triển kinh tế I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp 3 1. Khái niệm về cơ cấu của một ngành kinh tế 3 2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành 4 3. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 7 II. Cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 7 1. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel. 7 2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. 8 3. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. 8 3.1. Xã hội truyền thống. 9 3.2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh. 9 3.3. Giai đoạn cất cánh. 10 3.4. Giai đoạn trưởng thành 10 3.5. Giai đoạn mức tiêu dùng cao 10 4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima. 11 4.1. Cách đặt vấn đề của Harry T.Oshima 11

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0014.doc
Tài liệu liên quan