Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phải phản ánh được nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Nguyên tắc này được thể hiện thông qua việc đóng góp và hưởng thụ của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Đó là người lao động và chủ sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định thì người lao động mới được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội; đồng thời Nhà nước cũng phải đóng bảo hiểm xã hội và trợ cấp giúp quỹ bảo hiểm xã hội. Người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, đó là quyền lợi của họ và họ yên tâm hơn, gắn bó hơn với doanh nghiệp. Đó cũng là lợi ích của người sử dụng lao động. Vì vậy, tham gia bảo hiểm xã hội vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm và cũng là quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Vấn đề là khi xây dựng mức hưởng của các chế độ bảo hiểm xã hội phải tương xứng với nghĩa vụ, trách nhiệm đóng góp của họ. Có như vậy mới khuyến khích các bên tích cực tham gia đóng bảo hiểm xã hội đúng thời gian, đủ số lượng.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tượng của bảo hiểm xã hội. Các nước có bề dày lịch sử phát triển bảo hiểm xã hội từ đầu thế kỷ 19 thì nhu cầu tiềm năng về bảo hiểm xã hội đã trở thành nhu cầu hiện thực vì các nước này đã thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động.
Đối với bảo hiểm xã hội, xác định được nhu cầu tiềm năng có một ý nghĩa rất lớn trong việc dự đoán số người tham gia bảo hiểm xã hội, cân dối được nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội để từ đó cân đối thu-chi, đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm xã hội.
+Nhu cầu hiện có của bảo hiểm xã hội: đó là những nhu cầu có liên quan đến đặc điểm lao động và người lao động, bao gồm: số lượng, cơ cấu lao động theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, đặc biệt là điều kiện thu nhập của người lao động có khả năng đóng bảo hiểm xã hội tạo nguồn tài chính để đảm các nhu cầu đó. Xác định nhu cầu hiện có của bảo hiểm xã hội có một ý nghĩa rất quan trọng trong dự báo quy mô, cơ cấu nguồn thu của quỹ, xác định được phương thức hoạt động của bảo hiểm xã hội.
-Nhu cầu nội tại: là các nhu cầu của người lao động đã và đang tham gia đóng và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Xác định được các loại nhu cầu nội tại nhằm điều chỉnh, bổ sung chính sách chế độ bảo hiểm xã hội, cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. Nhìn chung, khi có nhu cầu mới phát sinh phải tính đến ngay nguồn tài chính để chi cho nhu cầu đó. Nếu cần thiết phải điều chỉnh mức thu, đối tượng thu để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu mới phát sinh.
Những biểu hiện cụ thể của từng nhu cầu nói trên phải được lượng hoá thành nhu cầu chung về bảo hiểm xã hội trong một thời kỳ nhất định. Cán bộ tác nghiệp bảo hiểm xã hội phải tính toán, tập hợp trên cơ sở số đông các nhu cầu từng cá nhân để xác định nhu cầu chung về bảo hiểm xã hội toàn xã hội. Đó là các chi phí phát sinh về bảo hiểm xã hội mà đòi hỏi phải có một quỹ tài chính được hình thành đủ khả năng chi trả cho các nhu cầu đó. Do đó cần thiết phải dự báo nhu cầu bảo hiểm xã hội.
Do đặc điểm nhu cầu bảo hiểm xã hội rất phong phú, đa dạng và đan xen lẫn nhau nên việc dự báo nhu cầu bảo hiểm xã hội rất khó khăn, phức tạp. Để dự báo được nhu cầu bảo hiểm xã hội phải dựa trên các cơ sở sau đây:
-Căn cứ vào khả năng đáp ứng nhu cầu của bản thân người lao động và gia đình họ.
Nếu người lao động không có đủ thu nhập đủ để nuôi sống bản thân và gia đình họ thì không thể nói đến nhu cầu bảo hiểm xã hội. Vì vậy các chỉ tiêu để tính toán nhu cầu bảo hiểm xã hội gồm:
+Thu nhập bình quân của một hộ gia đình hàng năm hoặc thu nhập bình quân một người.
+Cơ cấu thu nhập theo ngành nghề, khu vực và tính ổn định của nó.
+Chi tiêu bình quân một hộ gia đình hàng năm hoặc chi tiêu bình quân một người.
+Cơ cấu chi tiêu của từng ngành, từng khu vực và tính ổn định của nó.
+Mức độ tích luỹ.
Mối quan hệ giữa thu nhập, chi tiêu, tích luỹ là căn cứ để dự báo nhu cầu xã hội. Nếu thu nhập của một hộ gia đình bằng hoặc thấp hơn chi tiêu thì đương nhiên chưa có nhu cầu về bảo hiểm xã hội vì không có tích luỹ để tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là một vấn đề vừa mang tính lý luận lại vừa có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Một đất nước mà 80% dân số làm nghề nông. Khi người dân chưa đủ lương thực để ăn thì khó có nhu cầu đóng bảo hiểm xã hội để được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội quy định. Nếu thu nhập của một hộ gia đình lớn hơn chi tiêu thì mới có điều kiện tích luỹ và có nhu cầu về bảo hiểm xã hội. Khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu càng lớn thì nhu cầu bảo hiểm xã hội càng phong phú vì người lao động có điều kiện tham gia đóng bảo hiểm xã hội để bảo hiểm cho bản thân và gia đình họ.
Đây là căn cứ có ý nghĩa quyết định nhất để dự báo nhu cầu bảo hiểm xã hội, làm cơ sở để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội trong các thành
phần kinh tế.
-Căn cứ vào khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm xã hội của xã hội.
Để tính được khả năng này cần phải có các chỉ tiêu sau:
+Thu nhập quốc dân hoặc tổng sản phẩm xã hội (GDP) hoặc chỉ tiêu mang tính bình quân đầu người.
+Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.
+Thu nhập dòng của các cơ sở kinh tế hàng năm.
+Các chỉ tiêu liên quan khác.
Các chỉ tiêu này nhằm xác định mức tích luỹ hàng năm của nền kinh tế quốc dân và các cơ sở kinh tế. Nếu có tích luỹ thì Nhà nước và các cơ sở kinh tế (chủ sử dụng lao động) mới có điều kiện đóng và trợ giúp cho quỹ bảo hiểm xã hội. Từ đó, mới thực hiện được mối quan hệ ba bên: Nhà nước, chủ sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo tính an toàn, ổn định và phát triển cuả quỹ bảo hiểm xã hội.
*Dự báo số người tham gia bảo hiểm xã hội:
Số người tham gia bảo hiểm xã hội là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc đảm bảo an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến các giải pháp để tăng số lượng người đóng bảo hiểm xã hội. Như ở Malayxia có 8,8 triệu người lao động thì có 8 triệu người tham gia đóng bảo hiểm xã hội, chiếm 90%; Mỹ có 95% số lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Đối với nước ta là một nước có tốc độ phát triển dân số khá nhanh. Theo tính toán của các nhà nhân khẩu học, để tăng dân số từ 17 triệu người lên 34 triệu người phải mất 34 năm, nhưng để tăng dân số từ 30 triệu người lên 60 triệu người thì thời gian lại rút ngắn chỉ còn 25 năm. Đây là một áp lực lớn đối với việc phát triển kinh tế-xã hội nhưng lại là điều kiện tiềm năng lớn về nhu cầu bảo hiểm xã hội.
Hiện nay nước ta có khoảng hơn 80 triệu người trong đó có khoảng 56 triệu người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi). Nhưng số người tham gia bảo hiểm xã hội tính đến hết năm 2002 mới có khoảng 6 triệu người, bằng hơn khoảng 10% số người trong độ tuổi lao động, còn 90% số người trong độ tuổi lao động là chưa tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Đây là tiềm năng rất lớn để tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội. Vì vậy cần có biện pháp dự báo được số người tham gia bảo hiểm xã hội trong thời gian tới. Trên cơ sở dự báo được số người tham gia đóng bảo hiểm xã hội mới dự báo được nguồn quỹ, mới cân đối được thu-chi tài chính bảo hiểm xã hội.
Để dự báo được số lượng người tham gia đóng bảo hiểm xã hội trong một thời kỳ nào đó phải căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau:
-Tốc độ phát triển dân số hàng năm, tỷ lệ chết hàng năm.
-Tổng số lao động trong độ tuổi trong đó phân rõ nam, nữ theo từng độ tuổi.
-Tổng số lao động của các ngành, của từng vùng, lao động trong khu vực Nhà nước, lao động trong các thành phần kinh tế khác, lao động tự do...
-Tuổi thọ bình quân.
-Thu nhập bình quân đầu người toàn xã hội và phân theo từng ngành.
-Tỷ lệ thất nghiệp hàng năm.
...
3.2.1.2. Nội dung cần hoàn thiện chính sách thu BHXH
*Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
Như trên đã trình bày, hiện nay nước ta còn 90% số người trong độ tuổi lao động chưa tham gia đóng bảo hiểm xã hội vì vậy cần thiết phải có biện pháp tăng nhanh số lượng người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Đây là giải pháp cơ bản nhất để cân đối thu-chi quỹ bảo hiểm xã hội, ổn định tài chính bảo hiểm xã hội.
Hiện nay đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm:
Các đối tượng đang thực hiện theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ:
-Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
-Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
-Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt nam.
-Người làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
-Người làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang.
-Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử và những người làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
-Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Các đối tượng trên đều được tham gia và hưởng 5 chế độ BHXH hiện hành.
Các đối tượng thực hiện theo Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ:
-Quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí (bản thân không phải đóng BHXH ) được hưởng 2 chế dộ BHXH là trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và chế độ tử tuất.
Các đối tượng thực hiện theo Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ:
-Bí thư Đảng uỷ xã
-Phó Bí thư Đảng uỷ xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Chủ tịch UBND xã.
-Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Phó Chủ tịch UBND xã, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Trưởng các đoàn thể (Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản), xã đội trưởng, trưởng công an xã.
-Uỷ viên UBND xã.
-4 chức danh chuyên môn: địa chính, tư pháp, tài chính kế toán, văn phòng UBND.
Nên mở rộng thêm các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội như sau:
-Người làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động.
-Người làm việc trong các hợp tác xã phi nông nghiệp
-Người làm việc thuộc các đơn vị, cơ sở ngoài quốc doanh, các hộ gia đình đăng ký kinh doanh có thuê mướn lao động.
-Người nước ngoài làm việc tại Việt nam lâu dài.
*Bổ sung hoàn thiện mức thu bảo hiểm xã hội
Hiện nay mức thu bảo hiểm xã hội của nước ta là 20% trên tiền lương, tiền công của người lao động trong đó người lao động đóng 5%, chủ sử dụng lao động đóng 15% để chi trả cho 5 chế độ bảo hiểm xã hội. Nếu kể cả 3% bảo hiểm y tế thì thu các chế độ bảo hiểm xã hội là 23%. Nếu nâng mức đóng của người lao động lên nữa sẽ ảnh hưởng tới đời sống của người lao động vì mức thu nhập bình quân hiện nay chỉ từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng/tháng/người, sau khi đóng bảo hiểm xã hội và các khoản đóng góp khác, người lao động chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu. Đối với chủ sử dụng lao động tuy khoản đóng góp là 17% trên tổng quỹ tiền lương (trong đó bảo hiểm xã hội là 15%, bảo hiểm y tế là 2%) được hạch toán vào giá thành sản phẩm nhưng trong điều kiện sức mua của thị trường có hạn (sức mua từ thu nhập từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng/tháng /người) thì khó có thể tăng mức đóng góp của chủ sử dụng lao động. Nếu tăng mức đóng bảo hiểm xã hội lên sẽ tăng giá thành sản phẩm người tiêu dùng không chấp nhận, dẫn đến xí nghiệp bị thua lỗ do vậy sẽ không còn khả năng đóng bảo hiểm xã hội.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự nâng cao chất lượng đời sống của người lao động thì bảo hiểm xã hội H cũng phải mở rộng thêmcác chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội. Việc mở rộng thêm các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội cũng phải tính đến nguồn bù đắp. Lúc đó phải tính đến việc tăng phí đóng góp bảo hiểm xã hội cho tương xứng với việc hưởng thêm các chế độ trợ cấp mới. Ví dụ, nếu Nhà nước áp dụng thêm chế độ trợ cấp thất nghiệp thì phải thu thêm một tỷ lệ nhất định, có thể là 5% trong đó người lao động phải đóng thêm 1%, chủ sử dụng lao động phải đóng thêm 4%, mức đóng này còn là thấp so với các nước trong khu vực. Ví dụ, Thái lan 15% trên tổng tiền lương được thu cho chế độ trợ cấp thất nghiệp trong đó người lao động đóng 5%, chủ sử dụng lao động đóng 5% còn Nhà nước đóng 5%.
Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác thu, xây dựng quy trình thu và quản lý thu hợp lý nhằm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, hạn chế đến mức thấp nhất việc thất thu của quỹ.
*Thi hành bảo hiểm xã hội tự nguyện
Hiện nay, nước ta chưa thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện nhưng nhu cầu của tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đang ngày càng tăng cao nhất là lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, một lĩnh vực chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nước ta. Theo số liệu điều tra của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội kết hợp với tổ chức ILO điều tra ở khu vực nông nghiệp tại Hà tây, Hải dương, Hà nội thì có khoảng 83,3% lao động muốn tham gia bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên do đặc thù trong sản xuất và tiêu dùng của ngành nông nghiệp không thể áp dụng ngay biện pháp bắt buộc cho tất cả lao động nông nghiệp mà trước mắt chỉ áp dụng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện cho những đối tượng có điều kiện, thu nhập gia đình lớn hơn chi tiêu, có tích luỹ. Nguyên tắc tài chính đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện là bảo đảm cân đối thu-chi, có đóng mới có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít. Đương nhiên thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện hoàn toàn không giống với một quỹ tiết kiệm. Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện không thể tự ý muốn rút tiền lúc nào cũng được, họ phải đóng góp suốt cả thời gian dài đến khi nghỉ hưu. Trong suốt thời gian đó người lao động không được rút tiền ra khỏi quỹ chỉ khi về hưu mới được hưởng chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định.
Hình thức BHXH tự nguyện nên áp dụng đối với các đối tượng sau:
-Xã viên hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
-Người lao động tự do.
-Những người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc muốn tham gia thêm bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Mức đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện
Dự kiến nếu người lao động được hưởng 2 chế độ trợ cấp là hưu trí và tử tuất thì ít nhất cũng phải đóng 15% tiền lương hoặc thu nhập. Tuy nhiên việc tính toán mức thu nhập của người lao động nông nghiệp và lao động tự do rất phức tạp lại không ổn định vì vậy có thể áp dụng một hoặc một số mức thu nhập chuẩn, chẳng hạn lấy mức thu nhập tương đương mức lương tối thiểu để làm cơ sở tính mức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Việc tính toán để ban hành chính sách tài chính đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện là một vấn đề khó và phức tạp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng cũng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc cân đối thu-chi.
3.2.2. Hoàn thiện chính sách chi BHXH
3.2.2.1. Nguyên tắc cơ bản để hoàn thiện chính sách chi BHXH
Thu, chi bảo hiểm xã hội là những hoạt động chính của công tác tài chính bảo hiểm xã hội, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính bảo hiểm xã hội chủ yếu cũng là hoàn thiện cơ chế thu-chi bảo hiểm xã hội. Trong đó, hoàn thiện cơ chế chi bảo hiểm xã hội chính là quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ tài chính để đảm bảo quyền lợi của người lao động, quyền lợi đó tương xứng với nghĩa vụ đóng góp của họ. Cơ chế chi trả bảo hiểm xã hội còn gắn với công tác quản lý chi nhằm chi đúng đối tượng, chi đủ số lượng, đảm bảo thời gian, không để thất thoát và có hiệu quả cao. Để thực hiện được nội dung này cần phải dựa trên các nguyên tắc làm cơ sở cho việc hoàn thiện cơ chế chi trả bảo hiểm xã hội như sau:
-Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, xuyên suốt toàn bộ các chính sách, chế độ trợ cấp cho người lao động vì mục đích của bảo hiểm xã hội là nhằm ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ. Vì vậy, mức chi trợ cấp bảo hiểm xã hội phải đảm bảo mức sống tối thiểu cơ bản cho người lao động, mức trợ cấp quá thấp thì bảo hiểm xã hội không còn ý nghĩa “đảm bảo” nữa. Nếu mức trợ cấp bảo hiểm xã hội quá cao vượt khả năng chi trả của quỹ sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng chi của quỹ, mất cân đối quỹ, quỹ bảo hiểm xã hội sẽ dần dần đến phá sản.
-Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phải thấp hơn mức lương và tiền công khi đang làm việc của người lao động. Nguyên tắc này đã được quy định cụ thể tại Công ước 102 của Tổ chức Lao động Quốc té (ILO), mức phổ biến bằng 40%-50% tiền lương hoặc tiền công làm cơ sở tính bảo hiểm xã hội. Nguyên tắc này đã được hầu hết các nước thành viên của ILO áp dụng cụ thể vào nước mình.
Đối với nước ta, áp dụng nguyên tắc này là nhằm khuyến khích những
người đang làm việc, phân biệt mức hưởng thụ rõ ràng giữa người làm việc với người nghỉ hưu hoặc ốm đau, tai nạn... Đây là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc phân phối nói chung đó là thể hiện sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Tuy nhiên, do tiền lương của nước ta còn thấp, nếu vận dụng mức hưởng bằng 40% hoặc 50% như quy định tại Công ước 102 của tổ chức ILO thì không đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Vì vậy tỷ lệ trợ cấp các chế dộ bảo hiểm xã hội ở nước ta phần lớn là cao hơn mức quy định tại Công ước 102.
-Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phải phản ánh được nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Nguyên tắc này được thể hiện thông qua việc đóng góp và hưởng thụ của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Đó là người lao động và chủ sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định thì người lao động mới được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội; đồng thời Nhà nước cũng phải đóng bảo hiểm xã hội và trợ cấp giúp quỹ bảo hiểm xã hội. Người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, đó là quyền lợi của họ và họ yên tâm hơn, gắn bó hơn với doanh nghiệp. Đó cũng là lợi ích của người sử dụng lao động. Vì vậy, tham gia bảo hiểm xã hội vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm và cũng là quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Vấn đề là khi xây dựng mức hưởng của các chế độ bảo hiểm xã hội phải tương xứng với nghĩa vụ, trách nhiệm đóng góp của họ. Có như vậy mới khuyến khích các bên tích cực tham gia đóng bảo hiểm xã hội đúng thời gian, đủ số lượng.
-Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phải dựa trên cơ sở đóng bảo hiểm xã hội. Cơ sở đóng bảo hiểm xã hội làm căn cứ hoạch định mức trợ cấp bao gồm cả mức đóng và thời gian đóng. Hiện nay, ở nước ta tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội của tất cả người lao động và chủ sử dụng lao động là như nhau (trừ các đối tượng ở phường, xã tỷ lệ đóng có thấp hơn và được hưởng ít chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội hơn). Về thời gian đóng bảo hiểm xã hội, nếu thời gian đóng bảo hiểm xã hội nhiều hơn tức là tổng mức đóng bảo hiểm xã hội lớn hơn thì hưởng tỷ lệ trợ cấp bảo hiểm xã hội cao hơn và ngược lại. Tuy nhiên, mức hưởng cao, thấp cũng phải nằm trong giới hạn quy định. Nguyên tắc này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tài chính bảo hiểm xã hội: có đóng mới có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, không đóng không hưởng.
-Phải chi đúng, chi đủ, chi kịp thời, đảm bảo an toàn và hiệu quả. Đây là những yêu cầu của công tác chi trả cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đồng thời cũng là những cơ sở có tính nguyên tắc trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý chi trả, là nguyên tắc tài chính bảo hiểm xã hội.
+Chi đúng đối tượng. Đối tượng có tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì mới được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Thực hiện việc chi đúng cho đối tượng cũng là thực hiện sự công bằng trong hưởng thụ các chế độ bảo hiểm xã hội nhằm loại trừ các trường hợp giả mạo hồ sơ, giấy tờ để được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Nếu như trước đây, việc giả mạo hồ sơ giấy tờ chủ yếu để được hưởng chế độ hưu trí (hưu dởm) thì hiện nay hiện tượng đó lại xuất hiện cả trong chi trả chế độ ốm đau, đặc biệt là khu vực sản xuất vật chất thiếu việc làm. Vì vậy, đi đôi với việc hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội cũng phải hoàn thiện công tác quản lý. Bằng các công cụ quản lý hữu hiệu để đảm bảo chi đúng đối tượng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
+Chi đủ số lượng. Nội dung chính của nguyên tắc này là đối tượng tham gia đóng bảo hiểm xã hội nhiều thì được hưởng mức cao, đóng ít thì được hưởng mức thấp, tỷ lệ thương tật cao thì phải được hưởng mức trợ cấp cao và ngược lại. Khi đã xác định đúng tỷ lệ trợ cấp phải tổ chức chi trả đủ số lượng. Để thực hiện được nguyên tắc này đòi hỏi công tác quản lý phải được tổ chức đồng bộ từ khâu xác định chính xác tỷ lệ thương tật, bệnh tật đến khâu xét duyệt hồ sơ được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội và cuối cùng là khâu tổ chức chi trả. Công tác quản lý ở từng khâu không tốt sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tượng. Điều khó khăn lớn nhất cho công tác xét duyệt trợ cấp của ngành bảo hiểm xã hội là việc xác định tỷ lệ thương tật, xác định đúng bệnh tật của đối tượng lại do ngành y tế đảm nhiệm. Nếu không có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngành bảo hiểm xã hội Việt nam và ngành y tế thì rất có thể xảy ra các hiện tượng tiêu cực. Xác dịnh không chính xác tỷ lệ thương tật thì ảnh hưởng đến quyền lợi đối tượng và tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội. Vì vậy phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế và ngành bảo hiểm xã hội Việt nam trong việc xác định tỷ lệ thương tật, khám chữa bệnh cho đối tượng. Chủ quản ngành bảo hiểm xã hội Việt nam cũng phải không ngừng hoàn thiện các biện pháp quản lý công tác chi trả như: quy trình chi trả hợp lý, chứng từ sổ sách kế toán đặc biệt là bộ chứng từ gốc để thanh toán.
+Chi trả kịp thời là nhằm giảm bớt khó khăn, đảm bảo ổn định cuộc sống cho đối tượng. Nội dung của nguyên tắc này là bảo hiểm xã hội Việt nam phải quy định rõ ràng thời gian chi trả và tổ chức thực hiện chi trả đúng thời gian đó. Ví dụ: đối với các chế độ chi trả hàng tháng thì thời gian để chi trả đến tay đối tượng hợp lý nhất là thực hiện vào đầu tháng. Còn các chế độ ốm đau, thai sản nên quy định số ngày cụ thể từ khi nhận đủ giấy tờ, hồ sơ hợp lệ đến khi phải tổ chức chi trả đến tay đối tượng... Trên cơ sở quy định thời gian đó, bảo hiểm xã hội Việt nam tổ chức các hình thức chi trả kịp thời, thuận lợi không gây phiền hà cho đối tượng.
+An toàn, hiệu quả là một trong những yêu cầu cần thiết được đặt ra đối với công tác chi trả nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thất thoát, mất mát tiền của nhưng đồng thời cũng giảm được chi phí, tiết kiệm cho quỹ BHXH. Để đảm bảo an toàn và có hiệu quả cho côn tác chi trả phải đổi mới hình thức chi trả, sử dụng mô hình chi trả thuận lợi nhất, an toàn, rẻ tiền và hiệu quả cao, bố trí các trang thiết bị, phương tiện cần thiết phục vụ cho công tác chi trả.
3.2.2.2. Nội dung cần hoàn thiện chính sách chi Bảo hiểm xã hội
*Về tỷ lệ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội
Nhìn tổng quát thì trên mặt bằng quy định tại Công ước 102 của ILO và kinh nghiệm của các nước khác thì tỷ lệ hưởng bảo hiểm xã hội ở nước ta là cao trong khi mức đóng bảo hiểm xã hội của nước ta lại thấp hơn các nước và công tác đầu tư tăng trưởng quỹ lại chưa phát triển còn bị hạn chế rất nhiều. Từ thực tế đó có thể càng khó bảo toàn quỹ bảo hiểm xã hội, trong tương lai không xa quỹ bảo hiểm xã hội sẽ mất cân đối thu và chi lúc đó Ngân sách Nhà nước tất yếu sẽ phải trợ giúp mới đảm bảo chi trả đủ cho các đối tượng. Để hạn chế sự mất cân đối giữa thu và chi của quỹ ngay từ bây giờ phải xem xét mức hưởng và điều kiện hưởng của một số chế độ.
-Về trợ cấp hưu trí:
Điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí ở nước ta: Điều 145 Bộ Luật Lao động quy định: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có thời gian đóng BHXH từ 20 năm. Quy định điều kiện nghỉ hưu như vậy là phù hợp tình hình thực tế nước ta và phù hợp với đa số các nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong một số ngành nghề đặc thù, tuổi về hưu lại quá thấp, có trường hợp như quân đội 38-40 tuổi đã về. Hoặc phổ biến đối với các ngành nghề nặng nhọc, độc hại được Nhà nước cho phép về hưu trước 5 tuổi so với quy định. Nghị định 93/CP bổ sung đối với nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi có đủ 30 năm đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện viết đơn xin nghỉ hưu cũng được giải quyết. Như vậy trên thực tế Nhà nước cho phép người lao động được nghỉ hưu trước 5 tuổi nếu người lao động có đủ số năm đóng bảo hiểm xã hội và tự nguyện về hưu. Việc giảm tuổi nghỉ hưu theo Nghị định 93/CP còn có ý nghĩa cân đối cung cầu về lao động trong giai đoạn hiện nay. Nhưng giảm 5 tuổi về hưu của người lao động lại có ảnh hưởng rất lớn đến cân đối quỹ bảo hiểm xã hội vì các lý do sau:
+Giảm 5 năm đóng bảo hiểm xã hội
+Tăng chi lương hưu cho người lao động thêm 5 năm (tính theo bình quân)
+Tăng chi phí mua bảo hiểm y tế cho người về hưu thêm 5 năm nữa.
Theo số liệu thu-chi bảo hiểm xã hội năm 1999, bình quân một người đóng bảo hiểm xã hội trong 1 năm được 998.000 đồng (lấy tròn là 1.000.000 đồng), trong khi đó người về hưu phải chi bình quân một năm là 3.500.000 đồng. Con số này cũng nói lên người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội 3,5 năm mới đủ tiền để nuôi bản thân trong 1 năm khi về hưu hoặc phải có 3 người tham gia đóng bảo hiểm xã hội mới nuôi được 1 người về hưu. Như vậy nếu giảm tuổi về hưu 5 năm cũng có nghĩa là quỹ bảo hiểm xã hội sẽ phải giảm bằng 22,5 năm đóng bảo hiểm xã hội của một người. Nếu tính bằng tiền thì quỹ bảo hiểm xã hội sơ bộ sẽ phải chi thêm hàng ngàn tỷ đồng, tương đương 1/4 số thu bảo hiểm xã hội của năm 1999. Đây là vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến quỹ bảo hiểm xã hội. Tổ chức ILO cũng đã khuyến cáo đến các nước thành viên về ảnh hưởng của việc giảm tuổi nghỉ hưu đến quỹ bảo hiểm xã hội. Hiện nay xu hướng của các nước trên thế giới là tăng tuổi về hưu. đối với nước ta cũng phải tính đến việc tăng tuổi nghỉ hưu để đảm bảo cân đối quỹ.
-Về tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí.
Theo Điều 67 Công ước 102 của ILO quy định: người về hưu có 1 vợ được hưởng 40% tiền lương. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, người lao động có mức thu nhập cao, tích luỹ lớn thì tỷ lệ trợ cấp hưu trí thường là thấp hơn ở những nước có thu nhập thấp. Ví dụ ở Pháp: trợ cấp hưu trí bằng 50% tiền lương của người lao động trước khi nghỉ hưu. Nhưng mức trợ cấp 50% đó còn được cộng thêm các chính sách xã hội được đảm bảo như: nhà ở, trợ cấp gia đình... để đảm bảo đời sống tối thiểu của người nghỉ hưu và còn nuôi thêm 1vợ. Đối với nước ta, dựa trên mức lương trung bình 300.000đồng/tháng mà quy định mức trợ cấp hưu trí từ 40% đến 50% tiền lương thì rõ ràng không thể đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động. Vì vậy, trong thời gian trước mắt, nước ta chưa thể kéo tỷ lệ trợ cấp hưu trí xuống thấp như mức quy định tại Công ước 102 của ILO được. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của người lao động được tăng cao lúc đó sẽ nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ trợ cấp hưu trí xuống để tạo điều kiện cho việc cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. Nhìn lại lịch sử phát sinh và phát triển bảo hiểm xã hội ở nước ta trong thời gian vừa qua cũng có thời kỳ Nhà nước quy định tỷ lệ trợ cấp hưu trí bằng 50% tiền lương. Đó là thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nhưng chính sách này chưa được thực hiện thì nước ta lại bước vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
-Về trợ cấp ốm đau, thai sản.
Vấn đề cơ bản cần phải hoàn thiện đối với chế độ này là cần phải quy định thời gian dự bị tức là bổ sung điều kiện để hưởng chế độ trợ cấp này.
Kinh nghiệm một số nước cho thấy họ cũng quy định điều kiện và mức hưởng các chế độ này rất chặt chẽ. Như ở Thái lan mức đóng BHXH ốm đau, thai sản là 4,5% tiền lương nhưng chế độ ốm đau chỉ được hưởng 50% tiền lương và phải có thời gian đóng bảo hiểm xã hội dự bị là 90 ngày trong thời gian trước khi ốm 15 tháng mới được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau và phải đóng BHXH không ít hơn 210 ngày trong thời kỳ 15 tháng trước khi sinh con thì mới được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, mức hưởng là 50% tiền lương trong vòng 60 ngày cho mỗi lần sinh con và được trợ cấp cho 2 con (Điều 65, 67 Luật An sinh xã hội hiện hành của Thái lan).
ở nước ta, trước năm 1975, Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam thực hiện hình thức khoán chi cho 2 chế độ này. Từ ngày 1/1/1995, Bảo hiểm xã hội Việt nam thực hiện chi trả theo chứng từ thực tê. Trên cơ sở chứng từ thu, chi thực tế do đơn vị sử dụng lao động trực tiếp chi, hàng tháng Bảo hiểm xã hội Việt nam quyết toán cho đơn vị sử dụng lao động theo chứng từ chi thực tế. Do đổi mới cơ chế, nên thời gian đầu người lao động chưa quen, cho rằng Bảo hiểm xã hội Việt nam gây khó dễ phiền hà. Nhưng đến nay, người lao động và người sử dụng lao động đều đã quen với cơ chế mới. Đến nay, cơ chế thực chi, thực thanh toán cũng đã bộc lộ những mặt hạn chế. Một số đơn vị, đặc biệt là các đơn vị sản xuất kinh doanh thiếu việc làm, người lao động đã lạm dụng chế độ trợ cấp ốm đau để tăng thêm thu nhập khi không có việc làm, dẫn đến tiền chi chế độ ốm đau, thai sản tăng lên rất nhanh có đơn vị tăng lên 5%, thậm chí lên 10% vượt cả mức đóng bảo hiểm xã hội. Trước tình hình thực tế đó cần phải tăng cường công tác kiểm tra ở các đơn vị sử dụng lao động đồng thời Nhà nước cần quy định ngay thời gian dự bị bổ sung cho hai chế độ này.
*Về công tác quản lý chi bảo hiểm xã hội
Với mục tiêu chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và đảm bảo an toàn, hiệu quả công tác quản lý chi cho các đối tượng bảo hiểm xã hội trong thời gian tới cần tập trung đổi mới hoàn thiện các vấn đề chủ yếu sau:
-Hoàn thiện công tác chi trả cho các đối tượng. Hiện nay, công tác chi trả hàng tháng cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội được thực hiện chủ yếu bằng 2 hình thức:
+Chi trả trực tiếp.
+Chi trả qua đại lý.
Trong điều kiện nước ta chưa thực hiện việc mở tài khoản cá nhân đến từng người thì hai hình thức chi trả này vẫn phải được áp dụng trong hệ thống chi trả bảo hiểm xã hội. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương có thể vận dụng các hình thức chi trả cho phù hợp, nhằm đảm bảo chi trả kịp thời, an toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên ngoài hai hình thức chi trả truyền thống trên, trong tình hình nước ta còn nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp giật... mà phương tiện chuyển trở chuyên dụng cho vận chuyển tiền mặt đến các địa điểm chi trả lại còn thiếu thì cần thiết phải cải tiến thêm một bước các hình thức chi trả. Đó là mở thêm tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng nông nghiệp liên xã (ngân hàng cấp 4) để rút ngắn quãng đường vận chuyển tiền mặt đến các địa điểm chi trả. Đối với các phường, xã có điều kiện thì có thể mở rộng hình thức chi trả trực tiếp, có thể dùng lệ phí chi và lệ phí thu để ký hợp đồng lâu dài với cán bộ chuyên trách làm công tác bảo hiểm xã hội tại xã, phường. Mỗi xã, phường có thể ký hợp đồng với 1 hoặc 2 người làm 2 nhiệm vụ chủ yếu: thu bảo hiểm xã hội ở xã, phường và trực tiếp chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở xã, phường. Phương hướng hoàn thiện này rất phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động bảo hiểm xã hội ở cấp xã, phường mà vẫn có hiệu quả, không làm tăng chi phí.
3.2.3. Hoàn thiện khoán chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam
3.2.3.1. Nội dung của chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam
Nội dung của chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam bao gồm:
-Chi phí cho người lao động bao gồm lương và các khoản có tính chất lương: tổng quỹ lương được xác định trên cơ sở tổng số biên chế được giao và ngạch bậc của cán bộ, công chức quy định tại Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ và các chế độ liên quan đến chính sách tiền lương của Nhà nước.
-Kinh phí quản lý hành chính bao gồm: chi hành chính, chi nghiệp vụ và chi khác được xác định trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn, chế độ theo quy định của Nhà nước. Cụ thể các khoản chi: thanh toán các dịch vụ công cộng, mua vật tư, văn phòng phẩm, chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội nghị, công tác phí, chi đoàn ra, đoàn vào, chi sửa chữa thường xuyên...
-Chi đặc thù của ngành bảo hiểm xã hội như: chi phí thu bảo hiểm xã hội, chi phí chi bảo hiểm xã hội, chi phí chuyển tiền và các chi phí đặc thù khác theo quy định của Chính phủ.
Khoán chi hoạt động bộ máy ngành Bảo hiểm xã hội phải đi liền với khoán biên chế. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7, khoá VIII đã chỉ rõ: “Chỉ đạo thí điểm việc khoán biên chế và chi phí hành chính ổn định một số năm để khuyến khích việc giảm biên chế và tiết kiệm chi phí hành chính”. Như vậy, khoán biên chế và khoán kinh phí hoạt động là một trong những nội dung được quan tâm trong chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Thực hiện khoán biên chế tức là khoán quỹ lương đi đôi với việc khoán chi phí hành chính bởi lẽ tổng quỹ tiền lương bao gồm lương và các khoản có tính chất lương. Chi phí hành chính bao gồm các khoản chi hành chính, chi nghiệp vụ được tính trên cơ sở biên chế được giao. Vì vậy, khoán biên chế và khoán chi quản lý bộ máy phải đảm bảo yêu cầu:
-Không tăng biên chế của đơn vị và không làm tăng tổng kinh phí so với trước khi chưa khoán.
-Bảo đảm được chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, hoàn thành công việc được giao với chất lượng không được thấp hơn trước khi giao khoán.
Mục tiêu của khoán biên chế và khoán chi hoạt động bộ máy là để khuyến khích việc giảm biên chế và tiết kiệm chi phí hành chính. Phần kinh phí tiết kiệm được có thể bổ sung: chi quỹ phúc lợi, khen thưởng, cải thiện đời sống cán bộ công chức, chi cho công tác đào tạo, lập quỹ dự phòng...
Mức khoán kinh phí hoạt động bộ máy được xác định trên cơ sở biên chế và mức chi bình quân đầu người.
3.2.3.2. Phương án khoán chi bộ máy BHXH Việt nam
Để thực hiện chủ trương khoán chi và khoán biên chế một cách hiệu quả, ngành BHXH phải thực hiện tốt những nội dung sau:
-Toàn ngành phải phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, quản lý tài chính chặt chẽ, chi tiêu đúng chế độ, đúng định mức, tiêu chuẩn quy định. Sử dụng kinh phí có hiệu quả. Quán triệt đầy đủ các quy định trong các văn bản của Thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính và Bảo hiểm xã hội Việt nam. Xây dựng và tổ chức thảo luận phương án khoán chi, kế hoạch triển khai cụ thể của đơn vị với tinh thần dân chủ, công khai để mọi người cùng thống nhất thực hiện.
-Hạn chế tối đa việc tuyển dụng thêm biên chế. Trường hợp thật cần thiết cần tuyển dụng thêm thì phải thực hiện đúng quy định và nằm trong số biên chế được giao.
-Rà soát lại chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị, từng bộ phận trong đơn vị; xây dựng lề lối làm việc, phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, từng đơn vị. Bố trí sắp xếp cán bộ, viên chức đúng người đúng việc. Xây dựng khối lượng công việc và giao nhiệm vụ cụ thể từng cán bộ, công chức, viên chức theo đúng chức danh của họ.
-Tăng cường tiền lương, tiền công cho cán bộ viên chức trong ngành (không quá 1 lần tiền lương theo quy định) phải căn cứ vào số kinh phí tiết kiệm được và kết quả lao động của từng đơn vị, từng cá nhân. Có chế độ thưởng, phạt thích đáng để khuyến khích từng đơn vị. Các cá nhân mắc phải vi phạm, khuyết điểm trong công tác thì không thực hiện tăng tiền lương. Những cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong nghành thì thưởng xứng đáng.
-Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tiết kiệm kinh phí đối với những khoản chi điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, tiếp khách, hội nghị, công tác phí ...
3.2.4. Hoàn thiện quản lý quỹ và thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ
3.2.4.1. Nguyên tắc quản lý quỹ
Từ ngày 1/1/1995, quỹ Bảo hiểm xã hội Việt nam được quản lý thống nhất, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ trong các trường hợp mất cân đối thu-chi, quỹ không có khả năng thanh toán để bảo vệ lợi ích người lao động. Việc hình thành quỹ BHXH tập trung, thống nhất, hạch toán độc lập và giao cho BHXH Việt nam quản lý đánh dấu một bước ngoặt trong cải cách BHXH nước ta. Mặt khác, quỹ còn được quản lý theo cơ chế tự quản 3 bên (Nhà nước, chủ sử dụng lao động, người lao động) mà đại diện là Hội đồng quản lý BHXH Việt nam là phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta.
Từ khi quỹ được quản lý thống nhất và hạch toán độc lập, số thu của quỹ ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước, việc chi trả cho đối tượng được kịp thời, đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng và an toàn, hiệu quả.
Đánh giá chung mô hình tổ chức quản lý quỹ tập trung thống nhất vào một đầu mối là phù hợp với thực tế nước ta và phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới. Đây là một thành công bước đầu trong công cuộc cải cách Bảo hiểm xã hội ở nước ta. Trong thời gian tới, quỹ Bảo hiểm xã hội Việt nam nhất thiết phải được quản lý tập trung thống nhất vào một đầu mối, không chia nhỏ quỹ cho các Bộ, ngành quản lý.
Về vai trò của Nhà nước đối với quỹ BHXH Việt nam:
Theo Bộ Luật Lao động, Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995, Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995, Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đều thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với quỹ Bảo hiểm xã hội. ở các mặt sau:
-Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc khu vực Nhà nước thì hàng tháng với tư cách là người chủ sử dụng lao động, Bộ tài chính thay mặt cho Nhà nước chuyển tiền về các đơn vị để các đơn vị đó đóng bảo hiểm xã hội theo quy định.
-Nhà nước hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội trong các trường hợp mất cân đối thu-chi quỹ, không có khả năng chi trả cho các đối tượng do các yếu tố khách quan như:
+Tăng lương.
+Đổi tiền.
+Lạm phát tăng cao.
+Các doanh nghiệp bị phá sản không có khả năng đóng BHXH cho công nhân, nợ tồn đọng kéo dài.
+Các trường hợp khách quan khác.
-Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội đối với những người thuộc khu vực Nhà nước có thời gian công tác trước ngày 1/1/1995 và về hưu vì những đối tượng này cơ bản chưa đóng bảo hiểm xã hội.
-Nhà nước bảo trợ các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ theo chỉ đạo của Chính phủ trong các trường hợp:
+Khi bị thất thoát vốn, không thu hồi được thì Nhà nước bảo trợ toàn bộ số vốn bị thất thoát đó.
+Các trường hợp lãi suất đầu tư thấp hơn tỷ lệ trượt giá, không bảo đảm được vốn thì Nhà nước bảo trợ, cấp đủ số tiền thâm hụt đó.
3.2.4.2. Hoàn thiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ
*Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ
Để đảm bảo cho các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội có hiệu quả, cần phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
-Phải đảm bảo yêu cầu của các quy luật khách quan trên thị trường vốn. Phải khẳng định các hoạt động thu-chi bảo hiểm xã hội là các hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nhưng các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ lại phải lấy lợi nhuận làm mục đích. Phải tuân theo yêu cầu của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường như: quy luật hình thành và vận động của lợi nhuận, quy luật cung cầu về vốn. Các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ là các hoạt động mang tính thị trường, gắn với thị trường và phải tuân theo các yêu cầu khách quan của thị trường, đi ngược với điều này sẽ dẫn đến không có hiệu quả trong hoạt động đầu tư.
-Phải đảm bảo an toàn tuyệt đối. Hiểu an toàn tuyệt đối là hiểu theo nghĩa quỹ bảo hiểm xã hội phải được bảo tồn. Tất cả các hoạt động đầu tư làm cho quỹ thâm hụt phải có các biện pháp bổ sung đủ số thâm hụt đó. Hơn nữa, hoạt động đầu tư phải được tăng trưởng, quỹ phải được lớn lên do đầu tư có lãi để đảm bảo lợi ích của người lao động. Việc phân cấp cho các chủ thể có trách nhiệm trong hoạt động đầu tư là gắn trách nhiệm rõ ràng cho các chủ thể đó nhằm bảo tồn và phát triển quỹ. Cụ thể:
+Các hoạt động đầu tư do Chính phủ chỉ định, bảo lãnh thì Chính
phủ phải có trách nhiệm bảo toàn quỹ. Nếu bị thất thoát hoặc lãi suất cho vay thấp hơn tỷ lệ trượt giá thì Chính phủ phải cấp bù ngay cho quỹ, chuyển tiền từ Ngân sách Nhà nước để cấp bù cho quỹ ít nhất phải bằng số tiền thâm hụt đó. Nếu lãi suất đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường tiền tệ thì Chính phủ cũng phải cấp bù số chênh lệch đó.
+Khi Chính phủ phân cấp cho Hội đồng quản lý hoặc cho Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt nam được quyền đầu tư cho các dự án cụ thể thì Hội đồng quản lý hoặc Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt nam phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Nếu để thất thoát, thâm hụt hoặc lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường cũng đề phải chịu trách nhiệm đền bù cho quỹ.
-Đầu tư cho quỹ phải có lãi. Lãi suất đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội phải đảm bảo:
+Lãi suất cho vay/tỷ lệ trượt giá (lạm phát)
+Lãi suất cho vayÂlãi suất vay.
*Các định hướng cần hoàn thiện trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ
Về phân cấp đầu tư
Mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ có quy định rõ:
Bảo hiểm xã hội Việt nam được thực hiện các biện pháp đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội như:
+Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Như vậy, trong 3 nội dung phân cấp đầu tư thì chỉ có nội dung thứ 3 là phải có sự chỉ định của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh còn 2 nội dung đầu Nhà nước phân cấp cho Bảo hiểm xã hội Việt nam được quyền quyết định đầu tư, Chính phủ không phải chỉ định và cũng không bảo trợ. Tuy nhiên sự phân cấp đó chưa thật sự phù hợp, chưa bảo đảm cho việc bảo tồn và tăng trưởng quỹ, chưa phân cấp rõ trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội Việt nam và của Chính phủ đối với việc tăng trưởng quỹ. Trên thực tế việc cho vay theo nội dung thứ 2 vẫn do Chính phủ chỉ định, kể cả việc chỉ định thời hạn cho vay, mức cho vay, lãi suất cho vay... nhưng lại không được bảo trợ. Vì vậy nên bổ sung nội dung phân cấp như sau:
+Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước, mua công trái xây dựng Tổ quốc.
+Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước được Thủ tướng cho phép và bảo trợ.
+Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước
có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ, phải nói rõ danh mục các dự án và doanh nghiệp lớn được phép đầu tư.
Có như vậy mới làm rõ được trách nhiệm, quyền hạn của bảo hiểm xã hội đến đâu còn lại là phải có sự chỉ định của Chính phủ.
Về hình thức đầu tư:
Ngoài các hình thức đầu tư như hiện nay, đề nghị Chính phủ cho phép mở rộng các hình thức đầu tư như: Cho phép quỹ được đầu tư dưới hình thức liên doanh, góp vốn cổ phần vào các ngành sản xuất kinh doanh đang có lãi cao và thu hồi vốn nhanh như: điện tử viễn thông, các khu công nghiệp kỹ thuật cao, chế biến dầu khí, sự nghiệp xã hội (xây nhà, trường học...)
3.3. Điều kiện để thực hiện việc hoàn thiện chính sách tài chính Bảo hiểm xã hội
Để thực hiện việchoàn thiện cơ chế quản lý tài chính bảo hiểm xã hội và đưa chính sách đó vào thực tế cần phải có các điều kiện sau:
3.3.1. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động bảo hiểm xã hội nói chung và lĩnh vực quản lý tài chính bảo hiểm xã hội nói riêng. Cho đến nay, Nhà nước đã hình thành được hệ thống pháp lý cơ bản và tương đối đầy đủ để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực hoạt động bảo hiểm xã hội bao gồm các điều luật trong Bộ Luật Lao động, Pháp lệnh cán bộ công chức, Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt nam và trong các Nghị định, Quyết định, Điều lệ và các Thông tư, văn bản pháp quy hướng dẫn sự nghiệp bảo hiểm xã hội.
Tuy nhiên, do tình hình thực tiễn đã thay đổi, một số văn bản pháp squy ban hành không còn phù hợp nữa, trở nên lỗi thời hoặc gây khó khăn trở ngại cho hoạt động của bảo hiểm xã hội.
Trong thời gian tới, cần phải giải quyết các vấn đề sau:
-Rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy đã ban hành trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
-Ban hành Nghị định mới trên cơ sở các văn bản: Nghị định 19/CP ngày
16/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập bảo hiểm xã hội, Quyết định 606/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/9/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam và Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế vì hiện nay Bảo hiểm y tế đã sáp nhập vào Bảo hiểm xã hội Việt nam.
-Ban hành các văn bản pháp quy để thực hiện loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện cho mọi người lao động nói riêng và mọi người dân sống trên nước Việt nam nói chung trong đó quy định rõ mức đóng, mức hưởng, đối tượng tham gia loại hình bảo hiểm này.
-Khẩn trương xây dựng luật bảo hiểm xã hội tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động thu, chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Hiện nay Quốc hội, Chính phủ đã giao cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì cùng các Bộ, Ngành liên quan khác xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội để trình Quốc hội xem xét và phê chuẩn. Nhưng công việc tiến hành còn chậm.
-Kiện toàn các chính sách, pháp luật khác có liên quan đến công tác quản lý thu, chi, đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội.
3.3.2. Hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy và cán bộ
Để điều hành tốt các hoạt động bảo hiểm xã hội cần có bộ máy hợp lý, đủ mạnh, đảm bảo linh hoạt và có đủ năng lực quản lý.
Muốn vậy cần thực hiện:
3.3.2.1. Về tổ chức bộ máy
Hiện tại, theo Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt nam, Quyết định 606/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/9/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam, hệ thống tổ chức bộ máy của bảo hiểm xã hội đã được thành lập từ Trung ương đến địa phương theo mô hình 3 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và đi vào hoạt động đồng bộ từ ngày 1/10/1995. Bảo hiểm y tế cũng được tổ chức theo ngành dọc nhưng chỉ có 2 cấp: Trung ương và tỉnh.
Đến nay, sau gần 10 năm hoạt động, mô hình 3 cấp đã làm tốt chức năng và nhiệm vụ do Chính phủ giao cho, góp phần phát triển sự nghiệp Bảo hiểm xã hội nước nhà, được Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Trong thời gian tới, Bảo hiểm xã hội Việt nam cũng cần thiết giữ nguyên mô hình 3 cấp không chia lẻ quỹ cho các Bộ, Ngành quản lý, không thành lập bảo hiểm xã hội ngành.
-Kiện toàn Hội đồng quản lý-cơ quan cao nhất của Bảo hiểm xã hội Việt nam trên cơ sở mở rộng quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và số lượng thành viên của Hội đồng quản lý để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện thu, chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, bổ sung thêm chức năng nhiệm vụ của Hội đồng quản lý trong công tác đầu tư tăng trưởng, được quyền xem xét, lựa chọn thêm các phương án đầu tư cho thích hợp.
3.3.2.2. Về đội ngũ cán bộ
Để tăng trưởng công tác quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, thực hiện khoán chi hoạt động bảo hiểm xã hội cần phải có một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt.
Bảo hiểm xã hội là một ngành có chuyên môn sâu nhưng hầu hết số cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội hiện nay chủ yếu có chuyên môn về kinh tế, tài chính, xã hội chưa được đào tạo chuyên môn bảo hiểm xã hội. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong thời gian tới, công tác cán bộ ngành bảo hiểm xã hội tập trung thực hiện các mặt sau đây:
-Xây dựng tiêu chuẩn hoá chức danh cán bộ, công chức của ngành trên cơ sở quy định của Nhà nước.
-Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt là các chuyên gia giỏi, trẻ để thực thi nhiệm vụ và thay thế trong tương lai.
-Nâng cao tình độ mọi mặt của cán bộ, công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong các năm tới: đội ngũ cán bộ, công chức của ngành phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp bảo hiểm xã hội.
Đào tạo tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực sau đây:
-Nghiệp vụ cơ bản trong tác nghiệp thu, chi, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội.
-Nghiệp vụ về thẩm định.
-Nghiệp vụ quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.
-Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong bảo toàn và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi.
-Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách và các chế độ BHXH.
-Thông tin về hoạt động bảo hiểm xã hội trên thế giới.
-Ngoại ngữ.
-Chính trị và nhân văn.
-Xây dựng quy hoạch cán bộ trong tương lai để có lực lượng dự trữ và thay thế khi cần thiết.
3.3.3. Đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật
Hoàn thành việc xây dựng trụ sở làm việc cho toàn bộ hệ thống BHXH
Việt nam từ Trung ương đến địa phương.
Tính đến hết năm 2002, hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam mới thực hiện xây dựng xong trụ sở Bảo hiểm xã hội tỉnh và 437 trụ sở Bảo hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh như vậy còn khoảng 200 trụ sở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh chưa được xây dựng cần phải tiếp tục thực hiện và hoàn thành để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức làm việc, đảm bảo an toàn về tiền của.
Hiện đại hoá biện pháp quản lý bằng công nghệ tin học
Hiện nay, công tác quản lý thu, chi, quản lý đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội, công tác hạch toán kế toán, công tác quản lý cán bộ trong ngành bảo hiểm xã hội đã được quản lý qua một số chương trình phần mềm tuy nhiên việc sử dụng này còn chưa được áp dụng rộng rãi, hệ thống máy tính được trang bị còn ít, trình độ cán bộ sử dụng máy vi tính còn hạn chế. ở một số địa phương có xúc tiến việc xây dựng chương trình quản lý đối tượng, quản lý thu, chi song vẫn còn hạn chế lại chưa đồng bộ, chưa nối mạng nên tác dụng còn thấp.
Trên thế giới, các nước có nền kinh tế phát triển như: Pháp, Mỹ, Đức, Nhật... đã sử dụng công nghệ tin học để quản lý BHXH trong nhiều năm nay. Các nước trong khu vực như Philipin, Thái lan, Singapore, Malaysia... cũng đã hoàn thiện nối mạng vi tính trong toàn quốc, toàn bộ công tác quản lý bảo hiểm xã hội của các nước này đều được sử dụng trên mạng vi tính rất thuận lợi cho công tác điều hành quản lý thu, chi và giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội.
ở nước ta, trong giai đoạn tới, do khối lượng công tác quản lý thu, chi, quản lý đối tượng tăng lên gấp bội đòi hỏi cấp thiết phải được trang bị hệ thống công nghệ tin học đồng bộ, toàn bộ công tác quản lý BHXH phải được thực hiện bằng công nghệ tin học mới có khả năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Kết luận
Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta, chính sách này đã góp phần quan trọng trong an sinh xã hội. Cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế-xã hội, việc đổi mới chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ngày càng trở nên cấp thiết.
Những kết quả của luận văn nghiên cứu đã đạt được đó là:
-Đề tài đã làm rõ các khái niệm, bản chất bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã hội, tài chính bảo hiểm xã hội, sự giống và khác nhau giữa tài chính bảo hiểm xã hội với Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp. Đây là những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong thời gian tới.
-Luận văn đã đưa ra một số đánh giá về các nội dung của chính sách tài chính bảo hiểm xã hội nước ta những năm qua.
-Luận văn đã đưa ra một số phương hướng và điều kiện hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong những năm tới.
Hy vọng rằng những kết quả đã đạt được của đề tài nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0375.doc