Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng rất lớn, thể hiện ở:
Về đất đai: tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta khoảng 10-12 triệu ha, trong đó gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm và 4 triệu ha cây trồng lâu năm, diện tích đất trồng lúa chiếm phấn lớn, khoảng 5.5 triệu ha. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp, còn lại là đồng cỏ tự nhiên và mặt nước.
Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, nhiều chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, nhất là phù xa, đất xám, chủng loại đất cũng rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là điều kiện tốt để phát triển các loại cây trồng, thâm canh tăng vụ nếu chúng ta biết khai thác một cách có khoa học và hợp lý.
Về khí hậu: khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng từ bắc xuống nam, với mùa đông lạnh ở miền bắc và khí hậu kiểu Nam Á, ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông nghiệp nhất là cây trồng nông sản. Không những vậy, Việt Nam còn có tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bố đồng đều trong nước, với độ ẩm trong năm thường cao hơn 80%, lượng mưa lớn (trung bình từ 1800-2000mm/năm) đây là điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của các loại động thực vật, nhất là đối với một số loại cây trồng như: lúa, cà phê, điều, cao su, chè
Về nhân lực: với dân số hơn 85 triệu người, cơ cấu dân số trẻ và chủ yếu dân số sống bằng nông nghiệp, có thể thấy Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào, nhất là lao động phục vụ cho nông nghiệp. Bên cạnh đó, lao động Việt Nam có tính cần cù, sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học công nghệ nhanh chóng, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Đây là những điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trở thành một nước có nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cung cấp khối lượng lớn các sản phẩm của ngành nông nghiệp nhất là nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu.
123 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 919 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vệ sinh thực phẩm. Diện tích nuôi cá tra, ba sa mở rộng, cùng với việc đua nhau xây dựng nhà máy chế biến mà không chú ý đến việc xử lý nước thải, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, ngành chăn nuôi của Việt Nam lại đang đứng trước một nghịch lý, đó là trong khi có thể trồng bắp và đậu nành, cung cấp nguồn thức ăn dồi dào cho gia súc và tôm cá, thì Việt Nam lại phải nhập khẩu phần lớn thức ăn tổng hợp, nguyên liệu làm thức ăn cho chăn nuôi.
Điểm đáng lưu ý là công tác xúc tiến quảng bá sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam còn nhiều hạn chế mà điển hình là mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Do quy mô sản xuất nhỏ, lẻ, manh mún, thiếu sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề trong cùng ngành hàng, nên Việt Nam chưa có khả năng đáp ứng các đơn đặt hàng lớn của nước ngoài. Đây cũng là nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường xuất khẩu.
Thách thức lớn nhất đối với nông nghiệp khi gia nhập WTO là khả năng cạnh tranh khốc liệt của các hàng nông sản trong nước với hàng ngoại nhập có chất lượng cao. Nông dân do thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ phải mua giống, vật tư, tư liệu sản xuất nông nghiệp với giá cao và do đó làm tăng chi phí sản xuất. Các nước giàu tiếp tục duy trì trợ cấp và các rào cản đối với thị trường nông sản khiến ngành nông nghiệp khó có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để đối phó. Hiện vẫn còn tồn tại những hàng rào phi thương mại áp dụng đối với gạo, đường, phân bón...Kinh tế nông thôn nước ta phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch, rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm. Các ngành nghề phi nông nghiệp sản xuất thiếu ổn định do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và sử dụng công nghệ lạc hậu. Nhìn vào danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mời gọi vốn FDI trong giai đoạn 2006 - 2010 (gần 26 tỷ USD) ta thấy rất rõ sự mất cân đối giữa khu vực công nghiệp, xây dựng với khu vực nông nghiệp, nông thôn. Trong danh mục này chỉ có 1 dự án dành cho nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp và 4 dự án dành cho thủy sản. Sản xuất nông nghiệp, nông thôn thường gặp nhiều rủi ro do chịu ảnh hưởng của thời tiết, thiên tai và thiếu đảm bảo về điều kiện hạ tầng. Hơn nữa hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập và chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn còn rất lớn, theo Tổng cục thống kê là cách nhau khoảng 3.7 lần. Chính sách nông nghiệp của ta trước đây là lo đủ ăn và cố gắng có dư thừa để xuất khẩu. Nay phải hướng sang giai đoạn phát triển có hiệu quả cao và bền vững. Bây giờ phải lo hướng dẫn nông dân tiếp cận được các thông tin về thị trường, đàm phán thương mại, kiểm tra chất lượng và đăng ký thương hiệu nông sản...Kế hoạch phát triển nông nghiệp phải hướng tới ba lĩnh vực chủ yếu là: Chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là các thành tựu về Công nghệ sinh học; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn; tập trung xây dựng các cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Thật đáng lo ngại khi giá gạo xuất khẩu của ta là thấp nhất trong 6 nước xuất khẩu gạo (gạo Việt Nam 218 USD/tấn trong khi của Thái Lan là 278.33 USD, của Australia là 509.9USD). Theo báo cáo của Tổ chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc (FAO) thì đang có 1 tỷ tấn nông sản ở châu Á sẵn sàng...đổ bộ vào Việt Nam sau khi nước ta gia nhập WTO. Nông dân nước ta sẽ phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường cả ngoài nước lẫn trong nước. Các giống lúa của nước ta được mặt này thì hỏng mặt kia (cao sản thì dễ đổ, chất lượng gạo ngon thì lép nhiều và kháng bệnh kém). Nông dân không mặn mà với giống mới vì phải mua với giá cao trong khi vẫn bán ra theo giá bình thường. Công nghệ sau thu hoạch của ta còn rất bất cập, trong khi cam Mỹ, Thái Lan sau cả tháng vẫn tươi nguyên. Kinh nghiệm của Trung Quốc: Sau 5 năm gia nhập WTO đến năm 2006 đã có 53764 hợp đồng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào các ngành nông lâm ngư nghiệp với tổng kim ngạch tới 163.48 tỷ USD, vốn sử dụng thực tế là 80.63 tỷ USD. Cùng với việc bố trí lại và tăng cường đầu tư trong nông nghiệp mà 800 triệu nông dân Trung Quốc đang nhận được sự cải thiện rõ rệt trong đời sống. Sản lượng lương thực, thực phẩm, thủy sản...của Trung Quốc tăng dần từng năm sau khi gia nhập WTO (triệu tấn):
Sản phẩm
2003
2004
2005
2006
Lương thực:
430.67
469.67
490.7
510.6
Chè:
0.78
0.84
0.96
1.42
Hoa quả:
114.7
152.43
163.2
186.8
Thịt:
69.2
72.6
76.65
84.62
Thủy sản:
46.9
48.55
52.08
57.35
Ngày nay Trung Quốc đã đứng hàng thứ 8 trên thế giới và đứng đầu châu Á về xuất khẩu nông sản và chẳng mấy chốc sẽ biến thành nông trại của thế giới. Chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm nông nghiệp chuẩn mực như nhiều nước khác vì chưa có nền sản xuất lớn, chưa sản xuất tập trung, chưa có các quy trình kỹ thuật chuẩn, chưa kết nối được giữa sản xuất và tiêu thụ...Cho đến nay mà 90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra ở dạng thô và 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp. Theo điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp cận được với các thông tin thị trường trong khi 75% nông dân không biết gì cả. Mặc dầu cả nước đã có khoảng 8000 điểm bưu điện văn hóa xã nhưng chỉ có khoảng 4000 điểm có thể kết nối Internet và số nông dân được tiếp cận với công nghệ thông tin còn rất ít, hơn nữa thông tin giúp nông dân tiếp cận được với thị trường cũng còn hết sức hạn chế. Đáng lưu tâm là trong khi Thái Lan chỉ có 260 nghìn ha trồng cây ăn quả (Việt Nam 750 nghìn ha) nhưng hoa quả Thái Lan tràn lan khắp thế giới, kể cả thị trường Việt Nam.
2. Định hướng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
2.1. Định hướng chiến lược phát triển hàng nông sản xuất khẩu
Lâu nay, sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu phát triển theo bề rộng trên cơ sở khai thác các khả năng sẵn có, mặt số lượng được coi trọng hơn mặt chất lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nông sản Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường khác nhau, hiệu quả xuất khẩu thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Việc hình thành một chiến lược phát triển có luận cứ khoa học được coi là điều kiện tiền đề để áp dụng các thành tựu tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chiến lược phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường phải xuất phát từ nhu cầu cụ thể của thị trường, bảo đảm khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí.
Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn và xuất khẩu nông sản:
Cần có chính sách và định hướng xuất khẩu; tiếp cận thị trường, tìm đối tác, bạn hàng; vận tải, thanh toán, quy định về xuất nhập khẩu; quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa.
Để tương xứng với tiềm năng vốn có của đất nước, trong thời gian tới cần đẩy nhanh việc phát triển Nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất Nông nghiệp, tạo ra nhiều nông sản hàng hóa có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần, giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
Tiếp cận nhanh chóng với kỹ thuật Nông Nghiệp hiện đại, đặc biệt là công nghệ sinh học, tiến hành lai tạo ra các giống cây, con có năng suất chất lượng cao, hình thành các trung tâm nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi và kỹ thuật Nông Nghiệp tầm cỡ quốc gia, tiến tới tự tạo ra các bộ giống và ngân hàng giống có giá trị trao đổi quốc tế.
Phải gắn sản xuất với bảo vệ và cải thiện cảnh quan môi trường sinh thái trong lành để phát triển bền vững, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm phục vụ tốt cuộc sống của hàng triệu dân đô thị.
Từng bước cơ giới hóa các khâu canh tác với các thiết bị thích hợp.
Trong 10 - 15 năm tới, sản xuất Nông Nghiệp của Việt Nam sẽ thu hẹp dần nhưng Nông Nghiệp vẫn là một nguồn sống của một bộ phận không nhỏ dân cư. Vì vậy, việc nâng cao đời sống cho số dân này là nhiệm vụ của toàn xã hội. Việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng có hiệu quả kinh tế cao nhất, nghiên cứu vận dụng và phát triển các mô hình sản xuất không đất hoặc cần ít đất.
Nâng cao kiến thức cho nông dân là nội lực rất cơ bản cho việc phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp và nông thôn.
Việc khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng đang là một trong những yêu cầu cấp bách, vừa phục vụ cho sản xuất và đời sống ở ngoại thành vừa tạo tiền đề đô thị hóa mở rộng. Vì vậy, cần tranh thủ mọi nguồn vốn để đầu tư nâng cao hiệu quả phục vụ của hệ thống giao thông, phát triển các phương tiện giao thông công cộng hiện đại, an toàn, rút ngắn thời gian vận chuyển. Hiện đại hóa mạng lưới thông tin đến tận xã và các khu dân cư tập trung, điện khí hóa nông nghiệp nông thôn, đáp ứng nhu cầu điện, nước, trước hết cho các khu Công nghiệp, vùng sản xuất tập trung, khu dân cư.
Phải nhanh chóng và triệt để chuyển sang cơ chế mới trong sản xuất Nông Nghiệp trên cơ sở giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài cho nông dân, theo Luật đất đai. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các vùng chuyên canh, các cơ sở chế biến và các hoạt động dịch vụ phong phú đa dạng. xem nông hộ là đơn vị kinh tế cơ sở, trong đó chú trọng vai trò của trung nông (có vốn, biết tổ chức quản lý, thiết tha với sản xuất Nông Nghiệp). Từ đó hình thành các tổ chức sản xuất từ thấp đến cao như kinh tế, kinh tế trang trại, xí nghiệp nông - công nghiệp, bao gồm các xí nghiệp tư bản tư doanh nông - công nghiệp, hoặc các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài. Giải quyết vấn đề nông dân nghèo thông qua phát triển ngành nghề và các chính sách xã hội. Ngành nông nghiệp nên tập trung vào các hoạt động Khoa học kỹ thuật, các dịch vụ "đầu vào", "đầu ra" của sản xuất Nông Nghiệp. Sớm xem xét lại hướng quản lý sử dụng đất cũng như tổ chức sản xuất kinh doanh của các nông trường quốc doanh, cho đấu thầu từng phần hoặc giao lại cho nông dân đối với các đơn vị làm ăn không có hiệu quả.
Cần đầu tư thích đáng và có chính sách khuyến khích đưa nhanh tiến bộ Khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống ở ngoại thành. Ngân sách nhà nước cần dành phần thỏa đáng cho các lĩnh vực sau đây:
Điều tra nghiên cứu tổng hợp bổ sung về tự nhiên, tài nguyên kinh tế - xã hội phục vụ cho quy hoạch phát triển và làm cơ sở luận chứng cho các đề án, các công trình xây dựng qui mô lớn.
Xây dựng các cơ sở Khoa học kỹ thuật (trạm trại, thực nghiệm, giống, bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật canh tác...) và chuyển giao công nghệ đối với những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, trước hết là giống cây trồng, vật nuôi theo hướng Hiện đại hóa.
Điều tra nghiên cứu về xã hội làm cơ sở cho phát triển sự nghiệp y tế - giáo dục, phúc lợi xã hội và xây dựng nông thôn mới.
Đào tạo và huấn luyện cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý, phù hợp với cơ chế mới.
Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp, phải coi trọng công tác dự báo nhu cầu trung hạn và dài hạn theo từng loại nông sản và theo từng khu vực thị trường để vừa có cơ sở định hướng phát triển sản xuất, vừa có chính sách thích ứng đảm bảo khả năng xâm nhập thị trường và củng cố vị thế của hàng hoá trên từng thị trường cụ thể. Chiến lược phát triển nông nghiệp phải hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung nhằm tạo điều kiện đầu tư ứng dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Chiến lược này phải được sử dụng như một trong những công cụ trọng yếu để Nhà nước định hướng phát triển sinh học và xây dựng các cơ chế chính sách thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư theo định hướng đó. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp trong những năm qua có phần đóng góp quan trọng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái cừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc sử dụng các giống cây trồng và vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Cùng với đó, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản, đảm bảo đưa đến người tiêu dùnng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng màu sắc, hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.2. Phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản theo hướng mới
Với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay, cần phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và gắn với thị trường tiêu thụ trong nước, thế giới và vùng nguyên liệu để phát triển những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt khi đầu tư, xây dựng, nâng cấp các cơ sở chế biến phải đảm bảo yêu cầu công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, nhằm tăng cao chất lượng sản phẩm cũng như đem lại sự phát triển bền vững, hiệu quả cho ngành công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường sinh thái. Việc phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản cũng phải gắn chặt với các chiến lược phát triển kinh tế, xã hội; phù hợp với chiến lược xuất khẩu
Điều tra đánh giá thực trạng của ngành công nghiệp chế biến nông sản, phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế những thuận lợi khó khăn của ngành như thị trường tiêu thụ , thiết bị công nghệ, vốn đầu tư, lao động, đồng thời đánh giá năng lực thế mạnh, tiềm năng sản xuất của ngành.
Định hướng phát triển:
Mục tiêu chung:
Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản ( kể cả chế biến cao su) đạt tỷ lệ tăng trưởng cao hơn tỷ lệ trung bình của toàn ngành công nghiệp và tỷ trọng công nghiệp chế biến nông sản chiếm từ 34% năm 2006 lên trên 36% giá trị ngành công nghiệp trên điạ bàn cả nước..
Mục tiêu xuất khẩu: đưa tỷ lệ sản phẩm nông sản chế biến xuất khẩu chiếm tỷ lệ 15% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành công nghiệp.
Đưa tỷ lệ nông sản qua chế biến công nghiệp từ 70% - 80% sản lượng nông sản trên địa bàn.
Thu hút lao động tại các cơ sở chế biến nông sản tăng từ 24600 người hiện nay lên 30000 người vào năm 2008.
Định hướng phát triển các lĩnh vực chế biến:
Định hướng các lĩnh vực chế biến nông sản theo các nội dung sau:
Định hướng sản phẩm sản lượng sản xuất.
Định hướng phát triển nguồn nguyên liệu nông sản.
Định hướng đầu tư phát triển.
Giải pháp thực hiện:
Quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu, đảm bảo chất lượng nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong đó trọng tâm cho công tác giống và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới nhằm tạo ra một bước phát triển cao về năng suất và chất lượng nông sản, đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến từng bước tham gia thị trường xuất khẩu.
Từng bước đổi mới kỹ thuật và công nghệ chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, tạo thị trường cho nông sản, đề từng bước hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ: Thực hiện tốt biện pháp kích cầu trong tiêu dùng và sản xuất nhằm mở rộng thị trường trong nước. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực tiếp cận thị trường quốc tế như giới thiệu sản phẩm, quảng cáo, tham gia hội chợ quốc tếnhằm từng bưóc mở rộng thị trường xuất khẩu.
Chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu
Có chính sách và biện pháp trong việc thu mua nông sản phẩm nhằm đảm bảo lợi ích của người nông dân để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tạo sự phát triển ổn định của các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng hoá.
Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là tập trung ưu tiên xây dựng đường sá vào các vùng chuyên canh để khuyến khích và thúc đẩy hình thành các vùng chuyên canh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng cho lưu thông hàng hoá nông sản.
Tăng cường kiểm tra và chấn chỉnh hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp.
Giao cho Sở Công nghiệp và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng chủ trì phối hợp cùng các ngành, đơn vị liên quan, trên cơ sở đề an được duyệt, xây dựng thành các kế hoạch và chương trình thực hiện trong từng giai đoạn, đồng thời vận dụng các hình thức thích hợp để gọi vốn đầu tư trong nước và tranh thủ tối đa các nguồn vốn bên ngoài thực hiện đề án.
Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp. Vì vậy, trong những năm tới Việt Nam cần phải phát triển công nghiệp chế biến nông sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô, đồng thời tạo nên thị trường nội địa to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp.
Mục tiêu phát triển đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020:
Khẩn trương xây dựng các ngành hàng chế biến có sức cạnh tranh cao, chú trọng đẩy mạnh chế biến các nông lâm sản có lợi thế so sánh trên thị trường thế giới như thóc gạo, chè, cà phê. Phấn đấu đến năm 2010, tổng sản lượng thóc được chế biến 100%, trong đó chế biến quy mô công nghiệp phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu đạt 55%, tới năm 2020 đạt 60 - 65%. Đối với cà phê, đến năm 2010 tăng tỷ lệ cà phê chế biến theo phương pháp ướt đạt 30%, chế biến cà phê bột đạt 10%. Con số này sẽ nâng lên 20% vào năm 2020.
Một số mặt hàng khác như điều, mía đường, giấy, gỗ, lâm sản... cũng cần chú trọng tăng tỷ trọng sản phẩm đã qua chế biến và tính chủ động trong sản xuất chế biến. Phấn đấu đến năm 2010 giá trị sản xuất tăng trưởng bình quân/năm là 10.7% và định hướng đến năm 2020 là 11.7%. Theo đó, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt khoảng 11 tỷ USD và đến năm 2020 đạt khoảng 16.5 USD.
Với tiềm năng to lớn về đất đai, khí hậu thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào nên triển vọng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm tới rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác được tiềm năng đó một cách tốt nhất để vừa giải quyết nhu cầu lương thực trong nước vừa tăng khối lượng kim ngạch xuất khẩu nông sản tạo thêm tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước ta luôn coi Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, dành ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước cho lĩnh vực sản xuất nông sản, nhất là hàng nông sản xuất khẩu. Thấy được tầm quan trọng của việc xuất khẩu hàng nông sản cho nên Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chủ trương, chính sách kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản:
Nhà nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng hóa từ nguyên liệu thô sang hàng hóa chề biến có chứa hàm lượng lao động kỹ thuật cao, có giá trị lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, đối với các doanh nghiệp làm xuất nhập khẩu cần tranh thủ mọi nguồn vốn, đầu tư xây dựng cơ bản, trang thiết bị máy móc hiện đại, dây truyền công nghệ phù hợp để tạo ra những sản phẩm tốt, có giá trị cao để cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đối với thị trường xuất khẩu ta chủ trương lấy thị trường EU, Braxin, Nhật Bản, Singapore, ASEAN, Trung Quốc, Mỹ làm thị trường xuất khẩu chính. Ngoài ra, các công ty cần phải không ngừng mở rộng thị trường, tiến hành hợp tác liên doanh với các công ty nước ngoài về sản xuất, chế biến hàng nông sản, để có hàng nông sản chất lượng cao, mẫu mã phong phú. Từ đó công ty học hỏi thêm kinh nghiệm kinh doanh, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến.
3. Một số biện pháp phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
3.1. Đối với các Doanh nghiệp
3.1.1. Phát triển hệ thống thông tin thị trường nông sản, tổ chức tốt công tác thu thập, xử lý thông tin và xúc tiến Thương mại
Bí quyết bảo đảm sức mạnh kinh doanh của doanh nghiệp trước hết là thông tin. Thông tin chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và cho thành công của doanh nghiệp. Cả thị trường trong nước và thị trường thế giới đều tác động trực tiếp đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần thu thập và sử lý thông tin về tình hình cung cầu của mặt hàng nông sản và các mặt hàng khác ở thị trường trong và ngoài nước, thông tin về các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, thông tin về giá cả, thông tin về chính sách của nhà nước và của nước ngoài đối với hàng nông sản và các mặt hàng khác.
Ngoài ra, hoạt động xúc tiến thương mại cũng rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu các mặt hàng nông sản, bởi doanh nghiệp sẽ không có khách hàng nếu như khách hàng không biết về doanh nghiệp và không thích mua sản phẩm của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, công tác thu thập và sử lý thông tin của nhiều doanh nghiệp chưa hiệu quả, các hoạt động xúc tiến thương mại còn yếu kém nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Chính vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp cần tăng cường hơn nữa công tác thu thập xử lý thông tin và các hoạt động xúc tiển thương mại.
Những công việc cụ thể mà các doanh nghiệp cần phải thực hiện trong thời gian tới:
Một là, thành lập một bộ phận chuyên trách việc thu thập và xử lý thông tin
Phòng này có các chức năng như: Điều tra, thăm dò nhu cầu thị trường; Chỉ ra các nhu cầu trên thị trường, các đoạn thị trường mà công ty có thể hướng tới; Thu hồi các thông tin phản hồi từ phía đối tác
Hai là, xúc tiến các hoạt động mở văn phòng giao dịch tại những khu vực thị trường trọng điểm của doanh nghiệp, chọn các kiôt phân phối và tiêu thụ hàng hóa, tăng cường các hoạt động quảng cáo, khuyếch trương và tuyên truyền thế mạnh của doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: tivi, đài, báo, tạp chí, cải tiến hình thức quảng cáo sản phẩm để phù hợp với từng nước.
Ba là, thúc đẩy và tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại được tổ chức trong và ngoài nước: tổ chức các triển lãm, hội chợ trong nước và ngoài nước, các cuộc thi sản phẩm, quảng bá hàng hoá và doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, tiến tới thành lập các trung tâm giao dịch nông sản ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, hướng dẫn các doanh nghiệp về thương mại điện tử, xây dựng các trang web về nông sản, liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp nâng cao uy tín, trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu thị trường, chào hàng và tìm đối tác kinh doanh.
Bốn là, quan hệ với các nhà phân phối lớn, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng cao uy tín hàng nông sản của doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động chế biến, xuất khẩu hàng nông sản. Đồng thời đưa hàng nông sản của doanh nghiệp vào kênh phân phối của họ, qua đó nâng cao khả năng xâm nhập thị trường thế giới.
Năm là, tạo điều kiện cho các cán bộ làm công tác thị trường tiếp xúc được với thị trường trong và ngoài nước. Từ đó nâng cao khả năng phân tích, phán đoán, xử lý thông tin và đưa ra các giảp pháp thích hợp nhằm ứng phó trước những biến động của thị trường.
Sáu là, tranh thủ triệt để cơ hội tiếp xúc, thu thập thị trường từ các tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài đến thăm và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam. Thời gian gần đây, nước ta đã đón rất nhiều tổ chức kinh tế nước ngoài, các thương nhân đến Việt Nam. Các doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội này để thu thập thông tin, tiếp xúc với các tổ chức, doanh nhân để chọn cho mình hướng kinh doanh thích hợp và ký kết được những hợp đồng xuất khẩu hàng nông sản với khối lượng lớn.
3.1.2. Đa dạng hóa các mặt hàng nông sản xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu bên cạnh việc duy trì những mặt hàng xuất khẩu truyền thống tại các thị trường truyền thống
Các nước thuộc ASEAN như: Lào, Philipin, Indonexia, Singapore là những thị trường tiêu thụ truyền thống của các doanh nghiệp Việt Nam. Tại những thị trường này, các doanh nghiệp thường cung cấp các mặt hàng ổn định cho những bạn hàng ổn định. Vì vậy, bạn hàng tại đây đã biết đến sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm kinh doanh, đã có các cơ sở bảo quản, chế biến hàng phục vụ xuất khẩu tại các thị trường này. Do vậy, trong thời gian tới khu vực này vẫn là khu vực trọng điểm của các doanh nghiệp.
Thị trường này có yêu cầu về chất lượng sản phẩm không cao như các thị trường khác nhưng một sự thay đổi về giá sẽ tác động mạnh đến mức độ tiêu thụ sản phẩm của công ty. Vì vậy, trong thời gian tới, để duy trì và phát triển xuất khẩu hàng nông sản tại khu vực này cần phải đặc biệt quan tâm đến các chính sách giá cả có liên quan. Đối với những mặt hàng tương tự như đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp nên khuyến khích khách hàng mua hàng của công ty với các hình thức khuyến mại đặc biệt cho những khách hàng mua với khối lượng lớn và khách hàng mới của doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong sự biến động mạnh mẽ tình hình cung cầu của một số mặt hàng nông sản thế giới, để hạn chế rủi ro và tăng kim ngạch xuất khẩu thì việc đa dạng hóa các loại mặt hàng và mở rộng thị trường là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản. Doanh nghiệp nên mở rộng và khai thác triệt để các thị trường mới và rộng lớn như thị trường Mỹ, EU, Nhật BảnĐây là những thị trường có nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản rất lớn, có khả năng chi trả cao nhưng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã bao bì hàng hóa cũng rất cao. Vì vậy, để thâm nhập vào những thị trường này buộc các doanh nghiệp phải cải tiến mẫu mã bao bì và nâng cao chất lượng sản phẩm.
3.1.3. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến hàng nông sản
Hàng nông sản là một mặt hàng chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố khí hậu, thời tiết, sâu bệnhĐặc biệt với khí hậu nóng ẩm như Việt Nam sẽ là điều kiện thuận lợi cho các loại nấm mốc, sâu bệnh phát triển. Ngoài ra, trong sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, người tiêu dùng có xu hướng giảm tiêu dùng các loại hàng nông sản có chất lượng thấp và tăng tiêu dùng các loại nông sản có chất lượng cao, các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và hình thức sản phẩm ngày càng cao. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh công tác chế biến bảo quản hàng nông sản.
Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến bảo quản hàng nông sản các doanh nghiệp cần giải quyết các vấn đề sau:
Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu. Từ đó tập trung tập trung đầu tư thâm canh, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu.
Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần với vùng nguyên liệu. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu. Thực hiện song song hai hướng: đầu tư đổi mới, hiện đại hóa thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện có; đầu tư xây dựng các doanh nghiệp chế biến mới với trình độ công nghệ hiện đại. Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất nguyên liệu và chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Vấn đề quan trọng là đề cao trách nhiệm và sự hợp tác của các bên trong việc thực hiện những điều đã cam kết.
Đẩy mạnh việc triển khai các chương trình giống, công nghệ sinh học, cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới thiết bị, công nghệ sau thu hoạch tăng tỷ lệ nông sản chế biến và giá trị gia tăng bảo quản.
3.1.4. Tăng cường huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản
Hiện nay, vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất hàng hóa, chất lượng hàng hóa, đến công tác thu mua hàng hóa, đến quá trình nghiên cứu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa.của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong thời gian tới để tăng thêm vốn phục vụ cho công tác kinh doanh, ngoài nguồn vốn của mình các doanh nghiệp phải huy động thêm từ các nguồn vốn trong và ngoài nước. Cụ thể doanh nghiệp có thể huy động từ các nguồn vốn sau:
Vốn vay từ các Ngân hàng
Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp
Huy động vốn từ lợi nhuận tích lũy được của doanh nghiệp
Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của doanh nghiệp
Tận dụng nguồn vốn của các bạn hàng
Hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết với đối tác nước ngoài
3.1.5. Thực hiện tốt hơn công tác thu mua hàng nông sản xuất khẩu
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp hiện vẫn còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp chưa thiết lập được các mạng lưới thu mua hàng ổn định ngay tại địa phương, do vậy nguồn hàng cung cấp cho công ty bấp bênh, chất lượng chưa bảo đảm. Công tác kiểm tra chất luợng hàng khi thu mua được thực hiện chưa nghiêm túc, cách bảo quản và sơ chế hàng ngay sau khi thu mua vẫn chưa tốt, quá trình vận chuyển hàng về kho chưa được giám sát chặt chẽ. Do đó, trong thời gian tới để cải thiện công tác thu mua, tạo nguồn hàng xuất khẩu các doanh nghiệp cần thực hiện các công việc sau:
Doanh nghiệp cần xây dựng mối quan hệ tốt với các địa phương sản xuất hàng xuất khẩu của doanh nghiệp.
Cần đưa ra những biện pháp để khuyến khích hoạt động thu mua có hiệu quả.
3.1.6. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù có vốn lớn, trang thiết bị hiện đại mà nguồn nhân lực lại không bảo đảm cho việc sản xuất, quản lý, kinh doanh thì doanh nghiệp khó có thể phát triển được bởi con người là chủ thể quyết định đến các hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản nói riêng, nguồn nhân lực là một vấn đề nan giải và khó giải quyết trong thời gian ngắn. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải chú trọng nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp bằng các biện pháp sau:
Thường xuyên gửi các cán bộ kinh doanh trẻ, có triển vọng tới các trung tâm đào tạo kinh doanh quốc tế ở trong và ngoài nước.
Tạo điều kiện để các nhân viên còn yếu kém và chưa có kinh nghiệp và nghiệp vụ đi học các lớp đào tạo bổ sung hoặc đào tạo tại chức.
Bố trí để các nhân viên trẻ, có năng lực, năng động nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong doanh nghiệp cùng làm việc với những nhân viên lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm thực tiển để các nhân viên trẻ học hỏi thêm kinh nghiệm
Đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm vụ giám định hàng hóa.
Có được đội ngũ lao động tốt là điều kiện cần đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đội ngũ lao động này lam việc một cách có hiệu quả, trung thành với doanh nghiệp thì các doanh nghiệp cần phải có chế độ khen thưởng hợp lý, xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm làm tổn hại đến doanh nghiệp.
3.2. Đối với Nhà nước
3.2.1 Tăng cường hỗ trợ các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản
Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Trong thời gian qua, nhà nước đã có quan tâm đến các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản nhưng chưa nhiều nên chất lượng hàng nông sản của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của những thị trường khó tính nhưng lại có khả năng chi trả lớn. Do vậy, hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản vẫn chưa cao. Vì vậy, trong thời gian tới nhà nước cần phải tăng cường và hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, chế biến hàng nông sản để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng giá trị cao, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Các biện pháp tiến hành gồm:
Hỗ trợ vốn ban đầu cho nông dân: Đây là một việc làm ban đầu hết sức cần thiết, vì để thay đổi những cơ cấu giống cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và quản lý vào trong sản xuất thì phải mất nhiều chi phí, trong khi có nhiều nông dân không thể tự trang trải nỗi.
Trong thời gian qua, các chương trình trợ giúp vốn cho nông dân đã được thực hiện xong kết quả thu được vẫn còn hạn chế, người nông dân vay vốn chịu lãi xuất cao diễn ra dàn trãi, thiếu tập trungnhiều hộ nông dân chỉ vay được một khoản nhỏ không đủ để đầu tư sản xuât. Một số hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay với lãi xuất tín dụng thông thường thì lại gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thuế chấp. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, nhà nước cần đưa ra các chính sách ưu đãi đối với các ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản để họ cung cấp vốn cho nông dân nhiều hơn, hiệu quả hơn.
Hỗ trợ về giống, phổ biến kiến thức cho người nông dân: Hiện tại, nhiều nông dân Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ các kiến thức về nông nghiệp như: Giống cây trồng nào phù hợp với loại đất nào, được trồng ở vùng có khí hậu ra sao và mức độ sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu ra saođể cho ra các loại sản phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, có hiện tượng nông dân gieo các loại giống cây trồng cho năng suất cao nhưng chất lượng không bảo đảm, hoặc quá lạm dụng các loại thuốc trừ sâu, phân bón hóa họcChính vì vậy, nhà nước nên hỗ trợ nông dân các loại giống tốt, cho năng suất cao, chất lượng đồng bộ. Hiện tại, ngân sách của nhà nước còn hạn hẹp, do vậy nhà nước không thể cung cấp miễn phí giống cho mọi nông dân, nhưng nhà nước có thể sử dụng hình thức bán giống tốt cho nông dân với giá ưu đãi hoặc bán chịu cho nông dân, cuối vụ thu hoạch nhà nước sẽ nhận tiềnđồng thời nhà nước cũng cần có các chương trình phổ biến kiến thức cho nông dân.
Tổ chức tốt công tác thu mua hàng nông sản cho nông dân: Hoạt động thu hoạch của nông dân mang tính mùa vụ nên quá trình thu hoạch diễn ra một cách dồn dập trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, đối với nông dân khả năng về vốn có hạn, các điều kiện về kho hàng cất giữ sản phẩm hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch. Trong khi đấy, nhà nước lại chưa sẵn sàng mua nông sản cho nông dân, điều này dẫn đến tình trạng nông dân bị tư thương ép phải bán hàng với giá thấp và thực sự chưa khuyến khích nông dân sản xuất. Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định nguồn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho chứa, mạng lưới thu mua hàng cho nông dânđể hạn chế bớt sự ép giá của tư thương đối với nông dân vào mùa vụ chính. Có như vậy mới khuyến khích được nông dân sản xuất, cung cấp hàng ổn định và có chất lượng cao cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Tăng cường đầu tư tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung: Vùng nguyên liệu tập trung là một vùng mà ở đó tập trung trồng các loại cây phù hợp với điều kiện khi hậu, đất đai, điều kiện kinh tế, xã hội của từng vùng. Ví dụ như: Một vùng nguyên liệu trồng mía phải được đặt ở những nơi có loại đất, khí hậu phù hợp với cây mía, có cơ sở hạ tầng thuận lợi để vận chuyển mía từ vùng nguyên liệu đến nhà máy. Đây có thể được xem như là một biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng và đồng bộ hóa sản phẩm nông nghiệp, tuy nhiên, vấn đề là phải xác định được đâu là vùng ưu tiên cho từng mặt hàng.
Đầu tư mạnh cho các ngành công nghiệp chế biến, bảo quản hàng nông sản: Việc đầu tư cho công tác chế biến, bảo quản hàng nông sản nhiều khi là quá sức đối với một số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu mặt hàng này bởi công việc đòi hỏi công ty phải bỏ ra một lượng vốn lớn để nhập khẩu các loại trang thiết bị, máy móc hiện đại. Chính vì vậy, nhà nước nên đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến, bảo quản hàng nông sản, như đầu tư xây dựng, lắp đặt các dây chuyền đánh bóng gạo, dây chuyền tinh chế cà phê thành sản phẩm cuối cùng để sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp có thể đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Bên cạnh đó, nhà nước nên khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến thông qua các chính sách như: giảm thuế xuất khẩu, ưu tiên hạn ngạch xuất khẩu,để thúc đẩy hoạt động chế biến nông sản trong nước phát triển.
3.2.2. Có biện pháp trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản
Trợ giúp về vốn: Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi các công ty phải có lượng vốn đủ lớn để thu mua hàng trong vụ thu hoạch và dự trữ xuất khẩu trong cả năm. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều đang gặp phải khó khăn do thiếu vốn nên bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy, do thiếu vốn nên các doanh nghiệp gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến, nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu. Chính vì vậy, trong thời gian tới nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để doanh nghiệp có vốn đầu tư nâng cao hoạt động chế biến, thu mua hàng nông sản xuất khẩu nhưng phải tuân theo các quy định của WTO. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo điều kiện cho các thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi xuất thấp, thời gian hợp lý và đặc biệt là thủ tục hành chính cần phải được cải tiến.
Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản: Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại đối với mỗi doanh nghiệp. Thị trường hàng nông sản thế giới là một thị trường có nhiều biến động khá phức tạp nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam thường thiếu thông tin về tình hình biến động của thị trường này như: thiếu thông tin về tình hình cung cầu hàng nông sản, sự biến động của giá cả, về các đối thủ cạnh tranhVì vậy, trong thời gian tới nhà nước cũng như các bộ ngành có liên quan nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo về sự biến động của thị trường thế giới, đồng thời xây dựng các trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản.
Nhà nước cần lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu và quỹ bình ổn giá:
Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả góp. Việc bán hàng theo cách này giúp doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Do vậy, Nhà nước cần lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời giúp doanh nghiệp bảo toàn vốn khi gặp rủi ro, nhà nước cũng cần phải xem xét lập quỹ bình ổn giá cả để bớt đi một phần gánh nặng lãi suất tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thu mua hàng nông sản trong nước tăng cao gây thua lỗ cho các doanh nghiệp.
3.2.3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu hàng nông sản theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường
Những quy định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để phát triển hoạt động xuất khẩu hàng nông sản, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa, như:
Đồng bộ hệ thống văn bản pháp lý:
Hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng nông sản xuất khẩu và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Chẳng hạn như: hiện nay, nhà nước đã có những chính sách ưu tiên đối với người sản xuất và những đơn vị tham gia xuất khẩu hàng nông sản nhưng lại chưa quan tâm thích đáng tới các đơn vị cung cấp máy móc, thiết bị, phân bónphục vụ cho nông nghiệp. Vì vậy, nhà nước cần phải xem xét và có các chính sách ưu đãi đối với các đơn vị này.
Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Để nộp thuế VAT, nhiều doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng với lãi suất cao. Tuy nhiên, quá trình hoàn thuế VAT của nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều này làm cho doanh nghiệp đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn. Do đó ,nhà nước cần xem xét lại chính sách này nhằm tạo các điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu.
Đơn giản cơ chế quản lý xuất khẩu:
Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của nhà nước còn nhiều bất cập, thủ tục xuất khẩu rườm rà, phức tạp gây lãng phí thời gian và công sức cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản, nhiều lúc quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Do vậy, thời gian tới nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra, nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông sản để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho doanh nghiệp cũng như cho nhà nước.
Thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu:
Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tùy theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. Ở chính sách này, để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, các nhà hoạch định chính sách thường phá giá đồng nội tệ. Về mặt lý thuyết, việc làm này sẽ khiến cho nhập khẩu giảm và khuyến khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định được một tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho ngoại thương và bảo toàn được đội ngũ bán hàng. Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không suy sụp trong điều kiện lạm phát tăng cao như hiện nay.
3.2.4. Nhà nước cần có các giải pháp về thị trường và hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản
Trợ giúp nâng cao năng lực thị trường cho các chủ thể sản xuất nông sản. Chỉ khi nào bản thân người sản xuất hàng hoá có đầy đủ thông tin hiểu biết về thị trường và các quan hệ thị trường thì họ mới biết cách điều chỉnh sản xuất của mình theo yêu cầu của thị trường. Đây chính là mặt yếu của những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn hiện nay. Do vậy, họ dễ bị điều tiết một cách tự phát bởi các quan hệ thị trường, dễ bị thua thiệt trong hành xử trên thị trường. Công tác khuyến nông, khuyến thương cần đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp những kiến thức cơ bản về thị trường và nâng cao năng lực thị trường của các chủ thể sản xuất hàng hóa ở nông thôn.
Trợ giúp các chủ thể sản xuất nông sản xây dựng thương hiệu hàng hoá, trước hết với những cây, con đặc sản ở từng vùng. Đây vừa là cách thức thâm nhập và củng cố vị thế của hàng hoá trên thị trường quốc tế, vừa là cách thức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của người sản xuất trong cạnh tranh quốc tế.
Tạo điều kiện công nghiệp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp vào việc tìm kiếm thị trường, khách hàng và tổ chức sự phối hợp hành động giữa các chủ thể ấy trong việc xử lý các tình huống khác nhau trên cùng một thị trường và cùng một loại hàng hóa.
Ngoài những biện pháp thực hiện chủ yếu trên, Nhà nước cũng như các Bộ, ban ngành cần phải quan tâm đến các lĩnh vực sau:
Giảm chi phí giao dịch, kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu:
Triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên, phụ liệu, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giầy dép, nông sản
Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hóa và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu.
Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác phối hợp giải quyết vụ việc liên quan giữa các bộ, ngành.
Sớm triển khai ký kết các thỏa thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, New Zealand
Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu:
Thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu: Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho xuất khẩu như thưởng xuất khẩu, thưởng thành tích xuất khẩubị bãi bỏ. Cần sử dụng nguồn vốn này và bổ sung thêm để thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư: nghiên cứu, cải tạo giống cây trồng, vật nuôi; đổi mới, chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản hàng hóa xuất khẩu; đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu.
Điều tiết tỉ giá hối đoái, lạm phát: Vai trò quản lý vĩ mô là phải điều tiết sự thay đổi tỉ giá hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý.
Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu. Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm có kim ngạch nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, một số nước EUvà các mặt hàng trọng điểm mà khả năng sản xuất trong nước không bị hạn chế nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc tiến thương mại đối với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu.
Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da giầy, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí
Xây dựng các đề án xuất khẩu cụ thể cho từng mặt hàng, từng địa bàn. Đặc biệt chú ý phát triển những mặt hàng mới, mặt hàng có điều kiện sản xuất không phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường như sản phẩm cơ khí, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản phẩm đồ gỗĐồng thời rà soát lại cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất, xuất khẩu đối với những mặt hàng truyền thống trọng điểm như hàng nông lâm thủy sản, hàng dệt may, giầy dép, thủ công mỹ nghệ để có những điều chỉnh phù hợp hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu. Tiếp tục coi các thị trường ASEAN, Nhật, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc và các nước có chung đường biên giới là những thị trường trọng điểm.
Đối với các Hiệp hội ngành hàng. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong việc cung cấp thông tin, thống nhất thực hiện các chiến lược phát triển sản xuất, liên kết trong kinh doanh, đàm phán ký kết hợp đồng, tránh để khách hàng lợi dụng ép giá gây thua thiệt chung. Cần có cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành quản lý và các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành.
Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại nông sản như: đường giao thông, hệ thống chợ bán buôn, trung tâm giới thiệu hàng hoá...
Lập Hiệp hội ngành hàng, mở rộng hợp tác song phương, đa phương, đàm phán mở thị trường cho các hoạt động xuất nhập khẩu.
Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh cao.
KẾT LUẬN
Phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong hội nhập WTO là điều hết sức quan trọng để tăng kim ngạch xuất khẩu và góp phần vào sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Để phát triển xuất khẩu, cần có sự phối hợp giữa các doanh với nhà nước nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Trong quá trình thực tập tốt nghiệp, với sự giúp đở của GS.TS Đặng Đình Đào và Cơ Quan Thực Tập, em đã xây dựng và hoàn thành đề tài này.
Đề tài đã hệ thống những lý luận và thực tiễn vầ xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam, nhất là sau khi gia nhập tổ chức Thuơng Mại Thề Giới WTO và đưa ra các giải pháp cũng như những kiến nghị để việc xuất khẩu nông sản đạt hiệu quả cao nhất.
Những giải pháp đưa ra trong đề tài mang tính sát thực và phù hợp với thực trạng hiện nay của Việt Nam và em tin rằng những giải pháp này sẽ góp phần tăng xuất khẩu của Việt Nam và trong tương lai Việt Nam sẽ trở thành nước xuất khẩu lớn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế Thương mại - GS.TS Đặng Đình Đào, GS.TS Hoàng Đức Thân - NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
2. Giáo trình Quản Trị Doanh Nghiệp Thương Mại - PGS.TS Hoàng Minh Đường, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc - NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
3. Giao Dịch và thanh toán Thương Mại Quốc Tế - PGS.TS Nguyễn Duy Bột - NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
4. Tạp Chí Thương Mại - Số 2006 - 2007
5. Niên giám thống kê 2007
6. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
7. Thời báo kinh tế 2005, 2006, 2007
8. Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
9. Bộ kế hoạch và đầu tư
10. Số liệu của tổng cục thống kê
11. Bộ Tài Chính
12. Tạp Chí Kinh Tế Phát Triển 2006 - 2007
13. Tạp Chí Doanh Nghiệp 5/2006
14. Các Website của Chính Phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Nghiệp Nông Thôn, Bộ Tài Chính, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản (%) 13
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu của nước ta (tỷ USD) 14
Bảng 3: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế (%) 15
Bảng 4: Biểu hàng nông sản 18
Bảng 5: Biểu xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam (Triệu USD) 52
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam từ năm 2002 - 2007 52
Bảng 7: Thị trường xuất khẩu cà phê 57
Bảng 8: Thị trường xuất khẩu rau quả 12/2007 58
Bảng 9: Thị trường xuất khẩu gạo năm 2006 60
Bảng 10: Chủng loại gạo xuất khẩu trong năm 2006 61
Bảng11: Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam (Triệu USD/năm) 62
Bảng 12: Kim ngạch xuất khẩu nông sản (Triệu tấn) 66
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7331.doc