Đề tài Phương hướng và một số kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu ở Việt Nam

* Nghiên cứu xây dựng và triển khai áp dụng quỹ tài trợ xuất khẩu cho các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu (phạm vi sản xuất rộng, là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số nông dân) trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, bằng các nguồn khác nhau: ngân sách Nhà nước (tỷ lệ này sẽ tăng dần khi các nguồn thu ngân sách tăng); đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản theo tỷ lệ lợi nhuận khi giá xuất khẩu tăng nhanh, hoặc khi Nhà nước cần điều chỉnh giảm ở mức độ lớn tỷ giá đồng nội tệ. * Nghiên cứu áp dụng các hình thức hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản như: Bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong trường hợp cần thiết; cấp tín dụng bổ sung kịp thời vào thời điểm quan trọng; hợp tác tín dụng giữa các quỹ tín dụng, các ngân hàng, kể cả với các thị trường nhập khẩu chủ yếu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. ã Nghiên cứu, xây dựng và hình thành quỹ khai thác thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông sản Việt Nam nhằm hỗ trợ giúp cho các hoạt động Marketing ở thị trường nước ngoài, giúp đỡ kỹ thuật, dịch vụ,. nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu.

doc57 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và một số kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được coi là một cường quốc xuất khẩu gạo, cà phê...). Đó là chưa kể đến những thị trường mang mầu sắc chính trị do các nước lớn áp đặt. Sáu là, về mặt chính sách, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, tuy đã linh hoạt hơn, thông thoáng hơn, song trong nhiều trường hợp cụ thể vẫn còn những vớng mắc, thiếu cụ thể, bất hợp lý, nặng về mặt kiểm tra, giám sát, chưa chú trọng về tạo điều kiện, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Thủ tục hải quan nhiều khi cứng nhắc, thiếu thực tế, thuế còn cao và có chỗ bất hợp lý; một số thủ tục hành chính trong việc đăng ký, xin phép... còn rờm rà và mất nhiều thời gian. *Tóm lại: Nhận thức được đầy đủ những lợi thế và những bất lợi trong sản xuất và kinh doanh nông sản là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, để chủ động và tự tin hơn trong quá trình chỉ đạo sản xuất, phân phối lưu thông hàng hoá trên thị trường. Tuy nhiên, vấn đề là làm sao kết hợp được các lợi thế so sánh, phát huy tối đa hiệu quả của chúng. Đương nhiên là rất khó, đòi hỏi sự nỗ lực của cả xã hội và sự kết hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, các đơn vị sản xuất. Đặc biệt là vai trò điều tiết của Chính phủ, nhằm chủ động tạo lập và xây dựng các chiến lược về mặt hàng xuất khẩu, ngành hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu chủ lực, để có thể từ những lợi thế (từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động), tạo sức cạnh tranh cho mmỗi sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới. 2.3 Đặc điểm của kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới. Đây là một trong những sản phẩm thuộc nhu cầu thiết yếu đối với đời sống con người; nông sản phẩm do hàng triệu hộ gia đình nông dân sản xuất, trở thành một trong những nghề có tính truyền thống và tập quán. Do sự phân bố dân cư và đất đai giữa các vùng không đều, mang tính tự nhiên trong khi đó tập quán và truyền thống ở mỗi vùng sản xuất những nông phẩm khác nhau, đất đai ở mỗi vùng thích hợp với loại cây trồng khác nhau. Mặt khác, việc sản xuất nông phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện tự nhiên: đất, nước, khí hậu,... vì vậy việc sản xuất mang tính mùa vụ rõ rệt. Một đặc điểm đáng lưu ý là đất đai nông nghiệp có hạn, việc tăng sản lượng bằng cách mở rộng diện tích là rất khó khăn, trong điều kiện thời tiết khí hậu bình thường thì sản lượng để cung ứng ra thị trường trong mùa vụ là tương đối ổn định. 2.3.1 Đặc điểm cung của nông sản phẩm. Sản xuất ra nông sản mang tính thời vụ, có những sản phẩm mang tính vùng vì cũng mặt hàng này cùng mang tính mùa vụ và mang tính vùng. Thông thường, ngay sau vụ thu hoạch, do nhu cầu tiêu dùng (tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng để phục vụ chu kỳ tiếp theo) buộc người sản xuất phải bán nông phẩm ra thị trường bất luận là giá tiêu thụ trên thị trường là cao hay thấp. cùng một thời điểm tất cả các nhà sản xuất cùng đa sản phẩm bán ra thị trường làm cho giá cả giảm, có lúc thấp hơn cả chi phí sản xuất. Người sản xuất có thể bị lỗ vốn nhưng họ không thể giữ sản phẩm của mình đến khi nào giá trên thị trường tăng lên đ ản phẩm ra bán. vì làm như vậy, sẽ không có vốn để thực hiện chu kỳ sản xuất mới, mặt khác do tính chất của nhiều loại sản phẩm càng không cho phép họ làm nh vậy được. Điều xảy ra ngược lại vào lúc giáp hạt, người sản xuất bán ra ít, khối lượng cung nhỏ hơn cầu dẫn đến giá tăng. Nhưng không phải vì thế mà người sản xuất có thể tăng cung ngay vì đất trồng trọt có những giới hạn nhất định, không thể mở rộng một cách tuỳ ý, dù có trồng thêm thì cũng cần có thời gian sinh trưởng. 2.3.2- Đặc điểm cầu của nông sản phẩm. Đối với người tiêu dùng nông phẩm, cho dù giá mặt hàng này có cao hay thấp thì người ta cũng chỉ tiêu dùng một khối lượng tương đối ổn định. Từ đặc điểm này cho thấy cầu cũng kém co giữan với sự biến động của giá cả. Đối với việc xuất khẩu mặt hàng này, các nhà xuất khẩu có thể mua nhiều để dự trữ cho xuất khẩu khi giá giảm và mua ít khi giá tăng. 2.3.3 Đặc điểm thị trường giá cả. Về cơ bản, thị trường trong nước là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở đó mỗi người sản xuát chỉ cung ứng ra thị trường phần nông sản phẩm rất nhỏ so với tổng lượng cung của xã hội, mỗi người sản xuất không thể độc quyền được về lượng cung nên họ cũng không độc quyền được về giá cả . Họ tham gia thị trường hay rút lưui khỏi thị trường cũng không ảnh hưởng đến mức giá đã hình thành trên thị trường. Đối với thị trường xuất khẩu của mặt hàng này, hiện nay ở nước ta có một vài nét sau: Vẫn chưa phá bỏ được nếp làm ăn manh mún và tự phát cho nên nông sản thường kém khả năng cạnh tranh do chất lượng không đồng đều và chưa phù hợp với thị hiếu người nước ngoài. Sản phẩm chủ yếu là xuất thô, chưa qua chế biến. Vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước chưa được thể hiện trong việc thu mua nông phẩm ít ỏi, phân tán theo hộ. Để cho trường hợp t tương sẵn sáng bỏ mặc người sản xuất hoặc ép giá xuống thấp hơn chi phí sản xuất... 2.3.1 Kết quả hoạt động xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu. Hàng nông sản chiếm một vị trí quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Ngoài các mặt hàng quen thuộc như lạc, chè, cà phê... những năm gần đây, với sự xuất hiện trở lại khá ngoạn mục của mặt hàng gạo trên thị trường quốc tế, càng khẳng định thế mạnh xuất khẩu nông sản của nước ta là thực tế. Từ chỗ mang tính thu gom để xuất khẩu những lô hàng lẻ, từng bước đã hình thành những vùng chuyên canh, trồng và chế biến nông sản, tạo nên những mặt hàng xuất khẩu ngày càng lớn có ấn tợng trên thị trường. 2.3.2 Gạo. 2.3.1.1 Xuất khẩu gạo. Sự tăng trưởng vợt bậc trong sản xuất lương thực nói chung, đặc biệt là lúa đã xoá bỏ được những hàng rào cản trở và tâm lý lo âu “thiếu ăn”. Tạo đà cho sự phát triển nông nghiệp, đến nay chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan), kể từ năm 1990 đến nay, lượng gạo xuất khẩu tăng bình quân 17%/năm. Bảng 2: Kết quả xuất khẩu gạo. Năm Số lượng (1000 tấn) Kim ngạch (triệu USD) Số lượng % thay đổi Kim ngạch % thay đổi 1989 1.425 321,811 1990 1.624 13,95 310,403 3,35 1991 1.033 36,39 234,491 22,46 1992 1.946 88,38 418,400 78,43 1993 1.728 11,21 362,900 13,26 1994 2.040 18,05 449,500 23,86 1995 2.052 0,57 539,800 20,08 1996 3.047 48,48 868,200 60,82 1997 3.600 18,14 864,700 0,05 1998 3.750 4,16 1.024,000 18,84 1999 4.550 21,4 1.035,000 1,0 Nguồn: Số liệu thống kê và Bộ Thương mại. Năm 1989 là năm đánh dấu mốc cho việc Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới. Đến năm 1996, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới với số lượng và kim ngạch ngày càng tăng . Mặc dù có một vài năm kim ngạch xuất khẩu suy giảm nhưng phần lớn không phải do sự suy giảm trong số lượng gạo xuất khẩu mà do gía gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm. Có thể nói, xuất khẩu gạo trong những năm qua có những bước phát triển mạnh mẽ. Cho đến nay, nước ta đã xuất khẩu trên 4,5 triệu tấn gạo so với 3,75 triệu tấn năm 1998, kim ngạch đã đạt được trên 1 tỷ USD. Đó là nhờ vào sự quan tâm và những nỗ lực lớn của Chính phủ. 2.3.1.2 Hình thức xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu gạo được mở rộng đến nay đã xuất khẩu trên 80 nước khắp các châu lục, chiếm tới 20% thị phần gạo thế giới, Tuy vậy, trong vấn đề xuất khẩu gạo vẫn chưa tạo ra được môi trường thông thoáng, tạo sự cạnh tranh để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Nhà nước về cơ bản còn độc quyền xuất khẩu và quản lý theo hạn ngạch (quota), phân bổ chỉ tiêu cứng cho các doanh nghiệp. Một minh chứng điển hình là: ở thị trường trong nước, do lúa Đông Xuân năm 1999 cho thu hoạch sớm hơn những năm trước một tháng và khối lượng tồn kho năm 1998 chuyển sang còn lớn, hoàn toàn cho phép đẩy mạnh xuất khẩu ngay từ tháng đầu năm. Thế nhưng, Quyết định số 250/1998 ngày 24/12/1998 lại khống chế khối lượng gạo xuất khẩu của các tỉnh, doanh nghiệp trong quí I/1999 ở mức khoảng 1 triệu tấn và mức khống chế này chỉ được dỡ bỏ bằng công văn số 275/CPkinh tếTH ngày 18/3/1999 khi kết thúc hai tháng đầu năm khối lượng gạo xuất khẩu mới chỉ đạt 423 nghìn tấn, chỉ bằng 54,16% so với cùng kỳ năm 1998. Sở dĩ khối lượng gạo xuất khẩu trong hai tháng đầu năm 1999 chỉ đạt rất thấp như vậy là do hạn ngạch được phân bổ sớm cho từng đơn vị đầu mối xuất khẩu và từng đơn vị này lại bị khống chế chỉ đọc xuất khẩu tong phạm vi 30%hạn ngạch được giao. Mặt khác, do giá gạo thế giới diễn biếntheo hướng giảm xuống, cho nên nhiều đơn vị đã không đẩy mạnh xuất khẩu, bởi hạn ngạch xuất khẩu đã được phân bổ. Hệ quả tất yếu là, trong hai tháng đầu năm 1999, khi giá gạo thế giới hai tháng đầu năm còn rất cao thì ta xuất khẩu quá ít, còn đến khi giá gạo thế giới tụt nhanh thì ta lại phải đẩy mạnh xuất khẩu. Các số liệu thống kê hoàn toàn minh chứng cho điều đó: bình quân mỗi tháng trong hai tháng đầu năm, khối lượng gạo xuất khẩu chỉ đạt 211,5 nghìn tấn, nhưng với giá 259,34 USD/tấn, còn trong 10 tháng cuối năm thì các con số đó là 407,7 nghìn tấn và 223,28 USD/tấn. Điều này ngược hẳn với việc xuất khẩu gạo năm 1998 khiến chúng ta bị thua thiệt không nhỏ. May mà những điều nói trên chỉ diễn ra tong 23 tháng đầu năm và cơ hội quý báu nhưng ngắn ngủi đó đã không tận dụng được là điều đáng tiếc, nhưng tất cả những gì Chính phủ đã làm từ nửa cuối tháng 3 trở đi lại là hoàn toàn đúng. Đó là các giải pháp thu hút các thành phần kinh tế tích cực tham gia xuất khẩu gạo, đẩy mạnh việc mua lúa tạm trữ chờ xuất khẩu với nhữnh khối lượng lớn trong thời gian dài. Các đơn vị xuất khẩu gạo thì không chủ động nguồn hàng, thường xuất đến đâu mua đến đó, không có những chiến lược về phát triển và gắn kết chặt tạo vùng nguyên liệu hoặc đầu t hỗ trợ hay thông qua giá mua lúa của nông dân, để tạo vùng nguyên liệu nguồn hàng ổn định về số lượng và chất lượng. Công nghệ và chất lượng chế biến còn thấp, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường. 2.3.1.3 Cơ cấu mặt hàng. Về chất lượng gạo xuất khẩu trên thế giới nhu cầu tiêu dùng gạo có chất lượng cao ngày càng lớn, các loại gạo thơm, gạo hạt dài đang được ưa chuộng. Mặt khác, do yêu cầu của các sản phẩm từ gạo như: cơm đồ, cơm hộp, chế biến xúp gạo..., những sản phẩm đảm bảo tiện lợi khi sử dụng vệ sinh cao, được bảo quản và dự trữ lâu ngày đang trở thành thị hiếu và nhu cầu của những người sử dụng gạo. Ngược lại, nhu cầu gạo chất lượng thấp hiện nay trên thế giới ngày càng giảm. Mấy năm gần đây, cùng với thành tích xuất khẩu gạo là chất lượng cao, xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được nâng cao, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn được quan tâm đầu tư các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong các khâu xay xát, chế biến, phân loại, đánh bóng và đóng gói bao bì phù hợp với nhu cầu thị trường. Bảng 3: Cơ cấu gạo xuất khẩu. Loại gạo 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Loại cấp cao 51,2 69,0 54,0 45,5 39,2 40,0 43,0 Loại cấp trung bình 21,5 15,0 22,4 11,0 8,4 12,0 11,0 Loại cấp thấp 27,3 16,0 23,6 43,5 52,4 48,0 46,0 Nguồn: Bộ Thương mại. Chất lượng gạo của Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được cải thiện do các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến đầu tư cải tiến kỹ thuật trong các khâu xay sát, chế biến, phân loại, đánh bóng, tuyển chọn và cải tạo giống lúa, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. Độ trắng không đều, lẫn thóc và tạp chất, đặc biệt là gạo vụ hèthu có độ ẩm cao, bạc bụng, hạt vàng, tỷ lệ gãy cao. Các điều kiện về đóng gói bao bì, điều kiện bốc xếp bảo quản vẫn còn chưa tốt. Tóm lại, chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu của nước ta trong chừng mực nào đó vẫn còn rất thấp, nhất là so với gạo Thái Lan và chưa đáp ứng được thị hiếu và yêu cầu của thị trường nước ngoài. 2.3.1.4 Gía cả. Hiện nay cạnh tranh lớn nhất đối với xuất khẩu gạo của nước ta trên thị trường thế giới là Thái Lan. Thái Lan là một nước có khối lượng gạo xuất khẩu lớn nhất, và đang có nhiều lợi thế hơn nước ta trên nhiều mặt, đặc biệt là về chất lượng, phẩm cấp, hơn nữa đã thiết lập được hệ thống thị trường xuất khẩu khá ổn định. do vậy, các nhà phân tích thị trường sử dụng giá gạo ở Băng Cốc như một chỉ số tốt nhất phản ánh giá trị của thị trường thế giới về gạo. * Trong sản xuất: Việc tính toán chi phí sản xuất lúa của 2 nước để so sánh là rất khó, do nhiều nguyên nhân nhưng qua điều kiện sản xuất về đất đai, tỷ lệ diện tích được tới tiêu..., năng xuất, cũng nh giá vật t các yếu tố đầu vào thì ở Việt Nam rẻ hơn so với Thái Lan, nên Việt Nam chắc chắn chi phí cho sản xuất lúa sẽ rẻ hơn Thái Lan. Ước tính chi phí sản xuất “1kg lúa” của Việt Nam bình quân vào khoảng 12501600 VND, tương đương 90 114,7 USD/tấn (tỷ giá 13.940 VND/USD). Theo Harry T.OSHINA trong tài liệu “tăng trưởng kinh tế ở Châu á gió mùa” thì ở Thái Lan giá thành sản xuất lúa 165 175 USD/tấn (tỷ giá 25 bath/USD), hiện nay do trợt giá 35 bath = 1USD thì giá thành lúa 115 120 USD/tấn. Nh vậy về giá thành (so sánh theo tỷ giá với USD) Việt Nam trước những năm 1996 khi chưa có khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan, thì thấp hơn Thái Lan khoảng 32%, sau năm 1997 thấp hơn 12%. Qua đó cho chúng ta thấy rằng do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm cho chúng ta mất lợi thế cạnh tranh. Xét trên góc độ cạnh tranh về chi phí, thì chi phí cho các yếu tố đầu vào của Việt Nam thấp mà năng xuất lúa lại cao hơn, nên giá xuất khẩu tuy có thấp hơn Thái Lan, vẫn có lãi. Đây là một lợi thế có sức cạnh tranh lớn trên thị trường lúa gạo. Song từ sản xuất ra lúa đến thành gạo đi xuất khẩu còn là một chặng đường dài và không ít những khó khăn, bất cập như các vấn đề chế biến, môi trường kinh doanh và hàng loạt tác động về thể chế và các cơ chế chính sách đối với xuất nhập khẩu. * Trong xuất khẩu: Hiện nay, vẫn còn có sự chênh lệch giữa giá các nông sản xuất khẩu Việt Nam với giá thế giới nói chung và gạo nói riêng, chính là “lỗ hổng” cần phải khép dần khoảng cách về giá, tăng hiệu quả xuất khẩu. Cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và môi trường thương mại, nâng cao sức cạnh tranh về giá đang là nội dung có ý nghĩa quyết định. Trước đây, giá gạo Thái Lan (cùng phẩm cấp và thời điểm) vẫn thường cao hơn gạo Việt Nam từ 3580USD/tấn. Những năm gần đây khoảng cách này tuy có được thu hẹp lại dần do chất lượng gạo Việt Nam tăng lên. Mặt khác do đồng Bath Thái Lan giảm giá 50%, nên giá gạo Thái Lan giảm khi đổi ra đồng USD. Trong 5 năm qua gía gạo bình quân Việt Nam là 262,6USD/tấn, còn của Thái Lan bán cùng kỳ 295 USD/tấn. Nh vậy giá gạo Thái Lan luôn cao hơn gạo Việt Nam từ 1013%. Bảng 4: So sánh giá gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan Đơn vị: USD/tấn. Điểm thời gian Loại gạo Việt Nam Thái Lan So sánh (VN/Thái Lan) Giá Tỷ lệ % Tháng 4/1997 Loại 100%B=5% tấm Loại 15% tấm Loại 35% tấm 270 219 199 318,3 277,3 244,2 48,3 58,3 45,2 15,17 21,02 18,50 Tháng 6/1997 Loại 100%B=5% tấm Loại 15% tấm Loại 35% tấm 254 243,4 216 293 293,2 249 15,0 49,8 33,0 6,27 16,98 13,25 Tháng 10/1997 Loại 100%B=5% tấm Loại 15% tấm Loại 35% tấm 270 226,5 209 273 252 223 3,0 25,5 14,0 1,09 10,11 6,27 Tháng 11/1997 Loại 100%B=5% tấm Loại 15% tấm Loại 35% tấm 249,5 243 222 262 240 211,7 12,5 3,0 10,3 4,77 1,25 4,80 Tháng 9/1999 Loại 100%B=5%tấm 200203 248 48 18,5 Nguồn: Bộ Thương mại. Trong năm 1997, cạnh tranh vẫn diễn ra gay gắt trên thị trường gạo thế giới bởi nhu cầu nhập khẩu gạo giảm, nguồn cung cấp tăng, đồng thời đồng Bath Thái Lan giảm khá mạnh. (trong 2 năm 19971998), đồng bath Thái từ 3035 Bath/USD, nên Thái Lan xuất khẩu gạo có sức cạnh tranh hơn VIệt Nam, do tỷ giá ngoại thương cao hơn). Trong khi đó giá gạo trên thị trường thế giới giảm 1518%, so với năm 1996. Trong bối cảnh đó giá gạo Việt Nam xuất khẩu cũng bị giảm 40USD/ tấn so với năm 1996 (Giá FOB bình quân đạt 284,5USD/tấn (1996), 244,5 USD/tấn (1997). Tuy nhiên sang năm 1998, giá gạo trên thế giới có xu hướng tăng lên. Tại VIệt Nam (tháng 4/1998) giá chào bán loại 5% tấm ở mức 300 USD/tấn FOB, tăng 35USD/tấn so với đầu năm 1998. Lý giải cho điều này có nhiều, nhưng cơ bản do nhu cầu ở một số nước tăng, trong khi đó nguồn cung tại các nước xuất khẩu bị hạn chế (cầu>cung). Cả INDONEXIA, PHILIPINES... đều có nhu cầu nhập, nhưng Việt Nam số lượng có khả năng xuất khẩu đã được ký hợp đồng. Năm 1999, theo đánh giá của tổng cục thống kê, sản lượng thóc của cả nước tăng khá mạnh, tăng 1,8 triệu tấn (6,5%) so với năm 1998, đạt 31,3 triệu tấn. Điều này đa nguồn cung gạo cho xuất khẩunăm 1999 tăng mạnh, tăng 21% so với năm 1998. Trong khi đó nhu cầu nhập khẩu gạo trên thị trường năm 1999 lại giảm đáng kể. Theo đánh giá của tổ chức lương nông Liên hợp quốc (FAO), nhập khẩu gạo thế giới năm 1999 chỉ đạt khoảng 23,4 triệu tấn, giảm 4,1 triệu tấn so với năm 1998. Giá xuất khẩu gạo giảm mạnh cùng sự giảm giá của thị trường thế giới, giảm gần 39USD/tấn, còn bình quân khoảng 221,5USD/tấn do nhu cầu nhập khẩu giảm mạnh ở các nước nhập khẩu gạo lớn nh INDONEXIA, PHILIPIN, BANGLADESH. Từ trung tuần tháng 9/1999, giá xuất khẩu gạo tiếp tục giảm và duy trì ở mức thấp. Cuối tháng 9/1999 chỉ còn 200203 USD/tấn, FOB (5% tấm) và 180 USD/tấn, FOB (25%tấm). Hiện nay, nếu so với gạo cùng phẩm cấp và cùng vào một thời điểm, thì gạo Việt Nam vẫn rẻ hơn Thái Lan từ 1015USD/tấn (khoảng 710%). tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ trên cơ sở số liệu về phẩm cấp tỷ lệ (%) gạo xuất khẩu thì chưa có thể nhận định chính xác, vì yếu tố thị trường đã ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ này, nh năm 1997 lượng gạo xuất khẩu vào thị trường Châu Phi chiếm tỷ lệ lớn (6276%) là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu qua các chơng trình viện trợ quốc tế, không có khả năng thanh toán nên yêu cầu gạo phẩm cấp thấp. So sánh với Thái Lan về một số khoản chi phí cho quá trình xuất khẩu gạo (về mặt bến bãi, thủ tục, năng lực điều hành) thì Việt Nam chi phí còn quá cao, có những khâu gấp tới 35 lần so với Thái Lan. Bên cạnh đó, do chưa có những thị trường tiêu thụ trực tiếp lớn, phải xuất khẩu qua trung gian nên Việt Nam thường bị thua thiệt về giá cả. Ngoài các yếu tố kể trên, trong xuất khẩu gạo, Việt Nam còn thiếu kho, chất lượng bảo quản ở các kho còn thấp, nên thường phải xuất khẩu ngay sau khi thu hoạch. việc xuất khẩu dồn dập trong một thời gian ngắn nh vậy là một yếu tố bất lợi cho Việt Nam trong việc cạnh tranh giá cả. 2.3.1.5 Cơ cấu thị trường. Gạo của Việt Nam hiện đang được xuất khẩu sang 80 nước trên thế giới, trong đó có Châu á, Châu Phi là thị trường chính chiếm khoảng 7085% số lượng gạo xuất khẩu hàng năm. Số còn lại bán sang các nước Châu Âu, Bắc Mỹ, Trung Đông và hiện nay Nhật bản, Hàn Quốc đã mở cửa thị trường để nhập khẩu gạo Việt Nam và những năm gần đây gạo Việt Nam cũng đã thâm nhập thị trường Trung Quốc. Bảng 5: Cơ cấu gạo Việt Nam xuất khẩu ở các khu vực trên thế giới. đơn vị tính: % Khu vực 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 Châu á 33,81 39,2 33,7 34,01 68,47 62,4 33,0 Châu Phi 22,32 37,87 27,9 15,49 14,85 9,89 46,0 Châu Âu+Trung Đông 6,65 9,04 10,85 2,17 1,87 16,62 13,0 Châu Mỹ 36,22 27,47 48,30 14,8 11,04 8,0 Châu Đại Dơng 0,01 0,01 Nguồn: Bộ Thương mại. Thị trường gạo của ta cũng là thị trường gạo của Thái Lan, hay nói cách khác đến nay Thái Lan xuất khẩu ở thị trường nào thì gạo Việt Nam cũng có mặt trên thị trường ấy và cũng đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt về chủng loại, chất lượng và giá... Trên thương trường Thái Lan có nhiều bạn hàng truyền thống lớn với khoảng trên 15 thị trường chính đã tiêu thụ cho Thái Lan trên 80% tổng số lượng gạo xuất khẩu. Mặt khác, Thái Lan có khối lượng xuất khẩu lớn (4,9 5,5 triệu tấn/năm), có uy tín và được nhiều khách hàng a chuộng. Hơn nữa gạo Thái Lan đồng đều, có phẩm cấp và chất lượng cao, phù hợp với thị trường có sức mua cao nh Nhật Bản, EU, Tây âu... Thái Lan lại có nhiều kinh nghiệm trên thương trường, am hiểu quản lý... Trong khi đó, Việt Nam, trên thực tế nới thâm nhập thị trường thế giới trong vòng 10 năm trở lại đây , lại chưa có những bạn hàng lớn và truyền thóng như Thái Lan. Chất lượng gạo Việt Nam còn thấp thiếu những loại có chất lượng cao phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của những thị trường khó tính nh EU, Nhật Bản nên gạo của Việt Nam thường bị thua thiệt về giá cả và một khối lượng lớn còn phải đi đường vòng qua các nước trung gian mới đến được nơi tiêu thụ. Gạo Việt Nam chỉ chủ yếu xuất bán cho các nước nghèo ở Châu Phi, Châu Mỹ la tinh. Tại Châu á, những nước nhập khẩu gạo chính của Việt Nam là MALAYSIA, Đài Loan, ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc. Còn thị trường Châu Mỹ chủ yếu là Hoa Kỳ và Brazin. Trong những năm qua, ở Châu Âu, Pháp cũng nổi lên như là một nước nhập khẩu gạo chính của Việt Nam. Mặt hàng gạo của Việt Nam đang từng bước chiếm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tìm được những thị trường ổn định, những bạn hàng vững chắc và lâu dài đang là một yêu cầu cấp thiết cho ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam. Việc Nhà nước, các doanh nghiệp cũng nh người sản xuất đầu tư một cách thích đáng vào công nghệ xay xát để nâng cao được phẩm cấp gạo cũng hết sức quan trọng trong việc mở rộng thị trường và nâng cao giá cả mặt hàng gạo xuất khẩu. Chơng 3: Phương hướng và một số biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu. nền kinh tế thái lan trong những năm đầu thập niên 80 vào những năm đầu thập niên 80 ,nền kinh tế Thái Lan vẫn còn chậm phát triển .nông nghiệp là ngành kinh tế chính ,nhưng năng xuất các cây trồng đều thấp do kỹ thuật canh tác cũ kĩ và theo phương thức quảng canh .thong khi các thành phố ,đặc biệt là băng cốc đã bắt đầu phát triển ,thì phần lớn các vùng nông thôn vẫn còn nghèo nàn ,lạc hậu .các ngành công nghiệp còn ít ỏi và đơn điệu (khai mỏ thiếc ,xay xát gạo ,xẻ gỗ v , v ...).tư bản Anh và hoa kỳ nắm những ngành kinh tế quan trọng đường lối kinh tế hướng ra xuất khẩu Thái Lan đã tìm ra cách thoát ra khỏi tình trạng kinh tế trì trệ kể trên.xuất phát từ những điều kiện tự nhiên ,nhân lực cụ thể của mình và qua nghiên cứu tìm hiểu thị trường quốc tế ,từ năm 1985 Thái Lan đã thực đường lối kinh tế hướng ra xuất khẩu .các ngành kinh tế xuất khẩu liên kết chặt chẽ với nhau để thu nhiều ngoại tệ ,giải quết công ăn việc làm cho người dân và tăng cường sức sản xuất ở trong nước .để phát triển nền kinh tế theo hướng mới ,Thái Lan đã thu hút nhiều vốn đầu tư của nước ngoài bằng luật đầu tư hấp dẫn , bằng việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài kinh doanh .tổng số vốn đầu tư của tư bản nước ngoài vào thái lan năm 1998 là 6 tỷ đôla (chiếm 2/3 tổng số đầu tư vào toàn ngành CN Thái Lan ) xingapo, nhật bản và hoa kỳ là những đầu tư vốn nhiều nhất nền nông nghiệp Thái Lan có nhiều về xuất khẩu Thái Lan đã tận các điều kiện tự nhiên thuận lợi và có các chính sách thích hợp để sản xuất nhiều nông sản xuất khẩu ,kế hoạch phát triển nông nghiệp gắn chặt với kế hoạch hoá đất nước do đẩy mạnh những biện pháp thâm canh tăng năng suất ,tích cực sử dụng giống và kĩ thuật mới (cơ giới hoá , hoá học hoá ...),sản lượng lúa gạo của Thái Lan ngày càng tăng .năm 1986,quốc gia này đã vơn lên đứng đầu về xuất khẩu gạo ngoài lưu vực sông mênam là địa bàn sản xuất chính ,lúa gạo còn được trồng ở một số nơi thuộc lưu vực hai sông nậm xi và xê mun (phụ lưu của sông mê công ). 3.1 Phương hướng. Trên con đường phát triển để trở thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá thực sự, gắn sản xuất với nhu cầu và khả năng tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước, gắn chi phí đầu tư với hiệu quả thu được tối ưu,... nền nông nghiệp Việt Nam còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, với mục tiêu nâng cao khả năng xuất khẩu, như trong chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ rõ: *Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. *Nâng cao tỷ xuất hàng hoá nông nghiệp từ 20% hiện nay lên 30% năm 2000 và 40% vào năm 2010. *Tăng khối lượng hàng hoá và kim ngạch xuất khẩu nông sản từ 2,4 4,0 tỷ USD vào năm 2000 và 8,5 9,0 tỷ USD vào năm 2010. *Nâng cao vị thế của nền Nông nghiệp Việt Nam trong khu vực và thế giới. Do đó đòi hỏi phải thực thi đồng bộ các giải pháp và chính sách về phát triển các hoạt động trong sản xuất chế biến và kinh doanh xuất khẩu nông sản. 3.1.1 Phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản xuất khẩu. Đa dạng hoá nông nghiệp được hiểu theo nghĩa đất nào cây ấy, khí hậu nào cây ấy, vùng nào cây ấy,... chứ không phải là sự manh mún phân tán trong sản xuất theo kiểu tự túc lương thực bằng mọi giá của nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu trước đây. Mục tiêu chủ yếu của định hướng này là nhằm khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam và tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản phẩm. Những cơ sở của định hướng này là: Về lý thuyết, đa dạng hoá nông nghiệp dựa trên các yếu tố nh đất đai, lao động và vốn vật chất, do đó, trong chừng mực nào đó, đa dạng hoá nông nghiệp tỏ ra khá phù hợp với hoàn cảnh và trình độ của sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Về thực tế, một mặt,do quá trình công nghiệp hoá ở các nước phát triển đang diễn ra mạnh mẽ có tác động mạnh đến thị trường hàng nông sản thế giới theo hướng làm thay đổi lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của các nước và chính điều này chú trọng đến vấn đề đa dạng hoá nông nghiệp để lấp những nhu cầu của thị trường. Mặt khác, trong thực tế phát triển nông nghiệp Việt Nam, đây là một vấn đề thuộc chủ trơng lớn của Đảng và Nhà nước hiện. 3.1.2 Tăng cường năng lực chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu. Trước hết, cần làm rõ một số quan niệm trong giải pháp này, đó là: Quan niệm về đồng bộ: không nên xem các sản phẩm nông nghiệp ở giai đoạn thu hoạch là sản phẩm cuối cùng, mà chỉ là những sản phẩm trung gian, vừa qua một giai đoạn của sản xuất cần được nâng cao giá trị hàng hoá của sản phẩm ở giai đoạn tiếp theo (giai đoạn sau thu hoạch). Từ đó cần có các dự án đầu tư tương xứng vào giai đoạn sau thu hoạch, nhất là đối với các sản phẩm có khả năng xuất khẩu. Quan niệm về sản p hẩm trọng điểm được xem xét trên một số chỉ tiêu: * Khả năng tiêu thụ của sản phẩm đó, nhất là trên các thị truờng xuất khẩu. * Hiệu quả kinh tế do sản phẩm mang lại. * Mức độ phổ biến của sản xuất sản phẩm. * Xu hướng phát triển dài hạn của sản phẩm * Khả năng phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng sản xuất tập trung của sản phẩm. Mục tiêu của giải pháp này là nhằm không ngừng nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam trên các góc độ khác nhau như: Tăng khối lượng xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu từ khâu chọn giống đến thương mại hoá các sản phẩm nông nghiệp bằng cách tăng giá trị công nghiệp trong sản phẩm ở mức cao nhất có thể, tiếp cận các thị trường có lợi ích xuất khẩu lớn, hạn chế bớt biên độ dao động giá cả của các sản phẩm nông nghiệp. Giải pháp xây dựng chơng trình đồng bộ cho các sản phẩm trọng điểm thực chất là đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu có chọn lọc. Các cơ sở của giải pháp này là: về lý thuyết, đầu tư phát triển theo chiều sâu cho phép phân bổ và sử dụng các nguồn lực hợp lý, do đó sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao; trên thực tế: một mặt, trên thị trường thế giới, xu hướng chung của các nước xuất khẩu nông sản là tăng tỷ lệ các sản phẩm có độ chế biến sâu nhằm nâng cao giá trị của sản phẩm, thoả mãn được các tiêu chuẩn chất lượng của thị trường nhập khẩu và giảm mức độ dao động của giá cả nông phẩm trên thị trường,... Mặt khác, trong điều kiện nước ta, đây là vấn đề hết sức quan trọng trong chủ trơng phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá hướng mạnh vào xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2010. 3.1.3 Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản. Đây là giải pháp mang ý nghĩa trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam xâm nhập thị trường mới và duy trì ổn định các thị trường truyền thống. Ngày nay, khi mà nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào kinh tế và chính trị càng chặt chẽ hơn. Các hành động cấm vận, đóng cửa thị trường, cho hoặc không cho hưởng các điều kiện mậu dịch ưu đãi, xây dựng khu vực thị trường chung... được sử dụng khá phổ biến trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Thông thường, cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp bị hạn chế bởi các hàng rào quan thuế và phi quan thuế của mỗi quốc gia, do đó phải được đàm phán, thoả thuận ở cấp độ quốc gia và đôi khi trở thành điều kiện cho các thoả thuận thương mại của các hàng hoá khác. Vì vậy, Chính phủ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản. 3.1.4 Các biện pháp xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản. Đây là giải pháp nhằm tiếp tục tháo gỡ những chồng chéo, phiền phức không đáng có của các công cụ quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nói chung, đồng thời hoàn thiện các công cụ quản lý mới trong môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường. Đây là giải pháp tất yếu trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta, hơn nữa, bản thân hoạt động quản lý là hoạt động tự hoàn thiện, được điều chỉnh trong quá trình vận hành. Hiện nay, những vấn đề bức xúc đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói chung đang tồn đọng trên nhiều mạt cả về hệ thống pháp lý và những quy định về thủ tục hành chính, trong đó nổi lên các mâu thuẫn giữa chính sách thuế và chính sách khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, mâu thuẫn giữa chính sách khuyến khích xuất khẩu và chính sách quy định tỷ giá ngoại hối,... 3.1.5 Tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu hàng nông sản thế giới. 3.1.5.1 Tăng cường khả năng của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Đây là giải pháp nhằm tạo nên một hệ thống kinh doanh có quy mô đủ lớn, đủ linh động có khả năng tiếp cận thị trường tốt và ứng phó nhanh với biến động của thị trường, đồng thời phát huy được sức mạnh tổng hợp của các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản. 3.1.5.2 Tăng cường khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu. Trên thương trường, các yếu tố nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh độc chiếm thị trường của sản phẩm bao gồm 2 nhóm yếu tố chính, đó là: * Các yếu tố về giá cả: bao gồm chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí về vận chuyển, đóng gói, quảng cáo và marketing sản phẩm, lợi nhuận... Nói chung, tất cả các chi phí liên quan đến việc đa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ, tính gộp vào cả giá hàng. * Các yếu tố phi giá cả: các yếu tố này ngày càng trở nên quan trọng khi mà vấn đề cung cấp sản phẩm đúng nhu cầu, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng vào đúng thời điểm hoặc mà vụ tiêu thụ (lễ hội, giáng sinh...) ngày càng được giới tiêu thụ có thu nhập cao tại các nước phát triển quan tâm. Đối với yếu tố về giá cả, nh các phần trên đã đề cập, hầu hết các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đều bán ra với mức giá thấp hơn nhiều so với giá sản phẩm cùng loại của các nhà cung cấp các nước khác. Trong điều kiện nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, đất đai canh tác kém màu mỡ, kỹ thuật canh tác yếu kém, phương tiện bảo quản và thiết bị chế biến thô sơ, hầu nh không có cơ hội để sản phẩm của Việt Nam có thể cạnh tranh được với đối thủ có tiềm lực mạnh mẽ trên mọi phương tiện, đặc biệt là tiềm lực tài chính để tăng đầu tư, phát triển sản xuất trên quy mô lớn, hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, trong những năm tới, chúng ta phải ra sức khai thác triệt để các yếu tố phi giá cả để tăng khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu. Các yếu tố quan trọng nhất mà bất cứ một nhà nhập khẩu nào cũng quan tâm, đặc biệt là các bạn hàng “khó tính” trên các thị trường có sức tiêu thụ cao đồng thời có nhiều đòi hỏi nghiêm ngặt về mọi phương diện liên quan đến mặt hàng, là vấn đề chất lượng sản phẩm và cung cấp hàng đúng thời hạn đã cam kết. Đây là hai vấn đề có tính sống còn để sản phẩm Việt Nam có thể tồn tại và đứng vững trên thương trường quốc tế. 3.2. Một số quan điểm về thúc đẩy xuất khẩu nông sản. 3.2.1.Sản xuất xuất khẩu nông sản phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, thị trường là căn cứ chủ yếu để xây dựng chiến lược kinh doanh, đối với từng ngành hàng và cho từng sản phẩm. Quán triệt quan điểm này cần làm tốt công tác nghiên cứu nhu cầu về thị trường và thị hiếu khách hàng, từ đó xác định thị trường trọng điểm, dung lượng trao đổi và tính ổn định với những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Quyết định lựa chọn và định hướng quy hoạch sản xuất một cách đồng bộ bao gồm: các yếu tố sản xuất và thị trường, tong các vùng chuyên canh xuất khẩu. 3.2.2. Thúc đẩy sản xuất xuất khẩu nông sản trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh, để nâng cao hiệu quả, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Quán triệt quan điểm này cần phân tích và tìm ra những nông sản có ưu thế trong lĩnh vực sản xuất xuất khẩu, trên cơ sở vận dụng lý thuyết về lợi thế so sánh tìm ra những sản phẩm xuất khẩu có hiệu quả cao, có chi phí và giá thành thấp so với thế giới. Đồng thời, tập trung đầu tư kỹ thuật và công nghệ thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền sản xuất nông nghiệp. 3.2.3. Thúc đẩy sản xuất xuất khẩu nông sản phải trên cơ sở sản xuất hàng hoá và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học công nghệ và chất xám cao, nâng cao giá trị nông sản. Quá trình sản xuất chế biến tổ chức xuất khẩu nông sản, cần chú ý ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học (Ví dụ trong lĩnh vực cải tạo giống tốt). Đồng thời đổi mới công nghệ và thiết bị công nghiệp chế biến, bảo quản, nâng cao chất lượng, hạn chế tổn thất sau thu hoạch, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. 3.2.4. Thúc đẩy xuất khẩu nông sản cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, các ngành có liên quan, để tạo lập những ngành hàng có đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Kinh doanh trong môi trường kinh tế thị trường, để thúc đẩy xuất khẩu nông sản, phải xuất phát từ động lực trực tiếp của người kinh doanh thông qua sự kích thích về lợi ích vật chất và nhu cầu phát triển của chính họ, song cần có môi trường thuận lợi bằng hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích của Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu nông sản, để nhanh chóng tạo lập được các ngành sản xuất xuất khẩu mạnh có vị thế trên thị trường. 3.2.5. Thúc đẩy sản xuất xuất khẩu nông sản phải trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia. Từ thực trạng và những yêu cầu cơ bản nêu trên là những định hướng chính cho việc đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả các nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. 3.3. Giải pháp. Để phát huy lợi thế cạnh tranh, thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu nông sản nh phương hướng đã đề ra, là nội dung có tính tổng hợp cần thực thi đồng bộ nhiều giải pháp và sự hiện hữu của các chính sách trên cả tầm vĩ mô và vi mô, trong thời gian tới cần tập trung một số giải pháp sau: 3.3.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu. Qua nghiên cứu lợi thế, đặc điểm và triển vọng thị trường nước ngoài thời gian tới đối với nông sản nói chung, gạo, cà phê, cao su nói riêng cần mở rộng thị trường xuất khẩu nh sau: Mở rộng các đầu mối xuất khẩu, có cả thành phần kinh tế t nhân tham gia trực tiếp xuất khẩu một cách độc lập và bình đẳng. Các công ty được chọn làm đầu mối xuất khẩu, phải minh chứng được năng lực chế biến đạt tiêu chuẩn nhất định, năng lực kho tàng và hệ thống đại lý mua gom trực tiếp tới hộ nông dân thông qua hợp đồng. Trên cơ sở tổ chức lại hệ thống thương mại trung gian sẽ khuyến khích các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mở rộng hệ thống đại lý, giảm đầu mối thương mại trung gian kinh doanh theo kiểu “chụp giật đầu cơ trục lợi” làm rối loạn thị trường. Xác định và quy định các tổ chức thương mại trung gian, từ đó phải có sự hỗ trợ dưới nhiều hình thức. Khuyến khích mở văn phòng đại diện và đại lý ở nước ngoài, gắn kết trách nhiệm lâu dài giữa sản xuất chế biến và tiêu thụ, nâng cao vị thế của các ngành hàng xuất khẩu. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản ngoài nước. Thành lập tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Chính phủ, có nhiệm vụ khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, trao đổi thông tin, trao đổi khoa học và công nghệ. Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ dẫn đến tính thời vụ trong thu hoạch và trao đổi, nên “cung cầu” không ăn khớp làm cho thị trường luôn có sự không cân bằng. Chính phủ với chức năng điều hành “vĩ mô” nền kinh tế cần có sự chủ động để can thiệp vào những lúc “cung cầu” có biến động mạnh như: lập quỹ bình ổn giá; hỗ trợ lãi xuất tiền vay để mua nông sản dự trữ lưu kho, ổn định cung cầu của thị trường và bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và tiêu dùng Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước thuộc thị trường truyền thống, đặc biệt thị trường SNG và Đông Âu, vì đây là một thị trường có dung lượng trao đổi lớn và yêu cầu về chất lượng sản phẩm không khắt khe, như các thị trường đối với các nước phát triển. Việc chủ động khai thác thị trường này, một mặt là sự chủ động của các doanh nghiệp, mặt khác các cơ quan quản lý vĩ mô phải có trách nhiệm thực hiện. Khai thác thị trường Trung Quốc, là thị trường có dân số đông, có khả năng tiêu thụ lớn, trong những năm gần đây đã nhập nhiều cao su, gạo của Việt Nam, nhưng đang ở dạng tiểu ngạch. Tuy vậy, đây là một thị trường gầnViệt Nam, để phát huy lợi thế so sánh về mặt địa lý, tiết kiệm chi phí vận chuyển. Nhưng đối với thị trường này phải có sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu để giảm bớt rủi ro tổn thất. Đảm bảo an toàn trong hoạt động xuất khẩu, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan có trách nhiệm của hai bên, thực hiện đàm phán ký các hiệp định thương mại ở các cấp độ khác nhau (tỉnh, trung ơng, huyện, doanh nghiệp) nhằm đảm bảo quan hệ ngoại thương lâu dài và ổn định. Thị trường các nước ASEAN đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên, tình hình từ năm 1996 đến nay đã có nhiều thay đổi, có xu hướng giảm tỷ lệ xuất khẩu vì. Đặc trưng cơ bản về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu tương tự giống nhau, nên Việt Nam xuất khẩu cơ bản dưới hình thức tạm nhập, tái xuất, đặc biệt là thị trường Singapore nên không phù hợp với yêu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam trên thị trường thế giới, hai là do tác động của hiệp định u đãi thuế quan (CFPT) ít có tác động đến khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên, thị trường ASEAN vẫn là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng đối với các sản phẩm nh: Gạo, cà phê, cao su... do đó cần tập trung nghiên cứu khai thác trong thời gian tới cũng như lâu dài. + Đối với gạo: Vừa tìm bạn hàng vừa xác lập thị trường ổn định, chú trọng thị trường khối ASEAN (Malaysia, Indonesia, Singapore), thị trường Trung Đông, Mỹ La tinh, Châu Phi, Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản... Hiện nay, gạo của Việt Nam đã có mặt trên 80 nước, song trong tương lai cần phải tạo dựng và tạo lập được các thị trường có tính chiến lược lâu dài, nhất là thị trường đối với các nước phát triển có sức mua cao. + Đối với cà phê: Tăng cường công tác tiếp thị, giữ “chữ tín” để duy trì bền vững các quan hệ truyền thống với các thị trường truyền thống Châu Âu, củng cố các thị trường mới tạo lập như Mỹ, một số nước Tây Âu, Trung Đông, đồng thời mở rộng thị trường Châu á như Trung Quốc và Nhật Bản... + Đối với cao su: Duy trì các quan hệ với thị trường truyền thống SNG, Đông Âu, củng cố các thị trường mới tạo lập như Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan và các nước Tây Âu... 3.3.2 Chiến lược sản phẩm. 3.3.2.1 Nâng cao đầu tư và áp dụng các tiến bộ KHCN. Trước mắt cũng nh lâu dài cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, bao gồm cả công nghệ sinh học tạo ra những giống có năng xuất, chất lượng cao đáp ứng cho chế biến và xuất khảu. + Lúa: Hiện nay đã đa vào sản xuất trên 100 giống lúa mới khác nhau và đã góp phần vào việc tăng sản lưuợng đáng kể. Việc lựa chọn cơ cấu thích nghi trên các vùng sinh thái là cần thiết, song do yêu cầu thị trường gạo thế giới là: hạt dài, trừ thị trường Nhật mua hạt tròn nhưng không nhiều, do vậy cần tăng cường công tác về giống, để có giống đáp ứng xuất khẩu theo tiêu chuẩn (chiều dài hạt gạo +7mm; chiều dài/chiều rộng>3; gạo phải trong, nấm (điểm) bạc bụng cho phép 01mm) để nâng cao sức cạnh tranh của gạo Việt Nam. 3.3.2.2 Đầu t đổi mới công nghệ chế biến bảo quản. Tạo lập chơng trình “Hỗ trợ đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nói chung, đối với những mặt hàng nông sản xuất khẩu nói riêng”. Tập trung chủ yếu vào khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến với những công nghệ tiên tiến hiện đại, đẩy mạnh chế biến và tinh chế nông sản, đa dạng hoá sản phẩm chế biến theo tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp cũng nh vệ sinh thực phẩm cao bằng cách nâng cấp những nhà máy hiện có, xây dựng một số nhà máy mới tại vùng nguyên liệu áp dụng đồng bộ công nghệ tiên tiến và lấy hiệu quả làm mục tiêu. 3.3.2.3 Nghiên cứu áp dụng hình thức bán bảo hiểm cho các loại cây công nghiệp để tạo quỹ trợ cấp thiệt hại đối với sản lượng thu hoạch khi gặp thiên tai. 3.3.2.4 Tiếp tục triển khai áp dụng các quy định về giá sàn đối với các sản phẩm nông nghiệp, sử dụng ngân sách Nhà nước để can thiệp kịp thời khi giá cả sụt xuống dưới mức giá sàn quy định... 3.2.2.5 Tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông sản xuất khẩu. Kiểm tra hàng trước khi xuất khẩu: thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng hàng trước khi giao, đảm bảo hàng xuất đúng với yêu cầu đã ký kết trong hợp đồng. Khâu lưu thông, vận chuyển. + Đầu tư đóng hoặc nhập khẩu các phương tiện vận chuyển chuyên dùng, phương tiện có kho lạnh, nâng cấp thiết bị vận chuyển để đảm bảo hàng không bị hư hao mất mát và suy giảm chất lượng trên đường vận chuyển. + Nhà nước cần có chính sách tháo gỡ ách tắc giao thông trên các trục đường vận chuyển hàng ra cảng, đảm bảo hàng không bị nằm lâu trên đường vận chuyển, đảm bảo không những về chất lượng hàng hoá mà cả thời hạn giao hàng. Về cam kết thực hiện đúng thời hạn giao hàng với khách hàng nước ngoài, cần tổ chức tốt một số các tác nghiệp cụ thể sau: + Ký hợp đồng lâu dài với các cơ sở và người sản xuất, nắm vững và thường xuyên kiểm tra luồng hàng; đa dạng hoá và ổn định nguồn hàng xuất khẩu, tổ chức khâu thu mua kịp thời; tránh tình trạng tàu đã cập càng mà vẫn chưa tập trung được đủ hàng để xếp và phải chờ hàng; thực hiện chế độ thưởng cho các nhà cung cấp hàng thực hiện tốt cam kết hợp đồng cho xuất khẩu. + Khai thác các luồng vận chuyển hợp lý, thuận tiện, thuê các hãng tàu có phương tiện vận tải tốt và có uy tín tránh tình trạng hàng phải chờ tàu. + Cải tiến khâu thủ tục giấy tờ phiền hà, tốn thời gian để hàng phải chờ lâu vì các khâu thủ tục rờm rà tại các điểm bốc xếp hàng tại cảng. + Thông tin kịp thời về tình hình hàng hoá từ khi ký hợp đồng đến khi giao hàng, nhất là những trường hợp bất khả kháng, giữ uy tín với khách hàng về các cam kết giao hàng đúng thời hạn đã thoả thuận. 3.3.3 Biện pháp tài chính. 3.2.3.1 Vốn. Yêu cầu vốn cho đầu tư sản xuất chế biến và tiêu thụ xuất khẩu là rất lớn, để có đủ vốn cho đầu tư đồng bộ vào các khâu quan trọng, chính sách tài chính nhằm thu hút được các nguồn vốn cho đầu tư như: Tạo vốn là thu hút đầu tư trong nước, trong đó huy động vốn tự có của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, huy động vốn nhàn rỗi trong dân, để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, sản xuất, chế biến... Vay vốn tín dụng Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng phát triển nông thôn và ngân hàng thương mại. Thu hút vốn nước ngoài và tham gia hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh doanh. Đây được xem như giải pháp quan trọng tháo gỡ tài chính, vì dựa vào nội lực thì chưa đáp ứng được yêu cầu, do vậy vốn và công nghệ nước ngoài rất quan trọng thông qua hợp tác quốc tế. Và thông qua đầu tư hợp tác hai bên cùng có lợi, ta sẽ tranh thủ được một phần thị trường như: thông qua bao tiêu, cho sử dụng các kênh phân phối, sử dụng nhãn hiệu của các nhà đầu tư nước ngoài... 3.3.3.2 Quỹ hỗ trợ. * Nghiên cứu xây dựng và triển khai áp dụng quỹ tài trợ xuất khẩu cho các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu (phạm vi sản xuất rộng, là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số nông dân) trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, bằng các nguồn khác nhau: ngân sách Nhà nước (tỷ lệ này sẽ tăng dần khi các nguồn thu ngân sách tăng); đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản theo tỷ lệ lợi nhuận khi giá xuất khẩu tăng nhanh, hoặc khi Nhà nước cần điều chỉnh giảm ở mức độ lớn tỷ giá đồng nội tệ... * Nghiên cứu áp dụng các hình thức hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản như: Bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong trường hợp cần thiết; cấp tín dụng bổ sung kịp thời vào thời điểm quan trọng; hợp tác tín dụng giữa các quỹ tín dụng, các ngân hàng, kể cả với các thị trường nhập khẩu chủ yếu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam... Nghiên cứu, xây dựng và hình thành quỹ khai thác thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông sản Việt Nam nhằm hỗ trợ giúp cho các hoạt động Marketing ở thị trường nước ngoài, giúp đỡ kỹ thuật, dịch vụ,... nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. 3.3.3.3 Thuế. Miễn giảm thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản phẩm cần phát triển mở rộng quy mô. Thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp phục vụ xuất khẩu tại các vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn. Để hỗ trợ cho đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khẩu đối với những trang thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất chế biến các nông sản. 3.2.3.4 Tỷ giá hối đoái. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm nông sản, nhưng trên cơ sở đảm bảo sự phát triển ổn định các ngành, lĩnh vực kinh tế có thể áp dụng tỷ giá thanh toán cao hơn tỷ giá quy định chung, cho các khoản thu xuất khẩu hàng nông sản trong điều kiện giá sản phẩm đó trên thị trường thế giới bị suy giảm, hoặc giá thu mua xuất khẩu trong nước tăng đột biến, hoặc Nhà nước vì lý do nào đó cố gắng kìm chế tỷ giá chung để có lợi cho nền kinh tế nhưng lại bất lợi cho xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng trong giai đoạn nào đó. 3.3.4 áp dụng khoa học công nghệ và đào tạo cán bộ. Tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, thực hiện các chơng trình nghiên cứu giống (lai tạo, chọn lọc, nhập nội) quốc gia, tạo một bước có tính “đột phá” về năng suất chất lượng, phát triển công nghệ sau thu hoạch, nghiên cứu kinh tế, thị trường. Có cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo các lĩnh vực ưu tiên. Tăng cường công tác khuyến nông, đa nhanh và trực tiếp đến người sản xuất (hộ nông dân). Kiện toàn và sắp xếp hệ thống nghiên cứu khoa học, để huy động và phát huy được sức mạnh trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Tăng cường đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học. Đổi m ới công tác quản lý khoa học, tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu trong các đề tài nghiên cứu. Có quy hoạch và kinh phí đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước. Trên đây chỉ là những biện pháp cơ bản nhất đồng thời cũng là những yếu tố cần thiết nhằm thúc đẩy các mặt hàng nông sản có lợi thế của Việt Nam. Kết luận Việt Nam được đánh giá là một nước có vị trí địa lý thuận lợi, đất đai mầu mỡ, khí hậu nhiệt đới gió mùa rất phù hợp với việc trồng các cây nông nghiệp và các cây công nghiệp đầu ngành cụ thể là gạo, cà phê, cao su,... thực tế đã chứng minh bằng việc xuất khẩu gạo của chúng ta đứng vào hàng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan, có lượng cà phê đứng đầu trong khu vực sau INDONESIA,... Tuy nhiên, bên cạnh đó các mặt hàng xuất khẩu nông sản của ta cũng có những điểm hạn chế chủ yếu như công nghệ lạc hậu chưa được thay thế; kỹ thuật, giá, chất lượng sản phẩm kém chưa phù hợp với thị trường, mạng lới thu mua cho xuất khẩu cũng như các đầu mối xuất khẩu hoạt động chưa hiệu quả còn mang tính độc quyền với vai trò thâu tóm của Nhà nước... đã làm hạn chế đến xuất khẩu. Thêm vào đó là thông tin thị trường vừa chậm, vừa thiếu chính xác, đôi khi còn trong tình trạng đói thông tin, làm cho kim ngạch xuất khẩu giảm trong khi số lượng xuất khẩu tang. Để xuất khẩu có thể phát triển hơn nữa theo định hướng đã đặt ra, cần tiến hành các biện pháp có hệ thống và kiên quyết nhằm tăng chất lượng sản phẩm và đứng vững trên thị trường thế giới. Vấn đề quan trọng đặt ra là bên cạnh những nỗ lực của người sản xuất và kinh doanh xuất khẩu, rất cần có sự khuyến khích và tạo môi trường pháp lý, tài chính và kinh tế của Nhà nước. Nhà nước chính là người dẫn dắt tạo hành lang cho hoạt động xuất khẩu được phát triển. Hy vọng rằng Việt Nam, với những tiềm năng dồi dào sẵn có trong sản xuất nông nghiệp cả về đất đai, điều kiện tự nhiên và nguồn lao động, với định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng trong việc tăng cường phát huy nội lực sẽ tạo ra những sản phẩm nông nghiệp phong phú về chủng loại, với nhiều tầng chất lượng, có khối lượng lớn và giá trị xuất khẩu ngày càng được cải thiện, tạo nên sức lan toả mạnh mẽ của “hơng vị” sản phẩm Việt Nam trên thị trường nông sản thế giới. Tài liệu tham khảo 1 Đề án: Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả nônglâm sản xuất khẩu của Việt Nam. (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 1998). 2 Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của một số mặt hàng nông lâm sản chính (Bộ Nông nghiệp và PTNT 1998). 3 Giáo trình: Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương (Trường Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa Kinh tế 1999). 4 Hồ sơ các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam (Bộ Thương mại 1999) 5 Niên giám thống kê TCTK 1996, 1997, 1998. 6 Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế 1999 2000. 7 Tô Thị Kỷ: Báo cáo chuyên đề: Phân tích và đánh giá khả năng cạnh tranh mặt hàng lúa gạo xuất khẩu (tháng 81999). 8 PTS. Nguyễn Đình Long: Những giải pháp chủ yếu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam Tạp chí kinh tế Nông nghiệp số 41999. 9 PTS. Nguyễn Đình Long: Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam Tạp chí cộng sản số 4 (21999), tạp chí kinh tế phát triển số 6 (71999). 10 PTS. Nguyễn đình Long: Một số giải pháp chủ yếu xuất khẩu nông sản trong thời gian tới Tạp chí kinh tế Nông nghiệp số 10 (101999). 11 Đỗ Hồng Tuyên: Báo cáo chuyên đề: Phân tích và đánh giá khả năng cạnh tranh mặt hàng cà phê xuất khẩu (tháng 101999)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29066.doc
Tài liệu liên quan