Đề tài Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Quá trình hình thành thị trường chứng khoán phụ thuộc vào tiến trình thực hiện các bước chuyển tiếp nền kinh tế nước ta sang cơ chế thị trường, trong đó việc ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình cụ thể của Nhà nước về phát triển kinh tế của mỗi giai đoạn là hết sức quan trọng. Các bước đi đến thiết lập thị trường chứng khoán gắn liền với việc giải quyết các vấn đề liên quan đến xây dựng cơ chế quản lý kinh tế mới, tức là gắn liền với quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý một nền kinh tế thị trường với sự giám sát của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đề án chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót. Kính mong thầy giáo và các bạn sửa chữa bổ sung để đề án hoàn chỉnh hơn.

doc37 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hầu như loại trừ các thúe đánh vào việc chuyển nhượng các công cụ nợ của công ty. Các công ty có tỷ suất lợi nhuận cao, có một ngân hàng bảo đảm được pháp luật phát hành các thương phiếu ngắn hạn và các chứng chỉ đầu tư những cải cách này không ảnh hưởng trực tiếp đến sự thịnh vượng của thị trường trái phiếu tư nhân. Tuy nhiên, các cải cách này diễn ra đúng vào giai đoạn có tỷ lệ lãi suất cao đã làm hạn chế các đợt phát hành vay vốn mới của các thành phần tư nhân. Thị trường cổ phiếu - trái ngược với thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu Italia ở trong tình trạng kém phát triển , với khối lượng vốn trên thị trường tính theo % trên GDP vào loại thấp nhất ở Châu âu (xem bảng). Mặc dù các đợt tự nhân hoá gần đây đã thu hút một số lượng lớn các cổ đông nhỏ, các thành phần kinh tế hộ gia đình vẫn chỉ quen với các hình thức tiết kiệm qua ngân hàng nên tổng khối lượng cổ phiếu họ nắm giữ vẫn còn thấp. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng chỉ chiếm tỷ lệ thấp, một phần do chưa có một hệ thống cơ sở pháp lý nhằm khuyến khích hoạt động của họ. Mãi đến gần đây các ngân hàng mới được phép sở hữu một phần vốn trong các công ty phi tài chính. Điều quan trọng nhất là việc giới hạn sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp s ẽ ảnh hưởng tới cơ cấu sở hữu của công ty. Cũng như nhiều thị trường vốn ở Châu âu, chi phí giao dịch ở thị trường vốn Italia đã giảm một cách đáng kể trong một thập kỷ qua chủ yếu nhờ vào các tiến bộ kỹ thuật trong việc công khai thông tin công ty trong hệ thống giao dịch. Ngoài ra nhờ vào các cách quy chế mạnh mẽ bao gồm cả tự do hoá quyền được làm thành viên của sở giao dịch, giảm thuế giao dịch, tự do hoá việc thu hoa hồng môi giới. Những cải cách này đã được nhiều nước thực hiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các thị trường chứng khoán xuất phát từ tự do hoá các luồng vốn ở Châu âu. Bảng số 1: Thị trường chứng khoán Châu Âu các chỉ số về quy mô và vòng quay của đồng vốn năm 1994. Nước Tổng giá trị vốn hoá trên thị trường ( triệu USD) Vốn trên thị trường tính theo % GDP Quy mô trung bình của 1 công ty (triệu USD) Tỷ lệ quay vòng (%) Anh 12102.45 118,1 585 78,1 Đức 4705.19 23,0 1128 97,8 Pháp 4512.63 34,0 983 133,88 Thụy Sĩ 2840.92 108,9 1199 0,1 Hà Lan 283251 85,9 894 73,5 Italia 1801.35 17,7 808 72,3 Tây Ban Nha 1548.58 32,1 409 44,1 Thụy Điển 1309.39 66,6 1149 70,5 Bỉ 841.03 36,9 543 15,6 (Nguồn: Công ty tài chính quốc tế, các TTCK đang nổi lên 1995 - các số liệu tổng quát) Cải cách ở Italia bắt đầu thực hiện từ những năm 90, khá muộn so với các nước Pháp, Đức Tây Ban Nha và Anh. Tuy nhiên sau khi luật về các công ty giao dịch chứng khoán (SIMs) ra đời vào tháng 1/1991, việc thể nghiệm các giao dịch khối lượng lớn vào tháng 11/1991 và gần đây việc nới lỏng quyền sở hữu của các ngân hàng đối với các công ty thành viên thị trường chứng khoán Italia đã bắt đầu theo kịp với các thị trường khác ở châu âu. 2. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Hàn Quốc có thể chia thành 4 giai đoạn: 2.1 Giai đoạn chuẩn bị (năm 1956 - 1967) Thị trường chứng khoán chính thức đầu tiên ở Hàn Quốc bắt đầu hoạt động với sự thành lập của sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc vào ngày 3.3.1956. Tuy nhiên vào thời điểm này GNP/đầu người của Hàn Quốc chưa đến 100 USD; vì vậy nhìn chung công chúng không có đủ tiền để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Hơn nữa lúc này cũng rất ít các công ty có được sự tín nhiệm cao để có thể chào bán, chứng khoán của mình ra công chúng. Sở giao dịch chứng khoán hoạt động giống một thị trường trái phiếu giúp chính phủ huy động vốn hơn là một thị trường cổ phiếu . Mặc dù chính phủ có chủ trương thiết lập các cơ sở pháp lý cho thị trường chứng khoán thông qua việc ban hành luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán năm 1962, hệ thống giám sát thị trường vẫn còn rất yếu, chưa thể ngăn ngừa được sự đầu cơ giá rất mạnh trên thị trường. Kết quả là thị trường đã bị đổ vỡ vào tháng 5 - 1965 2.2. Giai đoạn cất cánh (1968 - 1976) Giai đoạn này, được xem là giai đoạn cất cánh của thị trường chứng khoán Hàn Quốc, bởi vì ngày từ năm 1967 chính phủ đã cố gắng thu hút các nguồn vốn cho các kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ hai và thứ ba thông qua việc huy động các nguồn vốn trong nước hơn là dựa vào khoản vay nước ngoài. Với chính sách này chức năng của thị trường chứng khoán đã được nhận thức lại. Năm 1968. luật khuyến khích phát triển thị trường vốn được ban hành. Công ty đầu tư hàn quốc được thành lập chịu trách nhiệm đối với việc phát hành chứng khoán. Nhằm thu hút sự quan tâm của công chúng vào thị trường chứng khoán, cổ tức được bảo đảm sẽ trả bằng lãi suất kỳ hạn 1 năm. Ngoài ra, các công ty niêm yết được hưởng những ưu tiên nhất định về tài chính và thuế. Bên cạnh đó luật khuyến khích phát hành công khai được ban hành năm 1972. Theo luật này, chính phủ buộc các doanh nghiệp tư nhân có khả năng phải phát hành ra công chúng và bất cứu công ty nào không phát hành công khai sẽ gặp khó khăn trong việc tìm nguồn vốn qua hệ thống ngân hàng. Kế hoạch sở hữu cổ phiếu của nhân viên cũng được đưa ra nhằm mở rộng nhu cầu về cổ phiếu. Nhờ những chính sách này mà thị trường chứng khoán đã được mở rộng rất nhanh trong giai đoạn này. 2.3. Giai đoạn củng cố hệ thống (1977-1985) Uỷ ban chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán cùng với ban giám sát chứng khoán được thành lập nhằm quản lý và giám sát thị trường một cách có hiệu quả. Sự công bằng trong giao dịch được củng cố bằng việc đưa vào thực hiện quy chế chống lại các giao dịch tay trong quyền quản lý của các cổ đông gốc nắm đa số cổ phiếu trong công ty được bảo vệ ở nhiều cấp độ bằng một số quy định về đấu thầu và không được mua nhiều hơn 10% cổ phiếu có quyền bỏ phiếu, nếu không có sự đồng ý trước của uỷ ban. Mạng lưới công khai thông tin công ty được kiểm tra lại toàn bộ. Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán, ban giám sát chứng khoán có thể kiểm soát tài chính và hoạt động của các công ty niêm yết khi cần phải bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Với những sửa đổi trên, thị trường chứng khoán Hàn quốc trở nên công bằng hơn với hệ thống quản lý và định chế thị trường có nhiều ưu điểm. 2.4. Giai đoạn đại chứng hoá và quốc tế hoá (1986 đến nay) Từ năm 1986, kinh tế Hàn quốc đã tăng trưởng nhanh trong bối cảnh '' 3 thấp'': lạm phát thấp, giá dầu thấp, lãi suất thấp và đã trải qua thời kỳ đen tối của cán cân thanh toán. Dựa trên cơ sở kinh tế tăng trưởng, nhu cầu về tài chính trực tiếp của các công ty và cả nhu cầu về đầu tư chứng khoán của công chungs đều tăng lên. Bởi vậy thị trường chứng khoán có cơ hội mở rộng cả về cung lẫn cầu. Chỉ số cổ phiếu kết hợp mới chỉ đạt 180 vào cuối năm 1985 đã tăng lên trên 1000 vào tháng năm 1989 khối lượng giao dịch trung bình hàng ngày đã tăng từ 20 triệu USD năm 1985 lên 320 triệu USD năm 1989. Những đợt tăng giá cổ phiếu đã mang lại nhiều lợi nhuận cho cả các công ty dự định phát hành chứng khoán lẫn những người đầu tư chứng khoán: Nhiều công ty tư nhân đã tranh nhau phát hành công cộng vào cuối những năm 80 số lượng các công ty niêm yết đã tăng từ 342 công ty năm 1985 lên 690 công ty năm 1989. Cùng thời gian này, số lượng vốn huy động được thông qua thị trường chứng khoán trong năm 1989 đã đạt 26.000 tỷ USD trong khi năm 1985 con số này chỉ đạt 4tỷ USD và vượt xa số vốn huy động thông qua tài chính gián tiếp. Điều này cho thấy đã có sự chuyển đổi về hình thức huy động vốn của công ty từ tài chính gián teps sang tài chính trực tiếp. Với chính sách đại chúng hoá thị trường chứng khoán . số lượng những người đầu tư trên thị trường chứng khoán đã tăng lên rất nhanh . Các công ty chứng khoán này đèu được hiện đại hoá thông qua việc mở rộng vốn cổ phiếu và tự động hoá hoạt động của mình. Chương II Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. I. Thực trạng hoạt động kinh tế ở Việt nam . 1. Thực trạng hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam. Bước vào năm 1998 trong yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng , trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt của hoạt động ngân hàng và ảnh hưởng tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực; toàn hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam tiếp tục phát huy nội lực, với truyền thống thống nhất ý chí hành động, sự nỗ lực vượt bậc, sự điều hành kiên quyết và tập trung của lãnh đạo các cấp đã vượt qua khó khăn, thử thách đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đến hết quý I/1998, tăng trưởng nguồn vốn đạt 21.000 tỷ đồng, tiền gửi dân cư tăng 9% so với mỗi năm 1997 . Đặc biệt ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam phát hành trái phiếu, từ ngày 20-5-1998, chỉ trong thời gian 20 ngày đã huy động tổng mức 1000 tỷ đồng gồm cả vốn Việt nam đồng và ngoại tệ. Nguồn vốn huy động đã sẵn sàng giải ngân chỉ tiêu kế hoạch tín dụng nhà nước giao năm 1998 với mức vốn 4000 tỷ đồng, trong đó cho các dự án trọng điểm như thuỷ điện Yaly 750 tỷ đồng; tầu chở dầu thô 23,5 triệu USD, xi măng Bát sơn, Bưu chính viễn thông và các dự án chuyển tiếp khác. Trả nợ nước ngoài đúng hẹn đạt 22 triệu USD, cùng kỳ năm 1997 ; dư nợ tín dụng đầu tư phát triển tăng 6,7%; cải tiến công tác thanh toán tập trung, nâng cao khả năng thanh toán nhanh trong toàn hệ thống; thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước, của thống đốc ngân hàng nhà nước về an toàn hoạt động ngân hàng, về an toàn tín dụng, tăng dự trữ buộc đảm bảo nhu cầu chỉ tiêu của khách hàng; kinh doanh ngoại hối quản lý ngoại tệ theo đúng các quy định của chính phủ và của ngân hàng nhà nước; tỷ lệ nợ quá hạn thấp, kết quả kinh doanh lãi đạt 305 kế hoạch và nộp đầy đủ nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Về tổ chức bộ máy ngân hàng đầu tư và phát triển , Việt nam đã xây dựng được một hệ thống 65 chi nhánh tỉnh, thành phố trong cả nước, có mô hình tổ chức gọn nhẹ phù hợp với đặc điểm đầu tư phát triển và phù hợp với đặc thù trên từng địa bàn lãnh thổ, đội ngũ cán bộ ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam được tăng cường về số lượng và chất lượng , cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 52,6% so với tổng số cán bộ, xây dựng ý thức hết mình vì sự nghiệp chung, đoàn kết trên dưới vì sự nghiệp của ngành, phối hợp tốt mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng, phát huy sức mạnh nội lực sáng tạo của quần chúng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, thường xuyên đào tạo bồi dưỡng trau dồi phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực quản trị điều hành cho lãnh đạo các cấp, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ nghiệp vụ, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam. Đã mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế một cách nhanh chóng và hoạt động có hiệu quả với gần 500 ngân hàng đại lý, 65 ngân hàng có quan hệ giao dịch thanh toán, quan hệ tín dụng, hợp tác đào tạo cán bộ . Do mở rộng quan hệ quốc tế đã khai thác được việc đào tạo cán bộ, tiếp cận với công nghệ ngân hàng hiện đại, khai thác được nhiều khoản vay, thực hiện một khối lượng thanh toán hàng năm 400 triệu USD. Trong quá trình đổi mới và phát triển . Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam luôn lấy phương châm hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mucj tiêu trên cơ sở phục vụ đầu tư phát triển , tăng trưởng kinh tế mà không ngừng tăng doanh lợi của ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát. coi việc chăm lo nguồn lực con người là động lực của sự phát triển , coi quản trị điều hành là khâu quyết định sự thành đạt trong kinh doanh, coi hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại tăng cường kiểm tra kiểm soát là những công cụ quan trọng quyết định chất lượng, hiệu quả và an toàn trong kinh doanh, quyết định năng lực và điều kiện hội nhập. 2. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp . Tính từ năm 1991 cho đến cuối năm 1997 mới cổ phần hoá được 18 doanh nghiệp nhà nước với tổng số vốn là 121.348 triệu đồng gồm; phân theo ngành. Bảng số 2: Danh sách các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần Ngành giao thông vận tải 4 doanh nghiệp Ngành công nghiệp 7 doanh nghiệp Ngành xây dựng 1 doanh nghiệp Ngành chế biến nông lâm,thuỷ sản 3 doanh nghiệp Ngành dịch vụ 3 doanh nghiệp Phân theo lãnh thổ Thành phố Hồ chí Minh 10 doanh nghiệp Thành phố Hà nội 1 doanh nghiệp Thành phố Hải phòng 1 doanh nghiệp Tỉnh Long An 1 doanh nghiệp Tỉnh ninh Bình 1 doanh nghiệp Tỉnh Bình định 1 doanh nghiệp Tỉnh cà Mau 1 doanh nghiệp Thành phố Đà nẵng 1 doanh nghiệp Tỉnh An Giang 1 doanh nghiệp Nguồn: Báo cáo của ban cổ phần hoá, Bộ tài chính Trong số 18 doanh nghiệp nói trên có 1 doanh nghiệp nhà nước bán toàn bộ cho công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số còn lại nhà nước nắm giữ ít nhất là 18 %, cao nhất là 51% cổ phần của công ty (bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần hiện nay có 11 doanh nghiệp hoạt động từ 1 năm trở lên, trong đó có 2 doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao là công ty cổ phần cơ điện lạnh, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp vốn giảm dần như xí nghiệp VIFOCO, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long an, xí nghiệp sửa chữa và đóng mới tầu thuyền Bình định. Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển , có tiến bộ về mọi mặt, nhà nước và doanh nghiệp người lao động đều có lợi. Cụ thể: Đối với các doanh nghiệp (số liệu của 18 doanh nghiệp) Bảng 3 : Mức tăng bình quân của chỉ tiêu Vốn tăng bình quân 45% năm Doanh thu tăng bình quân 56,9% năm Lợi nhuận tăng bình quân 70,2% năm Nộp ngân sách tăng bình quân 98% năm Thu nhập của người lao động 20% năm Tăng bình quân Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1% năm Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 74,6% năm (Nguồn: báo cáo của ban cổ phần hoá - Bộ tài chính ) - Đối với nhà nước: Do sản xuất phát triển , doanh thu tăng, lợi nhuận tăng nên tiền thuế của các công ty cổ phần nộp cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nước . Ngoài ra, nhà nước còn thu được 37.724 triệu đồng từ các nguồn sau: Tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng Phần lợi tức của nhà nước từ các công ty cổ phần 6.995 triệu đồng Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV 522 triệu đồng Đấy là còn chưa kể số tiền cán bộ công nhân viên trong các công ty cổ phần mua chịu cổ phiếu là 14,749 triệu đồng sau 5 nămg phải trả nhà nước. - Đối với người lao động và xã hội: Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22-24%/năm. Ngoài số lao động cũ, các công ty đã thu hút thêm hơn 1000 lao động ngoài xã hội vào làm việc. Do hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá có hiệu quả nên lợi tức của các cổ đông thường cao hơn lãi suất gửi tiền tiết kiệm, đồng thời tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh, giá trị cổ phiếu thường tăng từ 1,5 đến 2 lần (sau 1 đến 2 năm hoạt động). Chẳng hạn như: công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển , sau 4 năm hoạt động giá trị cổ phiếu đã tăng 7 lần, còn công ty cơ điện lạnh cũng trong thời kỳ như vậy giá trị cổ phiếu tăng hơn 6 lần. Mặc dù cho đến nay số doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá còn ít và đang trong ở trong giai đoạn thí điểm, thời gian hoạt động chưa dài, song cũng nhận thấy. + Các doanh nghiệp cổ phần hoá do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ siêu năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất hiệu quả lợi nhuận cao hơn trước Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu hội đồng quản trị, giám đốc điều hành phải chỉ đạo công ty hoạt động có hiệu quả để có lợi nhuận cao hơn. + Phương pháp quản lý điều hành của doanh nghiệp thay đổi từ việc giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu hội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám đốc. II. Điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. 1. Thuận lợi Hiện nay, chính phủ đã có chủ trương xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán và giao cho Uỷ ban chứng khoán nhà nước xúc tiến song vẫn đang còn nhiều tranh cãi xoay quanh vấn đề này. Nhiều chuyên gia nghi ngờ tính khả thi của trung tâm giao dịch chứng khoán ra đời trong giai đoạn này. Nếu vậy thì thời điểm nào là tốt nhất ? cũng chưa trả lời được sang ngồi chờ thì càng không. Vậy có nên vừa làm vừa điều chỉnh bổ sung hoàn chỉnh được chăng? có thể nhìn nhận về những thuận lợi mà Việt nam có được hiện nay đối với vấn đề này. Nền kinh tế nước ta đã ra khỏi khủng hoảng với mức tăng trưởng cao và liên tục trong một vài năm gần đây. Yếu tố này đã kích thích sự tăng lên về nhu cầu vốn đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn. Bên cạnh đó, với những chính sách phù hợp , chúng ta đã kìm hãm được lạm phát và giữ ở mức độ cho phép trên cơ sở ổn định giá trị đồng tiền nội tệ và tỷ giá hối đoái cũng như kiểm soát được cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ vậy, người đầu tư có thể yên tâm để đầu tư vào các mục đích sinh lời khác nhau, trong đó có các chứng khoán mua bán trên thị trường . Mặt khác trước khi hình thành thị trường chứng khoán hoàn chỉnh ở Việt nam, chúng ta đã có một số công cụ tài chính ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng và các thị trường vốn ngắn hạn khác. Sự hoạt động thường xuyên, ổn định của thị trường vốn ngắn hạn này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị trường vốn dài hạn, chúng ta cũng đã có những công cụ của thị trường vốn dài hạn, tuy sự phát triển của nó chưa cao như các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình, trái phiếu ngân hàng và một số trái phiếu của các công ty cổ phần và của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần. Một yếu tố không kém phần quan trọng trong quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt nam là sự giúp đỡ của một số nước, một số tổ chức quốc tế , các công ty chứng khoán nước ngoài đã có thị trường chứng khoán lâu năm quan tâm giúp đỡ chúng ta về nhiều mặt . Việc hình thành và ra mắt cơ quan quản lý. điều hành thị trường chứng khoán vào tháng 8/1997 vừa qua đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hình thành thị trường chứng khoán ở Việt nam. Về cơ cấu vốn cho vay đã có sự thay đổi tích cực, Tỷ trọng vốn cho vay trung và dài hạn, và cho vay khu vực kinh tế tư nhân tuy còn rất nhỏ nhưng xu hướng ngày càng gia tăng. Hiệu quả tín dụng đã được nâng lên rõ rệt , tình trạng nợ quá hạn đã giảm đáng kể. Những năm từ 1993 về trước nợ quá hạn thường từ 15-20 % trong tổng dư nợ, mấy năm gần đây con số đó không quá 10% . 2. Khó khăn. Hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính Việt nam hiện vẫn còn những tồn tại khá lớn đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển một thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng. Số lượng ngân hàng đã khá nhiều nhưng vốn của mỗi ngân hàng quá thấp. Các ngân hàng quốc doanh có số vốn khá lớn (1000-3000 tỷ đồng) . một vài ngân hàng cổ phần có vốn điều lệ trên 200 tỷ. Còn lại hầu hết các ngân hàng khác từ 70-100 tỷ. Thậm chí có ngân hàng chỉ có từ 10 đến 50 tỷ. Vơí số vốn pháp định quá nhỏ như vậy, các ngân hàng không thể đa năng hoá nghiệp vụ và cũng không thể thực hiện tín dụng đầu tư một cách an toàn. Những thuận lợi thì đã có nhưng khó khăn vẫn còn nhiều và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước rất chậm chạp, cầm chừng, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đề ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các hàng hoá cần thiết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức và các Công ty chứng khoán có uy tín hàng đầu thế giới, chúng ta đã ban hành được 02 văn bản pháp quy quan trọng là Nghị định 48/1998/NĐ - CP ngày 12/7/1998 và quyết định 127/1998/QĐ - TTg ngày 11/7/1998 làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán, cũng như đào tạo được nhiều cán bộ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy vậy, lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có thị trường chứng khoán nên chất lượng còn chưa được kiểm chứng. 3. Ba điều kiện thiết yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. ở Trung Quốc, thị trường chứng khoán Trung Quốc ra đời năm 1992 trên cơ sở 5 điều kiện chủ lực. Đó là: - Thị trường chứng khoán phi tập trung phải hoạt động sôi động. Đây là điều kiện về mặt kinh tế vô cùng quan trọng, là tiền đề cho sự hình thành, hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán. - ổn định chính trị trong nước để kích thích đầu tư phát triển. - ổn định trật tự xã hội và an ninh quốc phòng. Đây là cơ sở tâm lý cho mọi cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động của thị trường chứng khoán. - Thiết lập hành lang luật pháp. Đây là điều kiện đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động theo đúng hướng tích cực của nó; hạn chế các diễn biến phức tạp khác phát sinh. - Phát triển hệ thống thông tin tin học. Trung Quốc là vậy, còn Việt Nam thì sao? Nhiều ý kiến cho rằng Việt nam phát triển thị trường chứng khoán phải có 7 điều kiện. Vậy Việt nam đã đủ 7 điều kiện đấy chưa, có nên chăng là phải chờ đợi đến lúc đủ các điều kiện này mới phát triển thị trường chứng khoán hay chăng vừa thực hiện xây dựng thị trường chứng khoán vừa tạo điều kiện cho đủ để rút ngắn thời gian phải chờ đợi. Có thể đưa ra 3 điều kiện phải thực hiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là: 3.1. Chuẩn bị điều kiện vật chất tiền đề. Trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động như một sở giao dịch chứng khoán thu nhỏ, có quy mô và hình thức thích hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của thị trường chứng khoán ở nước ta. Hệ thống giao dịch chứng khoán sẽ được tự động hoá với các trạm làm việc được kết nối bởi các máy tính cá nhân với một số máy chủ thông qua mạng giao diện cục bộ liên kết với các máy tính của các thành viên trung tâm. 3.2. Khuôn khổ pháp lý ban đầu cho thị trường chứng khoán. Bước đầu việc ra đời một tổ chức Nhà nước - Uỷ ban chứng khoán quốc gia là một việc làm cần thiết. Tổ chức này trực thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý các mặt hoạt động liên quan đến phát hành chứng khoán và kinh doanh chứng khoán trong giai đoạn đầu của tiến trình hình thành thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán quốc gia sẽ là tổ chức Nhà nước chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản pháp quy liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh yếu tố quản lý Nhà nước, vấn đề môi trường pháp lý cho sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cần được xác lập dựa trên cơ sở nền tảng pháp lý sẵn có của các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ trên thị trường chứng khoán, biểu hiện bằng những văn bản luật pháp cụ thể về phát hành chứng khoán, giao dịch chứng khoán, tác nhân tham gia và vận hành từng cơ sở giao dịch. Hệ thống các văn bản pháp quy này được hoàn thiện trên cơ sở sự đồng bộ của các bộ luật liên quan hiện có và những bộ luật cần phải có trong quá trình phát triển như luật thương mại, luật kinh doanh... 3.3. Chuẩn bị về con người: Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh doanh cho các nhà điều hành thị trường, các nhà môi giới chứng khoán và thương gia chứng khoán là việc làm hết sức cần kíp trong giai đoạn đầu. Tạo điều kiện để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong công tác điều hành thị trường cũng như việc nâng cao năng lực pháp lý và năng lực hành vi cho các chủ thể tham gia. Bảo đảm sự thành công và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong quá trình vận hành và phát triển thị trường chứng khoán. III. Phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là tất yếu. Tình hình triển khai chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước cần được trợ lực và Nhà nước huy động vốn vào phát triển nền kinh tế, trong khi các điều kiện cho việc hình thành sở giao dịch chứng khoán chưa được chín muồi, thì việc hình thành trung tâm giao dịch chứng khoán là một giải pháp cấp bách trước mắt, không những tạo tiền đề cho việc huy động vốn, thúc đẩy tiến trình đổi mới doanh nghiệp mà còn tạo bước đệm cho việc hình thành sở giao dịch chứng khoán Việt Nam. Bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực như Trung Quốc hoặc các nước ngoài khu vực như Quy bec (Canada) thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán trước khi hội đủ các điều kiện để tiến tới thành lập sở giao dịch chứng khoán, cho thấy sự kế thừa của Việt Nam là một bước đi đúng đắn. Trong thời gian đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam, đa số các giao dịch sẽ là giao dịch về trái phiếu Công ty và trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, các Công ty phát triển hơn chắc chắn muốn bán cổ phiếu để đảm bảo tỷ lệ đầu tư giữa cho vay và vay cân bằng hơn. Những công ty cổ phần được thành lập từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có uy tín sẽ là những công ty đầu tiên bán cổ phiếu ở thị trường này, sau đó sẽ là cổ phiếu của những công ty cổ phần nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam, có thể sử dụng một thị trường chính thức để định giá cổ phiếu và giúp bán cổ phiếu rộng rãi. Trong trường hợp chưa có đủ điều kiện thành lập sở giao dịch chứng khoán thì Nhà nước có thể cho phép thành lập một trung tâm giao dịch cổ phiếu để giúp cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu một cách hợp pháp và công khai. Nếu không thực hiện điều này sớm thì một thị trường phi chính thức đã hình thành từ khi có luật Công ty sẽ có điều kiện mở rộng qua nhiều hình thức, đem lại nhiều tiêu cực cho công chúng và cho công tác quản lý thị trường chứng khoán sau này. Cụ thể đối với trái phiếu, về cơ bản tất cả các trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu ngành có thời hạn phát hành thông qua phương thức đấu thầu hoặc thông qua tổ hợp phân phối chứng khoán và sẽ được đăng ký giao dịch trên Trung tâm. Tuy nhiên, việc phát hành các trái phiếu hiện nay có kỳ hạn và thời gian phát hành không đồng nhất, do bản thân các đơn vị tự phát hành và phát hành một cách riêng lẻ mà chưa thông qua một tổ chức bảo lãnh phát hành, nên việc đưa vào đăng ký giao dịch các trái phiếu này rất khó thực hiện. Đối với các nước, các chứng khoán này sẽ được giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC), còn đối với Việt Nam việc phát triển thị trường phi tập trung lúc này là rất phức tập trong khâu tổ chức, quản lý và thực sự chưa cần thiết. Tuy nhiên để tạo điều kiện cho việc lưu hành số trái phiếu này trung tâm giao dịch sẽ tổ chức thành một khu vực riêng dành cho giao dịch các trái phiếu không được phép đăng ký. Tất cả các loại trái phiếu tham gia giao dịch trên trung tâm đều phải được tập trung đăng ký để xác nhận sở hữu chứng khoán hợp pháp. Trong thời gian đầu, khi chưa hình thành trung tâm đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán độc lập thì bộ phận đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán độc lập thì bộ phận đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán của trung tâm sẽ đảm nhận phần đăng ký, thanh toán bù trừ, bảo quản lưu giữ và làm các dịch vụ về chi trả lãi cổ tức, theo dõi chuyển quyền sở hữu chứng khoán cho các nhà đầu tư. Chương III Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. I. Phương hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Thị trường chứng khoán ở Việt nam là cần thiết hơn bao giờ hết đối với giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy, Việt Nam đã có những điều kiện cơ bản có tính tiền đề, cơ sở hạ tầng về luật pháp cũng như tài chính cho hoạt động có hiệu quả của một thị trường chứng khoán tập trung cũng đã có, nhưng vẫn còn quá mỏng. Chính vậy, vấn đề phát triển thị trường chứng khoán đòi hỏi Việt Nam phải có một giải pháp toàn diện; phải đồng thời giải quyết tất cả các yếu tố cần thiết của một thị trường chứng khoán. Trong đó trước hết phải tổ chức được một số công ty môi giới chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư với những hoạt động môi giới mua bán và bảo lãnh phát hành chứng khoán và làm trung gian đầu tư chứng khoán cho người đầu tư; phải quan tâm đặc biệt đến việc tạo ra một khối lượng chứng khoán có chất lượng, có khả năng thu hút người mua và đơn giản trong giao dịch. Và phải tổ chức một thị trường chứng khoán bước đầu đơn giản về kỹ thuật công nghệ, nhưng phải chặt chẽ trong tổ chức và quản lý. Có thể tổ chức một sở giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh, trong đó diễn ra đồng thời hai loại cơ cấu thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển và hoàn thiện thị trường sơ cấp nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước qua việc phát hành cổ phiếu cổ phần hoá, và phát hành các loại trái phiếu công ty, trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương; đồng thời từng bước hình thành thị trường thứ cấp cho phép kinh doanh buôn bán chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính rất phức tạp. Để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả đòi hỏi hệ thống hạ tầng về tài chính, tín dụng và ngân hàng phải hoàn thiện. Trước hết phải có hệ thống ngân hàng thương mại, công ty tài chính, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý, quỹ đầu tư, công ty kiểm toán độc lập và hệ thống thị trường tài chính ngắn hạn hoạt động tốt. Bài viết xin đưa ra mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam và các định chế tài chính liên quan như sau: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Trung tâm phân tích chứng khoán Công ty kiểm toán Doanh nghiệp Chính phủ và chính quyền địa phương Quỹ hưu trí Quỹ bảo hiểm Quỹ đầu tư Nhà đầu tư chuyên nghiệp Nhà đầu tư chuyên nghiệp Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM Công ty môi giới chứng khoán Ngân hàng và công ty tài chính Trung tâm lưu giữ chứng khoán và thanh toán bù trừ Mô hình số 1: Tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước không phải là “cặp song sinh” với sở giao dịch chứng khoán. Lịch sử phát triển thị trường chứng khoán thế giới cho thấy sở giao dịch chứng khoán được hình thành trên cơ sở thị trường chứng khoán phi tập trung. Thị trường chứng khoán phi tập trung được hình thành một cách tự phát khi xuất hiện cổ phiếu, trái phiếu. Sau đó Nhà nước thấy được rằng cần phải có luật pháp và cơ quan giám sát của Nhà nước về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán nhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư (những người mua chứng khoán) và bảo đảm cho sự bình ổn của thị trường. Vậy là cơ quan quản lý giám sát chứng khoán của Nhà nước được thành lập. Việc ra đời Uỷ ban chứng khoán Nhà nước của Việt Nam hiện nay là một nhu cầu hợp lý. Bởi lẽ trên thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay đã xuất hiện nhiều loại chứng khoán. Và điều đáng nói là có một số loại chứng khoán phát hành ra công chúng chủ yếu là do nhu cầu vốn đầu tư chưa dựa trên những căn cứ tiêu chuẩn chuẩn mực và chưa được quyết định bởi một cơ quan quản lý thống nhất. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Việt Nam lúc này không đơn giản chỉ là một cơ quan quản lý như các nước, mà nhiệm vụ quan trọng và nặng nề hơn của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước của Việt Nam lúc này là tổ chức và xây dựng. Uỷ ban chứng khoán Nhà nưứoc có nhiệm vụ tổ chức đào tạo, tuyên truyền và hướng dẫn, phổ cập hoá tri thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng, trước hết là các nhà quản trị doanh nghiệp và người đầu tư. Ngoài ra Uỷ ban chứng khoán Nhà nước còn phải xây dựng được hệ thống chủ trương, chính sách, biện pháp để tạo ra được một khối lượng chứng khoán có chất lượng trong thời kỳ đầu để làm “đà” cho sự phát triển sau đó. Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định (Nghị định 75/CP ngày 28/11/1996) thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, trực thuộc Chính phủ với cơ chế tổ chức vừa có tính độc lập, vừa có mối liên hệ “trách nhiệm” của các ngành liên quan: “Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có chủ tịch, các phó chủ tịch và các Uỷ viên kiêm nhiệm cấp thứ trưởng các Bộ: “Tài chính Tư pháp, kế hoạch và đầu tư và Ngân hàng Nhà nước”. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có văn phòng đặt tại Hà Nội và có một cơ quan đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi có sở giao dịch chứng khoán. Chủ tịch các phó Chủ tịch Các uỷ viên kiêm nhiệm 1. Thứ trửơng Bộ Kế hoạch 1. Thứ trửơng Bộ tài chính 1. Phó thống đốc NHNN 1. Thứ trưởng Bộ tư pháp Các cơ quan đại diện tại Tp. HCM Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM Văn phòng Vụ phát triển thị trường chứng khoán Vụ quản lý phát hành chứng khoán Vụ quản lý phát hành chứng khoán Vụ quản lý kinh doanh chứng khoán Vụ quan hệ quốc tế Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo Thanh tra Mô hình 2: Sơ đồ tổ chức bộ máy Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Việt Nam. 2. Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Theo thông lệ quốc tế, sở giao dịch chứng khoán là một tổ chức tự chế định của các nhà môi giới chứng khoán do các Công ty môi giới chứng khoán tự lập ra. Cho đến nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán. Hình thức thứ nhất, tổ chức dưới dạng như một “câu lạc bộ mini” tức là các công ty môi giới chứng khoán tự tổ chức và quản lý, không có sự can thiệt của Nhà nước. Hình thức này có tính tự phát và phổ biến ở thời kỳ đầu mới xuất hiện thị trường chứng khoán tập trung. Hình thức thứ hai (đang phổ biến nhất hiện nay) được tổ chức dưới dạng như một “Công ty cổ phần”, cổ đông là các Công ty chứng khoán thành viên, có thể có các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng cùng tham gia. Sở giao dịch chứng khoán hoạt động theo luật Công ty cổ phần chịu nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và chịu sự giám sát của cơ quản quản lý chuyên môn của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hình thức thứ ba, tổ chức dưới dạng như một Công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản trị của Nhà nước. Nghĩa là trong thành phần Hội đồng quản trị có một số thành viên là người đại diện của Nhà nước, chủ tịch và tổng giám đốc do Nhà nước bổ nhiệm. Phần lớn các thị trường chứng khoán của các nước Châu á tổ chức theo hình thức này. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, thương mại lớn nhất Việt Nam và là nơi có nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường rõ nét nhất. Việc đặt sở giao dịch chứng khoán đầu tiên của Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh là hợp lý. Sau đó, tuỳ theo sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu giao dịch chứng khoán của thị trường, có thể tổ chức một sở giao dịch thứ hai tại Hà Nội hoặc cũng có thể cả nước chỉ có một sở giao dịch với hai sàn giao dịch một ở thành phố Hồ Chí Minh và một ở Hà Nội. Hai sàn giao dịch được nối mạng thông tin trực tiếp theo kiểu “cầu truyền hình” để đảm bảo sự thống nhất về thông tin và giá cả. Cũng như ở Đức, “Công ty cổ phần thị trường chứng khoán” quản lý 8 sở giao dịch chứng khoán trong cả nước ở ấn độ, sở giao dịch quản lý 36 sàn giao dịch. Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là một định chế tài chính đặc biệt tổ chức theo nguyên tắc thành viên nhưng sở hữu thuộc về Nhà nước, do Chính phủ thành lập ra, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, hoạt động không vì lợi nhuận của bản thân nó. Nhiệm vụ của sở là tổ chức và phục vụ cho hoạt động giao dịch, phát hành, mua bán chứng khoán và cung cấp các dịch vụ thông tin, lưu giữ chứng khoán và thanh toán bù trừ, bảo đảm trật tự, công bằng, an toàn và hiệu quả trong giao dịch mua bán chứng khoán. Thành viên của sở là các Công ty chứng khoán, công ty tài chính chứng khoán, công ty tư vấn đầu tư chứng khoán và các ngân hàng đầu tư có giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp và được Hội đồng quản trị sở giao dịch chứng khoán chấp thuận. Hội đồng quản trị Tổng giám đốc 2 thành viên do UBCK Nhà nước bổ nhiệm 3 thành viên được bầu từ các công ty chứng khoán thành viên 2 - 3 thành viên được chỉ định từ các công ty phát hành P. Tổng giám đốc I P. Tổng giám đốc II P. Tổng giám đốc III Phòng đăng ký và phát triển chứng khoán Phòng tổ chức môi giới chứng khoán Phòng áp chế và tư vấn pháp luật Phòng Quan hệ đối ngoại Phòng Giao dịch và giám sát giao dịch Phòng thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán Phòng thông tin và dịch vụ thông tin Phòng phân tích chứng khoán Trung tâm tin học Phòng kế toán Văn phòng TGĐ Phòng tổ chức cán bộ Phòng thanh tra và giải quyết tranh chấp Mô hình số 3: Mô hình tổ chức sở giao dịch chứng khoán. 3. Trung tâm lưu giữ chứng khoán và thanh toán lưu trữ. Trung tâm lưu giữ chứng khoán thực hiện lưu giữ chứng khoán thực hiện lưu giữ chứng khoán và thanh toán chứng khoán khi ta được phát hành ra công chúng và giao dịch trên thị trường thứ cấp. Việc quản lý lưu giữ chứng khoán đó là một bước tiến quan trọng trong công nghệ chứng khoán, tiết kiệm giấy tờ, chi phí in ấn, và quan trọng hơn là khắc phục được tình trạng chứng khoán giả giao dịch trên thị trường. Trung tâm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho sở hữu chủ và cung cấp danh sách cổ đông, danh sách trái chủ cho cơ quan phát hành khi có yêu cầu. Giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán do trung tâm cấp có giá trị pháp lý cho giao dịch mua bán chứng khoán và để thanh toán cổ tức, lợi tức... Các thành viên của trung tâm quản lý lưu giữ chứng khoán phải đóng lệ phí thành viên hàng năm và lệ phí mỗi lần cung cấp giấy xác nhận quyền sở hữu chứng khoán, giấy xác nhận cổ đông và danh sách trái chủ. Trung tâm chỉ cung cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho sở hữu chứng khoán và cấp danh sách cổ đông, danh sách trái chủ cho đơn vị phát hành thông qua các công ty chứng khoán thành viên của trung tâm. Nghĩa là trung tâm không trực tiếp quan hệ với nhà đầu tư, với đơn vị phát hành chứng khoán. 4. Kiểm toán độc lập. Kiểm toán không phải là một bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy trực tiếp quản lý và điều hành của thị trường chứng khoán, nhưng nó không thể thiếu được hoạt động của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán hoạt động công khai, các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán đưa ra công chúng phải công khai cáo bạch thị trường, gồm báo cáo cân đối tài chính (bản tổng kết tài sản), báo cáo thu nhập (báo cáo kết quả kinh doanh) và các tài liệu báo cáo khác về công ty có liên quan đến việc phát hành chứng khoán. Các báo cáo cân đối tài chính và báo cáo thu nhập phải thực hiện thường xuyên khi phát hành chứng khoán và quá trình chứng khoán lưu thông trên thị trường theo định kỳ 3 tháng, 6 tháng và hàng năm. Các báo cáo này chỉ có giá trị khi đã có xác nhận của một tổ chức kiểm toán độc lập được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chỉ định. Kiểm toán độc lập không phải là một tổ chức thuộc bộ máy của thị trường chứng khoán và nó cũng không phải là một tổ chức dành riêng cho thị trường chứng khoán, nhưng nó là một “cánh tay của thị trường chứng khoán. Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc một tổ chức kiểm toán về tính đúng đắn, hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp. 5. Trung tâm phân tích chứng khoán. Sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình của thị trường chứng khoán. Ngược lại, sự biến động của thị trường chứng khoán thể hiện sự biến động của hoạt động kinh tế. Trung tâm phân tích chứng khoán thực hiện sự phân tích chứng khoán theo hai nội dung đó là phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. 5.1. Phân tích cơ bản là sự phân tích tình hình tài chính của Công ty, với mục đích chủ yếu là để xem xét những loại chứng khoán chủ chốt trên thị trường căn bản tốt hay xấu. Một loại chứng khoán nào đó tốt hay xấu phụ thuộc vào thực trạng tài chính của Công ty đó. Căn cứ vào bảng cân đối tài sản và báo cáo thu nhập của Công ty, trung tâm phân tích chứng khoán thực hiện sự phân tích, xác định các hệ thống chỉ số, các chỉ số lưu hoạt, để xác định tình hình công nợ (chỉ số vốn hoạt động thuần, chỉ số tài sản lưu động, chỉ số tài sản nhạy cảm, chỉ số tiền mặt, và chỉ số lưu lượng tiền mặt) Các chỉ số về cơ cấu vốn xác định nguy cơ phá sản của công ty (chỉ số cổ phiếu thường, chỉ số cổ phiếu ưu đãi, chỉ số trái phiếu, chỉ số nợ trên vốn cổ phần hoặc vốn tự có...) và các chỉ số bảo chứng, thể hiện khả năng thanh toán của công ty. Phân tích cơ bản không phải chỉ có trung tâm phân tích chứng khoán quốc gia thực hiện, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư, công ty tư vấn đầu tư cũng phải thực hiện để tư vấn, hướng dẫn và thực hiện việc mua bán chứng khoán sao cho có lợi nhất. 5.2. Phân tích kỹ thuật là để đánh giá trào lưu lên giá xuống giá của cả thị trường và của từng ngành kinh tế chủ chốt. Trung tâm phân tích chứng khoán căn cứ sự biến động giá cả mỗi loại chứng khoán trên thị trường để xác định chỉ số giá bình quân, như chỉ số DowJones, chỉ số Nukei, chỉ số SET... chỉ số giá bình quân luận thuyết trào lưu và đồ thị là những công cụ để phân tích kỹ thuật. Các nhà lãnh đạo kinh tế quốc gia, các nhà quản lý thị trường sử dụng kết quả phân tích kỹ thuật để hoạch định chính sách, biện pháp thúc đẩy hoặc ứng phó với tình hình kinh tế trong tương lai mà động thái thị trường đã thông báo. Những người hoạt động trong thị trường chứng khoán để xác định lúc nào nên mua vào, lúc nào nên bán ra mỗi loại chứng khoán sau khi đã có sự tổng hợp kết quả phân tích cơ bản. II. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Tổ chức ra một thị trường chứng khoán không khó, cái khó là làm sao để thị trường đó hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và phát triển. Chính vì vậy, bài viết xin đưa ra bốn giải pháp then chốt cần phải giải quyết trước nhất. 1. Tạo chứng khoán cho thị trường chứng khoán. Hiện nay trên thị trường chứng khoán của ta đã có gần 7000 tỷ đồng giá trị chứng khoán trong đó gần 1600 tỷ đồng giá trị cổ phiếu và trên 5300 tỷ đồng giá trị trái phiếu. Nhưng nhìn chung hầu hết số chứng khoán đó chưa có khả năng lưu thông trên thị trường thứ cấp. Do đó ta không thể dựa vào toàn bộ số chứng khoán đã có để mở sở giao dịch chứng khoán. Muốn có một thị trường chứng khoán hoạt động sôi động phải có một khối lượng chứng khoán đúng nghĩa của chứng khoán. Muốn vậy giải pháp lúc này là: 1.1. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các loại doanh nghiệp khác. Không thể, thực hiện cổ phần hoá một cách rộng rãi khi chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là khâu trung tâm để thực hiện cổ phần hoá, là nơi cung cấp thông tin đáng tin cậy và tạo ra khả năng luân chuyển vốn đầu tư. Hai việc cổ phần hoá và thiết lập thị trường chứng khoán phải được diễn ra đồng thời để có sự hỗ trợ lẫn nhau. Thông qua thị trường chứng khoán, Nhà nước thực hiện phát hành cổ phiếu cổ phần hoá và chính việc phát hành cổ phiếu cổ phần hoá sẽ làm cho thị trường chứng khoán phong phú, sôi động lên. Sổ giao dịch chứng khoán trong thời kỳ đầu chú trọng thị trường sơ cấp (thị trường phát hành) tuy nhiên thị trường thứ cấp sẽ mặc nhiên hình thành sau đó. Các doanh nghiệp cổ phần hoá sau khi được tính toán xác định giá trị tài sản có (theo quy định của Bộ tài chính) chia tổng giá trị tài sản cho mệnh giá cổ phiếu sẽ đưa ra tổng số cổ phiếu cần phát hành. Tổng số cổ phiếu cần phát hành trước hết phải dành một số để phân phối nội bộ theo chính sách ưu đãi của Nhà nước: dành 10% cho không những người lao động trong doanh nghiệp; dành 10 - 20% bán trả chậm cho người lao động trong doanh nghiệp với thời hạn trả tối đa 5 năm, lãi suất 4% năm. Số còn lại (75 - 80%) sau khi trừ đi phần Nhà nước tiếp tục nắm giữ sẽ được đưa ra đăng ký yết giá bán cho công chúng trên thị trường chứng khoán. Hiện nay các đơn vị kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam lớn về số lượng nhưng bé nhỏ về quy mô. Tính riêng thành phố Hồ Chí Minh từ 1991 đến 1994 số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới thành lập là 1914 đơn vị, tổng số vốn đăng ký là 1884 tỷ đồng, bình quân một đơn vị 647 triệu đồng. Công ty cổ phần chiếm tỷ trọng rất thấp trong khu vực kinh tế tư nhân (không quá 1,5%). Do đó để phát triển kinh tế, tạo lập những tập đoàn kinh tế mạnh, Việt Nam cần phải cổ phần hoá cả trong khu vực kinh tế tư nhân; khuyến khích tư nhân đầu tư vào các công ty cổ phần, thiết lập các công ty cổ phần công cộng. 1.2. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Đây cũng là một nguồn cung cấp chứng khoán quan trọng cho thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu, đồng thời cũng là một nguồn cung cấp chứng khoán thường xuyên cho thị trường chứng khoán. 1.3. Phát hành cổ phiếu của Việt Nam nói chung là nhỏ, hiện đang rất cần vốn đầu tư chính phủ cũng đang khuyến khích các tổ chức kinh tế này phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng để mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và để trở thành những công ty cổ phần công cộng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính cổ phần. 1.4. Phát hành các loạt trái phiếu có mục đích để xây dựng cơ sở hạ tầng. Chính phủ Trung ương và chính quyền của một số tỉnh, thành phố có thể chọn lựa một số công trình cơ sở hạ tầng cần xây dựng hoặc nâng cấp, tu sửa, có phương án kỹ thuật hợp lý có nguồn thu khi công trình đưa vào sử dụng để phát hành trái phiếu đô thị. 2. Tổ chức các công ty môi giới chứng khoán. Các công ty môi giới chứng khoán với vai trò là người tư vấn phát hành và bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và môi giới đầu tư là trợ thủ đắc lực không thể thiếu của đơn vị phát hành và nhà đầu tư chứng khoán. Đầu năm 1997 Bộ chính trị đã có thông báo và gần đây thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thủ về việc thiết lập các trung tâm giao dịch chứng khoán khi chưa có sở giao dịch chứng khoán. Đây là một chủ trương đúng đắn và logic phù hợp với quy luật phát triển của thị trường chứng khoán, đáp ứng yêu cầu giao dịch chứng khoán và cổ phần hoá hiện nay. Các trung tâm giao dịch chứng khoán là những tổ chức quá độ cho việc hình thành các công ty chứng khoán thông qua các nghiệp vụ: trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng và bảo lãnh phát hành chứng khoán. 3. Tăng nhu cầu chứng khoán. Để nhu cầu chứng khoán ngày càng tăng trước hết cần phải phổ cập hoá tri thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng. Phải làm cho công chúng biết được các loại công cụ của thị trường vốn và những ưu nhược điểm của nó. Mặt khác, với mức thu nhập quốc dân còn thấp ở giai đoạn này, cần phải tổ chức ra các quỹ đầu tư: quỹ đầu tư tập thể và quỹ đầu tư Nhà nước. Để tăng nhu cầu đầu tư chứng khoán đối với nhà đầu tư nước ngoài, về lâu dài phải nới lỏng sự kiểm soát của Nhà nước. ở Hồng Kông và Singapore, tất cả mọi người nước ngoài đều có quyền mua chứng khoán trên thị trường không hạn chế số lượng trừ một số ngoại tệ. Hàn Quốc bắt đầu từ năm 1992 cũng cho nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp mua chứng khoán nhưng có giới hạn; Đài Loan cũng tương tự như Hàn Quốc nhưng có điều kiện cụ thể. 4. Tạo lập môi trường lành mạnh cho thị trường chứng khoán. Muốn có một thị trường chứng khoán ổn định phải có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Tính ổn định của thị trường chứng khoán nói lên sự thành công của thị trường. Do đó ngay từ đầu Việt nam cần phải có một hệ thống luật pháp đầu đủ và có hiệu lực để quản lý, bao gồm các nội dung phát hành và kinh doanh chứng khoán, yết giá và giao dịch, lưu giữ chứng khoán và thanh toán vốn và cổ tức. Để thị trường chứng khoán Việt Nam đạt tiêu chuẩn của thị trường chứng khoán quốc tế, có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, yêu cầu hệ thống luật pháp của thị trường chứng khoán phải được ban hành bởi các đạo luật của Quốc Hội. Đây là một vấn đề mà Việt Nam chưa thể làm được. Vì Việt Nam chưa có thực tế về hoạt động của thị trường chứng khoán, Việt Nam chưa được phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Quốc hội chưa có cơ sở để thông qua các đạo luật này. Do vậy, văn bản luật pháp có giá trị pháp lý cao nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam trước mắt nên ban hành với hình thức pháp lệnh và chỉ nên quy định những nét tổng quát. Vì thủ tục ban hành pháp lệnh đơn giản hơn luật, việc bổ sung và sửa đổi pháp lệnh cũng dễ dàng hơn và có hiệu lực cho cả người đầu tư trong nước và nước ngoài. Kết Luận Quá trình hình thành thị trường chứng khoán phụ thuộc vào tiến trình thực hiện các bước chuyển tiếp nền kinh tế nước ta sang cơ chế thị trường, trong đó việc ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình cụ thể của Nhà nước về phát triển kinh tế của mỗi giai đoạn là hết sức quan trọng. Các bước đi đến thiết lập thị trường chứng khoán gắn liền với việc giải quyết các vấn đề liên quan đến xây dựng cơ chế quản lý kinh tế mới, tức là gắn liền với quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý một nền kinh tế thị trường với sự giám sát của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đề án chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót. Kính mong thầy giáo và các bạn sửa chữa bổ sung để đề án hoàn chỉnh hơn. Tài Liệu Tham Khảo 1. Bùi Nguyên Hoàn - Thị trường chứng khoán và Công ty cổ phần Nxb chính trị quốc gia Hà Nội - 1998 2. Nguyễn Công Nghiệp - Thị trường chứng khoán, trò chơi và những thủ pháp làm giàu - Nxb Thống kê Hà Nội - 1995 3. Warren Buffett - Chiến lược đầu tư vào thị trường chứng khoán (Minh Đức biên soạn) - Nxb Giáo dục Hà Nội - 1998. 4. PTS - Trần Quang Hà - Nghiên cứu kinh tế số 241 - Tháng 6/1998. 5. Tạp chí tài chính 4/1996 Tạp chí tài chính 12/1995 Tạp chí Ngân hàng Tài chính số tháng 8 - 1998 Tài chính số tháng 4 - 1998. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0788.doc
Tài liệu liên quan