Hình thức “trả kỳ vụ” khác với trả gọn ở chỗ tiền trả kỳ vụ
không tính toán trước được giá trị tuyệt đối mà phụ thuộc vào kết quả thực hiện hợp đồng licence.
Trong hợp đồng licence, tiền trả kỳ vụ được quy định theo tỷ lệ lợi nhuận thu được theo tỷ lệ phần trăm lợi nhuận thu đươcj hoặc theo tỷ lệ phần trăm đơn giá của sản phẩm hay một lô hàng.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1654 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương pháp lựa chọn công nghệ tối ưu trong chuyển giao công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phương pháp lựa chọn công nghệ tối ưu trong chuyển giao công nghệ
Lời nói đầu
Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài cùng một số văn bản phụ trợ (29/12/1987), trên tinh thần đổi mới các hoạt động kinh tế đối ngoại, đã tạo nên nền tảng pháp lý cho các hoạt động đầu tư liên doanh và chuyển giao công nghệ với nước ngoài ở Việt Nam, trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong khi các hoạt động này đang diễn ra hết sức “náo nhiệt” trên trường quốc tế và cùng với nó là những kiến thức, kinh nghiệm về đầu tư, chuyển giao công nghệ được liên tục đề cập đến trên mọi phương tiện thông tin đại chúng trên thế giới thì ở Việt Nam, một thực tế đáng buồn là các đơn vị kinh tế trong nước chưa được trang bị những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để có thể sẵn sàng tiếp nhận đầu tư chuyển giao công nghệ một cách có hiệu quả.
Để đóng góp vào việc hoàn thiện một phương pháp tốt nhất cho lựa chọn công nghệ, em đã chọn đề tài “Phương pháp lựa chọn công nghệ tối ưu trong chuyển giao công nghệ" Phương pháp phân tích dựa trên các chỉ tiêu cơ bản được nêu ra trong bài viết chỉ như một công cụ phân tích, và bất kỳ một công cụ nào cũng có thể bị sử dụng sai. Hơn nữa, bản thân công cụ này không thể thay thế cho việc suy xét đúng đắn hoặc hoạch định các chiến lược kinh doanh hữu hiệu mà nó chỉ là phương tiện hỗ trợ thực hiện các quá trình đó mà thôi.
Mặc dù đã được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo, Thạc sĩ Từ Quang Phương, song do thiếu kinh nghiệm thực tế cũng như phương pháp luận thiếu chặt chẽ, bài viết của em chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn chỉ bảo góp ý của thầy cô.
I. Vai trò của công nghệ và chuyển giao công nghệ
1. Vai trò cuả công nghệ và chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường
Lịch sử vận động và phát triển của xã hội loài người cũng là lịch sử vận động và phát triển của lực lương sản xuất, phân công lao động xã hội và của các kiểu tổ chức kinh tế. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều kiểu tổ chức kinh tế, từ kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hoá giản đơn đến kinh tế hàng hoá phát triển hay kinh tế thị trường.
Trong kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động cụả mọi nhà sản xuất kinh doanh trong các mối quan hệ hàng - tiền, mua - bán. Môi trường vận động của các mối quan hệ này trong nền kinh tế thị trường là môi trường cạnh tranh. Không có cạnh tranh, động lực của kinh tế thị trường bị triệt tiêu.
Đứng trước những thử thách quyết liệt, trước sự sống còn, tồn tại của doanh nghiệp và muốn giành chiến thắng trong thị trường hàng hoá trong và ngoài nước, các doanh nghiệp buộc phải sản xuất ra những hàng hoá có chất lượng cao, có giá thành hạ.
Để đạt mục tiêu trên, phương thức nhanh và hiệu quả nhất là đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới công nghệ. Chính cơ chế thị trường đang tạo môi trường thuận lợi và thúc đẩy đổi mới công nghệ.
Tất cả những doanh nghiệp không quan tâm tới thị trường tiêu thụ sản phẩm, không chú ý đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, vẫn tiếp tục với những trang thiết bị, công nghệ lạc hậu sẽ dần đi tới chỗ phá sản và đóng cửa. Ngược lại, những doanh nghiệp năng nghiệp năng động, biết nhanh chóng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, có khả năng cạnh tranh được với hàng ngoại sẽ ngày càng phát triển.
Có thể nói rằng, chuyển giao công nghệ với công nghệ mới đóng vai trò quan trọng trong viêc chuyên môn hoá sản xuất, mang lại nhiều bước tiến quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cũng như tính linh hoạt trong sản xuất, mở ra con đường đa dạng hoá sản phẩm , rút ngắn chu kỳ sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng tốc độ hao mòn vô hình của sản phẩm. Một dây chuyền công nghệ hiện đại thay thế một dây chuyền thô sơ lạc hậu sẽ tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn, sẽ cho lợi nhuận nhiều hơn và đồng thời tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới. Không đưa công nghệ mới vào thì không thể phát triển sản xuất giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người công nhân trực tiếp sản xuất.
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, quy mô dân số cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên của một nước dù có dồi dào phong phú đến đâu cũng không phảilà sự đảm bảo chắc chắn cho nền kinh tế phát triển thành công (điển hình là Nhật Bản), trong khi đó công nghệ lạI chứng tỏ là nhân tố quyết định khả năng của một nước đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế+ xã hội nhanh hơn, là một công cụ hữu hiệu giúp cho mỗi quốc gia sử dụng, tận dụng triệt để và có hiệu quả các nguồn lực của mình. Tuy nhiên, để phát huy tối đa vai trò của công nghệ trong sự nghiệp phát triển, cần phải xây dựng và thực hiện chính sách sử dụng công nghệ một cách có khôn ngoan và thích hợp, đặc biệt là vấn đề chuyển giao công nghệ.
2. Sự cần thiết khách quan của việc lựa chọn công nghệ tối ưu trong chuyển giao công nghệ:
Trải qua nhiều thập kỷ, con người đã chứng kiến những thay đổi lớn lao và kỳ diệu do khoa học công nghệ mang lại. Cùng sự thay đổi đó, mối quan hệ giữa các quốc gia nói chung và trong lĩnh vực kinh tế nói riêng ngày càng được mở rộng. Quan hệ kinh tế giữa các nước là điều cần thiết khách quan trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, tận dụng được lợi thế so sánh của nhau để thúc đẩy sự phát triển kinh tế thế giới và của mỗi quốc gia.
Một trong những vấn đề quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa các nước ngày nay, đặc biệt là giữa các nước tiên tiến, các nước phát triển với các nước đang phát triển, chậm phát triển, nông nghiệp lạc hậu là vấn đề chuyển giao công nghệ.
Nước ta là một nước nong nghiệp lạc hậu đang trên đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Vì vậy, việc nhập công nghệ tiên tiến để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước là yêu cầu cấp thiết. Nhưng nhập công nghệ nào? Nhập như thế nào?
Việc lựa chọn công nghệ có hiệu quả, phát huy đươc lợi thế của đất nước, tiết kiệm được sức người sức của, rút ngắn được chặng đường công nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng đối với các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý và các nhà khoa học. Đó là sự định hướnh chính xác, sẽ tạo lực đẩy quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước.
Chúng ta đang mở rộng mối quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới, "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước", trong đó có cả những nước đang phát triển. Sự hợp tác đó chophép chúng ta có cơ hội tốt để đổi mới công nghệ, tiếp cận công nghệ hiện đại, áp dụng kỹ thuật hiện đại, xây dựng những nghành công nghiệp tiên tiến, tận dụng được những ưu thế vốn có của chúng ta để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Song sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới rất đa dạng, theo nhiều mô hình khác nhau. Vì vậy việc lựa chọn công nghệ nào, từ nước nào là điều chúng ta phải cân nhắc cẩn trọng trước khi quyết định.
Do trình độ phát triển của các nước mà chúng ta mua công nghệ rất khác nhau nên kỹ thuật mà chúng ta nhập từ những nước đó cũng không hoàn toàn giống nhau. Một công nghệ cóthể rất mới vàhiện đại ở một quốc gia này nhưng lại lạc hậu ở quốc gia khác. Thường thì cũng một loại công nghệ nhưng nó sẽ có giá cao hơn ở những nước tiêntiến so với ở những nước đang phát triển. Thị trường công nghệ thị trường hàng hoá khác, giá cả được hình thành do quan hệ cung cầu. Người bán sẽ đem bán cả những công nghệ lạc hậu, thậm chí cả những công nghệ đã thải bỏ, đã khấu hao hết nếu có thể để thu về lợi nhuận mà không để ý tới việc nước tiếp nhận công nghệ sẽ sử dụng nó ra sao. Bởi vậy, vẫn có những người vì tham rẻ mà đã mua phải những công nghệ đó. Ngoài ra, chúng ta cũng biết rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố thúc đẩy vô cùng quan trọng đối với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đem máy móc, công nghệ thiết bị dưới hình thức liên, doanh liên kết, hợp tác đầu tư để góp vốn đầu tư. Trừ một số đối tác có ý định nghiêm túc thì công nghệ nhập đúng, còn lại phần lớn công nghệ nhập mang nhiều khiếm khuyết hoặc đã hết thời gian sử dụng, hoặc được khai tăng giá trị. Và sau một thời gian “ chung lưng đấu cật” với đối tác, họ tuyên bố giải thể do thua lỗ và thực hiện chia chác tài sản không thiệt đơn thiệt kép như phía đối tác, họ còn được lợi đơn lợi kép. Vừa được tiền thu về, vừa không phải trả tiền cho việc thải hồi công nghệ.
Về phía chúng ta, tham gia vào thị trường công nghệ với tư cách là người tiêu dùng, chúng ta mua công nghệ nhằm thoả mãn tốt nhất lợi ích của mình, tức là phát triển kinh tế công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cũng giống như người tiêu dùng, chúng ta cung phải mua công nghệ nhằm để phát triển kinh tế quốc gia với những ràng buộc về tài chính, về trình độ kỹ thuật và quản lý hiện có của mình.
Do vậy, để phát triển nền kinh tế đất nước cần phải lựa chọn những công nghệ tốt nhất phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Có ý kiến cho rằng trong điều kiện hiện nay chỉ nên nhập những công nghệ rẻ để nhập được nhiều, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nhiều người, đáp ứng nhu cầu trước mắt, khi nào phát triển đến trình độ mới sẽ thay thế công nghệ mới khác. Nhưng ý kiến khác lại cho rằng, cần phải nhập những công nghệ tiên tiến, có chọn lọc để mau chóng tạo nên những ngành, lĩnh vực then chốt, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tạo đà thúc đẩy cho các ngành khác phát triển.
Tất nhiên ở đây, mỗi quan điểm đều có cái hợp lý và cái sử dụng hợp lý. Có thể quan điểm này đúng với thời điểm giai đoạn này, lĩnh vực, ngành này nhưng lại không đúng ở lĩnh vực ngành khác, giai đoạn khác. Bởi vậy giải quyết tốt nhất là cần phải có những tiêu chuẩn, quy định chung làm thước đo. Trong chính sách cách công nghệ nhà nước đã chỉ ra.
- Cần sử dung công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định đến chất lượng và hiệu quả sản xuất.
- Cần mạnh dạn đi vào công nghệ hiện đại phù hợp với nguồn vốn có được, đồng thời vẫn sử dụng có cơ sở vật chất hiện có với cố gắng đồng bộ hoá, cải tiến và nâng cao hiệu quả sử dụng. Chú trọng hiện đại hoá các ngành nghề truyền thống.
- Chưa nên vội đưa ngay máy móc, thiết bị hiện đại vào thay thế những khâu nhân lực nếu chưa làm tăng chất lượng sản phẩm.
- Các khu vực sản suất hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu nên ưu tiên hiện đại hoá công nghệ. Như vậy công nghệ chuyển giao phải là công nghệ tiên tiến, là công nghệ cần thiết cho công nghiệp trong nước, mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước, có ý nghĩa quan trọng trong kết cấu kinh tế. Công nghệ đó phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
+ Nâng cao cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả sản xuất.
+ Khai thác, chế biến sẵn các tài nghuyên, tạo sản phẩm mới, tạo nhiều công ăn việc làm mới.
+ Tiêu tốn ít năng lượng, sử dụng hợp lý tài nguyên.
+ ít hoặc không có phế thải, không gây ô nhiễm môi trường.
3. Thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian qua:
- Cho đến hết tháng 8/1997 đã có 2137 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 32, 341 tỷ USD, trong đó khoảng trên 70% dự án có nội dung chuyển giao công nghệ hoặc có sản xuất sản phẩm mới, nhưng chỉ có khoảng 4% tổng số các dự án có hợp đồng chuyển giao công nghệ được trình Bộ khoa học, công nghệ và môi trường để xin phê duyệt theo quy định của pháp luật. Cho đến nay, trong 71 hợp đồng chuyển giao công nghệ được gửi đến Bộ khoa học, công nghệ và môi trường có 52 hợp đồng đã được phê duyệt với tổng giá trị trên 130 triệu USD, bao gồm các lĩnh vực điện tử luyện kim, vật liệu xây dựng, hoá chất, dầu mỡ bôi trơn, điện, lắp ráp ô tô, thực phẩm, mỹ phẩm... Trong đó các hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt, số hợp đồng thuộc lĩnh vực công nghiệp chiếm 26% và y dược, mỹ phẩm chiếm 11%.
3.1. Những kết quả đạt được:
Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài trong 10 năm qua, nhiều công nghệ mới đã được thực hiện và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhiều cán bộ, công nhân đã được đào tạo mới và đào tạo lại phù hợp với yêu cầu mới. Đồng thời hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ ở trong nước trong bối cảnh có sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Dưới đây xin tóm tắt một số kết quả cụ thể về cac mặt có liên quan đến công nghệ do hoạt động đâù tư nước ngoài mang lại.
3.1.1. Về trình độ công nghệ của sản xuất:
Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài trong thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất trong nước so với thời kỳ trước đây. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới. Trong đó phải kể đến ngành bưu chính viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí; một số dây chuyền sản xuất tự động đã được đưa vào trong nước như công nghệ CAD, CAM được đưa vào trong thiết kế cơ khí, chế tạo, dệt may, nhựa... Thông qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt nam, một số công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như công nghệ sản xuất ống gang chịu áp lực bằng gang graphit cầu, sản xuất ống thép bằng phương pháp cuốn và hàn tự động theo đường xoắn ốc, sản xuất đồ trang sức bằng kim loại quý với quy mô công nghiệp bằng phương pháp đúc khuôn mẫu chảy...
3.1.2. Về trang thiết bị:
Hầu hết các trang thiết bị được đưa vào các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối đồng bộ và là các thiết bị có trình độ cơ khí hoá trung bình, cao hơn các trang thiết bị cùng loại đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Phần lớn các thiết bị đó được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng-hạ-vận chuyển phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hoá (các máy đột, ép, dập trên các dây chuyền sản xuất các kết cấu kim loại...).
Một số dây chuyền sản xuất chuyên môn hoá trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hoá cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, lắp ráp tổng đài điện thoại tự động kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử... Một số ít dây chuyền sản xuất chuyên môn hoá có các thiết bị tự động hoá hoàn toàn, sản phẩm được thiết kế và sản xuất được điều khiển bằng kỹ thuật vi tính (thêu nhiều màu).
Nói chung, bên cạnh một số tồn tại, công nghệ và thiết bị được nhập vào nước ta qua các dự án đầu tư nước ngoài trong thời gian qua nhằm mau chóng tạo ra lợi nhuận, đáp ứng nhu cầu trước mắt của các nhà đầu tư nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng phù hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế thị trường, đổi mới công nghệ trong sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Đây là những công nghệ đã ổn định và phổ cập ở các nước đang phát triển, phù hợp với quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
3.1.3. Về sản phẩm và chất lượng sản phẩm:
Nhiều mặt hàng trước đây ta phải nhập nguyên chiếc hoặc lắp ráp đơn giản, nay qua hoạt động đầu tư nước ngoài, bằng công nghệ mới và trang bị kỹ thuật tương đối hiện đại, đã sản xuất được ở trong nước, góp phần nâng cao dần tỷ lệ chế tạo nội địa các sản phẩm, linh kiện, bộ phận, chi tiết... Trong đó có nhiều sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp như đèn hình, các bộ phận của xe máy, tổng đài điện tử số, máy biến thế điện áp cao...
Hoạt động chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài đã tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lươngj tốt và hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Việc đầu tư và chuyên rgiao công nghệ từ nước ngoài vào đã hạn chế đến mức tối đa các loại hàng trước đây ta phải nhập khẩu với khối lượng lớn như bia, các loại gạch đá ốp lát, sứ vệ sinh, xi măng, sắt thép xây dựng...
Chất lượng các loại sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói trên hầu hết đạt Tiêu chuẩn Việt nam (TCVN), một số đạt tiêu chuẩn quốc tế (ISO).
Cũng phải nói thêm rằng, do thúc ép của thị trường cạnh tranh được tạo ra bởi sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài va hàng ngoại, nhiều doanh nghiệp trong nước đã cố gắng đổi mới công nghệ, nhập các thiết bị , công nghệ mới và đã tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không thua kém hàng nhập, với giá cả hợp lý, được người tiêu dùng ưa chuộng, như các loại quạt điện, giầy da, giầy vải, các sản phẩm nhựa dân dụng, bánh kẹo, bàn ghế v. v...
3.1.4. Về trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh:
Thông qua đầu tư nước ngoài, trong một thời gian không dài, nhiều cán bộ quản lý cá xí nghiệp, các tổ chức kinh doanh, kể cả quản lý Nhà nước, đã tiếp cận được với phương thức quản lý mới-quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất nước. Hàng nghìn cán bộ quản lý, cán bộ, công nhân kỹ thuật khác được đào tạo ngay tại các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trên các dây chuyền sản xuất.
Nhiều dây chuyền sản xuất phức tạp, có quy mô lớn đã được hình thành va đang được vận hành có hiệu quả với sự điều hành phối hợp của cán bộ Việt nam va các chuyên gia nước ngoài. Cho đến nay trong nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài số cán bộ là người nước ngoài đã rút ddi đáng kể, một số xí nghiệp hoàn toàn do cán bộ Việt nam điều hành, bên nước ngoài chỉ cử người đến kiểm tra định kỳ.
Nhìn chung, 10 năm qua trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của số đông cán bộ trong các liên doanh đã được nâng lên một cách đáng kể. Có lẽ đây là một trong những cái được quan trọng thông qua việc thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài. Và đây cũng là một trong những mục tiêu chính cần đạt được trong chuyển giao công nghệ.
3.1.5. Về bảo vệ môi trường:
Phần lớn các chủ dự án đầu tư nước ngoài có ý thức thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, đặc biệt là từ khi Nhà nước ta ban hành Luật bảo vệ môi trường. Cho đến nay trên 50% số dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (DTM) đã được trình cho các cơ quan quản lý môi trường theo quy định. Trên 520 báo cáo DTM đã được thẩm định. Một số dự án đã thực hiện tốt các yêu cầu của quyết định phê chuẩn báo cáo DTM, đã đầu tư xây dựng công trình xử lý chất thải, đảm bảo đạt TCVN về môi trường.
Chuyển giao công nghệ là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính sách mở cửa về kinh tế, với Luật đầu tư nước ngoài và các điều khoản về chuyển giao công nghệ trong Bộ luật dân sự cũng như trong Nghị định quy định chi tiết về hoạt động chuyển giao công nghệ của Chính phủ sắp được ban hành sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động này. Thông qua chuyển giao công nghệ chúng ta sẽ tiết kiệm được nguồn lực (trí tuệ và tiền của), đồng thời mau chóng tạo ra sản phẩm mới với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nâng cao trình độ cán bộ, công nhân trong sản xuất và quản lý sản xuất kinh doanh, tiếp cận với trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới.
3. 2. Những mặt còn tồn tại:
Bên cạnh những mặt được, trong hoạt động chuyển giao công nghệ từ các dự án đầu tư nước cũng còn một số tồn tại:
3.2.1. Về thực hiện luật pháp trong chuyển giao công nghệ:
Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dực án đầu tư nước ngoài được thực hiện không theo các quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ (chẳng hạn như không lập và ký kết hợp đồng hoặc chỉ ký kết hợp đồng giữa bên giao và bên nhận mà không trình để phê duyệt, chuyển tiền cho chuyển giao công nghệ khi chưa được phê duỵệt hợp đồng...) Nhiều hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký kết giữa các bên là do bên nước ngoài soạn thảo sẵn với những điều khoản có lợi cho họ: trách nhiệm của bên giao không rõ ràng và có những điều khoản trái với quy định của pháp luật Việt nam: phí chuyển giao công nghệ không hợp lý, vượt quá nhiều so với quy định. Những hợp đồng đó thường bị sửa lại nhiều lần, làm kéo dài thời gian phê duyệt.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chủ yếu là do các bên tham gia hợp đồng không nắm được luật pháp Việt nam, các đối tác Việt nam không có đủ thông tin về công nghệ và thị trường, lép quyền và lép vốn. Một phần nào đó là do còn một số cán bộ ta thiếu quan tâm đến lợi ích chung, có thể là vô thức, còn bên nước ngoài thì lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh.
3.2.2. Về mặt công nghệ, thiết bị và chất lượng sản phẩm:
Ngoài những mặt tích đã nêu trên, một số công nghệ lạc hậu mà nhiều nước trên thế giới đã loại bỏ cũng được nhập vào nước ta như: công nghệ sản xuất các chất tẩy rửa có sử dụng chất tạo bọt bằng DBSA, thậm chí có dự án sản xuất DBSA.
Những dự án như vậy đã buộc phải chuyển đổi sản xuất hoặc chuyển đổi việc sử dụng nguyên liệu. Nhiều dây chuyền sản xuất còn sử dụng nhiều lao động thủ công hoặc có trình độ cơ khí hoá thấp...
Trong lĩnh vực cơ khí, công nghệ được nhập vào nước ta trong thời gian qua chủ yếu là công nghệ lắp ráp. Nhiều dây chuyền sản xuất trong lĩnh vực này chỉ có các khâu gia công đơn giản, lắp ráp, hoàn thiện và bao gói sản phẩm, không có khâu tạo phôi và gia công chính xác (sản xuất quạt điện, sản xuất ô tô, xe máy, chế tạo linh kiện, phụ tùng, sản xuất các linh kiện điện tử...).
Phần lớn các thiết bị trong các dự án đầu tư nước ngoài thuộc loại trung bình hoặc trung bình tiên tiến trong khu vực, ít thiết bị hiện đại. Nhiều thiết bị trong các dây chuyền sản xuất đã qua sử dụng, một số đã được sử dụng trên hai thập kỷ, dù đã được tân trang, cải tiến ít nhiều (các dây chuyền sơn- mạ tôn lợp, dây chuyền sợi- dệt, sản xuất thuốc lá...), có dây chuyền là các thiết bị thanh lý của bên nước ngoài ở chính quốc. Một số dự án đưa thiết bị đã qua sử dụng vào với các chi phí bảo dưỡng, sửa chữa quá lớn. Cũng còn những dây chuyền thiết bị công nghệ từ nhiều nguồn gốc, lẫn lộn nhiều thế hệ, trình độ chưa thật đồng bộ.
Cho đến nay có ít xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được hệ thống quản lý chất lượng được cấp chứng chỉ đảm bảo tiêu chuẩn theo hệ thống ISO. Chất lượng sản phẩm chủ yếu mới đạt được các tiêu chuẩn để tiệu thụ trong nước, trừ một số ít sản phẩm sản xuất có tính chất đơn chiếc mang nhãn hiệu của các công ty nổi tiếng thế giới được xuất khẩu ra nước ngoài (như máy biến thế trong liên doanh với ABB).
3. 2. 3. Về mặt bảo vệ môi trường:
Nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dử dụng công
nghệ xử lý chất thải chưa có hiệu quả. Phần lớn các nhà máy dệt nhuộm có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng các phương án xử lý nước thải khó có khả năng giải quyết triệt để và khó đạt TCVN về môi trường. Trong việc sử dụng nhiên liệu đốt lò, hầu hết các chủ đầu tư đều trình phương án dùng loại nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh cao nhưng không muốn đầu tư thiết bị xử lý khí thải. Việc xử lý chất thải rắn chưa được các nhà đầu tư quan tâm đúng mức ngay từ đầu, khi lập dự án. Việc xử lý chất thải rắn hầu như hoàn toàn dựa vào hoạt động của các tổ chức vệ sinh môi trường địa phương.
II. Đánh giá công nghệ
Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hiệu quả của việc chuyển giao công nghệ là nâng cao năng lực đánh giá công nghệ để lựa chọ được những công nghệ chính hợp với hoàn cảnh cụ thể, có hiệu quả cao, đảm bảo tuân thủ những tiêu chuẩn đề ra, nhất là tiêu chuẩn liên quan tới môi trường và phát triển bền vững. Mặt khác, giá cả của công nghệ là điều kiện chuyển giao cũng là những yếu tố vô cùng quan trọng.
Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hiệu quả của việc chuyển giao công nghệ là nâng cao năng lực đánh giá công nghệ để lựa chọn được những công nghệ chính hẹp với hoàn cảnh cụ thể, có hiệu quả cao, đảm bảo tuân thủ những tiêu chuẩn đề ra, nhất là tiêu chuẩn liên quan tới môi trường và phát triển bền vững. Mặt khác giá cả của công nghệ là điều kiện chuyển giao cũng là những yếu tố vô cùng quan trọng.
1.Khái niệm và mục đích của việc đánh giá công nghệ:
Đánh giá công nghệ được định nghĩa một cách đúng đắn
nhất là: Một sự nghiên cứu hoặc phân tích có tính chất phê phán có hệ thống và có tính chất bao trùm về phạm vi những hiệu quả tiềm tàng trong những dự án phát triển công nghệ. Việc đánh giá công nghệ thường được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên môn như chuyên gia về môi truường, nhà kinh tế, kỹ sư, các nhà khoa học xã hội,... và nó sẽ dẫn đến sự tác động qua lạI lẫn nhau giữa các nguyên lý khác nhau.
Một quá trình đánh giá công nghệ có thể mang lại những kết quả sau:
- Sửa đổi một dự án.
- Cụ thể hoá việc điều khiển môi trường hoặc xã hội.
- Khuyến khích việc nghiên cứu và triển khai để giảI quyết những tác động bất lợi.
- Cung cấp nguồn thông tin đáng tin cậy.
- Ước tính giá trị của công nghệ.
Hình thức đánh giá có thể là: Đánh giá dự án, đánh giá vấn đề và đánh giá công nghệ.
Như vậy mục đích của việc đánh giá công nghệ là xem xét trên tất cả các mặt, các khía cạnh mà công nghệ đó có ảnh hưởng tới, chỉ ra những ưu nhược đIúm của công nghệ đó. Qua việc đánh giá sẽ rút ra được kết luận có nên tiếp tục xem xét công nghệ đó với những chỉ tiêu tiếp theo hay không.
2. Giới hạn của việc đánh giá:
Quy định giới hạn của một bản đánh giá tức là xác định giới hạn đánh giá. việc này có liên quan gắn bó đến những nhiệm vụ đánh giá khác nhau và có tính chất vô cùng quan trọng đối với việc thực hiện và hoàn thành có hiệu quả việc đánh giá đó. Việc quy định giới hạn sẽ cho phép tiến hành công việc một cách có trật tự.
Những điểm cần phải quy định giới hạn:
- Thời gian.
- Địa lý.
- Cơ cấu tổ chức liên quan.
- Phạm vi ứng dụng.
- Những khu vực ảnh hưởng.
- Những chính sách cụ thể.
3. Mô tả và dự đoán công nghệ:
Tất cả mọi bản đánh giá công nghệ phải bao gồm các phần phân tích, mô tả và dự đoán về công nghệ đó. Người ta cần phải hiểu được những lợi ích thiết thực của công nghệ trước khi có thể phân tích ảnh hưởng của nó. Vì thế ở mục này đặc biệt đòi hỏi những người có trình độ kỹ thuật thực sự.
Việc giới thiệu những công nghệ mới sẽ đem lại những kết quả có tác động làm thay đổi xã hội(Ví dụ: công ăn việc làm, thu nhập, mức sống,...)
Một công nghệ được đưa vào những cơ cấu xã hội khác nhau cũng sẽ mang lại những ảnh hưởng khác nhau. Bởi vậy xã hội cũng phải được miêu tả trước khi xác định rõ mức độ ảnh hưởng của công nghệ.
4. Xác định ảnh hưởng:
Để xác định được ảnh hưởng của công nghệ, có rất nhiều phương pháp, song có hai phương pháp cơ bản hay được sử dụng là:
- Kỹ thuật quét sử dụng một bảng kiểm tra. Bảng kiểm tra này có thể được lấy từ một báo cáo đánh giá kỹ thuật đã có hoặc nếu không có thông tin thích hợp thì có thể xây dựng bảng đó từ đầu.
Bảng kiểm tra có thể được làm cơ sở cho một bản nghiên cứu tác động toàn diện hơn.
- Kỹ thuật đồ hoạ: là phương pháp sử dụng những biểu đồ hình cây và các nhánh biểu đồ đó thể hiện những mối liên hệ giữa những ảnh hưởng khác nhau ở những mức độ khác nhau
5. Phân tích ảnh hưởng:
5. 1. Môi trường:
Khi xem xét và phân tích ảnh hưởng của công nghệ đối với môI trường cần phải quan tâm tới các lĩnh vực sau:
- Các hệ thống sinh thái.
- Đất.
- Nước.
- Không khí.
- Tiếng ồn.
- Bức xạ.
5. 2. Phân tích kinh tế:
5. 2. 1. Trên giác độ vi mô:
Mục tiêu cơ bản của những phân tích ảnh hưởng kinh tế vi mô là xác định xem liệu những lợi nhuận thu được có nhiều hơn chi phí bỏ ra khi thực hiện dự án hay không ? Việc phân tích chi- thu có ảnh hưởng chủ yếu tới quyết định có đầu tư hay không.
Tất cả các khoản thu, chi đều phải được tính bằng cùng một đơn vị tiền tệ. Đồng thời về mặt thời gian và địa đIểm cũng có tầm quan trọng.
Để xem xét và đánh giá sự hấp dẫn về mặt tài chính, cần tính toán các chi tiêu sau:
- Hiện giá thuần (NPV:Net Present Value).
- Tỷ suất thu hồi nội bộ (IRR).
- Chu kỳ quay vòng vốn.
- Tỷ lệ thu chi (B/C).
5.2.2. Trên giác độ vĩ mô:
Cần xem xét những khoản thu chi ngoài phạm vi, khoảng thời gian cụ thể nào đó. Đó là những khoản chi-thu đối với chính phủ, môi trường và xã hội nói chung. Kiểu thu và chi này được gọi là những chi phí gián tiếp bên ngoài.
Bên cạnh đó, những ảnh hưởng kinh tế vĩ mô cũng liên quan tới những nhân tố như thuê nhân công, thu nhập và giá cả. Trong phạm vi vấn đề này sẽ sử dụng các kỹ năng phân tích sau:
- Những kiểu mẫu cơ bản về kinh tế, sử dụng thu nhập và tăng số nhân công(những mô hình này tính đến sự tác động của một cuộc đầu tư mới đối với thu nhập trung bình và tỷ lệ công ăn việc làm.
- Phân tích đầu vào, đầu ra xem xét mối quan hệ qua lạI giữa các thành phần kinh tế.
- Dự đoán đường cung, đường cầu hoặc xem xét những ảnh hưởng theo chính sách.
5.2.3. Định giá công nghệ:
Giá cả đối với việc chuyển giao công nghệ sẽ ảnh hưởng đến khả năng thực hiện dự án đang được xem xét. Tuy nhiên lạI không có một phương pháp chuẩn nào để xác định được giá hợp lý và phí kỹ thuật. Thông thường được ước lượng trong nghiên cứu tiền khả thi.
Giá thực tế sẽ dựa trên:
- Sức mặc cả và khả năng đàm phán của hai bên.
- Tuổi thọ và tốc độ hao mòn của công nghệ.
- Tỷ giá trung bình phổ biến.
- Những chi phí về nghiên cứu và chiển khai đối với công nghệ đó.
Có thể sử dụng một phương pháp đơn giản để xác định hiệu giá của một công nghệ có hợp lý hay không. Theo phương pháp này, giá của công nghệ được tính là phần trăm của lợi nhuận mà bên tiếp nhận công nghệ thu được. Song phương pháp này chỉ có tác dụng kiểu thu được lợi nhận thực tế và nó sẽ mất tác dụng nếu bị lỗ.
5.3. Những ảnh hưởng xã hội và tâm lý:
ở đây có một khuôn khổ chung để giải quyết lĩnh vực này là quan niệm về “chất lượng cuộc sống”. Cơ sở lý thuyết cho việc xem xét quan niệm này bắt đầu từ những nhu cầu cơ bản của con người.
Năm 1968 nhà tâm lý học MagLow đã đưa ra hệ thống những nhu cầu của con người bao gồm:
- Những nhu cầu về sinh lý (ăn uống, sức khoẻ,...).
- Những nhu cầu về an toàn (ổn định, an ninh,...).
- Những nhu cầu về sở hữu (tình yêu, tình cảm,...).
- Những nhu cầu đánh giá (uy tín, sự nghiệp,...).
- Những nhu cầu tự phát sinh.
Chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân được đánh giá dựa trên mức độ đáp ứng những nhu cầu. Những thay đổi do công nghệ mang lại có thể ảnh hưởng đến hệ thống trên.
5. 4. Kỹ thuật:
Khi tiếp nhận một công nghệ mới điều quan trọng là bên tiếp nhận phải có đủ trình độ lành nghề để tiếp thu công nghệ. Ngoài ra cũng cần phải chú ý tới chất lượng sản phẩm được tạo ra từ công nghệ mới nhập đó. Chất lượng sản phẩm đó phải vượt lên trên.
III. Phương pháp lựa chọn công nghệ tối ưu:
Đối với các nước đang phát triển, nơi nguồn tài chính eo hẹp và các nguồn tiềm năng khác cũng hạn chế thì việc sử dụng các nguồn này sao cho có hiệu quả nhất là việc làm rất cần thiết. Bởi vậy, việc lựa chọn một trong số những công nghệ cạnh tranh nhau liên quan tới một loại sản phẩm nhất định là vô cùng quan trọng.
Việc sử dụng công nghệ thường gắn liền với nhiều yếu tố rủi ro mà người mua công nghệ phải gánh chịu. Rủi ro không phải lúc nào cũng xuất phát từ chỗ công nghệ đó không tương xứng hay không thích hợp mà nó có thể xuất phát từ chỗ thiếu nhu cầu, đánh giá thấp về đầu tư, ảnh hưởng về mặt pháp lý hay các yếu tố tương tự khác. Mức độ chịu rủi ro liên quan tới việc đánh giá về mức độ đầu tư, thị trường, sự liên kết của những sản phẩm, đặc tính quy cách sản phẩm, lợi nhuận dự tính,...
Các nhân tố chính trị, xã hội cũng ảnh hưởng tới việc chọn lựa công nghệ.
Ngoài ra, những cân nhắc về vấn đề tài chính cũng có thể ủng hộ một công nghệ nào đó bởi với ý định sử dụng công nghệ ấy sẽ thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn đổ vào mà nền kinh tế đang cần, hoặc ngược lại, công nghệ đó được ưu tiên lựa chọn vì nó không đòi hỏi phải có vốn đầu tư.
Cần phải ghi nhớ rằng công nghệ là mọt đối tượng luôn nằm trong mối quan hệ tay ba với thị trường và đầu tư chứ không phải là một mối quan hệ đều đều hay quan hệ mắt xích, cái nọ tiếp cái kia. Nhiệm vụ của người mua công nghệ là chọn lựa một công nghệ có khả năng giảm bớt đến mức thấp nhất những rủi ro đối với đầu tư và thị trường của chính bản thân người mua.
1. Nhân tố thị trường:
Sự lựa chọn công nghiệp nói chung phụ vào việc xem xét các nhan tố thị trường, khả năng đứng vững trên thị trường về các mặt khối lượng sản phẩm, sự kết hợp của sản phẩm và chất lượng sản phẩm, công nghệ được chọn lựa phải đem một mức lợi nhuận thích đáng và chiếm lĩnh một lượng hàng hoá nhất định trên thị trường. Mặc dù công nghệ được lựa chọn thường có xu hướng phù hợp với lượng hàng chiếm lĩnh thị trường, nhưng nó cũng phải có những cho phép thay đổi dự kiến nhiều hoặc ít hơn lượng hàng đó. Với một lượng hàng chiếm lĩnh thị trường nhỏ nhất thì việc sử dụng công nghệ lựa chọn phải đem lại một mức lợi nhuận tương đương với vốn đã đầu tư.
Về mặt kết hợp sản phẩm, một sản phẩm được chọn lựa trong tổng thể phải có khả năng, năng động về mặt kinh tế. Tức là một sự thay đổi của tổng thể đó không được dẫn tới sự tăng mạnh mức giá bình quân hay tỷ lệ tiêu thụ nguyên vật liệu. Nói khác đi, công nghệ đó phải đảm bảo tính linh hoạt và nhanh chóng thích ứng với tổng thể sản phẩm dự tính với những hậu quả xấu được tính đến từ trước.
Sau cùng, sự lựa chọn công nghệ còn bị ảnh hưởng bởi chất lượng sản phẩm mong muốn. Để có những sản phẩm nghiêm ngặt về quy cách, chất lượng (mà thông thường không quan trọng lắm đối với thị trường nội địa hay các nước đang phát triển) thì thực sự cần phải sử dụng những công nghệ tinh vi. Do đó, chi phí đầu tư cũng như chi phí hoạt động có thể tăng mạnh và đe doạ lợi nhuận đầu tư. Bên cạnh mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm kà mục tiêu nâng cao tính tiện dụng, giảm bớt chi phí cho người sử dụng. Giá cả sản phẩm cũng như việc đóng góp, phân phối tới tay người tiêu dùng là biện pháp có hiệu quả cao.
2. Các chỉ tiêu lựa chọn tài chính
Trong phần này, chúng ta sẽ phân tích các chỉ tiêu để đánh giá sự hấp dẫn về mặt tài chính của công nghệ lựa chọn. Bốn chỉ tiêu sau được xem xét:
2. 1. Hiệu giá thuần (NPV: Net Present Value)
Việc đánh giá chỉ tiêu này dựa trên ba nguyên tắc:
- Không chấp nhận phương án công nghệ có NPV< 0. Trường hợp này thường xảy ra với những công nghệ có chi phí đầu tư ban đầu thấp, nhưng chi phí cho vận hành, hoạt động lại cao hơn cả lợi nhuận hàng năm.
- Trong điều kiện ràng buộc về mặt tài chính, sẽ lự chọn phương án công nghệ phù hợp với khả năng tài chính và có giá trị NPV lớn nhất.
- Nếu lựa chọn trong các phương án loại trừ nhau (nếu có phương án này thì không có phương án kia) mà không bị ràng buộc về mặt tài chính thì lựa chọn phương án có NPV cao nhất.
2. 2. Thời gian hoàn vốn:
Chi tiêu này thường không được xem xét độc lập, mà chỉ được sử dụng
như một tiêu chí bổ trợ cho các chỉ tiêu khác (NPV). Nó chỉ được áp dụng cho các phương án công nghệ có NPV > 0 và bằng nhau.
2. 3. Tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C).
Việc đánh giá sẽ tiếp tục nếu như tỷ số (B/C ³ 1). Bởi vì, chỉ tiêu này chỉ có nghĩa phụ trợ cho chỉ tiêu khác khi ra quyết định lựa chọn phương án công nghệ. Nó sẽ không phản ánh chính xác được nếu như dự án công nghệ đó có chi phí ban đầu rất nhỏ - > B/C rất lớn.
2. 4. Tỷ xuất thu hồi nội bộ (IRR: Internal Rate of Return):
Để tìm ra chỉ tiêu này ta cho NPV = 0
- Ta sẽ tìm được r* chính là IRR.
- Đối với phương án đi vay để mua công nghệ: chọn nơi có lãi suất cho vay r < r*.
- Đối với phương án tự có vốn : chọn phương án công nghệ có r* (IRR) lớn hơn chi phí cơ hội của vốn r.
- >r* >= r
3. Nhân tố công nghệ:
Theo trên đã nói, các nhân tố về đầu tư cũng như các nhân tố về thị trường có thể đã chỉ ra sự ưu việt của công nghệ được xem xét lựa chọn. Song có một số cân nhắc về kỹ thuật (hiện tại và nảy sinh về sau) có thể được sử dụng để hỗ trợ cho những quyết định cuối cùng.
Những vấn đề kỹ thuật cần được xem xét là :
- Số giờ hoạt động của máy hàng năm.
- Các yêu cầu bảo dưỡng
- ảnh hưởng của sự tăng hay giảm công suất đối với chất lượng sản phẩm và đối với hiệu quả sử dụng nguyên nhiên liệu.
- Mức tiêu hao tối thiểu về các nguồn lực bị hạn chế.
- Tần suất hoạt động (liên tục hay theo đợt) và ảnh hưởng của nó tới chi phí hoạt động, bảo dưỡng chất lượng sản phẩm, ...
- Khả năng dẫn đến ô nhiễm.
- Sự an toàn cho công nhân nói riêng và người dân nói chung.
- Chi phí tồn kho.
Những phát sinh kinh tế về kỹ thuật sẽ là chi phí điều chỉnh những hoạt động khiếm khuyết. Chi phí này liên quan tới cả nhân tố đầu tư lẫn thời gian và cả NPV.
Các lực công nghệ có khả năng dẫn tới khuyết tật cần được kiểm tra kỹ. Khả năng trụ vững của doanh nghiệp có thể sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do thiếu công suất, nguyên liệu, hiệu quả sử dụng năng lượng, chất lượng sản phẩm...
Kết luận
Qua việc phân tích phương pháp lựa chọn công nghệ tối ưu trong chuyển giao công nghệ, chúng ta thấy các chỉ tiêu, các mặt được xem xét đến đều có những ưu, nhược điểm riêng của nó. Điều quan trọng là với những gì mà ta đang có, trong điều kiện thực tại, ta sẽ lựa chọn chỉ tiêu có vai trò chủ đạo, còn các chỉ tiêu còn lại đóng vai trò hỗ trợ và khắc phục những thiếu sót của chỉ tiêu chủ đạo đó. Theo ý kiến của bản thân em, nếu các dự án công nghệ đều có quy mô bằng hoặc xấp xỉ bằng nhau thì chỉ tiêu NPV nên được xếp hàng đầu trong quá trình phân tích lựa chọn.
Sử dụng phương pháp lựa chọn dựa trên những tiêu chí đề ra cho phép chúng ta có thể lựa chọn những phương án tối ưu nhất trong điều kiện có thể, phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp, ngành nói riêng và với điều kiện phát triển của đất nước nói chung.
phụ lục
Một số khái niệm cơ bản trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ
1. Sáng chế (invention):
Là một giải pháp kỹ thuật mới đối với thế giới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng trong nền kinh tế quốc dân, y tế, văn hoá, giáo dục hay quốc phòng và mang lại lợi ích kinh tế xã hội. Một giải pháp kỹ thuật được công nhận là mới nếu trước ngày nộp đơn đăng ký giải pháp đó chưa được bộc lộ công khai ở trong và ngoài nước dưới mọi hình thức đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện được. Một giải pháp có tính sáng tạo là kết quả lao động sáng tạo, không phải nảy sinh một cách hiển nhiên từ trình độ kỹ thuật hiện có. Giải pháp phải có khả năng áp dụng trong điều kiện kỹ thuật hiẹn tại hoặc trong tương lai khi có những điều kiện kỹ thuật cần thiết và khi áp dụng sẽ đem lại những hiệu quả kinh tế thiết thực cao hơn so với trình độ kỹ thuật hiện tại.
2. Kiểu dáng công nghiệp (industrialdesign):
Là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng các đường nét hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố trên và có thể dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp. Việt nam chỉ bảo hộ những kiểu dáng công nghiệp mới. Điều kiện để được công nhận là mới nếu trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký kiểu dáng tương tự đã ddược biết ở trong và ngoài nước hoặc chưa được bộc lộ công khai ở bất cứ đâu dưới hình thức mô tả, sử dụng hoặc bất kỳ hình thức nào khác.
3. Nhãn hiệu hàng hoá (Trade mark):
Nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ có thể là từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ,
hình nổi hoặc là sự kết hợp các yếu tố trên được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc thích hợp.
4. Bảo hộ pháp lý (Legal protection):
Bảo hộ pháp lý một đối tượng nào đó là việc xác lập các quyền (của cá nhân, pháp nhân) đối với đối tượng đó và bảo vệ quyền đã được xác lập.
Bảo hộ pháp lý quyền sở hữu công nghiệp là việc bảo hộ các sáng kiến, giải pháp hữu ích, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và quyền ngăn chặn sự cạnh tranh không lành mạnh.
5. Bí quyết (know- how):
Trong nội dung này chúng tôi thống nhất để nguyên thuật ngữ tiếng anh know- how: là khái niệm dùng để chỉ các kiến thức, số liệu, tài liệu thông tin kỹ thuật được đúc rút từ kinh nghiệm thực tiễn mà thiếu nó người sản xuất không thể đạt được kết quả mong muốn.
6. Sở hữu công nghiệp (industrial proferty):
Thuật ngữ “sở hữu công nghiệp” dùng để chỉ quyền hợp pháp đối với các sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, các nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ, tên gọi xuất xứ hàng hoá. (có kèm theo một khoản thù lao nhất định).
7. Những khái niệm liên quan đến việc thanh toán và trả thù lao licence:
- Trả gọn (hay trả gộp, tiếng anh là “lump sum”).
- Trả kỳ vụ (tiền chiết khấu định kỳ, tiếng anh là “royalty”).
- Lệ phí (tiếng anh là “fees”) hoặc kết hợp các hình thức thanh toán nói trên.
a. Theo hình thức “trả gọn”, tổng số tiền phải trả cho hợp đồng licence đã được tính toán, khẳng định trước và bên mua licence phải trả cho bên bán ngay một lần hay một số lần theo quy đinhj giữa hai bên. Thông thường việc trả gọn được phân làm ba phần:
- Lần đầu trả ngay sau khi ký kết hợp đồng.
- lần thứ hai trả khi bàn giao tài liệu kỹ thuật.
- Lần cuối trả vào lúc nhà máy sản xuất hàng loạt sản phẩm theo licence.
Hình thức trả gọn thường được áp dụng đối với trường hợp mua bán licence về bí quyết kỹ thuật do việc không có sự bảo hộ pháp lý của đối tượng licence.
b. Hình thức “trả kỳ vụ” khác với trả gọn ở chỗ tiền trả kỳ vụ
không tính toán trước được giá trị tuyệt đối mà phụ thuộc vào kết quả thực hiện hợp đồng licence.
Trong hợp đồng licence, tiền trả kỳ vụ được quy định theo tỷ lệ lợi nhuận thu được theo tỷ lệ phần trăm lợi nhuận thu đươcj hoặc theo tỷ lệ phần trăm đơn giá của sản phẩm hay một lô hàng.
c. Hình thức “lệ phí” thường chỉ áp dụng đối với các dịch vụ kỹ thuật (như lắp đặt thiết bị, đào tạo ...). Lệ phí này có thể tính thành tổng riêng trong hợp đồng licence tính toán cụ thể cho từng dịch vụ.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33720.doc