Nhận xét: Bảng 12 cho thấy sau khi đun 1 giờ. phản ứng chưa xảy ra. Sau 2 giờ, phản ứng đã có xảy ra nhưng chưa 
hoàn tất. Tiếp theo sau 3 giờ, 4 giờphản ứng đã có suất hiện sản phẩm. Từ4 giờtrở đi phản ứng xảy ra mạnh, hiệu 
suất đạt được lên đến 91,3%. Từ5 đến 10 giờhiệu suất không tăng bao nhiêu khoảng 92 – 93%. Khi đun lâu 2 ngày 
hoặc 3 ngày hiệu suất có tăng chút ít nhưng thời gian phản ứng dài, do đó chúng tôi chọn thời gian tối ưu là 3 giờ- 4 
giờ. 
Do sản phẩm tạo ra sau phản ứng cũng là một dạng ester, mặc dù mạch hydrocarbon đã ngắn hơn rất nhiều 
nhưng độphân cực cũng không khác nhau mấy. Rất khó sửdụng sắc ký lớp mỏng đểphát hiện sản phẩm tạo ra đến 
mức độnào do đó chúng tôi buộc phải khảo sát ởnhiều thời gian khác nhau và sau đó dùng cân đểxác định hiệu suất 
phản ứng. 
Kết quảsắc ký lớp mỏng: 
Kết quả được trình bày ởhình 7, 8, 9, 10. Từcác hình 7, 8 nhận thấy rằng vết của sản phẩm (vết thứnhì) đã 
có sựkhác biệt so với vết của dầu cá ban đầu (vết thứnhất), điều đó chứng tỏrằng phản ứng đã xảy ra nhưng đểxác 
định phản ứng xảy ra hoàn toàn hay chưa cần kết hợp với phương pháp cân, xác định hiệu suất. 
Từhình 9 cho thấy dung môi giải ly tốt là benzen, vì các vết hiện lên rõ, đẹp. 
Hình 10 cho thấy dù phản ứng xảy ra sau 3 giờvà 9 giờthì vết sắc ký cũng không khác nhau bao nhiêu. Điều 
đó cho thấy không thểchỉsửdụng sắc ký lớp mỏng đểxác định mức độhoàn thành của phản ứng transester hóa. 
3.2.
                
              
                                            
                                
            
 
             
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương pháp ly trích, thu nhận và làm giàu acid docosahexaenoic trong mỡ cá basa pangasius bocourtisauvage, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 pha rắn loại Bond Elut SCX (0,5g propylbenzene sulphonic acid) được cân bằng bởi 5ml NaOH 1M, 10ml 
nước, 5ml HCl 4M, nước cho đến khi đạt pH trung tính và tiếp tục với acetonitrile-nước (10:1). Cột được bọc lại trong 
cuộn nhôm để tránh ánh sáng. 
 17
Cột được chuyển sang dạng ion bạc bằng cách cho ngấm kiệt từ từ 1ml dung dịch AgNO3 (40mg AgNO3 trong 
1ml acetonitrile-nước 10:1). Sau đó cột được giải ly lần lượt với 5ml acetonitrile, 5ml acetone và 10ml dichloromethane. 
0,1ml dichloromethane chứa không quá 1mg acid béo methyl ester. Các (hệ) dung môi dùng để giải ly có độ phân cực 
tăng dần (từ dichloromethane đến acetone-acetonitrile) theo số liên kết đôi của acid béo (từ acid béo bão hòa đến acid béo 
6 nối đôi). Sự giải li tiến hành ở áp suất khí quyển (vận tốc dòng chảy 0,5ml/phút). 
DHA và các dẫn xuất của nó được cô lập từ hỗn hợp các acid béo bất bão hòa đa từ nguồn tự nhiên bằng phương 
pháp bạc nitrate. Phương pháp bao gồm sự tính toán lượng bạc nitrate cần để tạo phức với các acid bất bão hòa đa dựa 
trên số mol nối đôi có trong acid béo bất bão hòa. 
 DHA được tách chiết và tinh sạch từ dầu cá ngừ bằng phương pháp tách chiết nhiệt độ thấp kết hợp với phương 
pháp kết tinh sắc kí cột Ag+/silica gel hoặc phương pháp riêng l3 với sắc kí cột Ag+/silica gel. Dung môi giải li cột là hỗn 
hợp của aceton (hoặc diethyl ether)-hexane. 
1.2.4. Phương pháp CO2 siêu tới hạn (supercritical carbon dioxide) [20] 
CO2 siêu tới hạn (SC-CO2) là một chất thích hợp để trích ly các chất không phân cực (triacylglycerol). Hiệu quả 
trong việc sử dụng SC-CO2 và hỗn hợp ethanol để trích ly và phân đoạn các phospholipid từ trứng cá hồi đã được khảo 
sát. Sự trích ly được thực hiện ở nhiệt độ 33oC và áp suất thấp 17.7MPa để tránh sự oxid hóa các acid béo bất bão hòa đa. 
Các phospholipid đươc trích ly hiệu quả với 10, 15 hay 20% ethanol trong SC-CO2. Lượng phospholipid được trích ly 
tăng cùng với sự bổ sung ethanol (với hỗn hợp 20% ethanol, có 80% các phospholipid được thu nhận). 
Các acid béo được trích ly từ cá bằng cách sử dụng một máy đặc biệt gọi là “máy trích CO2 lỏng siêu tới hạn” 
(Supercritical Fluid CO2 Extraction Machine). Ba mức áp suất khác nhau (200, 240 và 280 bar), ba mức nhiệt độ khác 
nhau (35, 40 và 45oC) và 5 khoảng thời gian khác nhau (60, 120, 180, 240 và 300 phút) được chọn. Điều kiện lý tưởng 
nhất cho sự trích ly acid béo bất bão hòa đa được xác định là áp suất 280 bar ở nhiệt độ 40oC và 300 phút. 
1.2.5. Phương pháp sắc ký điều chế với pha tĩnh được sử lý với nitrate bạc (silver nitrate method) [8] 
Một phương pháp khác được sử dụng để tinh sạch hỗn hợp các acid béo methyl ester từ dầu cá hoặc dầu thực vật 
là phương pháp sắc kí lớp mỏng ion bạc. Các bản mỏng silica gel được nhúng trong 1 phút vào dung dịch bạc nitrate 4% 
trong methanol-nước (9:1). Sau đó bản mỏng được sấy khô 2 phút dưới ánh sáng mờ trong tủ sấy thông gió và tiếp tục 
trong 20 phút ở 100oC. Chúng được giữ trong 1 hộp được đậy kín ở trong tối. 
Dung môi giải ly có thể là hexane-diethyl ether (9:1) để tách các acid béo bão hòa, acid béo có 1 nối đôi và acid 
béo có 2 nối đôi, hoặc là toluen-ethyl acetate (9:1) để tách tất cả các loại acid béo theo độ bất bão hòa. 
Tỷ lệ dung môi có thể thay đổi 1 ít theo điều kiện thí nghiệm (loại bản mỏng, độ ẩm, nhiệt độ, hình dạng của 
bình giải ly …) để nâng cao hiệu quả của việc phân tách. Việc thêm 1% acid acetic theo thể tích vào pha động cho phép 
các vết acid béo đạt độ phân giải tốt. 
Bản mỏng được sấy trong tủ sấy thông gió, nhúng vào dung dịch nước đã bão hòa sodium thiosulphate trong 1 
phút và rửa dưới dòng nước chảy trong 1 phút. Sau đó tiếp tục sấy khô và phun xịt với primuline để phát hiện các vết acid 
béo phát huỳnh quang dưới đèn UV. 
 18
1.4. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1.3.1. Phương pháp transester hóa [13] 
Trong phản ứng transester hóa dầu mỡ động thực vật, một triglycerid sẽ phản ứng với một alcol có mặt chất xúc 
tác sẽ thu được sản phẩm là một hỗn hợp alkyl ester của acid béo và glycerin. 
 Phương trình phản ứng : 
3ROH
C
C
C
H2
H2
H
OH
OH
OH R1COOR
R2COOR
R3COOR
xuùc taùc
CH2 O R1
 O C
O
R2
CH2 O C
O
R3
CH
C
O
 Triglycerid Rượu Glycerin Hỗn hợp akyl ester 
Để thực hiện phản ứng transester hóa dầu mỡ động thực vật có thể sử dụng các loại xúc tác khác nhau như: 
1.3.1.1. Sử dụng xúc tác acid[33],[9] 
a) Ưu điểm: 
 Là loại xúc tác cơ bản từ lâu đời. Dễ sử dụng, cho hiệu suất cao, rẻ tiền. 
b) Nhược điểm: 
 Quá trình transester hóa được xúc tác bằng acid Bronsted như acid sulfuric cho một hiệu xuất rất cao nhưng lại 
xảy ra chậm, đòi hỏi nhiệt độ trên 100oC và 3giờ mới đạt độ chuyển hóa hoàn toàn. Ngoài ra, phản ứng trên phải được 
thực hiện trong môi trường không có nước để tránh có sự cạnh tranh tạo ra acid carboxilic làm giảm hiệu suất phản ứng. 
Thiết bị phản ứng mau hư do bị ăn mòn. 
 Theo William W. Christie (Scotland) thông thường lipid được hòa tan trong chất phản ứng và hỗn hợp được đun 
nóng khoảng 2 giờ, nhưng nó có thể cũng được đun nóng trong ống kín ở nhiệt độ cao và thời gian ngắn hơn. Lượng xúc 
tác H2SO4 cho vào khoảng 1-2% trong dung môi là methanol. 
1.3.1.2. Sử dụng xúc tác bazơ [9],[31] 
Xúc tác bazơ thường được sử dụng trong công nghiệp như: NaOH, KOH, Carbonat kim loại kiềm, CH3ONa,… 
Trong đó, CH3ONa được xem là xúc tác hoạt động tốt nhất (cho hiệu suất trên 98% trong 30 phút với một lượng nhỏ 
0,5%). 
a) Ưu điểm: 
 - Xúc tác bazơ ít có tính ăn mòn đồng thời cũng thúc đẩy tiến trình xảy ra nhanh hơn khi so sánh với xúc tác 
acid. 
 - Giá thành rẻ (KOH, NaOH). Việc tăng nồng độ xúc tác lên khoảng 1% hoặc 2% là có hiệu suất cao không kém 
gì alkoxid kim loại. 
 - K2CO3 được dùng với nồng độ 2% hoặc 3% cũng cho hiệu suất cao đồng thời tránh được sự thủy phân ester do 
bicarbonat được tạo thành thay vì nước ở xúc tác hydroxyd. 
 19
b) Nhược điểm: 
- KOH và NaOH với giá thành rẻ nhưng kém hoạt động hơn K2CO3, CH3ONa. Tuy nhiên, với loại xúc tác 
hyroxyd này sẽ làm sản sinh ra một lượng nước ngay cả trong môi trường khan nước ban đầu (do phản ứng với rượu), 
điều này sẽ làm giảm hiệu suất phản ứng (do có nước sẽ thúc đẩy quá trình thủy phân ester tạo thành). 
- Việc sử dụng xúc tác bazơ mạnh trong phản ứng transester hóa dầu mỡ động thực vật rất dễ xảy ra quá trình xà 
phòng hóa, điều đó dẫn đến làm giảm hiệu suất phản ứng và việc tách loại ester và glycerin tạo thành cũng gặp khó khăn. 
Theo nghiên cứu của trường đại học Idaho [31], quá trình transester hóa dầu cải chịu tác động của nhiều yếu tố: 1) 
nhiệt độ, 2) xúc tác, 3) tốc độ khuấy trộn, 4) nước trong alcol được sử dụng, 5) lượng alcol dư được sử dụng. Kết quả cho 
thấy điều kiện tối ưu là: 1) nhiệt độ phòng, 2) xúc tác NaOCH3 0,5% hoặc KOH 1% so với trọng lượng dầu cải, 3) tốc độ 
khuấy trộn nhanh, mãnh liệt trong những giai đoạn đầu của phản ứng và không quan trọng lắm sau khi đã trở thành hỗn 
hợp đồng nhất, 4) ethanol tuyệt đối thì cho tốc độ chuyển hóa nhanh, 5) lượng alcol dư là hơn 50% đối với NaOCH3 và 
hơn 100% đối với KOH. 
Theo cuộc nghiên cứu đó thì quá trình transester hóa trải qua ba giai đoạn: 1) phản ứng transester hóa, 2) sự phân 
lớp, 3) quá trình rửa. 
1.3.1.3. Sử dụng xúc tác enzym[41],[42] 
Sự tạo thành acid docosahexaenoic (DHA) đã được nghiên cứu trong dầu cây anh thảo (Oenothera biennis L) và 
dầu cây borage (Borago officinalis L.) (một loại cây mà hoa và lá được dùng làm món sà lát và tạo hương vị cho thức 
uống) bằng con đường transester hoá với xúc tác lipase.[41] 
Có 6 loại lipase: Novozym 435 từ Candida antarctica, Lipozyme IM từ Mucor miehei, PS-30 từ Pseudomonas 
sp., AP-12 từ Aspergillus niger, AY-30 từ Candida rugosa, và Novozym-677BG từ Thermomycelanuginosus được kiểm 
tra cho khả năng hợp thành DHA (22:6 ω-3) trong dầu cây anh thảo. Trong số các enzym đã ví dụ thì Novozym 435 từ 
Candida antarctica được chọn làm xúc tác cho phản ứng transester hóa vì lý do hợp thành DHA cao. Khi có sự tập trung 
của enzym cao, tỷ lệ chất nền, và thời gian ủ tăng thì sự hợp thành DHA cũng tăng. Trong một tiến trình phản ứng sự hợp 
thành DHA tăng lên 25,2% sau 24giờ. Cao nhất là 37,4% khi tỷ lệ dầu cây anh thảo/DHA là 1/3. 
Cây anh thảo[42] (Oenothera biennis L.) là cây hai năm thuộc họ dừa nước (Onagraceae) là một loại cây thông 
thường sống ở Bắc Mỹ. Điều thú vị là dầu anh thảo có chứa γ-linolenic acid (GLA; 18:3 ω-6) (Senanayake và Shahidi, 
1999a). 
Ưu điểm:[14] 
 Đa số các enzym làm xúc tác đều được thực hiện ở điều kiện bình thường (nhiệt độ phản ứng là 20-40oC), 
không tốn năng lượng và không đòi hỏi thiết bị phức tạp. Các chất thải enzym dễ bị phân hủy nên không gây ô nhiễm môi 
trường. Hiệu lực xúc tác của enzym lại rất lớn (vận tốc phản ứng gấp 108-1011 lần) so với những phản ứng dùng xúc tác 
hóa học thông thường. 
Nhược điểm:[14] 
 Mỗi loại enzym chỉ xúc tác nên một số chất nền và kiểu nối hóa học nhất định trong phân tử. Ngoài ra, việc sử 
dụng xúc tác enzym có mặt hạn chế là thời gian phản ứng rất lâu (20 giờ). Đồng thời phải tìm được loại enzym phù hợp 
với đối tượng nghiên cứu. 
 20
1.3.1.4. Xúc tác zeolit[9] 
Trong những năm gần đây, người ta thường ứng dụng xúc tác acid, bazơ rắn,… đặc biệt là zeolit đang được xem 
là một chất xúc tác hiệu quả cho phản ứng transester hóa dầu mỡ động thực vật do có một số ưu điểm nổi bật sau: 
• Có tính chọn lọc cao 
• Việc tách các sản phẩm sau phản ứng dễ dàng. 
• Xúc tác zeolit sau khi thu hồi có thể sử dụng lại. 
• Hiệu suất phản ứng cao 
• Phản ứng không sinh ra sản phẩm phụ (do không có hiện tượng xà phòng hóa so với các xúc tác bazơ 
cổ điển). 
Ngoài ra người ta còn thường sử dụng các chất xúc tác khác cho hiệu quả cao nhưng qui trình thực hiện lại khá 
phức tạp. Ví dụ như sử dụng chất xúc tác calicined Mg-Al hydrotalcites[43]. Xúc tác này gồm: 187ml dung dịch chứa 
Mg/Al theo tỷ lệ Mg(NO3)2.6H2O và Al(NO3)3.9H2O (tổng metal nitrat, 0,375mol), thêm từ từ 187ml dung dịch thứ hai 
chứa NaOH (0,4375 mol) và Na2CO3 (0,1125 mol), pH = 8-10. 
Trong phần thực nghiệm này chúng tôi không sử dụng xúc tác là Zeolit vì qui trình tổng hợp hơi phức tạp. 
Chúng tôi sử dụng loại xúc tác có sẵn là bazơ (KOH, NaOH) rẻ tiền và kinh tế với hàm lượng nhỏ khoảng 1-2%. 
1.3.2. Phương pháp làm giàu DHA 
1.3.2.1. Phương pháp sắc kí cột[12] 
 Theo Teshima, S. et al [40], mô tả về phương pháp cô lập của EPA và DHA từ dầu cá bằng xà phòng hóa với 
ethanol xúc tác KOH. Phần metyl ester của acid béo thô được làm tinh bằng sắc kí cột trên silica gel và sau đó EPA được 
phân chia ra khỏi DHA bằng sắc kí cột trong hỗn hợp bạc nitrat và silica gel. 
Sắc ký pha lỏng trên cột (Sắc ký cột hở) là tên gọi chung cho một số hệ thống vật lý trong đó một cột được nạp 
chặt chẽ bởi chất hấp thu và có một pha lỏng di động chảy xuyên ngang qua. 
 Sắc ký cột nhanh khô là một biến đổi của sắc ký cột nhanh, sử dụng áp suất kém để gia tăng vận tốc giải ly của 
pha động. Kỹ thuật này khác với sắc ký nhanh là cột sắc ký được rút khô sau mỗi phân đoạn thu được. 
Ưu điểm của sắc ký nhanh cột khô là nhờ có lực hút bên dưới để hút dung môi giải ly nên thời gian triển khai 
nhanh hơn sắc ký cột cổ điển. Ngoài ra, kỹ thuật này còn có thuận lợi là sử dụng các thiết bị có sẵn trong phòng thí 
nghiệm (phễu, bình tam giác, vòi nước tạo áp suất kém.v.v…). 
Hệ thống bao gồm: phễu lọc xốp thủy tinh loại 150ml, fiole, và hệ thống tạo áp suất bằng vòi nước (20-70 
mmHg). 
Chất hấp thu là silica gel khô vào phễu đến tận miệng, gõ nhẹ ngoài thành phễu để chất hấp thu gọn lại. Gắn 
phễu vào hệ thống tạo áp suất kém và dùng nút thủy tinh có đáy bằng để nén ép đều silica gel xuống đáy phễu, tạo thành 
một khối cứng, đồng nhất, chặt chẽ, có bề mặt bằng phẳng. Chiều cao của chất hấp thu sau khi nén cao khoảng 5cm. 
Tiền giải ly cột bằng ether dầu hỏa. Rót dung môi lên đầu cột, gắn vào hệ thống tạo áp suất kém, dung môi sẽ đi 
xuống xuyên qua cột. Thực hiện vài lần để có cột đồng nhất. 
 Cột được rút khô, tắt áp suất kém. 
1.3.2.2. Phương pháp tủa urê [40],[43] 
 21
Các acid béo bất bão hòa đa (polyunsaturated fatty acid(s)) có thể được làm giàu lên bằng nhiều phương pháp 
khác nhau như tạo tinh thể ở nhiệt độ thấp, tủa urê, lọc phân tử, tạo kết tủa với ion bạc hoặc bằng cách sử dụng lipase. 
Tuy nhiên, phương pháp đơn giản và hiệu quả nhất để thu nhận những acid béo bất bão hòa đa được làm giàu dưới dạng 
những acid béo tự do từ mỡ cá là phương pháp tủa urê. Đây là một phương pháp để tách các acid béo bão hòa ra khỏi acid 
béo bất bão hòa dựa trên hiện tượng urê sẽ tạo thành tinh thể (kết tủa) với các acid béo bão hòa ở nhiệt độ thấp. Bằng cách 
loại bỏ những kết tủa này có thể loại bỏ được những acid béo bão hòa trong hỗn hợp. Phương pháp này có thể gia tăng 
hàm lượng acid béo bất bão hòa đặc biệt là omega-3 trong hỗn hợp lên đến 60-85% (trong trường hợp là dầu cá hồi). 
Trong việc xử lý với urê, urê được thêm vào dung môi hữu cơ mà có thể hòa tan được cả urê và cả acid béo trong 
đó, ví dụ như methanol, ethanol, isopropanol, ether dầu hỏa, benzen, trichoroethylene và methyl isobutyl ketone. Ethanol 
được sử dụng tốt hơn do ít độc. Urê được hòa tan trong dung môi, nếu cần thiết thì đun nóng, lượng urê cho vào khoảng 
từ 10 – 20%. Dung dịch urê và hỗn hợp ester của acid béo được trộn chung với nhau. Khi trộn hỗn hợp acid béo vào trong 
dung dịch urê tốt hơn hết là hỗn hợp acid béo được pha loãng trong dung môi hữu cơ để tạo khả năng bảo vệ acid béo 
chống lại nhiệt độ cao của dung dịch urê. Lượng dung môi urê được điều chỉnh để tối thiểu là 0,5 phần trọng lượng. Dung 
dịch urê được trộn thành một hỗn hợp đồng nhất với acid béo. 
Urê sau đó sẽ được tủa bằng cách làm lạnh hỗn hợp. Vào lúc này acid béo bão hòa trong hỗn hợp acid béo sẽ 
hình thành phức với tinh thể urê và tủa xuống. Sự làm lạnh được kiểm soát bằng cách để dung dịch trong một khoảng thời 
gian thật lâu, nếu được yêu cầu (thường là qua đêm). 
 Urê kết tinh khi có sự hiện diện metyl ester của acid béo, nó hình thành nên tinh thể hình lục giác có lỗ rỗng ở 
giữa, với lỗ rỗng này một vài acid béo có thể lọt vừa khít vào và nhờ thế được lọc, loại bỏ ra khỏi dung dịch. Acid béo 
mạch thẳng thì hình thành phức dễ dàng , nhưng acid béo, ester có nối đôi hoặc cầu metyl làm tăng mức độ phức tạp của 
cấu tạo thì hình thành kết tinh khó hơn hoặc không thể kết tinh. 
 Khi tiến trình kết tinh hoàn thành, acid béo bão hòa và một phần acid béo bất bão hòa tạo phức, trong khi đó acid 
béo bất bão hòa đa, có phân nhánh, hoặc có vòng sẽ ở lại trong dung dịch. 
Phương pháp: 
 Metyl ester (100mg) trộn trong hexan (4ml), methanol (1ml) và urê (1,5g). Để qua đêm, phần rắn được lọc ra khỏi 
dung dịch và rửa với hexan, phần được rửa và phần lọc trộn chung rồi rửa lại với nước, làm khô bằng muối sulfat natri 
khan và làm bay hơi. Còn lại phần bất bão hòa và/hoặc có phân nhánh. 
Một phương pháp khác từ Shucheng Liu và cộng sự[43]: Mỡ cá đem đi thủy giải để thu được những acid béo tự 
do. Acid béo tự do thu được sau đó sẽ được trộn lẫn với urê (10%, w/v) trong ethanol 95%. Hỗn hợp này được đun nóng 
kết hợp với khuấy kỹ ở 60 – 70oC đến khi thành một dung dịch đồng nhất. Ban đầu để kết tinh ở nhiệt độ phòng sau đó ở 
các nhiệt độ khác nhau (25oC, 15oC, 0oC, -15oC, -25oC). Tỷ lệ của urê với lượng acid béo tự do theo nghiên cứu tốt nhất 
là 1 : 15 theo số mol. Dung dịch này sau đó được cho vào tủ đông -5oC trong 20 giờ. Loại bỏ kết tủa tạo thành bằng 
phương pháp lọc. Nước lọc sau đó được pha loãng với một lượng nước cất và được acid hóa bởi acid H2SO4 đậm đặc sao 
cho pH = 2-3. Thêm vào dung dịch nước lọc một lượng hexan (hoặc ether dầu hỏa) và lắc kỹ. Dung dịch nước lọc sau đó 
sẽ tách làm hai lớp: lớp nước chứa urê nằm phía dưới và lớp hexan (ether dầu hỏa) chứa acid béo nằm phía trên. Thu lấy 
lớp hexan (ether dầu hỏa), làm khan nước, đem cô quay đuổi dung môi thu được acid béo tự do chứa chủ yếu là các acid 
béo bất bão hòa. 
 22
1.3.3. Phương pháp sắc ký lớp mỏng [7] 
Sắc ký lớp mỏng còn gọi là sắc ký phẳng (planar chromatography), là kỹ thuật phân bố rắn lỏng; trong đó pha 
động là chất lỏng được cho đi ngang qua một lớp chất hấp thụ trơ. Chất hấp thụ này được tráng thành một lớp mỏng, đều, 
phủ lên một nền phẳng. Loại bản mỏng được sử dụng trong đề tài này là bản nhôm tráng silica gel có trộn thêm chất phát 
huỳnh quang (Merck) và sắc ký lớp mỏng được khai triển theo kiểu dung môi giải ly di chuyển xuống. 
Mẫu chất cần phân tích được hòa tan vào một dung môi dễ bay hơi, dùng vi quản để chấm một ít dung dịch mẫu 
chất thành một vết nhỏ gọn lên tấm lớp mỏng; vết chấm ở cách vị trí đáy 1 cm. Sấy nhẹ để đuổi một phần dung môi hòa 
tan mẫu, như thế mẫu chất chỉ còn ở dạng bột khô trên tấm bản mỏng. Đặt tấm lớp mỏng này theo chiều thẳng đứng, vào 
trong một ly có chứa sẵn một loại dung môi phù hợp (chiều dày của lớp dung môi không quá 1cm). Trước khi đặt bản vào 
ly, ly đựng dung môi phải ở trạng thái bão hòa dung môi để có được một bầu khí quyển đồng nhất bằng cách phủ lên bề 
mặt trong cua ly một tờ giấy lọc có tẩm ướt dung môi dùng để giải ly. 
Dung môi sẽ được lực mao quản hút di chuyển cao lên trong tấm bản, quá trình như thế thì sẽ phân chia hỗn hợp 
mẫu chất ban đầu thành những vết riêng biệt. Khi dung môi lên gần hết tấm bản (còn cách khoảng 0,5cm), lấy tấm bản ra 
khỏi bình, sấy khô. Các vết mẫu được xác định bằng phương pháp hóa học với dung dịch thuốc thử là H2SO4 đậm đặc. 
Bản mỏng sau đó được lưu trữ trong bao plastic. 
Dung môi giải ly phù hợp là dung môi có thể làm cho hỗn hợp các chất ban đầu tách thành nhiều vết khác nhau. 
Các vết này sắc nét, rõ ràng và có vị trí nằm trong khoảng từ 1/3 - 2/3 chiều dài bản sắc ký (các vết chính có Rf khoảng từ 
0,3 - 0,7). 
Mỗi hợp chất sẽ cho một vết, với giá trị Rf không đổi, trong một hệ giải ly xác định, bởi bản sắc ký của một lô sản xuất 
nhất định. Rf được tính bằng công thức: 
Mục đích chính của sắc ký lớp mỏng trong bài thực nghiệm này là để theo dõi diễn tiến của quá trình transester 
hóa . 
Sắc ký lớp mỏng có các ưu điểm: 
¾ Mẫu để phân tích chỉ cần một lượng rất ít. 
¾ Có thể phân tích đồng thời mẫu và chất chuẩn đối chứng trong cùng một điều kiện phân tích. 
¾ Việc triển khai sắc ký nhanh, nên trong một thời gian ngắn có thể biết kết quả mẫu cần phân tích. 
¾ Tất cả các hợp chất trong mẫu phân tích có thể được định vị trên tấm sắc ký lớp mỏng. 
¾ Sau quá trình giải ly, dung môi sẽ được loại bỏ khỏi tấm bản mỏng trước khi dùng kỹ thuật vật lý hoặc hóa học để phát 
hiện sự hiện diện chất, nên không phải lo đến vấn đề hậu sắc ký như ở sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). 
1.4. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ CÁ BASA Ở VIỆT NAM 
1.4.1. Phân loại [17] 
Cá Basa là một trong số 11 loài thuộc họ Cá tra (Pangasiidae) đã được xác định ở sông Cửu Long. 
 Giới động vật Animalia 
Rf 
Khoaûng ñöôøng di chuyeån cuûa hôïp chaát
Khoaûng ñöôøng di chuyeån cuûa dung moâi
Rf  1
 23
 Ngành có giây sống hoàn chỉnh Chordata 
 Ngành phụ có xương sống Vertebrata 
 Nhóm có hàm Gnathostomata 
 Tổng lớp cá Pisces 
 Lớp cá xương Osteichthyes 
 Lớp phụ cá vây tia Actinopterygii 
 Tổng bộ cá toàn xương Teleostei 
 Bộ cá nheo Siluriformes 
 Họ Chilbeidea 
 Giống Pangasasius 
 Loài Pagasius bocourt (Sauvage, 1880) 
(Cấp phân loại từ giới đến bộ được tham khảo từ tác giả Trần Thanh Tòng) 
1.4.2. Đặc điểm cá basa [32] 
Cá basa phân bố ở sông Tiền và sông Hậu; có tập tính di cư ngược dòng sông Mekong để sinh sống và tìm nơi 
sinh sản tự nhiên; có tính ăn tạp thiên về động vật. Trên thế giới có bốn nước ở lưu vực sông Mekong: Việt Nam, Lào, 
Campuchia và Thái Lan nuôi cá basa. 
Ở Việt Nam, cá basa được nuôi thương phẩm chủ yếu trong bè trên sông nước chảy vì chịu đựng kém ở môi 
trường có hàm lượng oxi hòa tan thấp. Khu vực ương nuôi cá giống tập trung chủ yếu ở huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp) và 
huyện Châu Đốc (An Giang), nay phát triển nhiều ở Cần Thơ… Hiện nay riêng An Giang có hơn 2.300 bè nuôi cá basa 
với sản lượng khoảng 23.000 tấn. Bụng cá trắng bạc, và đặc biệt có buồng mỡ rất lớn, chiếm khoảng 25% khối lượng cá. 
Lượng mỡ cá basa thu hồi từ các cơ sở chế biến thủy sản hàng năm 4000 - 5000 tấn mỡ cá. 
1.4.3. Những sản phẩm từ mỡ cá basa [33] 
Trước đây, lượng mỡ lớn từ cá basa chưa được chế biến công nghiệp, chưa tinh luyện nên chưa đạt chỉ tiêu dầu 
mỡ thực phẩm. Chủ yếu là chiên mỡ cá, bằng gia nhiệt trực tiếp thành dạng lỏng, sau đó đem trộn với mỡ heo bán cho tư 
nhân hoặc bán ở vùng cao, Campuchia, Trung Quốc… Ngoài ra, mỡ cá thô sau khi tinh luyện làm dầu thực phẩm, được 
phối trộn sử dụng thay thế shortening- một loại mỡ để chiên mì ăn liền hay đem phối chế sản xuất margarin. 
1.4.3.1. Tách chiết mỡ lỏng từ mỡ cá basa[32] 
Qui trình công nghệ chiết tách mỡ lỏng từ mỡ cá basa được trình bày trong sơ đồ 1. Tỷ lệ acid béo không bão 
hòa và bão hòa có trong nguyên liệu dầu mỡ so với mỡ cá basa thô được trình bày trong bảng 8. Nhận xét với loại cá basa 
đạt trọng lượng 1 - 1,5kg: 
- Tỷ lệ mỡ cá so với trọng lượng cá 25% 
- Trong đó tỷ lệ mỡ phần (mỡ trong) 12,03% 
- tỷ lệ mỡ bụng (mỡ ngoài) 12,25% 
Mỡ cá thô có đặc tính: 
 24
- Tỷ trọng 30oC 0,917 
- Chỉ số chiết quang ở 40oC 1,460 
- Chỉ số acid 0,22 mg KOH/g 
- Chỉ số peroxyd 4 ml Na2SO3 
- Chỉ số xà phòng 196,96 mg KOH/g 
- Chỉ số Iod 78,72 g I2/100g 
Hiệu suất thu hồi mỡ cá lỏng: 
- Ðạt 94-95% so với trọng lượng mỡ phần (mỡ trong) 
- Ðạt 60-62% so với trọng lượng mỡ bụng (mỡ ngoài) 
Mỡ cá basa thô nên tách riêng 2 phần 
- Phần đặc chiếm 10% (tạm gọi mỡ cá basa) 
- Phần lỏng chiếm 90% (tạm gọi dầu cá basa) 
Sơ đồ 1: Qui trình công nghệ chiết tách mỡ lỏng từ mỡ cá basa 
Mỡ cá 
(mỡ phần hay mỡ bụng) 
Rửa và làm sạch trong nước lạnh (xay nhỏ 3-
5mm) 
Gia nhiệt gián tiếp (hơi nước 1kg/cm2, 90-95oC)
Ép cơ học 
Mỡ cá lỏng 
 25
Rửa bằng dung dịch nước muối 10% 
Lắng tách nước 
Mỡ lỏng sạch 
Bảng 7: Tỷ lệ acid béo không bão hòa và bão hòa có trong nguyên liệu dầu mỡ so với mỡ cá basa thô (*) 
Thứ tự Nguyên liệu 
Acid béo loại 
một nối đôi (%) 
Acid béo loại 
nhiều nối đôi 
(%) 
Acid béo bão 
hòa (%) 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
Dầu dừa 
Dầu cọ 
Bơ 
Mỡ heo 
Mỡ bò 
Mỡ cá basa thô 
5,00 
40,00 
30,00 
50,00 
43,00 
31,52 
1,0 
10,0 
4,0 
3,0 
2,6 
12,72 
94,00 
50,00 
66,00 
47,00 
44,4 
44,35 
(*) Thông tin lấy từ dầu cọ của hiệp hội những người phát triển dầu cọ Malaysia năm 96 (Malaysian Palm Oil 
Promotion Council 96). 
Thành phần mỡ cá basa có acid béo một nối đôi 31,5%, nhiều nối đôi 12,72% và acid béo bão hòa 44,35% gần 
tương đương với đầu cọ nhập ngoại. 
1.4.3.2. Tinh luyện mỡ cá basa thành dầu mỡ thực phẩm[32] 
Từ kết quả nghiên cứu, các cơ sở khai thác chế biến mỡ cá basa tiến hành tinh luyện thành dầu mỡ thực phẩm, 
mục đích để tận dụng triệt để các sản phẩm phụ từ mỡ cá: phần đặc sau khi tinh luyện phối trộn thay thế shortening chiên 
mì ăn liền, phần lỏng làm dầu thực phẩm phối trộn thành dầu ăn, sản xuất margarin có thành phần mỡ cá đặc biệt có ω-3 
đạt 0,34% rất tốt cho trẻ em, người già. Thành phần acid béo trong mỡ cá basa thô và sau khi tinh luyện được trình bày ở 
bảng 8. 
Bảng 8: Thành phần acid béo trong mỡ cá basa thô và sau khi tinh luyện 
 26
Trong mỡ cá sau tinh luyện (%) 
Thứ tự Thành phần acid béo 
Trong mỡ cá 
thô (%) phần lỏng (%) phần đặc (%) 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
7 
8 
9 
10 
C14:0 acid myristic 
C16:0 acid palmitic 
C18:0 acid stearic 
C18:1 acid oleic 
C18:2 acid linoleic 
C18:3 acid linolenic 
C20:0 acid arachidic 
C20:1 acid gadoleic 
C22:1 acid cetoleic 
C22:6 acid docosahexaenoic 
0,22 
28,66 
6,49 
33,60 
12,63 
1,48 
0,34 
0,60 
0,83 
0,59 
1,21 
22,22 
6,70 
44,43 
16,76 
0,91 
0,37 
0,62 
0,43 
0,34 
1,25 
32,96 
13,11 
35,40 
11,93 
0,24 
0,94 
0,33 
0,33 
0,11 
(Trung tâm Dịch vụ Phân tích và Thí nghiệm kiểm định theo phiếu số 9812507, 9906107, 991181) 
2.3. DỤNG CỤ - NGUYÊN LIỆU 
2.1.1. Dụng cụ 
Bình cầu 150ml 
Becher 100ml, 250ml 
Erlen 150ml,500ml 
Ống đong 10ml 
Pipette 1ml 
Lọ thủy tinh loại 10ml và 100ml 
Ống nghiệm 
Phễu thủy tinh 
Bình lóng 250ml 
Giấy lọc 
Ống vi quản 
Đèn cồn 
Bản mỏng Silica gel 20x20cm 
(Merck) 
Bình giải ly 
Đá bọt 
Thiết bị 
Máy cô quay chân không 
Máy đun cách thủy 
Máy khuấy từ 
Cân điện tử 
Máy sắc ký ghép khối phổ 
Tủ đông 
Hóa chất: 
Ether dầu hỏa (Trung Quốc) 
Benzen (Trung Quốc) 
Diethy ether 
Chloroform 
Ethyl acetate 
Ethanol 
Methanol 
Iso propanol 
Acetone 
Dung dịch H2SO4 98,08% 
NaOH 
KOH 
Na2SO4 khan 
2.1.2. Nguyên liệu 
 Mỡ cá basa (mỡ lỏng) lấy từ Phân Viện Công NghiệpThực Phẩm thành phố Hồ Chí Minh - 58 Nguyễn Bỉnh 
Khiêm, Quận 1 - TP.HCM. 
2.4. PHƯƠNG PHÁP 
2.2.1. Phương pháp transester hóa (transesterification)[31] 
Cách thực hiện : 
 Bước1: 0,05g chất xúc tác KOH hoặc NaOH cho vào bình cầu 150ml 
Thêm 30g methanol vào bình cầu. Đun hoàn lưu ở nhiệt độ nhẹ (khoảng 40-50oC) cho đến khi chất xúc tác tan hoàn 
toàn trong dung môi. 
 Bước 2: Dầu cá basa (5g) được cho vào bình cầu. Đun hoàn lưu ở nhiệt độ 70-80oC. Khuấy từ (400 vòng/phút), 
trong khoảng thời gian 1-8 giờ. Sau mỗi khoảng thời gian khoảng 1 giờ lấy ra một ít chấm sắc ký bản mỏng để kiểm 
tra mức độ hoàn thành của phản ứng. 
 Bước 3: Sau khi phản ứng hoàn tất, hỗn hợp được để qua đêm. Hỗn hợp tách làm 2 pha: pha trên là hỗn hợp 
ester, pha dưới là glycerin. Sử dụng bình lóng tách riêng lấy phần trên. 
 Bước 4: Rửa ester với nước. Glycerin và xúc tác dư tan vào nước chìm xuống phía dưới bình lóng và được loại 
bỏ. Trong suốt quá trình rửa, ester chuyển thành dạng nhũ tương trắng. 
 Bước 5: Cho thêm dung môi với lượng vừa đủ vào phần nhũ tương để hòa tan. Dung môi có thể là methanol, 
ether dầu hỏa, ethyl acetate, chloroform. Làm khan nước bằng Na2SO4. Lọc và đuổi dung môi bằng cách cô quay 
hoặc đun ở nhiệt độ thấp, thu được ester sạch dạng lỏng. Cân trọng lượng sản phẩm thu được. 
Quy trình phản ứng được trình bày ở sơ đồ 2. 
Trong phản ứng transester hóa chúng tôi khảo sát một số yếu tố khác nhau như sau. 
a) Thay đổi dung môi thực hiện phản ứng transester hóa lần lượt là: methanol, ethanol tuyệt đối, propanol. 
b) Thay đổi tỷ lệ dung môi/dầu cá lần lượt là 20/1; 15/1; 12/1; 10/1; 8/1; 7/1; 6/1; 5/1; 4/1; 3/1. 
c) Thay đổi hàm lượng xúc tác (%) cho phản ứng transester hóa lần lượt là: 0,5%; 1%; 1,5%; 2%; 2,5%. 
 28
d) Thay đổi 2 loại xúc tác thực hiện phản ứng transester hóa lần lượt là NaOH và KOH. 
e) Thay đổi thời gian phản ứng từ 1giờ; 2giờ; 3giờ; 4giờ; 5giờ; 8giờ; 10giờ; 24giờ; 48giờ; 72giờ. 
 Trong mỗi phản ứng sử dụng sắc ký lớp mỏng để kiểm tra tiến trình của phản ứng. 
2.2.2. Phương pháp sắc ký lớp mỏng 
Phương pháp thực hiện được trình bày ở sơ đồ 3. 
 Tiếp thu những kết quả có sẵn từ anh chị đi trước chúng tôi chỉ khảo sát vài loại dung môi giải ly như 
chlorofom:methanol là 9:1, 95:5, benzen. 
Sơ đồ 2: Qui trình transester hóa 
Chaát xuùc taùc,
 dung moâi
Daàu caù basa (5g)
Ñun cho tan
Ñun hoaøn löu coù khuaáy töø ôû nhieät ñoä 70-80oC
Theo doõi tieán trình phaûn öùng theo thôøi 
gian baèng saéc kyù lôùp moûng 
Hoãn hôïp goàm ester acid beùo,
glycerol, chaát xuùc taùc
Ñeå yeân qua ñeâm ôû nhieät ñoä phoøng
Theâm dung moâi cho ñuû
 Hoãn hôïp chia laøm hai pha.
Loùng laáy pha treân laø ester cuûa acid beùo
Röûa ester baèng nöôùc baèng bình loùng
Hoøa tan nhuõ töông vaøo dung moâi.
Laøm khan baèng Na2SO4
Ñuoåi dung moâi
 Ester saïch 
(metyl ester, etyl ester)
 Laáy phaàn ester saïch beân treân 
(baây giôø ñang ôû daïng nhuõ töông)
Caân löôïng ester thu ñöôïc
 29
Sơ đồ 3: Phương pháp sắc ký lớp mỏng 
Chuaån bò maãu (laáy moät gioït trong maãu ñang 
 thöïc hieän phaûn öùng transester hoùa)
Chuaån bò taám lôùp moûng, oáng vi quaûn, dung moâi giaûi ly
Duøng oáng vi quaûn chaám ít maãu leân taám lôùp moûng
Khai trieån giaûi ly ñeå dung moâi di chuyeån leân
Saáy khoâ taám lôùp moûng
Thaám öôùt baûn baèng dung dòch H2SO4 50%
SaÁy khoâ baûn ñeå hieän caùc veát treân baûn moûng
2.2.3. Phương pháp kết tinh của ester với urê (urea crystallization)[40] 
 Bước 1: Cân 2g ester đã transester hóa thu được ở sơ đồ 2 cho vào erlen A. 
- Cho 100ml ether dầu hỏa cho chung vào erlen A. 
- Lắc trộn để ester tan vào trong ether dầu hỏa tạo thành dung dịch đồng nhất. 
 Bước 2: Cân 15g urê cho vào erlen 500ml. 
- Cho 100ml ether dầu hỏa vào erlen 500ml đã chứa urê. 
- Đun cho urê tan trong ether dầu hỏa tạo thành một hỗn hợp đồng nhất (ở nhiệt độ khoảng 60-70oC, đun hoàn lưu có 
khuấy từ). 
 Bước 3: Đổ erlen A vào chung trong erlen 500ml chứa dung dịch urê - ether dầu hỏa. 
- Tráng lại erlen vài lần cho sạch. 
- Đun tiếp cho đến khi tạo thành hỗn hợp đồng nhất. 
- Lấy ra để nguội tự nhiên ở nhiệt độ phòng. 
 Bước 4: Bỏ vào tủ mát một thời gian (khoảng 1 tiếng) rồi mang erlen cho vào tủ đông -5oC. Để qua đêm để urê 
tạo thành kết tinh với các ester bão hòa. 
 Bước 5: Lấy erlen ra, lúc này dung dịch chia làm hai pha: pha rắn và pha lỏng. 
- Lọc bằng giấy lọc, lấy pha lỏng. 
- Pha rắn rửa lại thật kỹ bằng dung môi là ether dầu hỏa rồi lại lọc tiếp. 
 30
- Cho chung hai phần phần lọc và phần được rửa vào một erlen sạch khác. 
- Đem cô quay đuổi dung môi được phần dầu cá chứa ester béo bất bão hòa. 
Phương pháp được trình bày ở sơ đồ 4. 
Sơ đồ 4: Phương pháp kết tinh của ester với urê. 
Ñun noùng cho tan heát ureâ
15g ureâ ether daàu hoûa
100ml
Ñun noùng
Dung dòch ñoàng nhaát
- Ñeå nguoäi, cho vaøo tuû laïnh
- Cho vaøo tuû ñoâng (qua ñeâm)
- Dung dòch taùch laøm hai pha
Pha raén Pha loûng
Röûa
Loïc
Troän chung
Coâ quay ñuoåi dung moâi
Ester baát baõo hoøa
2g daàu 100ml ether 
daàu hoûa
Laéc
Dung dòch 
ñoàng nhaát
- Caân löôïng ester thu ñöôïc
- Khaûo saùt baèng GC/MS
Dung dòch daàu transester hoùa 
 vaø ureâ trong eter daàu hoûa
3.1. Kết quả phản ứng transester hóa 
3.1.1. Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ methanol/dầu cá theo thể tích 
Tỷ lệ methanol/mol dầu cá là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến phản ứng transester hóa. Chúng 
tôi tiến hành khảo sát phản ứng bằng cách thay đổi tỷ lệ methanol/dầu cá theo thể tích lần lượt là 20/1; 15/1; 12/1; 
10/1 ; 8/1; 7/1; 6/1; 5/1; 4/1; 3/1 và giữ cố định các yếu tố còn lại: khối lượng dầu cá (5g), khối lượng xúc tác (0,5g), 
nhiệt độ phản ứng (70-80oC), tốc độ khuấy (400vòng/phút). Kết quả trình bày ở bảng 9, hình 4. 
 31
Bảng 9: Kết quả ảnh hưởng của tỷ lệ methanol/dầu cá theo thể tích 
Số thứ tự 
Tỷ lệ 
methanol/dầu cá 
(V:V) 
Khối lượng dầu 
ban đầu (g) 
Khối lượng dầu 
sau phản ứng (g) 
Hiệu suất phản 
ứng (%) 
1 20:1 5,50 5,35 97,3 
2 15:1 5,47 5,31 97,1 
3 12:1 5,06 4,91 97,0 
4 10:1 5,01 4,83 96,5 
5 8:1 4,99 4,80 96,0 
6 7:1 5,78 5,50 95,2 
7 6:1 5,23 4,86 93,0 
8 5:1 5,54 4,71 85,0 
9 4:1 - - - 
(xúc tác: NaOH 1%, nhiệt độ: 70-75oC, thời gian phản ứng: 7 giờ, tốc độ khuấy: khoảng 400 vòng/phút). 
Hình 4: Ảnh hưởng của tỷ lệ methanol/dầu cá (thể tích : thể tích) 
Ả n h h ư ở n g c ủ a t ỷ lệ m e t h a n o l / d ầ u c á 
l ê n p h ả n ứ n g t r a n s e s t e r h ó a
8 4
8 6
8 8
9 0
9 2
9 4
9 6
9 8
5 : 1 6 : 1 7 : 1 8 : 1 1 0 : 1 1 2 : 1 1 5 : 1 2 0 : 1 
T ỷ lệ m e t h a n o l /d ầ u c á 
H
iệ
u 
su
ất
 (%
)
Nhận xét: Bảng 9 cho thấy với tỷ lệ methanol/dầu cá là 4:1 phản ứng xảy ra rất kém, nên chúng tôi không xác định 
hiệu suất. Khi tỷ lệ được tăng lên 5:1 hiệu suất phản ứng có tăng. Tỷ lệ 7:1 hiệu suất chuyển hóa tốt là 95,2%. Tiếp 
tục tăng tỷ lệ lên 8:1; 10:1; 12:1; 15:1; 20:1 hiệu suất có tăng nhưng không đáng kể. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn 
tỷ lệ methanol/dầu cá là 7:1 cho các quá trình khảo sát tiếp theo. 
3.1.2. Khảo sát ảnh hưởng của loại dung môi thực hiện phản ứng transester hóa. 
Trong phản ứng transester hóa loại dung môi có ý nghĩa quan trọng xác định hiệu suất phản ứng. Chúng tôi 
đã sử dụng ba loại dung môi khác nhau là methanol, ethanol tuyệt đối, propanol và giữ nguyên các yếu tố khác như 
(nhiệt độ, xúc tác, thời gian phản ứng , tốc độ khuấy…). Kết quả trình bày ở bảng 10. 
 32
Bảng 10: Kết quả ảnh hưởng loại dung môi lên phản ứng 
Số thứ 
tự 
Loại dung môi 
Khối lượng dầu 
ban đầu (g) 
Khối lượng dầu 
sau phản ứng (g) 
Hiệu suất (%) 
1 Ethanol 
5,22 
5,12 
4,28 
3,95 
82,0 
77,1 
79,6 
2 Methanol 
5,21 
5,56 
4,57 
4,75 
5,00 
4,26 
91,2 
89,9 
93,2 
91,4 
3 Propanol 
5,00 
4,87 
4,25 
4,18 
85,0 
85,8 
85,4 
(xúc tác: NaOH 1%, nhiệt độ: 70-75oC, thời gian phản ứng: 7 giờ, tốc độ khuấy: khoảng 400 vòng/phút). 
Nhận xét: Bảng 10 cho thấy methanol là loại dung môi tốt nhất cho phản ứng vì cho hiệu suất cao. Nguyên nhân: 
- Methanol hòa tan tốt dầu cá. 
- Ethanol cho hiệu suất không cao có thể là do tuy sử dụng ethanol tuyệt đối nhưng chai này được mua ở 
những cửa hàng, có thể trong quá trình bảo quản đã khá lâu nên đã hút ẩm khiến ethanol đã lẫn một ít nước, làm giảm 
hiệu suất phản ứng. 
- Propanol cho hiệu suất cũng không cao bằng có thể do không hòa tan tốt dầu cá. 
3.1.3. Khảo sát ảnh hưởng của xúc tác 
Trong thí nghiệm chúng tôi thử sử dụng hai loại xúc tác đó là NaOH và KOH thì nhận thấy rằng không có sự 
khác biệt giữa hai loại. Vì vậy có thể sử dụng bất kỳ loại nào cho những phản ứng tiếp theo. 
3.1.4. Khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng xúc tác 
Trong phản ứng transester hóa, lượng xúc tác cho vào cũng ảnh hưởng đến hiệu suất phản ứng. Để khảo sát 
lượng xúc tác chúng tôi thay đổi lần lượt là 0,5%; 0,8%; 1%; 1,2%; 1,5%; 2% và 2,5%. Kết quả được trình bày ở 
bảng 11 và hình 5. 
Bảng 11: Kết quả ảnh hưởng của hàm lượng xúc tác lên phản ứng transester hóa. 
Số thứ 
tự 
Lượng xúc tác 
(g) 
Hàm lượng 
(%) 
Khối lượng 
dầu ban đầu 
(g) 
Khối lượng dầu 
sau phản ứng (g) 
Hiệu suất (%) 
1 0,0125 0,5 2,50 1,75 70,0 
2 0,0160 0,8 2,00 1,84 92,0 
3 0,0250 1,0 2,50 2,31 92,2 
4 0,0300 1,2 2,44 2,25 92,4 
5 0,0300 1,5 2,00 1,85 92,5 
6 0,0512 2,0 2,56 2,38 93,0 
7 0,0612 2,5 2,45 - - 
(xúc tác: NaOH , dung môi methanol 30g, nhiệt độ: 70-75oC, thời gian: 7giờ, tốc độ khuấy: khoảng 400vòng/phút) 
Hình 5: Ảnh hưởng của hàm lượng xúc tác lên phản ứng transester hóa 
 33
Ả n h h ư ở n g c ủ a h à m lư ợ n g x ú c t á c 
lê n p h ả n ứ n g t r a n s e s t e r h ó a
0
2 0
4 0
6 0
8 0
1 0 0
0 0 . 5 1 1 . 5 2 2 . 5
H à m l ư ợ n g x ú c t á c ( % )
Hi
ệu
 s
uấ
t (
%
) y
Nhận xét: Phản ứng xảy ra tốt nhất khi lượng xúc tác vào khoảng 0,8 – 1,2%. Nếu tăng hàm lượng xúc tác quá cao 
không xác định được hiệu suất phản ứng vì sau phản ứng hỗn hợp trở nên đặc khó cô lập sản phẩm, có thể là do phản 
ứng đã tạo ra quá nhiều xà phòng. Nếu cho quá ít xúc tác thì hiệu suất quá thấp. 
3.1.5. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng 
Để khảo sát thời gian tối ưu của phản ứng transester hóa chúng tôi thực hiên phản ứng trên 2g dầu cá, thay 
đổi thời gian phản ứng từ 1 giờ đến 3 ngày. Sử dụng sắc ký lớp mỏng để khảo sát mức độ hoàn thành của phản ứng 
theo thời gian. Kết quả được trình bày trong bảng 12 và hình 6. 
Bảng 12: Kết quả ảnh hưởng của thời gian phản ứng lên phản ứng transester hóa 
Số thứ tự 
Thời gian phản 
ứng (giờ) 
Khối lượng đầu 
(g) 
Khối lượng cuối 
(g) 
Hiệu suất phản 
ứng (%) 
1 1 - - - 
2 2 2,5 2,13 85,2 
3 3 2,23 2,01 90,1 
4 4 2,01 1,85 91,3 
5 5 1,99 1,83 92,0 
6 8 2,32 2,14 92,5 
7 10 2,15 2,00 93,0 
8 24 2,5 2,37 94,8 
9 48 2,56 2,43 94,9 
10 72 2,81 2,7 95,0 
(xúc tác: NaOH 1%, dung môi methanol 30g, nhiệt độ: 70-75oC, tốc độ khuấy: khoảng 400vòng/phút) 
Hình 6: Ảnh hưởng của thời gian phản ứng lên phản ứng transester hóa 
 34
Ả n h h ư ở n g c ủ a t h ờ i g ia n p h ả n ứ n g 
lê n p h ả n ứ n g t r a n s e s t e r h ó a
2
1 0
8
5
4
3
7 24 82 4
8 4
8 6
8 8
9 0
9 2
9 4
9 6
0 2 0 4 0 6 0 8 0
T h ờ i g ia n p h ả n ứ n g ( g iờ )
H
iệ
u 
su
ất
(%
)
Nhận xét: Bảng 12 cho thấy sau khi đun 1 giờ. phản ứng chưa xảy ra. Sau 2 giờ, phản ứng đã có xảy ra nhưng chưa 
hoàn tất. Tiếp theo sau 3 giờ, 4 giờ phản ứng đã có suất hiện sản phẩm. Từ 4 giờ trở đi phản ứng xảy ra mạnh, hiệu 
suất đạt được lên đến 91,3%. Từ 5 đến 10 giờ hiệu suất không tăng bao nhiêu khoảng 92 – 93%. Khi đun lâu 2 ngày 
hoặc 3 ngày hiệu suất có tăng chút ít nhưng thời gian phản ứng dài, do đó chúng tôi chọn thời gian tối ưu là 3 giờ - 4 
giờ. 
 Do sản phẩm tạo ra sau phản ứng cũng là một dạng ester, mặc dù mạch hydrocarbon đã ngắn hơn rất nhiều 
nhưng độ phân cực cũng không khác nhau mấy. Rất khó sử dụng sắc ký lớp mỏng để phát hiện sản phẩm tạo ra đến 
mức độ nào do đó chúng tôi buộc phải khảo sát ở nhiều thời gian khác nhau và sau đó dùng cân để xác định hiệu suất 
phản ứng. 
Kết quả sắc ký lớp mỏng: 
Kết quả được trình bày ở hình 7, 8, 9, 10. Từ các hình 7, 8 nhận thấy rằng vết của sản phẩm (vết thứ nhì) đã 
có sự khác biệt so với vết của dầu cá ban đầu (vết thứ nhất), điều đó chứng tỏ rằng phản ứng đã xảy ra nhưng để xác 
định phản ứng xảy ra hoàn toàn hay chưa cần kết hợp với phương pháp cân, xác định hiệu suất. 
Từ hình 9 cho thấy dung môi giải ly tốt là benzen, vì các vết hiện lên rõ, đẹp. 
Hình 10 cho thấy dù phản ứng xảy ra sau 3 giờ và 9 giờ thì vết sắc ký cũng không khác nhau bao nhiêu. Điều 
đó cho thấy không thể chỉ sử dụng sắc ký lớp mỏng để xác định mức độ hoàn thành của phản ứng transester hóa. 
3.2. Kết quả làm giàu metyl ester của acid béo bằng phương pháp tủa urê 
Để khảo sát khả năng kết tinh của ester với urê chúng tôi thử nghiệm trên hai điều kiện nhiệt độ khác nhau 
lần lượt là -5oC và -10oC, 15g urê, 200ml ether dầu hỏa, 2g dầu transester hóa. Sau khi để qua đêm, làm khan bằng 
Na2SO4, lọc thu được sản phẩm. Cân và khảo sát thành phần hóa học bằng sắc ký ghép khối phổ (GC/MS). Kết quả 
được trình bày ở bảng 13 và phục lục 1, 2. 
Bảng 13: Kết quả làm giàu metyl ester của acid béo bằng phương pháp tủa urê 
Số lượt phản ứng 
Nhiệt độ phản 
ứng (oC) 
Lượng dầu trước 
khi tủa (g) 
Lượng ester metyl 
của acid béo thu 
được (g) 
Ghi chú 
1 -5 2,0 1,5 Khảo sát GC/MS 
2 -10 2,0 1,2 Khảo sát GC/MS 
Kết quả lần khảo sát GC/MS của hai mẫu thử nghiệm được trình bày ở bảng 14. 
So sánh với phương pháp tủa của acid béovới urê của bạn Lê Hoàng Anh được trình bày ở sơ đồ 5, bảng 15. 
Bảng 14: Thành phần acid béo trong hỗn hợp ester sau khi tủa ở nhiệt độ -5oC, -10oC 
 35
Phần trăm trong hỗn hợp (%) Số thứ 
tự 
Tên acid của methyl ester 
Tủa ở -5oC Tủa ở -10oC 
1 Tetradecanoic 5,14 4,51 
2 Pentadecanoic 0,18 
3 9-Hexadecenoic 1,65 1,21 
4 Hexadecanoic 28,63 29,26 
5 Heptadecanoic 0,23 
6 6,9,13-Octadecatrienoic 0,17 
7 9,12-Octadecadienoic 13,50 13,22 
8 9-Otadecenoic 35,45 37,80 
9 Octadecanoic 10,45 9,35 
10 5,8,11,14-Eicosatetraenoic 0,27 
11 5,8,11,14,17-Eicosapentaenoic 0,34 0,50 
12 7,10,13-Eicosatrienoic 0,54 0,46 
13 
10,13-Eicosadienoic 
8,11-Eicosadienoic 
0,40 0,50 
14 
10,13-Eicosadienoic 
11,13- Eicosadienoic 
0,56 
15 
11-Eicosenoic 
Cyclopropaneoctanoic 
1,65 1,34 
16 Eicosanoic 0,40 
17 
4,7,10,13,16,19-docosahexaenoic 
(DHA) 
0,47 1,81 
 36
Sơ đồ 5: So sánh các bước cơ bản của hai tiến trình thí nghiệm 
 Daàu caù basa (haøm 
löôïng DHA 0,34%)
- Thuûy giaiû vôùi KOH/ethanol
- Acid hoùa
Tuûa ureâ
Hoãn hôïp acid beùo baõo 
hoøa vaø baát baõo hoøa
Acid beùo baát baõo hoøa
Metyl ester hoùa
Metyl ester cuûa acid beùo
Phaân tích baèng GC/MS
Sô ñoà tieán haønh maãu thí nghieäm cuûa 
 Leâ Hoaøng Anh
Daàu caù basa (haøm 
löôïng DHA 0,34%)
Metyl transester hoùa
Hoãn hôïp metyl ester acid beùo 
 baõo hoøa vaø baát baõo hoøa
Tuûa ureâ
Metyl ester acid beùo 
 baát baõo hoøa
Phaân tích baèng GC/MS
Sô ñoà tieán haønh thí nghieäm
Bảng 15: So sánh hàm lượng các acid béo chủ yếu trong mẫu thí nghiệm với mẫu của Lê Hoàng Anh 
Hàm lượng (%) 
Tên acid béo 
Mẫu thí nghiệm Mẫu của Lê Hoàng Anh 
Tổng acid béo bão hòa 
Myristic 
Palmitic 
Stearic 
43,12 
4,51 
29,26 
9,35 
1,01 
-- 
1,01 
-- 
Tổng acid béo bất bão hòa 
Palmitoleic 
Oleic 
Linoleic 
Linolenic 
Arachidonic 
Eicosapentaenoic 
Docosahexaenoic (DHA) 
56,88 
1,21 
36,10 
13,22 
-- 
-- 
0,49 
1,81 
98,99 
7,2 
-- 
40,62 
-- 
4,62 
-- 
5,87 
Nhận xét: 
a) Hàm lượng acid béo DHA thu được ở lần tủa thứ nhất là 0,47% và lần tủa thứ nhì là 1,81%. Cả hai lần tủa đều 
cho DHA hàm lượng thấp. 
 37
b) Kết quả GC/MS cho thấy sản phẩm thu được sau khi tủa urê vẫn còn chứa khoảng 43% ester béo bão hòa. Bảng 
15 cho thấy hàm lượng acid béo bão hòa vẫn còn quá nhiều (43,2%), trong khi đó việc tủa acid béo với urê của bạn 
Lê Hoàng Anh lại cho tổng acid béo bão hòa là 0,1%. điều này có thể việc tủa urê với ester béo không hiệu quả bằng 
tủa urê với acid béo và cần được khảo sát lại kỹ hơn. 
4.1. KẾT LUẬN 
Từ dầu cá basa dạng lỏng chúng tôi đã chuyển thành dạng ester của các acid béo bằng phương pháp thực 
hiện phản ứng transester hóa. Phản ứng transester hóa được khảo sát với nhiều loại dung môi, xúc tác, nhiệt độ, thời 
gian phản ứng, cuối cùng tìm được điều kiện tối ưu cho phản ứng đó là sử dụng dung môi methanol, xúc tác KOH 
1%, thời gian phản ứng 3 giờ, nhiệt độ 70-80oC. 
Từ sản phẩm là metyl ester của acid béo có chứa nhiều loại ester của acid béo bão hòa và bất bão hòa, nhằm 
muốn thu được DHA chúng tôi sử dụng phương pháp tủa urê ở điều kiện nhiệt độ lạnh (-5oC). Ở điều kiện này các 
ester béo bão hòa sẽ tạo phức với urê, lắng xuống đáy bình chứa, phức này được lọc, loại ra khỏi dung dịch, còn lại 
là ester béo bất bão hòa. Như vậy hàm lượng ester béo bão hòa sẽ tăng lên cũng đồng nghĩa với việc làm giàu DHA 
trong hỗn hợp. 
Từ dầu metyl ester của acid béo thu được sau khi transester hóa, thực hiện 2 thí nghiệm tủa urê. 
- Sản phẩm của thí nghiệm tủa số 1 cho hàm lượng DHA là 0,47%, số liệu này cho thấy hàm lượng DHA tăng 
rất ít so với tài liệu (0,34%). 
- Sản phẩm của thí nghiệm tủa số 2 cho hàm lượng DHA là 1,81% có tăng lên nhưng vẫn thấp so với các 
phương pháp xử lý khác của các tác giả khác. 
Một trong những nguyên nhân của kết quả thu DHA hàm lượng thấp có thể là: 
- Khi phản ứng transester hóa kết thúc, sản phẩm ester không có điều kiện bảo quản tốt trong khi chờ kết tinh 
với urê, dầu mỡ thì rất khó bảo quản, do đó có thể một số chất trong đó có DHA đã bị biến đổi thành chất khác. 
- Phản ứng transester hóa là một phản ứng thuận nghịch, nên khi phản ứng transester hóa kết thúc sản phẩm bao 
gồm các ester béo và triglycerid ban đầu chưa phản ứng hết. Khi sử dụng nước để rửa loại glycerol và chất xúc tác, 
sản phẩm thu được vẫn là các ester béo và triglycerid ban đầu – Cả hai loại hợp chất này đều là ester mang dây dài 
nên tính phân cực không khác nhau nhiều, không thể tách riêng chúng ra được. 
Trong phản ứng tủa urê thì urê tạo tủa tốt với acid béo hơn là với ester béo nên bài thực nghiệm là tạo tủa urê 
với ester béo, sản phẩm cho thấy vẫn còn chứa rất nhiều (43,12%) các ester bão hòa. Vậy cần khảo sát lại để xác định 
nên hay không nên áp dụng tạo tủa urê với ester béo. 
Mặt khác do điều kiện thí nghiệm không cho phép và không đủ thời gian để thử ở những điều kiện nhiệt độ 
cũng như hàm lượng urê khác nhau, do đó mà hàm lượng thu được không đạt yêu cầu. 
Trong quá trình thực hiện phản ứng transester hóa, để theo dõi phản ứng chúng tôi sử dụng phương pháp sắc 
ký lớp mỏng nhưng kết quả giải ly không rõ ràng lắm nên phải kết hợp với phương pháp cân để tính hiệu suất phản 
ứng. Nguyên nhân là do sản phẩm sau phản ứng cũng là một dạng ester (mỡ cá ban đầu là một triglycerid-bản chất 
cũng là một ester, có trọng lượng phân tử lớn hơn) do dó khi sử dụng sắc ký lớp mỏng xuất hiện những vệt không 
khác nhau bao nhiêu. Vì vậy cần có nhiều nghiên cứu thêm cách kiểm tra mức độ hoàn thành của phản ứng transester 
hóa. 
4.2. ĐỀ NGHỊ 
* Trong phản ứng transester hóa: 
 38
- Nên sử dụng các loại xúc tác khác nếu có điều kiện như zeolit để phản ứng diễn ra nhanh hơn và quá trình 
rửa ester cũng đỡ vất vả. 
- Dung môi sử dụng vẫn nên dùng là methanol, vì các acid béo chuỗi dài từ 20 carbon trở nên có thể hòa tan 
tốt trong methanol, phản ứng transester hóa diễn ra với hiệu suất cao. 
- Nên tìm kiếm cách khác tốt hơn để theo dõi mức độ hoàn thành của phản ứng transester hóa vì ester và mỡ 
cá ban đầu có mức độ phân cực gần như nhau, rất khó phát hiện sự khác biệt của các vết trên bản mỏng. 
* Trong việc kết tinh ester với urê: 
- Nên sử dụng hàm lượng dầu cá/urê theo tỷ lệ 1:15 và kéo dài thời gian tạo phức là 20 giờ. 
- Thử quá trình kết tinh trong điều kiện lạnh hơn. Có thể xuống -20oC hoặc thấp hơn nữa. 
- Urê kết tinh với acid béo có thể dễ dàng hơn nhưng nếu sử dụng ester thì chúng ta có thể tận dụng được nguồn 
dầu diesel có sẵn, vì hiện nay có rất nhiều công trình khoa học đang sử dụng mỡ cá basa dư thừa làm nhiên liệu sinh 
học bằng phản ứng transester hóa và ở Việt Nam hiện nay đã có công ty TNHH Minh Tú sản xuất loại dầu này (báo 
Người lao động, thứ 6, 14-7-1006) với quy mô 3 triệu lit/năm. Như vậy, chúng ta vừa có thể trích ly được thành phần 
quý vừa có thể sử dụng nguồn năng lượng sạch này. 
SÁCH THAM KHẢO 
[1]: Algis J. Vingrys, James A. Armitage, Harrison S. Weisinger, B.V.Bui, Andrew J. Sinclar, Richard S. Weisinger, 
The role of omega-3 polyunsaturated fatty acids in retinal function, Fatty Acids, 193-217, 2001 (CA 136:117762). 
[2]:Barbara B. Ellenbogen, S. Aaronson, S. Goldstein, M. Belsky. Polyunsaturated fatty acids of aquatic fungi: 
possible phylogenetic significance. Comp. Biochem. Physiol. 29,805,1969 (CA 71:10511x). 
[3]: Gerard Hornstra, Omega-3 Long chain Polyunsaturated Fatty Acids and Health. Benefits, Maastricht University, 
3-26, 2002. 
 [4]: Hoàng Đức Như, Dầu thực vật và sức khỏe, Trung tâm Dinh dưỡng Trẻ em TP. HCM, trang 12 – 15, 1997. 
[5]: L.Sijtsma, M.E.De Swaaf. Biotechnological production and applications of the ω-3 polyunsaturated fatty acid 
docosahexaenoic acid. Applied Microbiology and Biotechnology. 64, 146-153, 2004 (CA 141:52900). 
[6]: Lê Hoàng Anh, Phương pháp ly trích, thu nhận và làm giàu acid docosahexaenoic trong mỡ cá basa pangasius 
bocourti sauvage. Khóa luận cử nhân khoa học, khoa Sinh học trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên, 2006. 
[7]: Lê Ngọc Thạch, Trần Hữu Anh, Hóa Học Hữu Cơ, NXB Giáo dục, 155-171, 1999. 
[8]: Lê Ngọc Tú, La Văn Chứ, Đặng Thị Thu, Phạm Quốc Thăng, Nguyễn Thị Thịnh, Bùi Đức Hợi, Lưu Duẩn, Lê 
Doãn Diên, Hóa sinh công nghiệp, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội, trang 175-205, 1998. 
[9]: Lê Trần Duy Quang, Nghiên cứu chế tạo và khảo sát ứng dụng của zeolit NaX trong phản ứng transester hóa mỡ 
động vật thành biodiesel. Luận văn Kỹ sư Công nghệ hóa học, trường Đại Học Bán Công Tôn Đức Thắng, 2006. 
[10]: Lương Thị Nguyên Linh, Tìm hiểu quy trình nhận danh, cô lập và trích ly docosahexaenoic acid (DHA) trong 
mỡ cá tra Pangasius hypophthalmus sauvage. Khóa luận cử nhân khoa học, khoa Sinh học, trường Đại Học Khoa 
Học Tự Nhiên, 2005. 
[11]: Martin E. de Swaaf, Theo C. de Rijk, Pieter van der Meer, Gerrit Eggink, Lolke Sijtsma. Analysis of 
docosahexaenoic acid biosynthesis in Crypthecodinium cohnii by 13C labelling and desaturase inhibitor experiments. 
Journal of Biotechnology. 103, 21-29, 2003 (CA 139:210565). 
[12]: Nguyễn Kim Phi Phụng, Các phương pháp nhận danh, trích ly, cô lập các hợp chất hữu cơ. Học phần cao học 
chuyên ngành Hóa Hữu Cơ, Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, 7, 2000-2001. 
 39
[13]: Nguyễn Thiệt Thuật, Bước đầu nghiên cứu phản ứng transester hóa dầu hạt bông vải Việt Nam, khoa Hóa, 
Khóa luận Tốt nghiệp, Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, 2004. 
 [14]: Nguyễn Vũ Anh Thư, Điều chế biodiesel từ dầu dừa dùng xúc tác PPL. Tiểu Luận Tốt Nghiệp, khoa Hóa, 
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, 2004. 
 [15]: Paul B. Kelter, James D. Carr, Andrew Scott, Chemistry: A world of Choices, McGraw – Hill, 513, 1999. 
[16]: R. Hardy, J.N. Keay, The isolation of the polyunsaturated acids of the fish oil as their methyl esters by 
preparative scale gas chromatography. Journal of Chromatography, 27, 1967 (CA 67:34068b). 
[17]: Trần Thanh Tòng, Thực tập động vật có xương sống. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 
28-35, 2001. 
[18]: Trần Thị Áng, Hóa sinh học. Nhà xuất bản Giáo dục, 177-126, 2001. 
[19]: Virginia F.Stout, A simple procedure for obtaining docosahexaenoic acid, Journal of American Oil 
Chemists’Society, 40, 40, 1963 (CA 58:7051). 
[20]: Yukihisa Tanaka, Ikuko Sakaki, Takeshi Ohkubo. Extraction of phospholipids from salmon roe with 
supercritical carbon dioxide and an entrainer, Journal of Oleo Science, 53, 417-424, 2004 (CA 141:394384). 
TÀI LIỆU INTERNET 
[21]:  
[22]:  
[23]:  
[24]: 
[25]:  
[26]:  
[27]:  
[28]:  
[29]:  
[30]:  
[31]:  
[32]:  HNMD/congnghiep/CABASA.htm 
[33]:  
[34]:  
[35]:  
[36]:  
[37]:  
[38]: 
[39]: 
[40]: United States Patent, Patent Number: 4,792,418, Date of Patent: Dec. 20, 1988. 
[41]: S.P.J. Namal Senanayake, Fereidoon Shahidi, Lipase-catalyzed incorporation of docosahexaenoic acid (DHA) 
into borage oil: optimization using response surface methodology, Food chemistry 77,115-123, 2002. 
[42]: S.P.J. Namal Senanayake, Fereidoon Shahidi, Incorporation of docosahexaenoic acid (DHA) into evening 
primrose (Oenothera biennis L.) oil via lipase-catalyzed transesterification, Food chemistry 85, 489-496, 2004. 
 40
[43]: Shucheng Liu, Chaohua Zhang, Pengzhi Hong, Hongwu Ji, Concentration of docosahexaenoic acid (DHA) anh 
eicosapentaenoic acid (EPA) of tuna oil by urea complexation: optimization of process parameters, Journal of food 
engineering 73, 203-209, 2006. 
[44]: Wenlei Xie, Hong Peng, Ligong Chen, Calcined Mg-Al hydrotalcites as solid base catalysts for methanolysis of 
soybean oil, Journal of Molecular Catalysis 246, 24-32, 2005 
[45]: thông tin từ hội công nghiệp hóa nghề cá Nhật Bản the Japanese Society of Scientific Fisheries), 44 (8) 927 
(1978) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
LV3138.pdf