Phát triển nông thôn là kênh chính yếu cung cấp tín dụng cho các hộ gia đình ở nông thôn. Những năm gần đây, trong tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỷ trọng cho vay đối với các hộ nông dân ngày càng tăng. Từ năm 1996 đến nay, hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tập trung thực hiện cho vay theo chương trình, dự án mục tiêu, trong đó có chương trình xây dựng và đổi mới công nghệ chế biến nông - lâm - hải sản đã tác động hỗ trợ về tài chính cho các DNVVN NQD trong lĩnh vực chế biến nông sản - thực phẩm.
Nghị định số 14/NĐ-CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ quy định về cho hộ nông dân vay vốn để phát triển nông- lâm - ngư nghiệp.
Quyết định 178/1998/QĐ-TTg ngày 19/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu, trong đó có mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của các DNVVN. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về khuyến khích xuất khẩu, góp phần hỗ trợ về vốn cho những DN sản xuất kinh doanh những mặt hàng xuất khẩu, Chính phủ đã cho vay với lãi suất thấp hơn 0,2%/ tháng so với mức lãi suất cho vay xuất khẩu mà ngân hàng thương mại áp dụng. Chính sách này cũng đã tạo điều kiện đầu tư ứng trước cho các DNVVN để đầu tư phát triển sản xuất, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
175 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến nay - Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiên cứu có khả năng ứng dụng thương mại, khuyến khích phát triển mô hình liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, trường kỹ thuật với các DN.
- Chính sách khuyến khích đầu tư:
Chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước ta đã có những chuyển biến cơ bản, từ sơ khai đến hoàn chỉnh, từ hạn chế đến thông thoáng, từ ràng buộc chặt đến cởi mở, từ chỗ thi hành chính sách riêng đến thực hiện phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Những nỗ lực đó đã đem lại kết quả to lớn. Tuy nhiên, so với yêu cầu, chính sách khuyến khích đầu tư đã còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết, cần phải hoàn thiện bằng các giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện khung khổ pháp lý an toàn, minh bạch, ổn định cho đầu tư. Cần nhanh chóng ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư năm 2005 và các Luật có liên quan theo hướng: Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức thi hành pháp luật về đầu tư; Có cơ chế phối hợp giữa Trung ương, địa phương và các bộ, ngành liên quan trong hoạch định và triển khai chính sách khuyến khích đầu tư; Quy định quy trình và nguyên tắc minh bạch hoá thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, tăng cường thực hiện cơ chế “một cửa liên thông”trong giải quyết thủ tục đầu tư; Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tuyên truyền, phổ biến Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành; Quy định rõ trách nhiệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm túc các hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư; Cụ thể hoá quyền kinh doanh bình đẳng của các nhà đầu tư; Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật kinh tế chung về cạnh tranh, về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, về điều kiện hành nghề trong các ngành đòi hỏi kinh doanh có điều kiện, về tiêu chuẩn của các tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghềMặt khác tiếp tục sửa đổi Luật đầu tư cho phù hợp với chính sách khuyến khích đầu tư trong điều kiện mới như: Bổ sung các quy định quản lý gián tiếp của nhà nước đối với hoạt động của dự án sau khi dự án đã hoàn thành khâu đầu tư nhằm tăng cường khả năng kiểm soát của nhà nước, vừa không tạo ra các thủ tục tiền đầu tư quá nặng nề, đồng thời cũng nâng cao trách nhiệm củachủ đầu tư trong quá trình thực hiện dự án; Chỉnh sửa những điểm chưa rõ ràng trong Luật đầu tư năm 2005 để tránh sự giải thích khác nhau của các cơ quan thi hành và giám sát Luật; Những quy định mang tính tình thế như việc gia hạn cho thuê đất nên được tách riêng ra một văn bản riêng; Bổ sung các quy định có tính chất nền tảng vào Luật đầu tư, cụ thể là nên bổ sung các quy định ổn định về cơ quan thực thi các ưu đãi đầu tư, các quy định về cơ quan có trách nhiệm giải phóng mặt bằng, trách nhiệm của nhà nước, của dân cư và của chủ đầu tư trong giải phóng mặt bằng, quy định trách nhiệm của cơ quan thực thi thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư; Bổ sung thêm các chế định nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; Đổi mới và ban hành đầy đủ các văn bản pháp lý về khuyến khích nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Đặc biệt là phải kiện toàn bộ máy và công chức đủ sức thực thi khung khổ luật pháp đầu tư mới. Muốn vậy cần phải quán triệt sâu sắc những quy định mới của chính sách khuyến khích đầu tư đến từng công chức trong cơ quan, kiện toàn bộ máy quản lý đầu tư của Nhà nước theo hướng liên ngành, trong đó cần chuyên môn hoá sâu các công chức đảm đương từng loại công việc đồng thời quy định trách nhiệm của các nhân và trách nhiệm của tổ chức cơ quan nhà nước trong lĩnh vực tạo điều kiện đầu tư.
Hai là, đổi mới chính sách ưu đãi đầu tư bằng cách sử dụng ưu đãi một cách chọn lọc và thận trọng trong việc đưa ra các ưu đãi cụ thể sát với điều kiện thực tế. Các ưu đãi phải được thực hiện đơn giản, dễ dàng, phải được công bố công khai và công bằng, ai đủ điều kiện đều được hưởng, phải được gắn với các mục tiêu cụ thể bắt buộc hoàn thành và mang tính tạm thời, có giới hạn về thời gian thụ hưởng ưu đãi, phải dựa trên cơ sở kết quả hoạt động của dự án đầu tư, chứ không dựa trên kế hoạch của nhà đầu tư. Ban hành chính sách cụ thể, rõ ràng, tránh cơ hội để người thi hành áp dụng một cách tuỳ tiện.
Ba là, đổi mới chính sách đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế- xã hội của Nhà nước. Nâng cao chất lượng của kế hoạch, quy hoạch phát triển ngành giao thông vận tải, tập trung cho các dự án trọng điểm, tránh phân bổ ngân sách theo kiểu bình quân chủ nghĩa rải mành mành hiện nay. Cải cách mạnh mẽ cơ chế quản lý đấu thầu, cơ chế quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Đặc biệt, nên đề cao vai trò của sự giám sát độc lập của các tổ chức chuyên nghiệp và dư luận công chúng, báo chí. Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức như hợp đồng xây dựng, kinh doanh chuyển giao, hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh, hợp đồng xây dựng, kinh doanh lâu dài...
Bốn là, cần tăng tỷ trọng đầu tư của tỉnh cho các DNVVN NQD ở các LN. Xây dựng hệ thống quản lý và hỗ trợ phát triển các DNVVN NQD trong các ngành nghề truyền thống trung ương xuống tỉnh, huyện, xã như hệ thống khuyến nông, khuyến công hiện có. Tăng cường đầu tư nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Cho miễn, chậm nộp tiền và giảm giá thuê đất xuống mức thấp nhất theo quy định của pháp luật hiện hành. Xây dựng hệ thống chính sách ưu đãi với các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ ngoài hàng rào KCN, CCN- tiểu thủ công nghiệp. Tăng cường liên kết, liên doanh mở rộng các loại hình đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở, cải thiện môi trường đầu tư đảm bảo công bằng, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, phát huy nguồn nội lực của các thành phần kinh tế. Khuyến khích các cơ sở sản xuất trong LN đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ tiên tiến với công nghệ cổ truyền theo phương châm kết hợp giữa công nghệ tiên tiến với công nghệ cổ truyền. Hàng năm, tỉnh dành một tỷ lệ nhất định trong nguồn quỹ hỗ trợ phát triển để cho vay với lãi suất ưu đãi với những đơn vị mới hồi phục. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển của tỉnh xét, phối hợp giúp đỡ các DNVVN NQD lập dự án và cho vay từ nguồn quỹ hỗ trợ quốc gia, vốn tín dụng ưu đãi. Các ngành chức năng lập dự án đổi mới công nghệ, giải quyết môi trường để tranh thủ sự giúp đỡ của Bộ, Ngành trung ương.
- Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trước hết là nâng cao trí lực (trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật), tác phong làm việc và điều kiện sống của người lao động, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa. Coi trọng, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả lao động có trình độ cao luôn phải đặt lên hàng đầu. Các giải pháp đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động là hết sức cần thiết và cấp bách, cụ thể như sau:
+ Mở rộng chương trình khởi sự DN trên phạm vi toàn quốc. Đây là chương trình đã được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam triển khai rất thành công ở một số tỉnh với sự hỗ trợ của Tổ chức lao động quốc tế. Việc mở rộng chương trình này trên toàn quốc sẽ có tác dụng tích cực không chỉ đối với việc khởi sự DNVVN NQD mà còn xây dựng được mạng lưới hỗ trợ phát triển chuyên nghiệp làm đòn bẩy cho công tác hỗ trợ DN này sau khởi sự kinh doanh.
+ Nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình và phương thức đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, theo hướng gắn với yêu cầu sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, cung cấp cho người học kiến thức chuyên môn, kỹ năng hành nghề và ý thức trách nhiệm; đưa nhanh công nghệ thông tin vào nội dung đào tạo và quản lý quá trình đào tạo; khuyến khích liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề với các DN để nâng cao khả năng thực hành của các học viên sau khi tốt nghiệp.
+ Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề theo hướng xã hội hoá đa dạng hoá các hình thức dạy nghề cho người lao động theo nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau trên cơ sở lập kế hoạch về nhu cầu lao động cần được đào tạo trong từng ngành nghề của các DNVVN NQD. Trước tiên cần phải khuyến khích các chủ cơ sở nghề truyền thống tổ chức, thực hiện đào tạo nghề truyền thống cho người lao động. Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện về thủ tục mở cơ sở, lớp đào tạo, miễn thuế thu nhập cho hoạt động cho đào tạo nghề truyền thống, tạo điều kiện về mặt bằng đất đai..., khuyến khích phát triển các hình thức kèm cặp nghề trong sản xuất cho người lao động phù hợp với đặc thù nghề truyền thống ở địa phương. Nhà nước cũng cần tăng cường đứng ra tổ chức lớp và mời các nghệ nhân, thợ giỏi ở địa phương và các nơi khác đến để dạy nghề theo lối truyền nghề. Các trung tâm dạy nghề ở các huyện cần phát huy vai trò trong đào tạo các ngành nghề truyền thống, đồng thời cũng là chuyển đổi nghề cho lao động mất việc làm trong nông nghiệp do bị thu hồi đất của quá trình đô thị hoá, phát triển các khu, cụm công nghiệp. Phát triển các trung tâm dạy nghề tư nhân để tăng số lượng lao động có tay nghề đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển các DNVVN NQD. Kết hợp với các trường đại học hoặc các viện nghiên cứu để mở lớp cho các học viên là những lao động của các LN, giúp đỡ họ nâng cao trình độ kỹ thuật, mỹ thuật, hướng dẫn họ tạo ra những mẫu mã sản phẩm đẹp, phong phú, có tính mỹ thuật cao. Mặt khác thông qua các hiệp hội, các quỹ phát triển để mở lớp và tạo nguồn kinh phí cho đào tạo nguồn nhân lực ở các LN. Nhà nước cần có chính sách thu hút khen thưởng và ưu đãi các nghệ nhân, lao động có tay nghề cao tham gia tích cực và hiệu quả vào hoạt động dạy nghề. Cần tiêu chuẩn hoá và định kỳ tổ chức xét, công nhận và trao tặng các danh hiệu cao quý, cũng như thưởng vật chất xứng đáng cho những nghệ nhân, thợ giỏi, những nhà kinh doanh có tài làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, xuất khẩu nhiều và người có phát minh sáng chế, cải tiến máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất phục vụ sự phát triển của các DNVVN NQD.
+ Tập trung chủ yếu vào đào tạo và tái đào tạo các nhà quản lý cho các DNVVN NQD. Chính phủ cần tạo ra những điều kiện thuận lợi để đào tạo, bồi dưỡng càng nhiều càng tốt các nhà quản lý của các DNVVN NQD, nhằm khuyến khích các DN này tăng cường mạnh mẽ vai trò và tiềm năng của mình tới mục tiêu phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ cũng cần phải chú ý cải thiện từng bước chất lượng của hoạt động đào tạo năng lực tổ chức quản lý cho các nhà quản lý của các DNVVN NQD, tổ chức các khóa đào tạo miễn phí hoặc với chi phí thấp cho cả các DNVVN NQD chứ không chỉ đào tạo riêng cho thành phần kinh tế nhà nước. Hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo về mặt tài chính để các cơ sở này có điều kiện tổ chức các khóa đào tạo cho DNVVN NQD.
+ Tỉnh Bắc Ninh cần ưu tiên đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, quan tâm nâng cao chất lượng các cấp học; thực hiện đa dạng hóa, xã hội hóa các loại hình trường lớp đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân; sớm có các chương trình thúc đẩy việc xây dựng kế hoạch đào tạo một cách bài bản và chất lượng tại các DN, đáp ứng các đòi hỏi về nguồn nhân lực đủ trình độ quản trị kinh doanh, am tường luật pháp quốc tế trong cạnh tranh quốc tế. Xây dựng và triển khai chiến lược đào tạo nghề, xây dựng thêm các trường dạy nghề, khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng hiện nay về cơ cấu đào tạo. Đa dạng hóa về các hình thức giải quyết việc làm, khuyến khích mọi người, mọi tầng lớp dân cư và các cơ sở sản xuất kinh doanh tham gia đào tạo nghề gắn với việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Tỉnh cần xây dựng một số trung tâm đào tạo nghề chất lượng cao phù hợp với định hướng phát triển các ngành, sản phẩm chủ lực và xuất khẩu lao động. Xây dựng những cơ chế, quy chế ưu đãi riêng (về nhà ở, thu nhập, chế độ làm việc, thông tin) để thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi về làm việc tại Bắc Ninh. Tổ chức sắp xếp, cơ cấu lại lực lượng lao động trên địa bàn một cách hợp lý về các tỷ lệ lao động giữa các loại trình độ đào tạo, về tỷ trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao ở các thành phần kinh tế và trong các lĩnh vực kinh tế. Phát triển thị trường lao động có tổ chức để hỗ trợ hiệu quả quá trình này.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ DNVVN NQD phải đáp ứng yêu cầu trình độ kỹ thuật quản lý sản xuất kinh doanh hiện đại, gắn với thực tiễn của điều kiện Việt Nam, nhất là trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO, hướng vào giải quyết những vướng mắc, thách thức của thực tiễn quản lý.
Thường xuyên triển khai các chương trình bồi dưỡng, tham quan học tập trong và ngoài nước đối với các nhà quản lý DN để hình thành một đội ngũ các nhà DN đủ bản lĩnh và kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường, trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Cũng với các biện pháp trên, UBND tỉnh Bắc Ninh cần có chính sách thu hút các dòng lao động di cư từ các tỉnh lân cận, tạo điều kiện cho lao động di cư dễ dàng trong các khu vực của nền kinh tế, đặt biệt thu hút nhân lực có trình độ cao và các trí thức bằng cơ chế đãi ngộ thỏa đáng (trợ cấp, cấp đất làm nhà ở, điều kiện làm việc ); cần có chính sách thu hút nguồn nhân lực có tay nghề phục vụ cho việc áp dụng thành tựu khoa học công nghệ và nghiên cứu phát triển tại các DN.
- Hoàn thiện chính sách thị trường, thương mại:
Thị trường là vấn đề sống còn, nó quyết định sự tồn tại, phát triển hay suy vong của các DN nói chung và các DNVVN NQD nói riêng.
Việc hình thành và thực hiện chính sách thương mại hỗ trợ DN không chỉ hướng vào DNNN mà quan trọng hơn chính là tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế khác phát huy sức sản xuất của họ nhằm phát triển kinh tế quốc dân. Thương mại và chính sách thương mại nói chung, chính sách thương mại hỗ trợ phát triển DNVVN NQD nói riêng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước trong phát triển kinh tế.
Thực tế phát triển các DNVVN NQD ở Bắc Ninh cho thấy, những DN nào tồn tại và phát triển mạnh đều giải quyết được vấn đề đầu ra cho sản phẩm. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay, việc tìm kiếm, mở rộng và đa dạng hoá thị trường cho các DN là yếu tố có ý nghĩa quyết định thúc đẩy sự phát triển của DN.
Nhà nước cần tạo lập và phát triển hệ thống thị trường đồng bộ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện hỗ trợ thông qua Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ tín dụng xuất khẩu, các chính sách ưu đãi về tài chính khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ sản xuất (tư vấn, cung cấp thông tin thị trường...), hỗ trợ xây dựng thương hiệu hàng hoá của các DNVVN NQD. Để hoàn thiện chính sách thương mại, thị trường, cần thực hiện một số giải pháp:
+ Đổi mới chính sách xuất, nhập khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước tiên cần phải xây dựng hoàn chỉnh cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá ổn định, lâu dài trong thời gian tới trên cơ sở chính sách pháp luật hiện có, lộ trình đã cam kết trong hội nhập quốc tế và tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu thời gian vừa qua. Đặc biệt là việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại: xoá bỏ thủ tục phiền hà, công khai, minh bạch, ổn định môi trường pháp lý, bảo hộ hợp lý có chọn lọc những mặt hàng lợi thế bằng các công cụ phù hợp với các cam kết quốc tế: rà soát lại các quy định hiện hành để loại bỏ các quy định không còn phù hợp, chồng chéo thay thế bằng các quy định mới như các danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu đầy đủ, rõ ràng, phù hợp với quy định của WTO và các cam kết quốc tế, hoàn thiện các chính sách biện pháp tạo thuận lợi và bảo hộ cho các DNVVN NQD được quốc tế thừa nhận như hạn ngạch thuế quan, quy chế xuất xứ, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, chính sách cạnh tranh, quy chế đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế v.v Song song với vận dụng linh hoạt các định chế của WTO, cần phải ban hành các chính sách hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với quy định về trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nông nghiệp nhằm giúp các DNVVN NQD các khâu đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, công nghệ mới, xúc tiến thương mại v.v Đồng thời Nhà nước cần rà soát hàng rào kỹ thuật của các nước để tuyên truyền phổ biến, nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất, xuất khẩu trong nước về rào cản các nước nhằm tránh những rủi ro trong quá trình sản xuất và xuất khẩu.
+ Tăng cường các hoạt động hỗ trợ xuất nhập khẩu như hỗ trợ tín dụng, cung cấp thông tin, hướng dẫn cho các DN về quy cách, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá. Các chính sách tín dụng thương mại hỗ trợ các DNVVN NQD cần được hình thành, hoàn thiện theo hướng: Đối với chính sách tín dụng thương mại hỗ trợ các DNVVN NQD xuất khẩu hàng hoá, nhà nước cần có chính sách tín dụng thương mại xuất khẩu hấp dẫn đối với nhà nhập khẩu nước ngoài, nhưng phải có khung luật pháp rõ ràng với những quy phạm pháp luật chặt chẽ cho cả hai bên. Đối với chính sách tín dụng thương mại hỗ trợ DNVVN NQD nhập khẩu là loại tín dụng người xuất khẩu ứng trước cấp cho nhà nhập khẩu, nhà nước cần can thiệp bằng luật pháp để tránh rủi ro cho hai bên. Ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng các DNVVN rất cần nhập khẩu, song rất ít có khả năng để thanh toán cho các nhà nhập khẩu nước ngoài. Nhằm đảm bảo tạo điều kiện khả năng nhập khẩu cho các DNVVN NQD, tạo luồng thông tin cho các nhà sản xuất nước ngoài, Nhà nước cần có chính sách tín dụng hỗ trợ DNVVN NQD nhập khẩu hàng hoá, thiết bị, nguyên vật liệu, công nghệ cần thiết với tỷ lệ lãi suất ưu đãi.
Cần có cơ chế riêng về thưởng thành tích vượt kim ngạch xuất khẩu cho các DN. Hình thành các kênh thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở Bắc Ninh với các DN về các hàng hoá xuất khẩu, thị trường xuất khẩu, nguồn cung cấp nguyên liệu, công nghệ... ứng dụng mạng vi tính để hình thành cổng thương mại Bắc Ninh kết nối với cổng thương mại quốc gia và quốc tế. Đồng thời khai thác triệt để thị trường nguyên liệu đầu vào do các DNVVN NQD ở Bắc Ninh, phần lớn các DNVVN NQD đều phải thu mua nguyên liệu chính từ bên ngoài, có nghĩa là hoạt động của các DN luôn phụ thuộc nguồn nguyên liệu do các DN này tự tìm tòi, khai thác, dẫn đến tính ổn định không cao. Việc quy hoạch vùng nguyên liệu tại chỗ (đối với DN chế biến nông sản) liên doanh, liên kết tạo nguồn nguyên liệu đối với các tỉnh bạn, thậm chí đối với cả các nước lân cận (Lào, Camphuchia, Thái Lan,) là một việc làm cần thiết. ở đây nhất thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước, bằng một cơ chế và những chính sách thông thoáng.
Tăng cường mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối với thị trường nội địa: Đảm bảo tiêu thụ sản phẩm cho những DN sản xuất hàng hoá đơn giản, phục vụ tiêu dùng thường ngày như rượu, bún bánh, đậu phụ ... sản phẩm gia dụng như đồ mộc, mộc dân dụng, hàng dệt thô. Còn đối với thị trường ngoài nước (xuất khẩu) tăng cường tiêu thụ sản phẩm cho những DN sản xuất hàng hoá có chất lượng, kỹ thuật cao, sản phẩm có giá trị lớn như đồ mộc cao cấp, mộc mỹ nghệ, thêu ren.
Các DN cần thu nhận thông tin về thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng về các mặt số lượng, chất lương, loại sản phẩm, hình thức, xử lý thông tin về thị trường và nghiên cứu để sản xuất các sản phẩm phù hợp. Lập kế hoạch sản xuất, quá trình thực hiện kế hoạch có điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến thực tế trên thị trường, cải tiến, đổi mới trang bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại, áp dụng kỹ thuật mới để có sản phẩm chất lượng cao, kỹ mỹ thuật đẹp và giá cả ngày càng hạ, có sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tự tổ chức liên hệ với nhau cả trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để tăng thêm sức mạnh cạnh tranh.
+ Tăng cường hoạt động của Trung tâm xúc tiến thương mại
Tỉnh Bắc Ninh đã thành lập và phát triển Trung tâm xúc tiến thương mại. Tuy nhiên cần mở rộng chức năng, phạm vi hoạt động và đa dạng hoá các phương thức hoạt động của Trung tâm này. Đây là một hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhất trong tình hình thương mại Việt Nam hiện nay, nhờ nó các DNVVN NQD có thể có được cơ hội thu thập thông tin các loại cần thiết cho mình về thị trường, giá cả, cung cầu, mẫu mã, chất lượng, chủng loại sản phẩm hàng hoá cả trong và ngoài nước xúc tiến thương mại là một điều kiện quan trọng vừa tạo cho sự hình thành, vừa tạo điều kiện thực hiện chính sách thương mại hỗ trợ DNVVN NQD một cách thiết thực, hiệu quả. Để công tác xúc tiến thương mại được tốt cần phải được thực hiện ở trên các mặt: Giới thiệu sản phẩm hàng hoá của các DNVVN NQD thông qua triển lãm trong và ngoài nước; Hỗ trợ, tư vấn giúp các hội, hiệp hội DNVVN NQD tiếp cận thị trường trong và ngoài nước; Hỗ trợ qua các hội thảo, các thông tin chuyên đề liên quan đến hoạt động thương mại của DNVVN NQD từ đầu tư, chiến lược phát triển đến các kỹ năng quản lý thương mại; Cung cấp các ấn phẩm cần thiết về lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư, xuất nhập khẩu cho các DNVVN.
Bên cạnh đó, tỉnh Bắc Ninh cần tăng cường hoạt động của Trung tâm xúc tiến đầu tư và chuyển giao công nghệ sẽ có tác dụng quan trọng thúc đẩy sự phát triển các DNVVN NQD.
+ Củng cố hoạt động phối hợp giữa các cơ quan chức năng để trợ giúp các DNVVN NQD.
UBND tỉnh Bắc Ninh cần chỉ đạo các cơ quan chức năng như Sở Công Thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Liên minh các HTX hướng dẫn tổ chức các DNVVN NQD trong các LN, ngành nghề lập Hiệp hội ngành nghề để tăng sức cạnh tranh, hỗ trợ trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, nhất là ngành thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Tổ chức hội chợ tại tỉnh, trong nước và ngoài nước. Hàng năm giành một khoản ngân sách cần thiết cho lĩnh vực này, cần có địa điểm thuận lợi để tổ chức các cửa hàng bán, giới thiệu sản phẩm của các DNVVN NQD ở các làng nghề. Cần hỗ trợ, hướng dẫn các Hiệp hội xúc tiến nghiên cứu và phát triển thị trường, quảng cáo các sản phẩm hàng hoá làng nghề với thị trường nước ngoài. Cần xây dựng và triển khai thực hiện chương trình xúc tiến, kêu gọi đầu tư vào tỉnh, coi công tác này là một trong những nhiệm vụ trung tâm của tất cả các cấp, các ngành trong tỉnh. Tổ chức các hội nghị xúc tiến kêu gọi đầu tư tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nước ngoài như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Canađa, Pháp, Đức nhằm thu hút các tập đoàn công nghiệp lớn, các dự án lớn có công nghề cao vào đầu tư tại Bắc Ninh. Ngân sách tỉnh hỗ trợ xây dựng và phát triển hệ thống chợ làng trong các LN nhằm tăng cường sự lưu thông hàng hoá.
+ Xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh chuyên nghiệp, có chất lượng cao. Các cơ sở đào tạo chuyên gia cung cấp dịch vụ về kế toán, kiểm toán, tư vấn chiến lược phát triển DNVVN NQD cần được Nhà nước hỗ trợ để phát triển thị trường dịch vụ kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực: nguồn nhân lực, máy móc, công nghệ, kỹ thuật và kỹ năng tiếp thị Danh sách các nhà cung cấp đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng sử dụng dịch vụ kinh doanh, cần được thông tin rộng rãi cho các DNVVN NQD.
Mặt khác cần tăng cường điều kiện tiếp cận thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh đối với các DNVVN NQD bằng các biện pháp: Tạo điều kiện, khuyến khích phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh thông qua việc ban hành chính sách nhằm hỗ trợ phát triển cả thị trường cung (giúp phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, tăng cường năng lực cho các nhà cung cấp dịch vụ) và thị trường cầu (cung cấp thông tin về thị trường cung, cung cấp thông tin và tuyên truyền về lợi ích của việc sử dụng các dịch vụ phát triển kinh doanh) và đặc biệt chú trọng các chương trình nâng cao khả năng cạnh tranh của DN; Các nhà cung cấp nên tiến hành các hoạt động marketing về lợi ích của các dịch vụ. Thông điệp marketing gửi tới khách hàng nên chỉ rõ về giá cả, nhận diện rõ những điểm mạnh và điểm yếu của nhà cung cấp. Báo chí, ti vi, và internet là những lựa chọn khác để phổ biến thông tin, ở đó nhận diện rõ các nhà cung cấp và cách liên hệ với họ ở từng lĩnh vực. Bên cạnh việc giúp tăng cường sự nhận thức về các dịch vụ kinh doanh, những loại thông tin này còn giúp các doanh nghiệp lựa chọn người cung ứng; Thiết lập thông tin về các nhà cung cấp dịch vụ và phát triển kinh doanh hiện có trên thị trường, cung cấp thông tin miễn phí cho các DNVVN để họ có điều kiện lựa chọn chính xác người cung ứng dịch vụ phù hợp.
Cùng với những biện pháp trên, nhằm nâng cao khả năng thanh toán cho các DNVVN NQD khi sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh, khuyến khích các doanh nghiệp bắt đầu sử dụng dịch vụ, một số dịch vụ nên được cung cấp miễn phí trong thời gian đầu với trợ cấp của Chính phủ.
+ Hoàn thiện chính sách nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý thị trường. Tập trung nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Kết hợp giữa hướng dẫn, tổ chức thực hiện với kiểm tra các hoạt động của các thương nhân trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về thương mại, xử lý các sai phạm kịp thời, nghiêm minh. Tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung các chính sách về quản lý thị trường cho phù hợp với các luật sửa đổi, các luật mới ban hành trong quá trình hội nhập WTO. Có chính sách quan tâm đến lực lượng quản lý thị trường như củng cố về mặt tổ chức, đầu tư, bổ sung trang thiết bị chuyên ngành, đào tạo cán bộ, có chế độ đãi ngộ thoả đáng
3.2.2. Tăng cường vai trò của Hiệp hội DNVVN
Bắc Ninh đã thành lập Hiệp hội các DNVVN, Hội DN trẻ. Đây là các tổ chức có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối với các DNVVN NQD. Các DN tự tổ chức, tự hoàn thiện, cùng hỗ trợ giúp nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong hoạt động đối ngoại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên cũng như trong đời sống, là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước, bảo đảm cho nhà nước là thực sự của dân, do dân và vì dân.
Điều cản trở các Hiệp hội DNVVN và Hội DN trẻ phát triển hiện nay chủ yếu là do: khung pháp lý về Hiệp hội DNVVN chưa đầy đủ và chưa phù hợp; Hiệp hội DNVVN chua có vai trò tương xứng; nhân lực, bộ máy, kinh phí hoạt động của Hiệp hội DNVVN còn nhiều hạn chế.
Để Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ hoạt động có hiệu quả, vấn đề cần quan tâm trước hết là Nhà nước tôn trọng tiếng nói của người đại diện cho cộng đồng DN cùng Hiệp hội tổ chức những cuộc đối thoại thẳng thắn về những vấn đề xuất phát từ thực tế cuộc sống, tạo thuận lợi đến mức cao nhất cho DN phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời vẫn bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Để chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ đi vào đời sống và nhanh chóng trở thành hiện thực thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:
- Cho phép Hiệp hội cùng với các cơ quan quản lý của nhà nước trong việc soạn thảo các văn bản pháp quy và lấy ý kiến của các DN trước khi ban hành.
- Từng bước chuyển giao một số chức năng và một số dịch vụ công của các cơ quan nhà nước đang thừa hành cho Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ có thể làm được và làm tốt như đào tạo nghề, cấp bằng, chứng chỉ, cấp giấy chứng nhận xuất xứ để các cơ quan nhà nước tập trung vào hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô.
- Cần hỗ trợ kinh phí, tạo ra khung pháp lý cho tổ chức Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ trong các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư.
- Đánh giá lại hoạt động của Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ, xây dựng chiến lược, kế hoạch và nội dung hoạt động, trên cơ sở đó, kiện toàn tổ chức bộ máy lãnh đạo, bổ sung cán bộ có năng lực, uy tín, nhiệt tình, tăng cường năng lực, tính chuyên nghiệp, chuyên môn, tính thiết thực và hiệu quả trong hoạt động.
- Thường xuyên tập hợp các kiến nghị của DN về pháp luật, cơ chế chính sách, về cách thức quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước các cấp, về thái độ của đội ngũ công chức, phân tích, tổng hợp và đề đạt các kiến nghị đó đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan, các cơ quan thông tin đại chúng, và các hiệp hội khác, theo dõi, dánh giá sự “tiếp thu” của các cơ quan nhà nước, nguyên nhân của “tiếp thu” và “không tiếp thu” để có giải pháp tiếp theo.
- Tuyên truyền giáo dục thành viên xây dựng văn hoá kinh doanh tiến bộ, kinh doanh trung thực, có ý thức chấp hành luật pháp và trách nhiệm cộng đồng cao.
- Nâng cao chất lượng cung cấp thông tin, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá hình thức trao đổi kinh nghiệm và cơ hội kinh doanh, hoặc trước việc hình thành hoá các quan hệ kinh tế - dân sự.
- Không chỉ tăng cường đối thoại giữa cơ quan nhà nước và DN, cần tăng cường trao đổi kinh nghiệm và có các chương trình chia sẻ kinh nghiệm về điều hành kinh tế, phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư giữa các địa phương.
3.2.3. Giải pháp đối với các chủ sở hữu và người quản lý DN
Các DNVVN NQD muốn tồn tại và phát triển không ngừng, nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, phải có những chiến lược chiếm lĩnh thị trường, nghĩa là phải thu hút đồng đảo và giữ được khách hàng lâu dài. Một trong những chiến lược quan trọng nhằm chiếm lĩnh thị trường là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá do mình sản xuất ra.
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài việc nhận thức được những cơ hội, thách thức, các DNVVN cần phải tập trung vào một số giải pháp:
3.2.3.1. Nâng cao ý thức xây dựng văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh của doanh nhân Việt Nam, kinh doanh trung thực, chấp hành đúng pháp luật, ý thức trách nhiệm cộng đồng cao, chăm lo đời sống của người lao động, xây dựng và củng cố uy tín, sự tín nhiệm của khách hàng.
3.2.3.2. Từng bước học tập xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh, cải tiến nâng cao chất lượng, tính thiết thực và hữu ích của chiến lược, kế hoạch trong quản lý hoạt động và quá trình phát triển của công ty. Nghiên cứu và điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế. Các DN có nhiệm vụ đánh giá lại các chiến lược của mình, bao gồm cả chiến lược sản phẩm, chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việc đánh giá năng lực sản phẩm nhằm đánh giá mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường, khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Bước tiếp theo là đầu tư nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, bao gồm cả lượng cầu, thị hiếu, mẫu mã và cả những điều kiện, quy cách, quy định về tiêu thụ hàng hoá ở các vùng, các nước khác nhau. Điều này rất quan trọng nhưng nhiều DN do coi nhẹ nên đã phải trả giá vì bị kiện cáo hoặc bị chèn ép, khó có thể bán được sản phẩm của mình ngay cả với giá rất thấp.
3.2.3.3. Định hướng lại chiến lược sản phẩm trên cơ sở nắm bắt nhu cầu thị trường kết hợp với những điều kiện hiện có, những tiềm năng có thể khai thác. Để nâng cao cạnh tranh sản phẩm của DN, cần kết hợp giữa tính đặc thù của sản phẩm với tính phổ thông, lựa chọn giữa xu hướng chuyên biệt hoá và đa dạng hoá sản phẩm trong từng giai đoạn. Xây dựng, lựa chọn chiến lược sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng, lợi thế của DN. Tham gia tích cực xuất khẩu các mặt hàng đặc thù của tỉnh hoặc có lợi thế so sánh như: đồ gỗ mỹ nghệ, giấy, đồ đồng, đồ tre... từng bước phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới phù hợp với thực tiễn của tỉnh.
3.2.3.4. Tìm các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở đổi mới công nghệ thích hợp, nâng cao chất lượng nguyên liệu, hợp lý hoá các quy trình sản xuất. Để khẳng định vị trí của DN trên thị trường, cần xây dựng thương hiệu và đăng ký bản quyền sản phẩm. Trên cơ sở đó, có kế hoạch giảm giá thành bằng nhiều biện pháp như cắt giảm các chi phí bất hợp lý, cải tiến các chi tiết sản phẩm, cải tiến quy trình sản xuất, tiết kiệm chi phí nguyên liệu, năng lượng, thiết bị, lao động, quản lý
3.2.3.5. Thực hiện các biện pháp hạ giá thành sản phẩm, là cơ sở để giảm giá bán sản phẩm, nâng sức cạnh tranh về giá. Trước hết các DNVVN NQD cần đổi mới công nghệ, tiết kiệm các loại chi phí nguyên vật liệu chính, khấu hao, chi phí quản lý và tiền lương công nhân sản xuất.
3.2.3.6. Cần có hệ thống tiêu thụ sản phẩm để đưa các sản phẩm đến người tiêu dùng dưới nhiều hình thức như mở văn phòng, chi nhánh, đại lý ở các địa phương trong nước cũng như ở nước ngoài. Các DNVVN NQD cần trang bị cho mình kiến thức về thị trường nước ngoài, nắm bắt tập quán, nhất là những luật lệ kinh doanh ở các thị trường của mình.
3.2.3.7. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong DN, bao gồm cả đội ngũ lao động và quản lý DN. Đây được coi là yếu tố quyết định tới thành công của DN. Để nâng cao trình độ nguồn nhân lực, biện pháp chủ yếu vẫn là tăng cường đào tạo, đào tạo lại dưới nhiều hình thức như : theo các các chương trình chính khoá cơ bản, đào tạo tại chức, truyền nghề trực tiếp tại chỗ làm việc, tổ chức hoặc tham gia các hội thi tay nghề, cung cấp thông tin cần thiết Quản lý tốt nguồn nhân lực, các DN cần lập kế hoạch dài hạn về nhân lực, đào tạo nhân lực, xây dựng mối quan hệ tốt giữa lãnh đạo với cấp dưới và có chính sách thoả đáng để khuyến khích sáng tạo của mọi người, có chính sách để giữ nhân tài. Để thực hiện các biện pháp này, DN cần có nguồn tài chính cần thiết và sẵn sàng đáp ứng được các nhu cầu về đào tạo nhân lực.
3.2.3.8. Đổi mới thiết bị, công nghệ trong DN. Thiết bị, công nghệ hiện đại là cơ sở để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và do đó tác động mạnh tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các DNVVN NQD lại hạn chế về vốn nên DN cần cân nhắc sử dụng công nghệ nào, DN cần có thông tin về công nghệ, tiếp cận thị trường khoa học - công nghệ, liên kết, hợp tác trong chuyển giao khoa học và công nghệ. Ngoài ra, các DN cần đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, khuyến khích các hoạt động cải tiến, hợp lý hoá sản phẩm, sáng chế và thậm chí các nghiên cứu khoa học có liên quan.
3.2.3.9. Xây dựng ý thức thường xuyên cải thiện nâng cao tính minh bạch trong quản trị nội bộ DN. DN cần nhận thức rằng quản trị minh bạch cũng là yếu tố tăng thêm giá trị của DN là một trong những yếu tố của sự phát triển bền vững của DN, nó cũng là công cụ hữu hiệu để đấu tranh loại bỏ lối can thiệp tuỳ tiện vị lợi cá nhân của một số công chức nhà nước có liên quan, qua đó sẽ giảm được những khoản “chi phí tiêu cực, đút lót” góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh chung của cả nước. Lợi ích nhiều mặt của quản lý minh bạch như trình bày trên đây có thể vượt xa “khoản thuế” trốn lậu được nhờ quản lý không minh bạch.
3.2.3.10. Xây dựng văn hoá DN. Hiện nay, rất nhiều DN Việt Nam, đặc biệt là các DNVVN NQD chưa ý thức đúng mức tầm quan trọng của việc xây dựng văn hoá DN. Sức cạnh tranh của một DN có thể được nâng cao một cách nhanh chóng nếu tạo được môi trường văn hoá tích cực, lành mạnh, dân chủ để phát huy được năng lực của từng người. Xây dựng văn hoá DN là việc làm cần thiết đối với mỗi DN. Văn hoá DN nhiều khi là một tài sản vô hình của DN, nó làm tăng khả năng cạnh tranh và tồn tại của DN. Nói đến văn hoá DN là nói đến mối quan hệ giữa các thành viên trong cùng một DN, là phong cách lãnh đạo và phong cách ứng xử. Văn hoá DN luôn gắn với thương hiệu và uy tín DN. Xây dựng văn hoá hoá DN là xây dựng DN như một gia đình thứ hai của mỗi thành viên, phải có tinh thần đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau bằng tinh thần cộng tác và tinh thần đồng đội. Văn hoá DN muốn xây dựng được thì những yếu tố về xã hội luôn cần được coi trọng. Vì vậy, ngoài những yếu tố về công khai, minh bạch, thưởng phạt nghiêm minh thì nhận thức về quan hệ cá nhân giữa chủ và thợ cũng rất cần được chú ý. Biểu hiện của văn hoá DN trước hết là trang phục của nhân viên, bày biện, trang trí gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ. Tiếp theo là thái độ ứng xử, trách nhiệm đối với khách hàng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho khách hàng, thương hiệu của DN, uy tín, danh tiếng của DN. Các yếu tố đó mang lại cho DN nhiều lợi ích, đặc biệt là giá trị vô hình của DN.
3.2.3.11. Xây dựng thương hiệu DN. Thương hiệu là tài sản vô hình vô cùng quí giá của DN, là niềm tự hào dân tộc, đem lại sự ổn định và phát triển thị phần, nâng cao lợi thế cạnh tranh, tạo ra danh tiếng và lợi nhuận cho DN. Xây dựng và quản lý thương hiệu là trung tâm của chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing, là việc làm cấp thiết của các DNVVN NQD Bắc Ninh ®ể có thể đứng vững trong cơn bão cạnh tranh của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các DNVVN NQD Bắc Ninh cần xây dựng cho mình một thương hiệu mạnh, gắn liền với uy tín và chất lượng sản phẩm. Để thực hiện được vân đề này, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa nhà nước và bản thân các DN.
- Đối với nhà nước: Không nên khống chế các DN được chi cho hoạt động quảng bá tối đa đến 10% như quy định hiện nay, vì nó sẽ hạn chế nhiều khả năng phát triển thương hiệu của các DN có qui mô vừa và lớn; cần ban hành hệ thống các phương pháp đánh giá tài sản thương hiệu, tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và thương hiệu nói riêng, tăng mức phạt vi phạm thương hiệu cao hơn nữa; thống nhất và cụ thể hoá các chính sách công nhận và tôn vinh các làng nghề, các nghệ nhân; hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống tại các làng nghề; có chính sách hỗ trợ về tài chính trong giai đoạn đầu của thương hiệu, phù hợp với quy định của WTO; xây dựng cơ chế hỗ trợ về thông tin; đầu tư cơ sở hạ tầng LN để thúc đẩy sản xuất, tạo điều kiện phát triển thương hiệu.
- Đối với bản thân các DN: Nâng cao nhận thức và trang bị kiến thức về thương hiệu và kinh doanh, xây dựng chiến lược thương hiệu để nâng cao uy tín của DN và lòng trung thành của khách hàng dựa trên các căn cứ: Lĩnh vực hoạt động của DN; thực tế nguồn nhân lực và tài chính; chiến lược về thị trường; xu thế phát triển chung của ngành hàng; phân tích kinh nghiệm thất bại và thành công của đối thủ trong mô hình thương hiệu mà họ đã chọn; nâng cao chất lượng và đa dạng hoá mẫu mã của sản phẩm; xây dựng các thành phần thương hiệu: xác định tên thương hiệu, logo và một số thành phần khác như bao bì, khẩu hiệu, đoạn nhạc,đăng ký bảo hộ thương hiệu ở trong nước và các nước mà DN đăng ký kinh doanh.
3.2.3.12. Các DNVVN NQD cần nắm vững cam kết cụ thể lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam như ưu đãi thuế quan, các cam kết cắt giảm hàng rào phi thuế quan, cắt giảm hạn ngạch, các tiêu chuẩn về kỹ thuật để kịp thời ứng phó. Hệ thống luật pháp, văn hoá, tập tục và môi trường kinh doanh của các nước cần phải được chú trọng. Thông tin là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy, DNVVN NQD cần tăng cường năng lực thu thập và xử lý thông tin phục vụ kinh doanh.
3.2.3.13. Hoàn thiện các quy định về chế độ kế toán - báo cáo tài chính theo hướng mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng chế độ kế toán cho các DNVVN NQD; đơn giản hoá hệ thống kế toán; nghiên cứu xây dựng phương pháp kế toán đơn áp dụng cho các DNVVN NQD, trình độ quản lý tháp và nộp thuế theo phương pháp khoán; đơn giản hoá hệ thống tài khoản sử dụng cho các DN có quy mô vừa và hoạt động sản xuất, kinh doanh đa dạng, phức tạp, trình độ và yêu cầu quản lý tương đối cao, nộp thuế trên cơ sở số liệu và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh trong kỳ; về lâu dài, hệ thống tài khoản kế toán và các phương pháp kế toán cơ bản đối với từng nhóm tài khoản này phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu của chuẩn mực kế toán.
3.3. Một số điều kiện để thực hiện các giải pháp phát triển DNVVN NQD ở tỉnh Bắc Ninh
3.3.1. Đối với nhà nước
3.3.1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội
Sự ổn định kinh tế - xã hội, nhất là ổn định về tài chính, tiền tệ là điều kiện tốt để các DNVVN NQD bỏ vốn đầu tư. Từ đó tạo niềm tin cho các DN vào chính sách phát triển lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần của nhà n\ức. Vì vậy, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng sẽ tăng sự tin tưởng của dân chúng, từ đó khuyến khích đầu tư phát triển các DNVN NQD thông qua các giải pháp trên mới đạt được hiệu quả cao.
3.3.1.2. Kết hợp đồng bộ các giải pháp phát triển các DNVN NQD với cáccông cụ quản lý vĩ mô
Để thực hiện các giải pháp phát triển DNVVN NQD cần kết hợp đồng bộ với việc thực hiện các công cụ quản lý vĩ mô khác như hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, xây dựng chiến lược phát triển và tăng cường kiểm tra, giám sát.
Ngoài việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nói chung, cần ban hành các văn bản qui định các tiêu thức, quyền và nghĩa vụ của các DNVVN NQD để làm căn cứ thực hiện các giải pháp trên.
Xây dựng chiến lược phát triển DNVVN NQD và chương trình tổng thể hỗ trợ DVVN NQD làm cơ sở để thực hiện chính sách, phối hợp đồng bộ các giải pháp và đặc biệt là phói hợp với các chương trình, công cụ vĩ mô khác để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2020.
Các giải pháp phát triển DNVVN NQD chỉ mang lại kết quả thực sự khi đánh giá đúng đắn tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của các DN này. Vì vậy cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các DN trong việc thực hiện pháp luật, trong đó cần có cơ chế, chính sách bắt buộc các DN thực hiện nghiêm chỉnh Luật kế toán thống kê.
3.3.1.3. Thành lập các cơ quan trợ giúp DNVVN NQD
Thành lập và tăng cường hoạt động của các tổ chức xúc tiến hỗ trợ DNVVN như:
- Cục phát triển DNVVN thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xúc tiến phát triển các DNVVN.
- Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN làm nhiệm vụ tư vấn cho Chính phủ về cơ chế, chính sách phát triển DNVVN.
- Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN thuộc Cục phát triển DNVVN có chức năng tư vấn cho Cục phát triển DNVVN và là đầu mối tư vấn về công nghệ và kỹ thuật, cải tiến trang thiết bị, hướng dẫn quản lý kỹ thuật và bảo dưỡng trang thiết bị, tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận công nghệ trang thiết bị mới.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng khuyến khích việc thành lập và củng cố các tổ chức trợ giúp DNVVN thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp ở các địa phương.
3.3.2. Đối với UBND tỉnh Bắc Ninh
UBND tỉnh Bắc Ninh nên thành lập Ban chỉ đạo phát triển DNVVN NQD. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ nắm bắt tình hình, đánh giá định kỳ tình hình sản xuất kinh doanh và phát triển của các DNVVN NQD, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường, khuyến khích phát triển DNVVN NQD bền vững. Ban chỉ đạo là đầu mối trong việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc các cơ quan chức năng trong việc thực thi các nhiệm vụ liên quan tới phát triển DNVVN NQD. Trước mắt cần chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
- Nhanh chóng rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển DNVVN NQD, kiện toàn cơ chế phân cấp quy hoạch đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng tăng cường phân cấp cho cơ sở; cải tiến quy trình thẩm định quy hoạch, chỉ đạo và giám sát quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng LN, khu, cụm công nghiệp LN
- Xây dựng chương trình khuyến khích phát triển DNVVN NQD, phổ biến chính sách cho các cán bộ quản lý DNVVN NQD. Xây dựng quy chế quản lý các khu, cụm công nghiệp làng nghề. Xây dựng và chỉ đạo triển khai các chương trình khuyến công, xúc tiến thương mại, v.v
- Hoàn thiện các cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư của địa phương, trong đó chú ý một cơ chế, chính sách thông thoáng, ưu đãi riêng cho phát triển của các DNVVN NQD. Thực hiện tốt công tác hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN.
- Khẩn trương hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất phát triển các DNVVN NQD theo quy hoạch mới đảm bảo khai thác hợp lý, hiệu quả tài nguyên, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Ban hành văn bản hướng dẫn quy trình các bước để tiến hành thuê đất trong việc đầu tư sản xuất kinh doanh của các DN.
- Phát triển du lịch LN. Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, quảng bá hình ảnh địa phương nhằm thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho việc giao lưu, hợp tác sản xuất kinh doanh, thương mại Xây dựng mô hình các DNVVN NQD đạt tiêu chuẩn về môi trường, văn hoá, xã hội và cơ sở hạ tầng đồng bộ.
- Tăng cường sự hỗ trợ các DNVVN NQD đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ tạo mẫu mã mới, hỗ trợ các đề tài nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu phát triển. Xây dựng chính sách và triển khai tích cực việc hỗ trợ xây dựng thương hiệu, mẫu mã sản phẩm mới v.v Tăng cường hướng dẫn áp dụng và quản lý nhà nước về đăng ký bản quyền và sở hữu trí tuệ công nghiệp. Triển khai mạnh mẽ việc áp dụng chất lượng ISO trong các cơ quan quản lý hành chính tạo môi trường thông thoáng liên quan tới hành chính
- Đẩy mạnh phối hợp với các cơ sở đào tạo của Trung ương để nâng cao chất lượng dạy nghề ở địa phương, tăng cường đào tạo nghề mới và đào tạo lại, tổ chức tốt hội chợ việc làm, đào tạo ngắn hạn kết hợp với dài hạn của lực lượng lao động của các DNVVN NQD phù hợp với yêu cầu mới của cạnh tranh và hội nhập.
- Xây dựng chương trình đưa tin học và ứng dụng trong DNVVN NQD.
- Tăng cường hoạt động của Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ để tăng cường sức mạnh và tính đại diện cao cho các DNVVN NQD. Các tổ chức này cần phải kiện toàn bộ máy, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, tạo lòng tin và thu hút sự tham gia của đông đảo các DNVVN NQD, thực hiện vai trò cầu nối giữa DN và Nhà nước, tư vấn, hỗ trợ các DN VVN NQD tổ chức thực hiện công việc quản lý sản xuất kinh doanh.
3.3.3. Đối với các DNVVN NQD
DNVVN NQD là người trực tiếp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh để phát triển. Để các giải pháp phát triển DNVVN NQD khả thi cần có sự nỗ lực rất lớn từ các DNVVN NQD.
3.3.3.1. Xây dựng, cho mình chiến lược kinh doanh hợp lý
Có chiến lược kinh doanh đúng đắn DN đã thành công một nửa trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
3.3.3.2. Nâng cao năng lực về vốn bằng các biện pháp:
- Đổi mới phương thức thanh toán, đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để tăng tốc độ luân chuyển các loại vốn
- Lựa chọn phương pháp hkhấu hao thích hợp.
- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đặc biệt là vốn nhàn rỗi trong dân cư.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường và Marketing. Muốn vậy các DNVVN NQD phải tìm hiểu phong tục tập quán, tính cách, nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng để thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn, hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Từ xem xét tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh hiện nay, luận án đã chỉ ra những cơ hội và thách thức với DNVVN ngoài quốc doanh trong phát triển. Xuất phát từ thực tế, luận án đã làm rõ phương hướng và mục tiêu cụ thể xã hội phát triển DNVVN NQD ở tỉnh Bắc Ninh, luận án đã đề xuất hàng loạt các giải pháp nhằm đáp ứng và giải quyết những nhu cầu bức bách đó với các DNVVN NQD. Đó là các giải pháp:
- Đối với nhà nước: Xây dựng môi trường thể chế minh bạch và bình đẳng giữa các loại hình DN, tiếp tục phát huy tác dụng của Luật DN, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng phục vụ DN; Hoàn thiện các chính sách đất đai, hỗ trợ tín dụng, thuế, khoa học công nghệ, khuyến khích đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, thị trường, thương mại
- Đối với Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ: Tăng cường vai trò của Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ
- Đối với các chủ sở hữu và người quản lý DN, cần phải nâng cao ý thức xây dựng văn hoá , đạo đức kinh doanh, xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh, định hướng lại chiến lược sản phẩm, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, có hệ thống tiêu thụ sản phẩm; đổi mới thiết bị, công nghệ; xây dựng ý thức thường xuyên cải thiện nâng cao tính minh bạch trong quản trị nội bộ DN; xây dựng văn hoá DN; xây dựng thương hiệu DN; nắm vững cam kết cụ thể lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; xây dựng thương hiệu DN và hoàn thiện các quy định về chế độ kế toán - báo cáo tài chính.
Luận án nêu một số điều kiện để thực hiện các giải pháp đối với nhà nước, địa phương và đối với chính các DNVVN NQD để phát triển các DNVVN NQD tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Trong năm đổi mới kinh tế, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã khởi động được mọi tiềm năng kinh tế, góp phần thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH ở nước ta. Trong bối cảnh ấy, những năm qua, các loại hình DNVVN NQD có sự tăng tiến về số lượng, sự mở rộng về quy mô hoạt động và đã khẳng định rõ vai trò tích cực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên trong phát triển, các DNVVN NQD cũng gặp không ít khó khăn về môi trường cơ chế chính sách, về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật.
Đề tài “ Quá trình phát triển DNVVN NQD ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến nay - Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp” nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển DNVVN NQD ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trong nghiên cứu, luận án đã hoàn thành những mục tiêu đặt ra và có một số đóng góp sau:
- Luận án đã hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về DNVVN NQD. Từ đó, luận án đã làm rõ vai trò của DNVVN NQD đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Để làm rõ hơn những vấn đề lý luận, nhận thức về DNVVN NQD, luận án cũng nghiên cứu khả năng thực tiễn về tình hình phát triển DNVVN của một số nước để rút ra một số bài học kinh nghiệm với sự phát triển DNVVN NQD ở nước ta trong quá trình đổi mới kinh tế.
- Luận án đã khái quát một số vấn đề chủ yếu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh để thấy những thuận lợi, khó khăn đối với sự phát triển DNVVN NQD. Luận án đã đi sâu phân tích các chính sách và giải pháp của nhà nước và địa phương đối với DNVVN NQD. Đặc biệt từ nghiên cứu và khảo sát động thái phát trển DNVVN NQD ở Bắc Ninh từ 1997 đến nay để làm rõ những thành tựu và những đóng góp của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đồng thời luận án đã chỉ ra những hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế đã ảnh hưởng đến sự phát triển DNVVN NQD trong thời gian qua. Xuất phát từ thực trạng kinh tế - hội và những mục tiêu phát triển của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn mới, trong đó có những yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển DNVVN NQD, luận án đã chỉ ra những cơ hội và thách thức với nó trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Từ thực tế ấy, luận án đã chỉ ra mục tiêu và những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển DNVVN NQD ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Đó là các giải pháp đối với nhà nước, đối với Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ, và đối với chính các chủ sở hữu và người quản lý DN
Để tăng thêm tính khả thi của những giải pháp trên, luận án đã đề ra một số điều kiện đối với nhà nước, địa phương, Hiệp hội DNVVN, Hội DN trẻ và với chính các DNVVN NQD hiện nay.
Thực tế phát triển DNVVN NQD là sự nghiệp lâu dài đòi hỏi sự nỗ lực của từng DN và sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiều mặt của nhà nước. Những giải pháp nêu trên là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, để hoàn thiện hệ thống các chính sách góp phần làm cho các DNVVN NQD ngày càng phát triển trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2662.doc