Qua thời gian thực tập tại Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Ninh Bình được sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ chuyên viên trong sở đặc biệt là phòng thẩm định, cùng với sự hướng dẫn tận tình chu đáo của Thạc sỹ Nguyễn Ái Liên em đã hoàn thành bản báo tổng hợp này. Thông qua bản báo cáo chúng ta có thể hiểu biết thêm về quá trình hình thành và phát triển của Sở kế hoạch và đầu tư Ninh Bình, tình hoạt động và công tác quản lý của Sở, những gì đạt được trong những năm vừa qua chủ yếu là năm 2002.
Do khả năng hiểu biết về thực tế của em còn nhiều hạn chế cho nên không tránh khỏi sai sót rất mong được sự chỉ bảo hướng dẫn của thầy, cô và các bạn cùng các bác, cô, chú trong Sở để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin trân thành cám ơn!
39 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình quản lý hoạt động đầu tư và Một số giải pháp nhằm nâng hiệu quả đầu tư của Sở kế hoạch và đầu tư Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
theo 12/2000/NĐ-CP (19/5/2000).Qui chế đấu thầu được thay đổi từ Qui chế ban hành kèm theo Nghị định 43/NĐ-CP sang 88/1999/NĐ-CP và sửa đổi bổ xung theo 14/2000/NĐ-CP (19/5/2000), hiện đang có dự kiến ban hành Pháp lệnh về đấu thầu. Các bộ ngành ở trung ương cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn, các quyết định nhằm cụ thể hoá các quy định của Chính phủ về thủ tục đầu tư XDCB như: Bộ kế hoạch và đầu tưcó các thông tư 06/1999/TT-BKH ngày 24/11/ 1999 và Thông tư số 11/2000/TT-BKH ngày 11/9/2000 hướng dẫn về nội dung Tổng mức đầu tư; Thông tư 01/2000/TT-BKH ngày 10/1/2000 hướng dẫn về nội dung tổng mức đầu tư; Thông tư 04/2000/TT-BKH ngày 01/9/2000 về hướng dẫn thực hiện Qui chế đấu thầu. Bộ xây dựng, Bộ tài chính, bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ giao t hông vận t ải và các bộ ngành khác cũng ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn, quy định một số nội dung về thủ tục trong đầu tư XDCB.
- Cải tiến một số thủ tục rườm rà phức tạp, qua nhiều cầu, nhiều cấp gây phiền hà chậm trễ nhưng không mất đi sự kiểm soát chặt chẽ đối với việc thực hiện các quy định đã ban hành, bằng cách quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các đơn vị, cá nhân tham gia quản lý đầu tư và xây dựng 9 ( như : Qui định thời gian bắt buộc cho một số các công việc, bỏ hội đồng thẩm định dự án ở địa phương, qui định rõ Sở kế hoạch và đầu tư cấp tỉnh là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm thẩm định các dự án do tỉnh quản lý , bỏ một số nội dung cần thẩm định như: Tổng mức đầu tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phương thức huy động vốn đầu tư ... đối với các dự án do tư nhân đầu tư,cho phép UBND tỉnh được uỷ quyền quyết định đầu tư cho UBND cấp huyện, thị, Sở kế hoạch và đầu tư đối với các dự án có mức vốn thấp, không quan trọng ) Bổ xụng nội dung giám định đầu tư nhằm tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với từng dự án trong quá trình thực hiện đầu tư , kịp thời điều chỉnh các phát sinh trong quá trình thực hiện, tạm ngưng hoặc đình chỉ các dự án đầu tư có hiệu quả thấp, các dự án có những sai phạm t rong quản lý.
- Các ngành đã tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý đầu tư và xây dựng cho các cán bộ quản lý cấp tỉnh .
- Thủ tục đầu tư XDCB ở tỉnh đã có nhiều tiến bộ. Tỉnh đã tuân thủ đúng các qui định của chính phủ và ngành ở trung ương, vân dụng một cách đúng đắn vào hoàn cảnh thực tế của địa phương .
- Đã tổ chức triển khai ngay các văn bản pháp qui mà chính phủ và các bộ, ngành ở trung ương đã ban hành. Chỉ đạo các ngành có liên quan tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ tham gia quản lý đầu tư và xây dựng, như: đã chỉ đạo sở kế hoạch và đầu tư phối hợp với sở xây dựng tổ chức lớp tập huấn về đầu tư và xây dựng, Sở xây dựng tổ chức lớp tập huấn về giám sát thi công...
- Cụ thể hoá các qui định của chính phủ và các bộ, ngành ở trung ương. Xây dựng các cơ chế, chính sách riêng phù hợp với các quy định của chính phủ và các bộ, ngành ở trung ương và phù hợp với điều kiện của tỉnh như: Đã ban hành đơn giá XDCB ( theo quyết định 952/QĐ - Uỷ ban nhân dân ), chỉ thị số : 10/CT-UB ngày 10/5/2000 nhằm tăng cường quản lý đầu tư và xây dựng, chỉ thị về ưu tiên sử dụng vật liệu địa phương,...
- Kiểm tra thực tế các địa phương có nhu cầu đầu tư, chỉ đạo các ngành có liên quan hoàn tất các thủ tục để UBND tỉnh ban hành các văn bản về chủ trương đầu tư .
- Quan tâm chỉ đạo các ngành, các huyện thị tập trung giải quyết các vướng mắc, tôn tại về thủ tục của các dự án nhất là các dự án trọng điểm . Đi sát thực tế , trực tiếp giải quyết hoặc chỉ đạo các sở, ban , ngành, huyện, thị , giải quyết kịp thời các đòi hỏi của thực tế.
- Kiểm tra thực tế, giải quyết ngay các phát sinh trong quá trình thi công như: Cho phép các chủ đầu tư lập điều chỉnh, bổ sung hoặc duyệt lại các dự án, chấp thuận các khối lượng phát sinh, thay đổi một số các thiết kế để phù hợp với thực tế ...
- Đôn đốc việc hoàn tất các thủ tục thanh quyết toán đối với các dự án đã hoàn thành. Đề ra biện pháp xử lý đối với các dự án chây ì không chịu làm quyết toán .
- Một số ngành cải cách các thủ tục hành chính, công khai các thủ tục, qui đih thời gian bắt buộc đối với các công việc phải hoàn thành, như sở kế hoạch và đâu tư đã tiến hành cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện so với qui định của nhà nước ở một số công tác: thẩm định dự án, thẩm định kế hoạch đấu thầu và kết quả đấu thầu, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thủ tục để cấp giấy phép đầu tư nước ngoài.
Tồn tại:
-Các văn bản qui phạm pháp luật thay đổi nhiều, thời gian áp dụng ngắn đã
cho công tác quản lý đầu tư va xây dựng không ít khó khăn . Có văn bản, qui định mới ban hành chưa kịp tập huấn ở địa phương đã bị thay đổi. Sự thay đổi trên kéo theo sự thay đổi hàng loạt các văn bản của các ngành có liên quan ở trung ương ( Bộ kế hoạch và đầu tư , Bộ xây dựng, Bộ tài chính, Bộ giao thông vận tải , Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ...) Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc phê duyệt lại các dự án đầu tư. Do các qui thay đổi nên nhiều nội dung ( trong đó đặc biệt phải kể đến nội dung tổng mức đầu tư ) của nhiều dự án đã bị thay đổi so với duyệt lần đầu. Có những dự án chưa có vốn thực hiện hoặc thực hiện kéo dài phải phê duyệt lại nhiều lần . Việc thay đổi nhanh như vậy cũng gây tâm lý kém tin tưởng vào sự phù hợp của các quy định đối với công tác quản lý XDCB.
- - Có các quy định chưa thực sự phù hợp với thực tế, ví dụ như: Qui chế quản lý đầu tư vã xây dựng qui định Kế hoạch đấu thầu của dự án được thể hiện trong BCNCKT và nội dung quyết định đầu tư, để có kế hoạch đấu thầu thì phải có kế hoạch vốn, nhưng trong phần điều kiện để ghi vốn kế hoạch thì dự án muốn ghi vốn phải có quyết định đầu tư, như vậy vấn để này rơi vào vòng luẩn quẩn.
- Có các qui định của các ngành chưa thông nhất , chưa phù hợp với qui định của chính phủ hoặc của ngành được chính phủ giao, ví dụ; Trong đấu thầu một số gói thầu thuộc dự án trên địa bàn tỉnh ta do Bộ nông nghiệp và PTNT phê duyệt vẫn có giá trần và chào giá trực tiếp, như vậy khác với qui định của qui chế đấu thầu hiện hành.
- các qui định được áp dụng chung cho mọi ngành nhưng nếu ngành nào được giao soạn thảo thì chỉ thiên về ngành đó, áp dụng với các ngành khác chưa phù hợp, gây nhiều khó khăn cho việc lập và kiểm tra các tính toán kình phí. Ví dụ : Định mức dự toán ban hành theo quyết định 1242/1998/QĐ-BXD của bộ xây dựng còn thiếu nhiều định mức công việc thi công áp dụng công nghệ mới hoặc công việc của các ngành XDCB khác như: Thuỷ lợi, giao thông, điện ...
- Công tác kiểm tra, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện các quy đinh trong đầu tư và xây dựng của cơ quan trung ương đối với cơ quan địa phương chưa được quan tâm nên một số qui định chưa được phù hợp vẫn không sửa đổi.
- Tỉnh chưa thực sự quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng kiến thức về đầu tư và xây dựng cho các cán bộ quản lý, dẫn đến nhiều cán bộ quản lý chưa nắm bắt kịp các qui định mới thay đổi. Nhiều chủ đầu tư và cán bộ quản lý đầu tư và xây dựng có hiểu biết rất hạn chế về nghiệp vụ quản lý dự án, hiểu biết chưa đầy đủ về trình tự, thủ tục trong XDCB.
- Chưa triệt để tuân thủ đúng theo các quy định đã ban hành. Ví dụ : Giao nhiệm vụ thẩm định dự án cho sở khác ngoài Sở kế hoạch đầu tư, trong khi Qui chế Quản lý đầu tư vã xây dựng qui định chức năng thẩm định, trình duyệt các dự án đầu tư thuộc sở kế hoạch và đầu tư, các ngành có liên quan chỉ góp ý kiến. Một ví dụ khác: Trong chỉ thị số 10/CT-UB ngày 10/5/2000 của UBND tỉnh qui định: Các dự án do sở xây dựng chuyên ngành hoặc đơn vị trực thuộc làm chủ đầu tư thì tổng dự toán do Sở xây dựng thẩm định và trỉnh duyệt, nhưng thực tế đến nay chưa có công trình nào thực hiện như vậy.
- Nhiều qui hoạch vùng, qui hoạch ngành không có hoặc đã cũ, không đáp ứng yêu cấu phát triển nên chưa có căn cứ đúng cho việc lựa chọn địa điểm , qui mô, giải pháp kỹ thuật cho các dự án . Một số qui hoạch mới xây dựng chất lượng chưa cao, chưa phù hợp, phải thay đổi trong thời gian ngắn , như qui hoạch thoát nước thị xã Ninh Bình, qui hoạch giao thông thị xã Ninh Bình.
- Việc quản lý giá vật liệu xây dựng chưa được thống nhất, chưa phú hợp, thay đổi chưa kịp theo biến động của thị trường, làm cho công tác dự toán, thanh quyết toán chưa sát thực , điều chỉnh nhiều lần. Cụ thể : Hiện tượng cho phép áp dụng giá riêng đối với một số loại vật liệu phổ biến ( như: Đất đắp nền , đá các loại, cát các loại, ) trên cùng một địa bàn còn xẩy ra. Giá các loại vật liệu ( cát , đá , ….) đối với các vùng xa trung tấm huyện, thị nếu tính theo hệ số quy định chưa sát với giá thị trường, nhiều khi có sự cách biệt rất lớn . Giá một số vật tư vật liệu thông báotại thị xã Ninh Bình không sát với giá thị trường.
- Phân công trách nhiệm, quyền hạn trong công tác thanh , quyết toán hiện nay đang có sự trồng chéo giữa hai cơ quan : Kho bạc nhà nước và Sở tài chính Vật giá. Kho bạc Nhà nước thẩm định thanh toán , cấp phát , nhưng khi Sở tài chính quyết toán thì tiến hành thẩm định lại kết quả thẩm định cấp phát của kho bạc , gây phiền hà , mất thời gian cho công tác thanh quyết toán của các chủ đầu tư.
2. Công tác xây dựng và phân bổ kế hoạch:
2.1. Công tác xây dựng và tổng hợp kế hoạch.
Tổ chức tốt công tác xây dựng, tổng hợp kế hoạch từ các Ngành, huyện, thị xã; Cụ thể hoá các chỉ tiêu kế hoạch, trình UBND tỉnh, Thường vụ Tỉnh uỷ để giao kế hoạch năm 2002 cho các đơn vị đúng chỉ đạo về nội dung và thời gian theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Kế hoạch 2002 được tổ chức giao cho các ngành, huyện, thị sớm nhất (ngày 31/01/2002), đảm bảo chất lượng, nội dung và hình thức so với các năm trước, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các huyện thị triển khai thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước.
Công tác xây dựng và tổng hợp kế hoạch năm 2003 được triển khai theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đảm bảo đúng quy trình, kế hoạch được xây dựng và tổng hợp từ dưới lên. Trong quá trình xây dựng kế hoạch sở đã tổ chức làm việc, thảo luận với các huyện, ngành để nghe và tìm hiểu tình hình, phát hiện những yêu cầu và vấn đề mới theo yêu cầu và tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh; tích cực khai thác nội lực, phát huy tinh thần chủ động sáng tạo của cơ sở, các ngành các cấp huy động mọi nguồn lực để phát triển KT- XH, tập trung đầu tư phát triển công nghiệp, nông nghiệp và nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để thúc đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Vì vậy báo cáo kế hoạch 2003 đã đề cập nhiều vấn đề mới và được tính toán cân đối cùng với những giải pháp chủ yếu để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh, Bộ kế hoạch và đầu tư đảm bảo chất lượng và thời gian quy định.
2.2. Công tác theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch :
Thực hiện chức năng nhiệm vụ Sở kế hoạch và đầu tư đã tổng hợp xây dựng và giúp UBND tỉnh, Tỉnh uỷ chỉ đạo điều hành kế hoạch: Việc theo dõi nắm tình hình triển khai thực hiện kế hoạch đã làm thường xuyên và có chất lượng. Nắm bắt được tình hình và những khó khăn vướng mắc, những yêu cầu của các đơn vị, giúp các đơn vị giải quyết vốn đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; đề xuất được những biện pháp, kiến nghị về công tác quản lý và điều hành, tham mưu để UBND tỉnh chỉ đạo và điều hành kế hoạch. Vì vậy, việc thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm đã có kết quả rõ rệt về phát triển kinh tế - xã hội, về đầu tư XDCB. Đề xuất các phương án huy động vốn cho đầu tư phát triển, tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ ngành bổ sung tăng vốn đầu tư cho tỉnh cao hơn năm trước (đến tháng 11/2002 tỉnh đã được bổ sung 78 tỷ đồng).
3.Phương pháp lập dự án đầu tư
Đối với mỗi nội dung có các phương pháp cụ thể thích hợp. Ngoại trừ các nội dung có quy định pháp pháp luật, còn các nội dung khác để có những phương pháp cụ thể khi lập cũng như khi thẩm định, đánh giá dự án, trrong đó có các dạng phương pháp sau:
- Phân tích so sánh, lựa chọn các phương án tối ưu hoặc hợp lý (chọn vị trí xây dựng, chọn công nghệ, chọn thiết bị, chọn giải pháp kỹ thuật và tổ xây dựng...).
- Phân tích đánh giá độ tin cậy, mức khả thi của các giải pháp hay của dự án nói chung (các phương pháp tính toán và phân tích các chỉ tiêu kinh tế, tài chính, phân tích rủi ro...).
- Thống kê kinh nghiệm kiểm tra tính hợp lý, tính thực tế của các giải pháp lựa chọn (mức chi phí đầu tư, cơ cấu chi phí đầu tư, các chỉ tiêu tiêu hao nguyên, nhiên liệu hay chi phí sản xuất nói chung)
4.Vốn và nguồn vốn
Đối với 3 chỉ tiêu Nhà nước giao, tỉnh ta đã hoàn thành vượt mức như: Sản lượng lương thực có hạt 45 vạn tấn, thực hiện 47,1 vạn tấn; vốn đầu tư giao tổng số 126,69 tỷ đồng, thực hiện vượt kế hoạch từ 190 - 200 tỷ đồng; chỉ tiêu thu và chi ngân sách vượt kế hoạch.
Vốn:
Năm 2002, các nguồn vốn đầu tư XDCB được huy động khá hơn năm trước, nhất là vốn từ các chương trình Chính phủ (Phân lũ chậm lũ, du lịch, thể thao, thuỷ sản), vốn bổ sung từ Ngân sách trung ương; tiếp tục triển khai nhiều công trình lớn, trong điều hành có sự tập trung chỉ đạo và xử lý kịp thời những khó khăn vướng mắc xảy ra, do đó đã khắc phục được yếu kém trong quá trình đầu tư và xây dựng.
Tổng vốn đầu tư XDCB trên địa bàn ước đạt 1.600 tỷ đồng, vốn đầu tư do địa phương thực hiện đạt trên 800 tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần so với năm trước, trong đó: vốn ngân sách nhà nước đạt trên 380 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần; vốn tín dụng ưu đãi đạt 375,6 tỷ đồng, tăng gấp trên 6,2 lần; vốn huy động của nhân dân đạt trên 40 tỷ đồng, tăng 4,2% so với năm trước.
Đối với nguồn vốn ngân sách do địa phương quản lý dự kiến các công trình XDCB đến hết năm 2002:
- Kế hoạch 2002 đến nay đã triển khai xây dựng 86 công trình, trong đó đầu năm bố trí 73 công trình (44 công trình chuyển tiếp và 29 công trình khởi công mới), trong năm bổ sung 13 công trình. Các công trình chuyển tiếp, công trình trọng điểm được triển khai đảm bảo tiến độ thi công, như công trình cơ sở hạ tầng khu Tam cốc - Bích động, hồ Yên Thắng, đường vành đai chống lũ thượng nguồn Tam Điệp, kênh tưới 12B, sân vận động, khu tái định cư kè bờ sông Vân, đường 10, vùng phân lũ chậm lũ, các công trình tu bổ đê điều ...
- Dự kiến đến cuối năm 2002 sẽ có 43 công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, trong đó: 20 công trình hoàn thành cả vốn và khối lượng, 23 công trình hoàn thành khối lượng đưa vào sử dụng và năng lực mới tăng thêm gồm: tưới 4.000 ha, tiêu 710 ha, hoàn thành 15.500 m kênh tưới; 19,2 Km đường; 3 cầu; 26 cống; đưa vào sử dụng 17.248 m2 sàn công trình dân dụng, nâng cấp 50 ha trại giống lúa ...
Nguồn vốn: 916.608 trđ
1. Ngân sách tập trung tỉnh: 309.031 trđ
2. Vốn nước ngoài: 122.869 trđ
3. Vốn trung ương và các bộ ngành: 310.546 trđ
4. Vốn chương trình mục tiêu: 23.720 trđ
5. Vốn tự có: 137.010 trđ
6. Vốn vay tín dụng thương mại: 13.432 trđ
Cắt giảm tổng mức đầu tư so với dự án trình (47.132trđ), tỷ lệ (5.14%)
Tồn tại chủ yếu của đầu tư XDCB năm 2002 là:
+ Vốn vay phải trả đến hạn mỗi năm trên 10 tỷ đồng;
+ Vốn yêu cầu đối ứng cho các dự án do các Bộ duyệt , UBND tỉnh thoả thuận tương đối lớn trên 90 tỷ đồng (trong đó: thuỷ lợi 11,9 tỷ, cấp nước 26,9 tỷ, giao thông 26,7 tỷ, y tế 24 tỷ);
+ Công trình đến năm 2003 phải hoàn thành theo dự án được duyệt là trên 311 tỷ đồng (trong đó công trình hoàn thành thanh toán khối lượng trên 55 tỷ đồng).
+ Số lượng công trình đầu tư xây dựng nhiều, khối lượng làm vượt so với nguồn vốn quá lớn trong khi khả năng để thanh toán có hạn, chất lượng 1 số công trình chưa cao, còn thiếu sự phối hợp chỉ đạo giữa các ngành, các cấp.
Thật vậy, Trong XDCB vẫn còn những tồn tại, công tác quản lý đầu tư còn nhiều bất cập, các dự án được phê duyệt quá lớn không tương xứng với khả năng về nguồn vốn, tình trạng các dự án xin duyệt để đi chạy vốn còn nhiều, nhiều công trình còn dở dang với khối lượng thực hiện khá lớn (vượt kế hoạch về vốn) nhưng chưa có vốn thanh toán và thiếu khả năng cân đối trong năm 2002, phải chuyển sang năm 2003.
5. Thẩm định dự án đầu tư
5.1. Đặc điểm của các dự án được thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình.
Những dự án đầu tư được gửi đến Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình để thẩm định là những dự án thuộc cấp tỉnh quản lý, việc quyết định và phê duyệt dự án là thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh. Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình có nhiệm vụ lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan để phục vụ cho việc thẩm định dự án trình UBND tỉnh trong việc ra quyết định phê duyệt dự án.
Có hai mảng dự án lớn được gửi đến Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình thẩm định là:
Thứ nhất: những dự án được cấp từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Nói chung đây là những dự án nằm trong kế hoạch của tỉnh. Vốn được tài trợ cho những dự án này chủ yếu là: vốn ngân sách trung ương cấp cho tỉnh và vốn ngân sách địa phương để lại. UBND tỉnh dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của từng năm và vốn ngân sách có trong năm để đưa ra danh mục các dự án sử dụng vốn kế hoạch cho đầu tư xây dựng. Bởi vậy đây là những dự án được UBND tỉnh xem xét, phân tích và chọn lọc kỹ càng. Việc phân tích hiệu quả của dự án là khâu quan trọng bởi những dự án đi vào hoạt động sẽ ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế- xã hội chung của tỉnh.
Nhìn chung, những dự án được tài trợ bởi vốn ngân sách nhà nước là những dự án đầu tư công cộng. Sản phẩm của những dự án là hàng hoá công cộng và mục tiêu chính là nhằm phục vụ lợi ích chung cuả công cộng, của toàn xã hội. Các dự án này không phải hoàn trả vốn cho nhà nước. Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, việc xem xét hiệu quả về mặt xã hội được coi trọng.
Thứ hai: Những dự án sử dụng vốn tín dụng ưu đãi.
Chủ yếu những dự án này sử dụng vốn vay của Nhà Nước là những dự án đầu tư cho sản xuất, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Các nguồn vốn của nhà nước được dùng để cho vay những dự án này là: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, ngoài ra một số dự án còn sử dụng vốn FDI. Khi sử dụng các khoản vốn này, doanh nghiệp phải trả lãi theo quy định của nhà nước nhưng nói chung, lãi suất được sử dụng là lãi suất ưu đãi do nhà nước đưa ra với tính chất hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp nhà nước để phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
Mặc dù đây là những dự án vay vốn nhưng những dự án này cũng phải nằm trong kế hoạch cho vay của nhà nước, nằm trong quy hoạch tổng thể của ngành, lãnh thổ. Bên cạnh việc đạt được hiệu quả về kinh tế, các dự án còn phải đạt hiệu quả về mặt xã hội.
Quy trình thẩm định hai loại dự án này là hoàn toàn như nhau.
* Việc thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình khác so với ngân hàng thương mại:
Đối với ngân hàng thương mại: những dự án được thẩm định là những dự án vay vốn của ngân hàng. Điều mà ngân hàng quan tâm nhất là làm sao bảo toàn và phát triển vốn của mình, do đó khi dự án sử dụng vốn vay của ngân hàng, ngân hàng luôn quan tâm đến việc trả gốc và lãi cho mình. Phương thức trả gốc và lãi do ngân hàng quy định. Lãi suất các doanh nghiệp phải trả có thể là lãi suất trên thị trường hay lãi suất ưu đãi do nhà nước chỉ định. Việc thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thiên về việc thẩm định hiệu quả tài chính hơn.
Đối với Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình: Những dự án được thẩm định là những dự án nằm trong kế hoạch, quy hoạch phát triển ngành. Những dự án này khi đi vào hoạt động, nó không những ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà điều quan trọng hơn là nó ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, tình hình kinh tế- xã hội của cả tỉnh. Việc thẩm định dự án đầu tư không thể chỉ coi trọng về hiệu quả kinh tế mà coi nhẹ các mặt khác được. Đôi khi, đối với một số dự án, việc xem xét hiệu quả về mặt xã hội được đưa lên hàng đầu.
Do có sự khác nhau như vậy nên việc thẩm định dự án đầu tư giữa Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình và ngân hàng có một số điểm không giống nhau.***
Sau khi xem xét vốn ngân sách trung ương cấp phát cho tỉnh, ngân sách địa phương để lại UBND Tỉnh lên cân đối cơ cấu vốn cho các ngành kinh tế trong tỉnh. Đầu năm, UBND Tỉnh gửi kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản vốn ngân sách kèm danh mục công trình được đầu tư trong năm cho Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Sau đây là bảng tổng hợp vốn kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Ninh Bình trong 3 năm 2000, 2001, 2002.
Nhìn chung có chín ngành kinh tế được đầu tư bởi vốn ngân sách. Vốn ngân sách chủ yếu là hai nguồn chính: nguồn ngân sách trung ương, nguồn ngân sách địa phương, bên cạnh đó còn có một số nguồn khác như: các nguồn thu để lại, vốn viện trợ...
Tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản của 3 năm: 2000: 312.4 tỷ tăng 69.2% so với năm 1999,năm 2001 là :613.5 và năm 2002là: 1600 tỷ. Điều đó đã chứng tỏ rằng: khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì việc đầu tư cho các ngành kinh tế có xu hướng tăng lên.
Vốn ngân sách ở các năm được phân bố cho các ngành kinh tế nhưng nhìn chung ở cả ba năm vốn tập trung nhiều hơn cho các ngành: Nông, lâm, thuỷ lợi, giao thông và, giáo dục đào tạo. Trong đó ngành nông- lâm - thuỷ lợi vẫn được nhà nước chú trọng hơn bởi vì tỉnh Ninh Bình xuất phát là tỉnhnông nghiệp. Do đó việc chú trọng đầu tư cho ngành nông- lâm- thuỷ lợi là cần thiết.Năm 2000: tổng vốn giành cho ngành là: 93.72 tỷ chiếm 30% trong tổng số vốn. Năm 2001: 159.51 tỷ chiếm 26% trong tổng số vốn. Trong khi đó năm 2002: 336 tỷ chiếm 21% trong tổng số vốn. Do định hướng của nhà nước đề ra: giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ: theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhà nước giảm dần tỷ trọng phân bổ vốn cho ngành nông- lâm - thuỷ lợi để tăng tỷ trọng cho các ngành khác.
Ngành giao thông, xu hướng đầu tư tăng dần. Cụ thể là năm 2000: tổng mức vốn cấp cho ngành là: 46.86 tỷ chiếm 15% trong tổng mức vốn; năm 2001: 98.16 tỷ chiếm 16% trong tổng mức vốn ; năm 2002: 304 tỷ chiếm 19%. Trong một số năm gần đây, giao thông cũng là một ngành được chú trọng. Bởi muốn cho nền kinh tế của tỉnh phát triển thì cần thiết phải cải tạo hệ thống, mạng lưới giao thông. Khi giao thông thuận tiện, việc đi lại được dễ dàng, tạo điều kiện cho việc vận chuyển hàng hoá, giao lưu với các tỉnh bạn.
Trong năm 2002 có 14 dự án được đầu tư trong ngành giao thông, trong đó có 5 công trình mới, 9 công trình chuyển tiếp.
Về giáo dục đào tạo, với mục tiêu của tỉnh là trong năm 2000 xoá nạn mù chữ. Bởi vậy việc đầu tư cho ngành giáo dục và đào tạo năm 2000, 2001,2002 có một bước phát triển đáng kể. Năm 2002: số vốn giành cho các dự án là: 368 tỷ đồng, chiếm 23% trong tổng vốn đầu tư. Trong năm này, vốn được cấp cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư. Điều đó đã chứng tỏ, giáo dục đào tạo ngày càng được chú trọng. Trong khi đó năm 2001: tổng vốn đầu tư:98.16 tỷ chiếm 16% với 11 dự án: 4 dự án mới, 7 dự án chuyển tiếp. Năm 2000 chỉ có: 31.24 tỷ chiếm 10% trong tổng vốn với:8 dự án. Với những con số trên chứng tỏ tầm quan trọng của ngành giáo dục và đào tạo, đó chính là bước đệm đáng mừng để phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
Bên cạnh đó, một số ngành khác: cấp nước, công trình công cộng, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, trụ sở cơ quan quản lý... vốn đầu tư không biến động nhiều giữa các năm.
Trong năm 2002: vốn còn được phân bổ cho việc xây dựng đài phát thanh- truyền hình, lao động - thương binh xã hội và an ninh quốc phòng.
Tóm lại: thông qua danh mục các dự án đầu tư sử dụng vốn kế hoạch cho đầu tư xây dựng cơ bản, chúng ta cũng thấy được một phần nào tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh trong một số năm gần đây. Bên cạnh đó, danh mục dự án vốn kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản cũng cho ta thấy kế hoạch, phương hướng phát triển của tỉnh trong năm. Tỉnh dự kiến phát triển ngành nào đó trong năm thì vốn được tập trung đầu tư cho ngành đó. Nhưng đây chỉ là vốn kế hoạch ban đầu mà chưa có bổ xung, trong qúa trình xây dựng dự án, vốn sẽ được bổ xung cho phù hợp với tiến độ.
5.2. Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình
5.2.1. Quy trình thẩm định dự án đầu tư:
+ chủ đầu tư lập báo cáo nghiên cứu khả thi gửi đến Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình, trực tiếp là giám đốc tiếp nhận
+ Giám đốc sẽ gửi toàn bộ hồ sơ được gửi đến cho phó giám đốc phụ trách.
+ Phó giám đốc phụ trách sau khi xem xét hồ sơ của dự án gửi đến phòng thẩm định.
+ Phòng thẩm định mà trực tiếp là trưởng, phó phòng tiếp nhận.
+ Trưởng, phó phòng sau khi xem xét và phân loại dự án sẽ gửi đến cán bộ thẩm định phụ trách về mảng dự án đó.
+ Trong quá trình thẩm định dự án nếu có vướng mắc phát sinh liên quan đến các cơ quan khác thì cán bộ thẩm định báo cáo lãnh đạo sở xem xét giải quyết.
+ Sau khi các cơ quan khác có ý kiến bằng văn bản gửi về Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình, cán bộ thẩm định tổng hợp ý kiến, lập tờ trình, báo cáo lãnh đạo trình UBND tỉnh.
Sở KH & ĐT Ninh Bình
Chủ đầu tư
(lập báo cáo khả thi)
UBND tỉnh
Các cơ quan liên quan
Giám đốc tiếp nhận
Phó giám đốc chuyên môn
Phòng xây Thẩm định
Cán bộ thẩm định
5.2.2. Nội dung thẩm đinh dự án đầu tư
Sau khi cán bộ thẩm định nhận được hồ sơ đầy đủ của dự án, cán bộ thẩn định sẽ thẩm định lần lượt như sau:
5.2.2.1 Các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà Nước, vốn tín dụng do Nhà Nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư Phát triển của Nhà Nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà Nước phải được thẩm định về:
- Sự phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị nông thôn.
- Chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia (nếu có).
- Các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà Nước mà dự án đầu tư có thể được hưởng theo quy chế chung.
- Phương án công nghệ và quy mô sản xuất, công suất sử dụng.
- Phương án kiến trúc, việc áp dụng quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn xây dựng.
- Sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, kế hoạch tái định cư (nếu có).
- Phòng, chống cháy nổ, an toàn lao động và các vấn đề xã hội của dự án.
- Các vấn đề rủi ro của dự án có thể xảy ra trong quá trình thực hiện làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư .
- Đánh giá tổng thể về tính khả thi của dự án.
5.2.2.2. Các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà Nước, vốn tín dụng đầu tư cả Nhà Nước, Vốn tín dụng do Nhà Nước bảo lãnh còn phải thẩm định các điều kiện tài chính, giá cả, Hiệu quả đầu tư và phương án hoàn trả vốn đầu tư của dự án
5.3. Những kết quả đã đạt được
Những kết quả đạt được:
Về mặt hồ sơ của dự án: Công tác thẩm định dự án đầu tư đảm bảo cung cấp đầy đủ các văn bản thủ tục để trình UBND tỉnh. Quá trình thẩm định của Sở diễn ra theo một quy định khá chặt chẽ, có những vướng mắc đã kịp thời đưa ra văn bản để xin ý kiến của một số cơ quan có liên quan để sử lý thông tin một cách đúng đắn. Sau khi thẩm định xong, Sở kế hoạch và đầu tư đảm bảo về mặt văn bản thủ tục bằng cách lập tờ trình và những văn bản mà UBND tỉnh cần để dựa vào đó UBND tỉnh đưa ra quyết định của mình.
Về mặt thời gian: thời gian thẩm định dự án đầu tư được phân loại tuỳ theo loại dự án.
Đối với dự án nhóm A: thời gian thẩm định thường là 60 ngày, dự án nhóm B là: 30 ngày, nhóm C là: 20 ngày. Những dự án được đưa đến thẩm định tại Sở kế hoạch và đầu tư chủ yếu là những dự án thuộc nhóm C và đôi khi có thêm những dự án thuộc nhóm B. Hầu hết những dự án khi được gửi đến Sở sẽ được cán bộ thẩm định tiến hành xử lý ngay, khi có những khúc mắc thì cán bộ thẩm định xin ý kiến của lãnh đạo Sở để quyết định đưa ra một số văn bản xin ý kiến của cơ quan liên quan. Mặc dù công việc thẩm định trải qua nhiều khâu như vậy nhưng công việc thẩm định đảm bảo về mặt thời gian từ đó dẫn đến các dự án thực hiện đúng quy trình, đúng tiến độ.
Về nội dung: việc thẩm định dự án đầu tư được thẩm định bảo đảm về mặt nội dung. Tất cả các nội dung được đưa ra liên quan đến dự án, cán bộ thẩm định sẽ xem xét lần lượt. Dựa vào nội dung đó là quan trọng trong việc ra quyết định phê duyệt dự án hay không mà cán bộ thẩm định sẽ coi trọng và đi sâu vào thẩm định nội dung đó hơn. Đó là điều rất phù hợp. Từ đó, công việc thẩm định dự án đầu tư được đảm bảo về mặt nội dung.
Về việc lập kế họach đầu tư: Đối với các dự án thuộc các lĩnh vực kinh tế xã hội của tỉnh khi có nhu cầu đầu tư sẽ lập danh sách thông qua các địa phương ban hành. Sở Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp các dự án và xem xét quy hoạch phát triển của tỉnh từ đó đưa ra các danh mục dự án đầu tư để gửi đến UBND Tỉnh xem xét. Với việc thực hiện như vậy bước đầu đã loại bỏ được các dự án chưa cần thiết đầu tư và sắp xếp được thứ tự các dự án đầu tư
Thông qua công tác thẩm định dự án đầu tư một số dự án đầu tư cần phải sửa đổi, một số khác không được phê duyệt do không đảm bảo được các quy định đã đề ra đã tiết kiệm được vốn cho ngân sách Nhà Nước.
Hầu hết các dự án đầu tư được thẩm định đều phát huy hết tác dụng đáp ứng được yêu cầu của Tỉnh đã đề ra.
* Về các dự án đã thẩm định:
+ Số lượng các: Trong vòng 4 năm trở lại đây (1997-2001)đã tổ chức thẩm định được 225 dự án
- Dự án sản xuất: 43 dự án
- Dự án phi sản xuất: 182 dự án
+ Tổng số vốn của các dự án: 1.844 tỷ đồng
+ Cơ cấu vốn đầu theo ngành:
- Công nghiệp: 347 tỷ đồng
- Nông nghiệp, thuỷ lợi: 384 tỷ đồng
- Giao thông vận tải: 542 tỷ đồng
- Du lịch: 105 tỷ đồng
- Cơ sở hạ tầng: 187 tỷ đồng
- Văn hoá, y tế, giáo dục, thể thao: 154 tỷ đồng
- Các ngành khác: 125 tỷ đồng
Tỷ trọng đầu tư của các dự án vào ngành công nghiệp, du lịch, chế biến nông sản có xu hướng phát triển. Năm 1997-1999 các dự án chủ yếu đầu tư trong các ngành: Y tế, giáo, dục trở ( chiếm tới gần 50%). Các dự án đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu tăng mạnh (Từ chỗ, năm 1997-1999, tỷ trọng vốn trong các ngành công nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ ... mới chiếm xấp xỉ 50% đến năm 2000-2001 đã tăng lên đến trên 80%, tổng vốn đầu tư gấp năm lần so với những năm trước đây. Các dự án nhóm B, từ chỗ không có đến nay các dự án lớn có tính quyết định nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng lên chiếm 20% tổng số dự án, tổng vốn đầu tư chiếm 70%.
Các dự án sản xuất ngoài quốc doanh có tính chất xây dựng tăng mạnh, riêng chỉ tính từ năm 1999-2001 đã có 10 dự án với tổng mức đầu tư lên đến 251 tỷ đồng.
Báo cáo tình thực hiện năm 2002
Phòng Thẩm định
( Tính đến 20/11/2002)
TT
Nội dung
Số lượng
(dự án)
Tổng mức đầu tư (triệu đồng)
A
Phần dự án
I
Tổng số dự án
83
916.608
1
Trụ sở làm việc
14
21.889
2
An ninh quốc phòng
1
6.990
3
Văn hoá xã hội, y tế, giáo dục, phát thanh truyền hình
18
417.949
4
Giao thông vận tải
14
143.534
5
Cơ sở hạ tầng, cấp thoát nước
13
147.338
6
Thuỷ lợi, nông nghiệp
12
61.392
7
Cấp điện
1
788
8
Đầu tư thiết bị
3
2.414
9
Các dự án sản xuất kinh doanh
7
114.314
II
Phân chia theo nguồn vốn
916.608
1
Ngân sách tập trung tỉnh
309.031
2
Vốn nước ngoài
122.869
3
Vốn trung ươnng và các bộ ngành
310.546
4
Vốn chương trình mục tiêu
23.720
5
Vốn tự có
137.010
6
Vốn vay tín dụng thương mại
13.432
B
Đầu thầu
Tổng số
21
183.081
Công tác thẩm định dự án trong 11 tháng đầu năm 2002 đã thực hiện đúng nguyên tắc, chế độ, và các định mức kinh tế kỹ thuật nhà nước quy định, góp phần đưa công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản đi vào nề nếp. Trong 11 tháng, đã thẩm định 83 dự án, với tổng số vốn 916 tỷ đồng, trong đó, có 76 dự án do nhà nước đầu tư, 7 dự án do tư nhân đầu tư,; thẩm định kế hoạch đấu thầu của 21 gói thầu; thẩm định kết quả đấu thầu của 21 gói thầu với tổng giá trị 183 tỷ đồng.
Cắt giảm tổng mức đầu tư so với dự án trình (47.132 trđ), tỷ lệ (5.14%)
Tiết kiệm trong đấu thầu ( 970trđ), tỷ lệ (0.53%).
5.4. Những khó khăn, vướng mắc trong công tác thẩm định dự án đầu tư;
Việc thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình liên quan đến một số chủ thể:
Chủ đầu tư : là người lập và nộp Báo cáo khả thi đến Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình.
Cơ quan tiến hành thẩm định dự án đầu tư: Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình mà trực tiếp là phòng Thẩm định, và một số cơ quan ban ngành có liên quan: Sở công nghiệp, Sở Tài chính vật giá, Sở khoa học công nghệ và môi trường, Sở Xây dựng tham gia đóng góp ý kiến giúp cho Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình và các lĩnh vực thuộc chuyên ngành quản lý trong quá trình thẩm định dự án đầu tư.
Bên cạnh đó việc thẩm định mà Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình thực hiện dựa trên các văn bản, các thông tư hướng dẫn của Chính Phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư.
Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư còn tồn tại một số khó khăn vướng mắc là:
Khó khăn từ bản thân Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình:
Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình có nhiệm vụ tham mưu cho UBND tỉnh trong việc ra quyết định hoặc phê duyệt đầu tư. Bởi vậy việc thẩm định dự án đầu tư phải được tiến hành một cách chặt chẽ trong qúa trình thẩm định, Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình còn có một số khó khăn: khó khăn lớn nhất là khó khăn về thông tin. Khó khăn về thông tin được thể hiện: trong qúa trình thẩm định Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình phải tham mưu ý kiến của các cơ quan ban ngành, Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình phải tổng hợp thông tin từ rất nhiều chiều, ví dụ: đối với việc thẩm định về kỹ thuật, giá cả sau khi xem xét các yếu tố nêu trong Báo cáo khả thi, Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình gửi văn bản xin ý kiến một số cơ quan quản lý chuyên ngành như Sở tài chính vật giá, Sở công nghiệp, Sở xây dựng, Sở khoa học công nghệ và môi trường. Trong một số trường hợp Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình gửi văn bản hỏi chủ đầu tư về một số vấn đề chưa nêu rõ trong Báo cáo khả thi mà cán bộ thẩm định quan tâm. Do khi thẩm định một dự án đầu tư mà phải thu thập thông tin từ rất nhiều chiều và thông tin xuất phát từ chủ đầu tư nên việc thông tin được đưa đến Sở đôi khi không chính xác, từ đó gây ra việc lãng phí ngân sách nhà nước.
Ngoài việc hỏi các cơ quan có liên quan, cán bộ thẩm định còn kiểm tra thực tế tai đơn vị. Với một lượng cán bộ rất hạn chế: 3 cán bộ nên công việc thẩm định dự án đầu tư rất khó khăn để giải quyết. Bởi rằng, lượng cán bộ ít, số dự án đầu tư ngày càng được thẩm định nhiều và công việc thẩm định thông qua nhiều khâu, tốn rất nhiều thời gian cho việc kiểm tra và thu thập các thông tin. Bên cạnh đó, những dự án được thẩm định ở đây là những dự án đã có trong chủ trương chính sách của tỉnh, nên đôi khi những dự án khi thẩm định không đáp ứng đủ các yêu cầu đưa ra. Sau khi cán bộ thẩm định xem xét và yêu cầu chủ đầu tư sửa lại một số vấn đề và dự án đó vẫn đi vào hoạt động.
Khó khăn do cơ chế:
Việc thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình dựa trên văn bản, thông tư hướng dẫn của Bộ kế hoạch và đầu tư, của Chính Phủ. Hiện nay, việc thẩm định dự án đầu tư chủ yếu được tiến hành dựa vào nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999. Do đây là văn bản mới nên chưa có thông tư hướng dẫn thực hiện văn bản và nội dung nêu trong văn bản rất nhiều nên việc hiểu nội dung của văn bản theo một cách và áp dụng không hợp lýlà điều không tránh khỏi.
Khó khăn xuất phát từ phía chủ đầu tư:
Việc thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình xuất phát từ chủ đầu tư đưa ra. Mặc dù hầu hết những dự án được thẩm định là những dự án mang tính chất công cộng nên việc thẩm định về phía chủ đầu tư không được coi trọng. Nói chung, việc thẩm định về phía chủ đầu tư không được thực hiện. Trong Báo cáo khả thi, việc giới thiệu về tình hình của chủ đầu tư là rất ít và không có. Để dự án đạt hiệu quả thì cần phải biết những thông tin cần thiết về chủ đầu tư. Những thông tin cần thiết như: tình hình hoạt động của chủ đầu tư, khả năng kinh doanh của chủ đầu tư, năng lực của chủ đầu tư. Trong Báo cáo khả thi về tình hình của doanh nghiệp thường có bảng cân đối kế toán nhưng thường quá đơn giản và đôi khi còn thiếu độ chính xác do chủ đầu tư không muốn công khai tài chính hay khai tăng để đảm bảo khả năng tài chính.
Đối với những dự án cho vay vốn của nhà nước thì việc thẩm định tình hình của doanh nghiệp là cần thiết, bởi dựa vào tình hình tài chính để xem xét được khả năng trả nợ của doanh nghiệp, tình hình hoạt động của doanh nghiệp lấy đó làm mốc để so sánh với sau đầu tư.
Còn đối với những dự án đầu tư công cộng việc thẩm định tình hình của doanh nghiệp chú trọng hơn về lĩnh vực kinh doanh của chủ đầu tư và năng lực của doanh nghiệp hay của công ty để xem có đủ trình độ, đảm bảo đúng lĩnh vực và trang thiết bị để thực hiện không? Nhưng cho đến hiện nay việc công khai hoá tình hình hoạt động và khả năng tài chính của doanh nghiệp còn hạn chế. Hầu hết kể cả việc thẩm định tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình hoặc tại ngân hàng đều có những khó khăn như vậy.
Trên đây là một số khó khăn vướng mắc trong việc thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình. Sở đang cố gắng xem xét và từng bước tháo gỡ những vướng mắc trong phạm vi mà Sở kế hoạch & đầu tư Ninh Bình có thể giải quyết được.
6. Công tác đấu thầu và quản lý hoạt động đấu thầu
6.1. Một số nội dung chính của qui chế đấu thầu
Căn cứ qui chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 (NĐ 88/CP ) và Nghị định số 14/2000/NĐ- CP ngày 05 tháng 05 năm 2000 (NĐ 14/CP )của Chính phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư hướng dẫn thực hiện một số nội dung chủ yếu của qui chế đấu thầu như sau:
6.1.1. Đối tượng áp dụng
6.1.1.1. Các dự án có sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, vốn tín dùng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp gồm:
Các dự án đầu tư xây dựng mới, cải tạo sửa chữa lớn, nâng cấp các dự án đã đầu tư xây dựng.
Các dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt và sản phẩm khoa học công nghệ mới.
Các dự án sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị nông thôn.
6.1.1.2. Các dự án cần lựa chọn đối tác đầu tư để thực hiện( khi có 2 nhà đầu trở lên muốn tham gia).
Các dự án liên doanh;
Các dự án thực hiện theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ;
Các dự án 100% vốn nước ngoài ;
Các dự án BOT, BT , BTO;
Các dự án khác cần lựa chọn đối tác đầu tư.
6.1.2. Sơ tuyển nhà thầu
Các gói thầu có giá trị từ 300 tỉ đồng trở lên đối với mua sắm hàng hoá và từ 200 tỉ đồng trở lên đối với xây lắp phải tiến hành sơ tuyển, ngoài ra tuỳ theo tính chất các gói thầu có thể giá trị nhỏ hơnvẫn tiến hành sơ tuyển.
Đối với các gói thầu mua sắm hàng hoá hoặc xây lắp chưa qua sơ tuyển , trong hồ sơ mời thầu yêu cầu các nhà thầu phải nộp đủ các tài liệu về năng lực , kinh nghiệm theo mẫu.
Thời gian sơ tuyển kể từ khi phát hành hồ sơ mời sơ tuyển cho đến khi cho đến khi công bố kết quả đối với đấu thầu quốc tế không quá 90 ngày, đối với đấu thầu quốc tế không quá 60 ngày. Khuyến khích rút ngắn thời gian sơ tuyển.
6.1.3. Điều kiện tham dự thầu
Trường hợp tổng công ty đứng tên dự thầu các đơn vị trực thuộc nhưng hoạch toán phụ thuộc không được phép dự thầu với tư cách là nhà thầu độc lập trong cùng một gói thầu dưới hình thức là nhà thầu chính ( liên doanh hoặc đơn phương).
Các nhà thầu nước ngoài tham gia đầu thầu tại Việt Nam phải cam kết mua sắm và sử dụng các vật tư thiết bị phù hợp về chất lượng và giá cả đang sản xuất, gia công và hiện có tại Việt Nam theo quy định tại khoản 4 điều 10 của Quy chế đấu thầu, nếu trong nước không có khả năng sản xuất , gia công thì nhà thầu được chào từ nguồn nhập ngoại trên cơ sở đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý.
6.1.4. Trình tự đấu thầu
Lập kế hoạch đấu thầu
Thẩm định và phê duyệt hồ sơ mời thầu
Bán hồ sơ mời thầu
Thành lập tổ tư vấn
Lập và phê duyệt thang điểm xét thầu.
Mở thầu
Đánh giá hồ sơ dự thầu
Phê duyệt kết quả đấu thầu
Công bố kết quả đấu thầu
6.2. Kết quả đạt được công tác đấu thầu năm 2002
Bảng kết quả đấu thầu năm 2002 các dự án sử dụng vốn nhà nước các dự án liên doanh.
Đánh giá
Các gói thầu thực hiện đấu thầu đều đúng với Qui chế đấu thầu ban hành theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 19/9/1999 và Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/05/2000 của chính phủ.
Các công trình đưa vào sử dụng và khai thác đúng tiến độ
Bố trí kế hoạch tập vốn tập trung hơn.
Quá trình cấp phát vốn thuận lợi và nhanh chóng hơn.
Tiết kiệm được vốn đầu tư.
Nâng cao độ chính xác về công tác tư vấn.
Một số kiến nghị:
Sớm ban hành pháp lệnh đấu thầu:
Giảm bớt các điều kiện để được đấu thầu hạn chế hoặc chỉ thầu, tăng cường đấu thầu rộng rãi.
Các gói thầu xây lắp có giá trị <=2 tỷ đồng nên cho chỉ định thầu.
Các gói thầu tư vấn >=300 triệu đồng nên cho đấu thầu rộng rãi.
Tư cách pháp nhân của các nhà thầu phải được rộng rãi hơn.
7. Kinh tế đối ngoại
Đã xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đưa vào danh mục các dự án quốc gia kêu gọi đầu tư.
Tiếp tục vận động các tổ chức, các nguồn vốn nước ngoài (JBIC, phi Chính phủ) đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, bệnh viện, nước ....
Xem xét hồ sơ và trình UBND tỉnh cấp giấy phép đầu tư liên doanh cho Công ty Giang Hoa để sản xuất giống tôm càng xanh, cấp giấy chứxng nhận ưu đãi đầu tư cho dự án cán thép Tam Điệp và dự án nước Nho Quan, nước Tam Điệp và dự án tư nhân thuộc lĩnh vực du lịch.
PHầN III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư
I . Định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh năm 2000-2005
1. Những yêu cầu đặt ra cho kế hoạch 2003:
Năm 2003 là năm thứ 3 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2001 – 2005). Đây là năm cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu đã đề ra cho kế hoạch 5 năm. Những kết quả đạt được trong 2 năm qua là tích cực, tạo được những thuận lợi cơ bản, nhưng những khó khăn thách thức, nhất là thực lực của nền kinh tế - sức cạnh tranh thấp đang đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn cho kế hoạch năm 2003. Việc xây dựng và thực hiện tốt nhiệm vụ kế hoạch năm 2003 sẽ tạo đà cho 2 năm còn lại của kế hoạch 5 năm.
Yêu cầu đặt ra cho năm 2003 là rất cao để đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng cao hơn 2 năm trước đó; tạo bước chuyển quan trọng trong việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Điều đó đòi hỏi phải có sự phấn đấu vượt bậc, phải có những bước đột phá về cơ chế chính sách, đổi mới cơ bản và toàn diện về quản lý điều hành, thông suốt và nhất quán từ tỉnh đến cơ sở; nhằm tạo ra bước chuyển biến về cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
2. Mục tiêu của kế hoạch năm 2003:
Trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu tổng quát đã được đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV thông qua và kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của hai năm 2001 và 2002, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 2003: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao hơn các năm trước (8%), đảm bảo bền vững; tạo bước chuyển biến mới về cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; huy động tốt hơn các nguồn lực vào đầu tư phát triển nhằm tạo bước chuyển biến thuận lợi cho 2 năm còn lại của kế hoạch 5 năm; đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Phát triển và nâng cao hơn nữa chất lượng các hoạt động giáo dục, văn hoá - xã hội; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực gắn với giải quyết việc làm; tiếp tục thực hiện xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân; giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội bức xúc, giữ vững An ninh - quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội; Nâng cao trách nhiệm và năng lực chỉ đạo điều hành, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội.
II. một số giải pháp chính huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội:
1. Mục tiêu:
Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8 - 8,5% và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như tăng cường cơ sở vật chất cho văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng trong năm 2003 và các năm sau, phải huy động mọi nguồn vốn để đầu tư phát triển trên địa bàn từ 1.200 - 1.300 tỷ đồng. Đồng thời tiếp tục điều chỉnh, đổi mới cơ cấu đầu tư tập trung và hiệu quả, hướng vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm.
- Từ yêu cầu đầu tư, nguồn vốn và thực trạng công trình chuyển tiếp từ năm 2002, định hướng đầu tư phát triển trong năm 2003 là:
+ Ưu tiên cho các công trình trọng điểm, các vùng phát triển tổng hợp (vùng ven biển Kim Sơn, thị xã Ninh Bình, thị xã Tam Điệp, vùng du lịch Hoa Lư, vùng phân lũ); các dự án phát triển sản xuất có công nghệ tiên tiến và có lợi thế cạnh tranh, nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển xã hội.
+ Đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn hoá xã hội, phát triển nguồn lực: Giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá xã hội, y tế, thể dục thể thao, xoá đói giảm nghèo... vùng còn khó khăn và An ninh - Quốc phòng.
+ Dành 65 - 70% vốn cho các công trình chuyển tiếp, đặc biệt là những công trình đã được xác định (được duyệt) phải hoàn thành vào năm 2003; 20% cho việc trả nợ và khoảng 10% cho quy hoạch, chuẩn bị đầu tư và đối ứng các dự án. Công trình khởi công mới được xem xét cân nhắc xét thấy thực sự cấp bách mới quyết định khởi công.
+ Thực hiện lồng ghép và triển khai tốt các chương trình Chính phủ và các chương trình mục tiêu quốc gia được Nhà nước giao.
- Về nguồn vốn:
Dự kiến khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển năm 2003, trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách tập trung: 42 tỷ đồng.
+ Nguồn vốn ngân sách để lại địa phương: 22 tỷ đồng.
+ Vốn nước ngoài (JBIC, ADB, Đan mạch ...): 50 - 100 tỷ đồng.
+ Vốn vay Quỹ Hỗ trợ PT và các vốn khác: 15 tỷ đồng.
+ Vốn chương trình Chính phủ: 95 - 100 tỷ đồng
+ Vốn chương trình mục tiêu mang tính chất XDCB:11 - 12 tỷ đồng.
+ Vốn tín dụng đầu tư: 700 tỷ đồng
(Riêng vay nước ngoài của NMXM TĐ: 500 tỷ đồng)
+ Vốn huy động của dân và doanh nghiệp: 70 - 100 tỷ đồng.
+ Vốn Trung ương đầu tư trên địa bàn: 100,0 tỷ đồng.
+ Vốn trung ương bổ sung: 100,0 tỷ đồng
2. Các giải pháp:
1. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch cho phù hợp với tình hình mới và quy hoạch tổng thể đã được duyệt.
2. Soát xét lại các công trình và nguồn vốn để cân đối cho các công trình chuyển tiếp, xem xét một số công trình đã bố trí chuẩn bị đầu tư có thể ngừng triển khai thấy chưa cấp bách để tập trung dứt điểm các dự án thuộc vùng trọng điểm. Các dự án không trong quy hoạch, không rõ mục tiêu, không giải phóng được mặt bằng thì chưa triển khai xây dựng.
3. Tăng cường công tác quản lý đầu tư XDCB, nhất là việc giám định đầu tư, tập trung quyết toán các công trình còn tồn, tăng cường đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, nâng cao trách nhiệm các bên A, B đảm bảo chất lượng công trình xây dựng; các thủ tục XDCB bảo đảm đúng quy trình, quy định ... cải tiến quy trình cấp phát, thanh toán vốn đầu tư cho phù hợp hơn, đáp ứng được tiến độ thi công các công trình, không để tình trạng vốn "chờ" khối lượng đã thực hiện.
4. Các dự án lớn của trung ương: Tạo điều kiện để nhà máy xi măng Tam Điệp hoàn thành xây dựng trong năm 2003 theo kế hoạch đề ra, tiếp tục triển khai xây dựng, mở rộng Cảng Ninh Bình và nạo vét Cửa Đáy, dự án WB2, các trạm bơm, nạo vét sông và dự án phục vụ nuôi trồng thuỷ sản ven biển Kim Sơn (dự án của Bộ Nông nghiệp & PTNT), các dự án của ngành giao thông.
5. Các dự án của địa phương: Bố trí kế hoạch năm 2003 tập trung cao cho các dự án hoàn thành trong năm 2002 còn thiếu vốn để dứt điểm, các công trình chuyển tiếp từ năm 2002 sang được bố trí 1 phần hoặc dãn tiến độ.
6. Vừa tổ chức thực hiện thật tốt vừa tranh thủ sự giúp đỡ của trung ương để tăng nguồn vốn ngân sách tập trung theo các chương trình Chính phủ và chương trình mục tiêu quốc gia, có chính sách để huy động tối đa các nguồn vốn trong dân cư và các doanh nghiệp để đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
3. Kinh tế đối ngoại:
Có cơ chế tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Năm 2003 tiếp tục làm tốt công tác vận động đầu tư và xúc tiến đầu tư, phấn đấu có ít nhất 2 dự án đầu tư nước ngoài được thẩm định và cấp giấy phép đầu tư, đó là: đầu tư vào Khu công nghiệp tập trung và dự án liên doanh sản xuất thảm cói xuất khẩu giữa doanh nghiệp cói Năng động – Kim Sơn và Trung Quốc.
Xây dựng Danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm 16 dự án phù hợp với quy hoạch phát triển của tỉnh và trung ương, để giới thiệu với các nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với 2 dự án ODA tỉnh Ninh Bình là chủ dự án: dự án cấp nước thị xã Tam Điệp và cấp nước thị trấn Nho Quan do Đan Mạch tài trợ. Chủ động hoàn thành đúng cam kết đã được ký kết với phía Đan Mạch, đưa dự án kết thúc vào năm 2003, đồng thời vận động tài trợ mở rộng cấp nước sạch sinh hoạt cho các thị trấn Bình Minh Kim Sơn, thị tứ Phúc nhạc Yên Khánh, thị tứ gián khẩu Gia Viễn và nối hệ thống nước thị trấn Thiên tôn với nước thị xã Ninh Bình.
Tiếp tục triển khai và từng bước thực hiện dự án giao thông sửu dụng vốn WB, dự án thiết bị ytế của Italia, dự án ytế nông thôn của ADB.
Vận động các dự án tài trợ từ nguồn vốn JBIC vào các lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, điện, nước. Phấn đấu năm 2003 giải ngân các dự án ODA đạt trên 6,3 triệu USD.
Phối hợp tốt hơn với các ngành để công tác vận động và thực hiện các dự án, chương trình Phi Chính phủ ở Ninh Bình ngày càng có hiệu quả hơn. Trong năm 2003 tiếp tục vận động, kêu gọi các tổ chức PCP viện trợ vào các vùng dân cư còn nhiều khó khăn trong mọi lĩnh vực như ytế, giáo dục, cơ sở hạ tầng.
Cần phối hợp tốt hơn giữa các ngành trong công tác cấp phép đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước có hiệu quả.
Kết luận
Qua thời gian thực tập tại Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Ninh Bình được sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ chuyên viên trong sở đặc biệt là phòng thẩm định, cùng với sự hướng dẫn tận tình chu đáo của Thạc sỹ Nguyễn ái Liên em đã hoàn thành bản báo tổng hợp này. Thông qua bản báo cáo chúng ta có thể hiểu biết thêm về quá trình hình thành và phát triển của Sở kế hoạch và đầu tư Ninh Bình, tình hoạt động và công tác quản lý của Sở, những gì đạt được trong những năm vừa qua chủ yếu là năm 2002.
Do khả năng hiểu biết về thực tế của em còn nhiều hạn chế cho nên không tránh khỏi sai sót rất mong được sự chỉ bảo hướng dẫn của thầy, cô và các bạn cùng các bác, cô, chú trong Sở để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin trân thành cám ơn!
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC981.doc