Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong đó có kinh tế tư bản tư nhân hiện nay là sản phẩm gắn liền với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đúng đắn của Đảng ta đã được thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước chứng minh. Có thể nói, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã nội chủ ngnĩa ở nước ta. Đây cũng là một nội dung quan trọng của đổi mới trong nhận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay của Đảng ta đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, sáng tạo. Sự phát triển của kinh tế tư nhân có những đóng góp quan trọng và sự phát triển kinh tế - xã hội như: huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư và sản xuất kinh doanh; trở thành một bộ phận cấu thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước; làm cho sản xuất và lưu thông hàng hóa thêm phong phú và đa dạng; hình thành và phát triển các loại thị trường; làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước; tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong sản xuất, kinh doanh.
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong thời kỳ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đông là cán bộ , công nhân viên Nhà nước vì nhiều lý do nên thành lập doanh nghiệp . Một số là cán bộ về hưu , phục viên, xuất ngũ , số khác là học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp có cơ hội bước vào con đường lập nghiệp v.v.. Phần lớn họ đều xuất thân từ gia đình lao động , bản thân họ cũng là người lao động lớn lên trong chế độ mới – trong đó không ít người là cán bộ , đảng viên được đào tạo ngành nghề , có trình độ , bằng cấp , đã tham gia cách mạng và sự nghiệp xây dựng CNXH , có hoài bão , ước mơ v.v..muốn thử sức trong thương trường để làm giàu cho mình và cho xã hội và là người làm ăn chân chính
Mặc dù có không ít các chủ doanh nghiêp, trang trại có biểu hiện tiêu cực, chạy theo đồng tiền bất chấp luật pháp , đạo lý xã hội , làm ăn phi pháp , hàng giả … gây thiệt hại cho xã hội , cần giáo dục …Nhìn chung cầm có hệ thống luật pháp đồng bộ , chặt chẽ , rõ ràng đối với khu vực kinh tế tư nhân , nhưng đồng thời cũng cần có chính sách biện pháp khuyến khích họ để họ thực sự đứng trong đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, thúc đẩy con tàu kinh tế đất nước , thực hiện thành cồn CNH-HĐH đất nước
B/ Thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
I/Sự phát triển về số lượng của khu vực kinh tế tư nhân
Trước đổi mới(1986), khu vực kinh tế tý nhân là đối tượng cải tạo XHCN, không được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhýng vì khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể không thoả mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của đất nýớc , kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế , vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế hộ gia đình ( của các hộ cán bộ công nhân viên nhà nýớc và hộ xã viên hợp tác xã), các tổ hợp tác, tổ hợp tác sản xuất núp bóng doanh nghiêp nha nước hoặc hợp tác xã(thực chất là loại hình kinh tế tý nhân khác nhau) , kinh tế tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh cá thể, hoạt động chủ yếu ở thị trường tự do, tức là ở khu vực không chính thức. Cho đến năm 1990, nếu số hộ công, thương nghiệp kinh doanh cá thể mới có khoảng 840 nghìn; thì đến nay đã có trên 3 triệu hộ. Đó là chưa kể có khoảng 130 nghìn trang trại và khoảng 11 triệu hộ sản xuất nông nghiệp theo mô hình kinh tế hộ tự chủ. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trước năm 1991 hầu như không có, nếu có thì chủ yếu hoạt động ở thị trường ngầm, không được chấp nhận chính thức.
Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều, nhưng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều. Bên cạnh đó, còn có những khác biệt về số doanh nghiệp hoạt động với số đăng ký kinh doanh, bởi số doanh nghiệp đang hoạt động, không bao gồm các doanh nghiệp đã được cấp phép, mã số thuế, nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đăng ký thành lập nhưng đã giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình, các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không có tại địa phương, các đơn vị không phải là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, như các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp. Tuy mật độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế những hình thức kinh tế tư nhân cũng đã cải thiện đời sống cho bộ phận lớn cán bộ , công nhân viên và xã viên các hợp tác xã , giảm bớt căng thẳng cho nên kinh tế thời bấy giờ .
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12/1986) nhất là từ khi ban hành Luật doanh nghiệp tý nhân (1990) và nghị định số 221/ HĐBT (27/3/1991) về '' Cá nhân & nhóm kinh doanh '' cùng nhiều chỉ thị ,nghị quyết, chính sách khuyến khích khác của Đảng và Nhà nýớc , khu vực kinh tế tý nhân đă có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển .Từ sau khi có Luật Công ty (năm 1990), số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới chính thức ra đời và chỉ thực sự tăng lên nhanh chóng từ sau khi có Luật Doanh nghiệp, sau 5 năm thi hành, số doanh nghiệp đăng ký mới đã đạt gần 110 nghìn, cao gấp hơn 2,4 lần so với thời kỳ 1991 - 1999.
Số cơ sở kinh doanh tư nhân giai đoạn 1991 – 1998
Loại hình
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
DNTBTN
414
5198
6808
10881
15276
18894
25002
26021
DNTN
270
3676
5812
7794
10916
12464
17500
18750
CTTNHH
122
1444
1607
2968
424
6303
7350
7100
CTCP
22
78
19
119
118
127
152
171
Số cơ sở kd cá thể
1498600
1533100
2050200
2215000
+kinh tế cá thể bình quân giai đoạn 1990 - 1996 : mỗi năm tăng 553.775 cơsở (tốc độ tăng hàng năm lớn hơn 20%).
+Từ năm 1992 đến năm 1994 số đơn vị kinh tế cá thể tăng 34500 đơn vị
+Từ năm 1994 đến năm 1995 số đơn vị kinh tế cá thể tăng 517100 đơn vị , tức là chỉ trong 1 năm, riêng số đõn vị cá thể đã tăng nhiều hơn hẳn so với năm trc ,vì do có sự mở cửa thông thoáng, nhiều ngýời nhận thức được vai trò cũng nhý lợi ích của hình thức kinh doanh này
+Từ năm1995 đến năm1996 số đõn vị kinh tế cá thể tăng 164800đơn vị , có sự giảm sút này do có nhiều đõn vị cá thể, có nguồn vốn bắt đầu khá, chuyển sang hình thức khác nhý thành lập doanh nghiêp...
Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ....cũng có những bước phát triển vượt bậc về số lượng.
Số l ượng TBTN giai đoạn 1991_1998
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Số lượng
414
5.198
6.808
10.881
15.276
18.894
25.002
26.001
Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có 150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng
Bình quân giai đoạn này mỗi năm tăng thêm 3252 doanh nghiệp (khoảng 32 %), gấp 1,5 lần mức tăng củ kinh tế cá thể tiểu chủ cùng thời gian .Luật Doanh nghiệp năm 1999 đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển. Với tinh thần chủ đạo là "doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm", chuyển từ "cấp phép kinh doanh" sang "đăng ký kinh doanh", Luật Doanh nghiệp 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (TTTTDN) của Bộ , và cả nýớc có khoảng 40.000 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tý nhân. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho đến cuối năm 2003 nhiều gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10 năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.
Số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng, nhưng vẫn còn ít (bình quân 820 người mới có 1 doanh nghiệp); mục tiêu phấn đấu đưa lên 500 nghìn doanh nghiệp thực hiện cũng không dễ dàng nếu không có chính sách và giải pháp khuyến khích tạo lực đẩy cho kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, trên thực tế, số doanh nghiệp đang hoạt động không nhiều như đăng ký.Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều, nhưng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều. Bên cạnh đó, còn có những khác biệt về số doanh nghiệp hoạt động với số đăng ký kinh doanh, bởi số doanh nghiệp đang hoạt động, không bao gồm các doanh nghiệp đã được cấp phép, c p mã số thuế, nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đăng ký thành lập nhưng đã giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình, các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không có tại địa phương, các đơn vị không phải là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, như các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp.Theo điều tra của Tổng cục thống kê (TCTK), số doanh nghiệp đang hoạt động tính đến thời điểm cuối năm 2002 là 62.908, cuối năm 2003 là 72.012, tức là khoảng 55% so với số doanh nghiệp đã đăng ký. Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như việc đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường của quá trình phát triển khi mà các doanh nghiệp phản ứng với những thay đổi liên tục của môi trường bên ngoài, ví dụ như cơ hội thị trường mới, các khó khăn mới xuất hiện v.v. Vì vậy, hiện tượng số lượng doanh nghiệp còn hoạt động ít hơn số lượng doanh nghiệp đã đăng ký thành lập là một điều dễ hiểu và ở một mức độ nào đó phản ánh sự năng động của khối doanh nghiệp tư nhân. ở các nước phát triển thuộc tổ chức OECD, tỷ lệ doanh nghiệp còn hoạt động sau 2 năm vào khoảng 60-70% và sau 7 năm thì chỉ còn là 40-50%. Tuy nhiên, hệ thống đăng ký doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam chưa cung cấp được thông tin đầy đủ về những doanh nghiệp đã dừng hoạt động hay thay đổi và lý do thay đổi. Theo kết quả nghiên cứu gần đây của MPDF, nguyên nhân giải thích sự chênh lệch giữa số liệu của cơ quan phụ trách đăng ký doanh nghiệp và TCTK là doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động thì hầu như không được ghi nhận trong hệ thống đăng ký doanh nghiệp của TTTTDN; nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập không phải là doanh nghiệp thành lập mới mà là chi nhánh hoặc công ty con của một doanh nghiệp khác và một số doanh nghiệp có thể đăng ký nhằm phục vụ những mục đích cá nhân hay mục đích đặc biệt của riêng doanh nghiệp (ví dụ như được mua quyển "hóa đơn đỏ" VAT). Hiểu rõ hơn những nguyên nhân này sẽ giúp Nhà nước có được các chính sách quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn.
II/Sự phát triển theo ngành nghề sản xuất kinh doanh
Đứng trên khía cạnh ngành thì khu vực kinh tế tư nhân đang phát triển mạnh. Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm Theo điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, số lượng doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực trên cả nước
Các ngành
1996
2000
Sản xuất công nghiệp
27%
20,8%
Lĩnh vực vận tải , kho bãi , thông tin liên lạc
9%
8,3%
Thương mại dịch vụ
38,8%
51,9%
Lĩnh vực khác
26%
+)Cơ cấu ngành nghề của khối kinh tế tư nhân cũng có sự thay đổi. Tỷ lệ sản xuất ngành công nghiệp giảm vì ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, mà hầu hết các doanh nghiệp của ta đều ở dạng vừa và nhỏ nên khả năng vốn không lớn .Không những vậy , khả năng thu hồi vốn và quay vòng vốn thấp( vì lượng vốn bỏ vào nhà xưởng, máy moc nhiều). Các doanh nghiệp này lại gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các tập đoàn sản xuất của nước ngoài , của các đơn vị nhà nước và các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài có khả năng hùng hậu về vốn, công nghệ và kinh nghiệm,
Năm 1988, cả nước có381 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp , đến năm 1990, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là 770 doanh nghiệp , tức là chỉ ngay sau khi đổi mới, mở cửa, số doanh nghiêp săn xuất công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt tăng nhanh trong giai đoạn 1991-2003, đây là giai đoạn Việt Nam đổi mới sâu sắc nên nhu cầu của ngành công nghiệp là rõ ràng( nhất là khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực năm 2000). Năm 2000 cả nước có 4193 doanh nghiệp tư nhân, tính cả cá thể tiểu chủ còn lớn hơn nhiều .
Số doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp không những tăng về số lượng, mà còn đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất Công nghiệp cả nước
Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân về giá trị sản xuất CN
Năm
1986
1990
1995
2002
Tỷ trọng
15,6%
29,1%
27,4%
34,3%
Cơ cấu công nghiệp theo TPKT
đơn vị :%
Năm
1999
2000
Tỷ trọng
100
100
1-Khu vực kinh tế trong nước
74,9
66
+KT Nhà nước
50,3
44,9
+KT ngoài quốc doanh
24,6
21,1
2- Khu vực có vốn FDI
25,1
34
+)Tương tự như đối với ngành sản xuất công nghiệp, lĩnh vực vận tải, kho bãi , thông tin liên lạc cũng giảm một lượng nhỏ về cơ cấu ( từ 9% xuống 8,3%) . Ngoài những lý do trên, cơ cấu ngành này còn giảm do giá dầu thế giới leo thang , khiến cho tất cả các ngành đều gặp khó khăn, đặc biệt là ngành vận tải chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Việt Nam, một nước có nền kinh tế không phải là phát triển nhưng lại là nơi có giá đất đắt đỏ vào loại nhất TG, mà diện tích đất dành cho doanh nghiệp thuê lại không nhiều vì vậy việc thuê kho bãi là rất khó khăn . Trong lĩnh vực thông tin liên lạc , các doanh nghiệp tiến dần đến phát triển về mặt quy mô, dẫn đến các doanh nghiệp không có khả năng, không đủ sức cạnh tranh sẽ bị loại .Tuy nhiên về số lượng các doanh nghiệp này cũng tăng nhanh chóng, và đóng góp vào ngân sách Nhà nước.Chiếm 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa cả nước
+)Trong số các ngành nghề chỉ có khu vực thương mại dịch vụ là tăng về cơ cấu so với các ngành khác ( 38,8% năm 1996 lên 51,9% năm 2000), chiếm hơn nửa cơ cấu ngành của khu vực kinh tế tư nhân và chiếm vị thế chủ yếu. Sự gia tăng về mặt số lượng của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này cũng là điều dễ hiểu vì khu vực thương mại dịch vụ này không cần lượng vốn quá lớn , với số vốn tuỳ theo khả năng các doanh nghiệp đều có thể hoạt động , có thể từ vài chục triệu , vài trăm triệu hay vài tỷ đồng , doanh nghiệp có thể hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, ngành thương mại dịch vụ là ngành thu hồi vốn nhanh, khả năng quay vòng vốn cao, khả năng sinh lời cao so với số vốn bỏ ra, phù hợp với đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam đó là vừa và nhỏ . Ngoài ra, lĩnh vực này có thể sử dụng lao động địa phương không yêu cầu cao về mặt trình độ vì vậy ngoài việc tạo công ăn việc làm cải thiện đời sống cho nhân dân địa phương, doanh nghiệp còn tiết kiệm được thời gian tìm nhân công, tiết kiệm được khoản phí thuê chỗ ở cho nhân công…. Đây chính là lý do cơ cấu ngành thương mại dịch vụ trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh và chiếm tỷ trọng lớn. Số lượng các doanh nghiệp tư nhân tăng lên rõ rệt : Năm 1986 cả nước mới có 568000 doanh nghiệp
Năm 1990, cả nước có 835000 doanh nghiệp
Năm 2002, cả nước có 26.421 doanh nghiệp mới thành lập, nâng số doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong thương mại dịch vụ lên 2.381.421.
Tức là chỉ trong vòng 12 năm kể từ khi đổi mới mở cửa , số doanh nghiêp tư nhân hoạt động trong khu vực dịch vụ đã tăng 285,2%.
Số lượng doanh nghiệp trong các lĩnh vực của kinh tế tư nhân
(đơn vị: doanh nghiêp)
1995
2000
Thương mại
7.645
18.000
CN chế biến
5.006
6.617
Lĩnh vực khác
2.625
6.902
Tổng
15.276
31.519
Lĩnh vực thương mại luôn là lĩnh vực thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia nhất (chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp tư nhân), và tăng trưởng nhanh chóng , chỉ trong vòng 5 năm (1995-2000) đã có10355 doanh nghiệp mới trong lĩnh vực này, làm cho số doanh nghiệp tư nhân trong ngành thương mại dich vụ năm 2000 gấp 2,3 lần năm 1995
Số lượng của các hinhg thức kinh tế tư nhân trong 1995-2000
(đơn vị : doanh nghiệp )
1995
2000
Hộ kinh doanh gia đình
10.916
23.850
Công ty trách nhiệm hữu hạn
4.242
7.200
Công ty cổ phần
118
469
Tổng
15.276
32.519
Các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực này không chỉ gia tăng về mặt số lượng , mà còn có doanh thu cao . Năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 80% doanh thu khu vực thương mại bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong nước , không những làm giàu cho bản thân doanh nghiệp mà còn đóng góp ngân sách, tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là thành phần hộ kinh doanh gia đình tăng mạnh trong lĩnh vực này( từ 10.916 dn năm1995, lên 23.850 dn năm 2000), luôn chiếm số lượng lớn trong khu vực kinh tế tư nhân ( khoảng 72%)
+) Trong ngành nông lâm ngư nghiệp, thành phần tư nhân hoạt động dưới hình thức kinh tế trang trại và hộ nông dân , sản xuất trên quy mô lớn , chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu ngành nghề của khu vực kinh tế tư nhân( năm 2000 là 12,4%).
Năm 2002, cả nước có 2525 doanh nghiệp tư nhân
69 công ty TNHH
13 triệu hộ gia đình
Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp . Trong đó 77% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp vì đây là ngành chính của nước ta( nước ta có nghề truyền thống là trồng lúa nước , trải qua nhiều năm có kinh nghiệm). Hiện nay có tới 95% là sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu ngành nông lâm ngư nghiệp , trên 80% sản xuất nông nghiệp là do khu vực kinh tế tư nhân đảm nhiệm . Nền kinh tế trang trại và sản xuất quy mô lớn do khu vực tư nhân sở hữu mang lại hiệu quả lớn cho nền kinh tế, giúo nước ta khai thác hiệu quả nguồn lực hiện nay hơn rất nhiều so với cơ chế cũ khi nền kinh tế tập thể, hợp tác xã đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực nông nghiệp . Còn trong lâm nghiệp , nhà nước cũng có chính sach giao đất giao rừng cho tư nhân, nâng cao nhận thức của tư nhân về quyền lợi và nghĩa vụ bảo vệ rừng, vùa mang lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp, cá nhân, vừa mang lại lợi ích cho đất nước . Khu vực kinh tế tư nhân cũng đã nhân thức được khả năng mang lại lợi nhuận từ ngành lâm ngư nghiệp, vì vậy diện tích rừng được phủ xanh hàng năm tăng, diện tích mặt nước thả cá, tôm , cua tăng nhanh chóng, mang lại công ăn việc làm và thu nhập đáng kể cho các doanh nghiệp và hộ dân. Đã xuất hiện nhiều doanh nghiêp lớn , cá nhân xuất sắc , tỷ phú trong những lĩnh vực này.
Trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, tỷ trọng kinh tế hộ tự chủ và kinh tế trang trại tăng lên rõ rệt, tương ứng là sự sút giảm tỷ trọng của kinh tế tập thể và quốc doanh. Đây là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu để tạo nên sự chuyển biến thần kỳ của sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa có khối lượng lương thực xuất khẩu lớn (từ 1989 đến nay đã xuất khẩu gần 50 triệu tấn gạo, thu được trên 11 tỉ USD); vừa phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
III/ Sự phát triển theo lãnh thổ
Do đặc điểm địa hình kéo dài từ Bắc tới Nam nên nước ta có các vùng địa lý rất khác nhau về điều kiện tự nhiên: đất đai, thời tiết, khí hậu cũng như tài nguyên thiên nhiên và địa hình. Dựa trên các cơ sở điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, có thể phân định ra những vùng khác nhau và hợp lý như thế nào đó để có thể vừa khai thác tốt nhất tiềm năng của từng vùng, vừa giúp tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các vùng kinh tế. Các doanh nghiệp thương mại hiện chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, kết cấu hạ tầng phát triển, điều kiện giao thông thuận lợi, người tiêu dùng có thu nhập cao, sức cầu lớn. Do tập trung quá nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn, nên tính cạnh tranh thường rấtgay gắt. - Trên địa bàn nông thôn, DN tư nhân chiếm 14%, với số lượng 40.500 doanh nghiệp, tập trung hầu hết ở 1631 làng nghề, trong đó DNNN chiếm 14,16%, HTX 5,76%, doanh nghiệp tư nhân 80%. Nếu phân theo lĩnh vực hoạt động có khoảng 18,62% doanh nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, 32,5% doanh nghiệp sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, 49,78% doanh nghiệp dịch vụ. Hiện 100% sản lượng của một số sản phẩm truyền thống như cói, đan lát, thủ công mỹ nghệ... do các DN tư nhân ở nông thôn sản xuất. Vốn bình quân một doanh nghiệp rất thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có. DN tư nhân ở nông thôn tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp, thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước. Nhưng, nhìn chung, lao động trong các DN tư nhân ở nông thôn chủ yếu dựa vào lao động bản thân và gia đình là chính (lao động làm thuê chỉ chiếm khoảng 32% trong các hộ sản xuất ngành nghề), khả năng giải quyết lao động thừa ở nông thôn chưa cao, bình quân 1 DN tư nhân ở nông thôn sử dụng khoảng 30 lao động; trình độ, tay nghề của người lao động cũng rất thấp: trung học phổ thông 35%, nghệ nhân 0,06%, trung cấp trở lên 9,8%; tình trạng nợ đọng, chiếm dụng vốn còn khá phổ biến; phương thức sản xuất còn rất lạc hậu, tình trạng ngưng trệ sản xuất, thua lỗ, phá sản rất phổ biến.
Nhìn chung, ở nước ta, quy mô DN tư nhân còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh rất thấp, sản xuất kinh doanh mang tính chất tự phát, thiếu định hướng, mất cân đối, phân bổ không đều, chủ yếu ở ph ía Nam( 73%, riêng TPHCM chiếm 25%) , khu vực phía Bắc chiếm 18%, miền Trung chiếm9% ,(DN tư nhân tập trung ở Đông - Nam Bộ 35,8%, đồng bằng sông Hồng 24,3%, đồng bằng sông Cửu Long 16,6%)
IV/ Cơ hội và thách thức của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay
a-Cơ hội lớn
Từ năm 2000 trở lại đây, KVKTTN nói chung, DNTN nói riêng, đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình.
Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa... Chính trong môi trường đó, KVKTTN và đặc biệt là DNTN đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt: tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính...
KVKTTN phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, khởi đầu từ khi chúng ta đổi mới, và đặc biệt phát triển từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới. Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam , trong đó có KVKTTN phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên các thị trường khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, mức thu nhập và khả năng tiêu dùng còn thấp, các DNVN rất thiếu "đầu ra". Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho DNVN cơ hội có các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh.
Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản sẽ được dỡ bỏ, các DNVN sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý, chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp.
b-Thách thức không nhỏ
Tuy nhiên, trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới, khu vực kinh tế này còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại:
Một là, bản thân KVKTTN của nước ta nhìn chung còn nhỏ, yếu, mới hình thành, rất thiếu các nguồn lực cần thiết cũng như thiếu sự liên kết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển.
Trong DNTN của chúng ta có tới 95% thuộc quy mô nhỏ và vừa (theo tiêu chí của nước ta là có dưới 300 lao động và/hoặc dưới 10 tỉ đồng vốn), trong đó khoảng 50% thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ (dưới 100 lao động và/hoặc dưới 5 tỉ đồng vốn). Cái yếu của DNTN ở nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp các nước xung quanh. Họ cũng yếu hơn phần lớn các DNNN trong cùng lĩnh vực về quy mô, về khả năng tiếp cận các nguồn lực và kinh nghiệm thương trường. Do nhỏ, yếu, DNTN nước ta vừa rất khó đương đầu với cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế, vừa dễ bị tổn thương trước những biến động thị trường. Hơn 80% DNTN ở nước ta mới ra đời sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 được thi hành nên họ còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường, chưa đủ thời gian để trưởng thành, trong khi đã phải đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh.
Hầu hết các DNTN ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản cần thiết cho họ: nguồn vốn, đất đai, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực có chất lượng, thị trường, thông tin... và cả mối quan hệ với các đối tác quan trọng. Bản thân họ không thể có đủ nguồn lực, lại gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với các nguồn lực có sẵn ở bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những nguồn đã được Nhà nước cam kết hỗ trợ, ưu đãi hoặc giành quyền bình đẳng khi tiếp cận. Tình trạng thiếu nguồn lực của DNTN bị kéo dài đã hạn chế rất lớn sự phát triển của họ. Tuy trong thời gian qua, DNTN đạt tốc độ phát triển nhanh trên một số lĩnh vực, nhưng điều đó cũng do điểm xuất phát của họ rất thấp. Nếu tính tới hàm lượng tăng trưởng, DNTN khó sánh được với DNNN, còn tính cả về hàm lượng và chất lượng, họ khó sánh được với FDI, nhất là trong phát triển công nghiệp và các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn. Do vậy, DNTN vừa khó cạnh tranh, vừa khó là đối tác bình đẳng với DNNN, FDI và doanh nghiệp các nước khác. Cho tới nay, số DNTN trưởng thành, đạt quy mô kinh tế hiệu quả còn chiếm tỷ lệ rất thấp trong DNTN ở nước ta. Ngay trong số DNTN đã trưởng thành cũng không ít doanh nghiệp đang lúng túng về chiến lược và nguồn lực để tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan, hoặc trong từng vùng để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp. Từng DNTN mới chỉ dựa vào sức mình là chính, chưa khai thác, sử dụng được sức mạnh của sự liên kết vốn rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa. Thực tế đây cũng là vấn đề chung của các doanh nghiệp Việt Nam, với những mạng lưới kinh doanh chưa được hình thành đầy đủ, thiếu những doanh nghiệp thật mạnh có khả năng làm trụ cột, đầu đàn tạo sự liên kết, hợp tác vững chắc để nhân thêm sức mạnh trong cạnh tranh quốc tế.
Hai là, môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng. Tình trạng này kéo dài đã lâu nhưng chậm được khắc phục, khiến cho môi trường kinh doanh luôn là thách thức lớn nằm ngoài khả năng kiểm soát của DN. Trong môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay, trở ngại lớn nhất của KVKTTN là ở 5 mặt sau:
+ Việc gia nhập thị trường tuy đã được cải thiện nhiều do Luật Doanh nghiệp nhưng vẫn còn đòi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian. Do vậy, vẫn còn có khó khăn cho nhiều người, nhiều vùng khi muốn lập thêm DN mới. Hiện nay, ngoài khâu đăng ký kinh doanh là nhanh chóng và ít tốn kém nhất, các DN mới ra đời còn phải qua 3 khâu (khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hóa đơn) trước khi có thể bắt đầu hoạt động, với tổng thời gian 50 - 60 ngày và chi phí khoảng 3 - 5 triệu đồng, tương đương với 49% thu nhập bình quân đầu người trong 1 năm ở nước ta. Ngoài ra, quyền kinh doanh của DNTN trong một số lĩnh vực cũng còn bị hạn chế, hoặc do các quy định về điều kiện kinh doanh hoặc do quy hoạch ngành, vùng ở một số nơi, hoặc do các rào cản thực tế khác.
+ Còn những rào cản lớn về pháp lý và hành chính trong quá trình hoạt động của DN. Hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta còn những nhược điểm: thiếu minh bạch, thiếu nhất quán, thiếu ổn định, khó tiên liệu; tổ chức thực thi lại kém. Hệ thống hành chính của ta kém hiệu quả, với tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động của DN phổ biến và kéo dài. Sự yếu kém, nhũng nhiễu của không ít công chức đã làm vô hiệu hóa những chính sách tốt và cam kết cải cách của Nhà nước. Nhiều vướng mắc của DN trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, thuế, phí, hải quan, đất đai... kéo dài đã lâu nhưng rất chậm được giải quyết. Đó là những vấn đề chung của mọi loại hình DN ở nước ta, nhưng đối với DNTN, những vấn đề này còn nặng nề hơn do sự phân biệt đối xử vẫn tồn tại trên thực tế.
+ Tiếp cận các nguồn lực rất khó khăn và tốn kém. Như đã nêu trên, DNTN rất khó tiếp cận với các nguồn lực cần thiết, và họ phải trả giá rất cao để tiếp cận với các nguồn lực đó. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được tiếp cận dễ dàng hơn, với những điều kiện ưu đãi và chi phí thấp hơn nhiều. Thực tế này gây nên sự bất bình đẳng lớn cho DNTN, làm cho họ mất đi nhiều cơ hội thị trường, tăng rủi ro và giảm đáng kể khả năng đầu tư của họ.
+ Chi phí kinh doanh ở nước ta khá cao so với các nước trong khu vực, khiến cho DNTN của ta khó có thể giảm giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời chi phí cao cũng hạn chế khả năng sinh lời, làm giảm động lực và nguồn lực trong kinh doanh, cản trở nhiều người đi vào hoạt động thương trường hoặc tích lũy thêm vốn cho đầu tư mới.
So với các nước trong khu vực, chi phí kinh doanh ở nước ta cao về nhiều mặt. Các dịch vụ hạ tầng như đất đai, nhà xưởng, điện, thông tin liên lạc, giao thông vận tải... đều có mức giá cao, chất lượng dịch vụ lại thấp, khiến cho chi phí thực tế đối với DN càng lớn. Chi phí vốn cao về lãi suất, phí tiếp cận, lại khó vay trung hạn, dài hạn nên thêm đắt đỏ cho các DN cần vốn để đầu tư. Chi phí hành chính, chi cho các dịch vụ cần thiết, nhiều khoản chi không được tính vào giá thành để trừ thuế... càng làm tăng chi phí thực tế của DN. Những nguyên nhân cơ bản của tình trạng chi phí kinh doanh cao ở nước ta như quản lý yếu kém, độc quyền kinh doanh của một số DNNN trong một số lĩnh vực... chậm được khắc phục, nên tình trạng này kéo dài và trở thành gánh nặng lớn đối với DNTN.
+ Thiếu hệ thống dịch vụ và tổ chức hỗ trợ DN. Hệ thống dịch vụ phát triển kinh doanh, hệ thống tổ chức hỗ trợ DN rất cần thiết đối với KVKTTN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa, các DN phi hình thức. ở nước ta, cả 2 hệ thống này đều chưa được phát triển, vừa thiếu, vừa yếu, vừa kém về chất lượng.
Ba là, thách thức của môi trường kinh doanh quốc tế trong tiến trình hội nhập. Là nước đi sau, doanh nghiệp tham gia sâu vào thị trường thế giới, nước ta và các doanh nghiệp, đặc biệt là KVKTTN gặp không ít trở ngại trong quan hệ với cộng đồng kinh doanh quốc tế trên thế giới.
Trước hết, môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện không thuận lợi cho các nước đang phát triển như nước ta. Sự bất công, bất bình đẳng không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên trên nhiều lĩnh vực. Các nước lớn, các công ty đa quốc gia nắm quyền chi phối thị trường đã luôn tìm cách lái thị trường thế giới theo hướng có lợi cho họ.
Trong khi các nước đang phát triển luôn luôn gặp sức ép đòi phải mở cửa thị trường, thì trong thực tế các rào cản thuế và phi thuế, các hàng rào kỹ thuật lại ngày càng được các nước phát triển dựng lên nhiều hơn, gây trở ngại cho xuất khẩu của các nước đang phát triển. Nước ta và KVKTTN của nước ta thậm chí còn phải chịu sự phân biệt đối xử từ những thủ tục như chứng minh năng lực sản xuất, kiểm tra tại doanh nghiệp... do một số nước bạn hàng tạo thêm. Trong điều kiện như vậy, khoảng cách với bạn hàng, sự hạn chế của KVKTTN do thiếu thông tin, hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng, phương tiện trong kinh doanh quốc tế càng đẩy chúng ta vào thế khó khăn hơn.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta còn đang bị sức ép rất lớn về thời gian. Nước ta cần hội nhập sớm, nhưng DN ta lại có quá ít thời gian để chuẩn bị. Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh toàn cầu ngay từ bây giờ, trong khi năng lực cạnh tranh của chúng ta còn thấp và phải mất nhiều thời gian, công sức để cải thiện. Chúng ta phải cố gắng để theo kịp trình độ phát triển ở một số nước khác, nhưng do thế giới bên ngoài thay đổi nhanh, nên tốc độ và chất lượng thay đổi của chúng ta khó theo kịp họ. Dù tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hiện nay có khá cao, thì với hàm lượng tăng nhỏ hơn, năng suất lao động thấp hơn nhiều nước khác, trên thực tế chúng ta vẫn đang tụt lại xa hơn sau họ. Thực tế đó còn khiến chúng ta kém khả năng ứng phó với các biến động của thị trường và dễ bị tổn thương hơn...
Nhìn chung, chặng đường trước mắt của KVKTTN nước ta còn rất dài và đầy gian nan. Tuy nhiên, với quyết tâm cao và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, với lực lượng doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang trưởng thành, đầy ý chí vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước, với bản lĩnh và tài năng của mình, với sự liên kết, hợp tác ngày càng phát triển giữa các DNVN với nhau và với cộng đồng kinh doanh quốc tế, chắc chắn KVKTTN Việt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức, giành những thắng lợi lớn hơn trong kinh doanh, phát triển nhanh và vững chắc để làm một động lực mạnh đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập.
C/ Quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong TK hiện nay
I/ Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân
Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Khóa IV (tháng 8-1979) khi đất nước lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng. Có thể coi hội nghị này là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt ra những nền móng đầu tiên cho đường lối đổi mới mà sau này được Đại hội VI khẳng định. Cùng với nhiều chủ trương kinh tế đúng đắn nhằm "làm cho sản xuất bung ra", Hội nghị khẳng định sự cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp thị trường có kế hoạch với thị trường không có kế hoạch, nhìn nhận tích cực hơn với kinh tế tư nhân ...
Bước ngoặt cơ bản là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986). Sau khi phê phán "những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh", mắc bệnh "chủ quan, duy ý chí, giản đơn hóa", "chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan", Đại hội khẳng định đường lối đổi mới, chỉ rõ "nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", chỉ rõ sáu thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh; kinh tế tập thể; kinh tế gia đình; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước. Xin lưu ý là Đại hội VI, trong khi thừa nhận sự cần thiết của kinh tế tư bản tư nhân, cũng chỉ "cho phép những nhà tư sản nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và quản lý của họ để tổ chức sản xuất, kinh doanh trong một số ngành, nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết ... Quy mô và phạm vi hoạt động của các cơ sở kinh tế tư bản tư nhân được quy định tùy theo ngành, nghề và mặt hàng" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI). Theo nghị quyết Đại hội VI, "quá trình sử dụng kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân luôn luôn gắn liền với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần đó bằng nhiều hình thức" . "Kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu vực quốc doanh làm nòng cốt phải giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể là chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện tính ưu việt và chi phối được các thành phần kinh tế khác thông qua liên kết kinh tế và "trong lĩnh vực lưu thông, phải xóa bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân"
Khái niệm "kinh tế tư nhân" được chính thức sử dụng từ Hôi nghị lần thứ 6 của Trung ương Khóa VI (tháng 3-1989). Nghị quyết chỉ rõ: "trong điều kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội".
Về mặt quy định pháp lý, việc ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (năm 1990) đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân với các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991) quy định "Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước, trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức". (Văn kiện Đại hội VII).
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) quyết định "kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài".
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4-2001) khẳng định " Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc" (Văn kiện Đại hội IX). Đại hội quyết định khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân.
Để thực hiện nghị quyết hội nghị TW lần 5 khoá 9 đã ban hành nghị quyết 14/NQ _TW 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế , chính sách , khuyến khích và tạo điều kiện phát triển thành phần kinh tế tư nhân.
II/ Quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân
Xác định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quôc dân . Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN , góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế , CNH-HĐH , nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế
Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo Pháp Luật , bảo hộ quyền sở hưu tài sản hợp pháp của công dân. Khuyến khích, hỗ trợ , tạo điều kiện thuận lợi và định hướng quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo Pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Các hộ kinh doanh cá thể được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển cả ở nông thôn và thành thị , khuyến khích các hộ liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện , làm vệ tinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn
Tạo môi trường thuận lợi về chính sách , pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp tư nhân phát triển rộng rãi trong các ngành các nghề sản xuất kinh doanh mà Pháp luật không cấm , không hạn chế về quy mô , nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước . Khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần , bán cổ phần , liên doanh liên kết với nhau , với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước
Bảo vệ lợi ích hợp pháp , chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết , tương thân tương ái , chăm lo , bồi dưỡng , giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước , tự hào dân tộc , gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng CNXH
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng , phát huy vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng như trong từng doanh nghiêp
Vấn đề giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế tư nhân được Bộ chính trị nêu rõ : Việc phát triển kinh tế tư nhân phải nắm vững và thực hiện tốt các yêu cầu :
+ Phát triển rộng rãi kinh tế tư nhân theo đúng quy định của Pháp luật , đồng thời chăm lo phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể , đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước , làm cho kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
+ Nhà nước hoạch định , hỗ trợ , dẫn dắt , bảo hộ sự phát triển của kinh tế tư nhân trong mối quan hệ bình đẳng giữa các TPKT và quản lý điều tiết sự phát triển đó bằng pháp luật, chính sách
+ Bảo vệ hợp lý , chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động , xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết tương thân tương ái
+ Khuyến khích kinh tế tư nhân liên kết , liên doanh với kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể, phát triển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần có cổ phần bán cho người lao động , tham gia mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước thuộc diện thuộc diện cổ phần hoá và hợp tác xã
+ Chăm lo bồi dưỡng giáo dục các chủ doanh nghiêp , nâng cao lòng yêu nước , tự hào dân tộc , gắn bó với lợi ích của đất nước , dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH , kinh doanh đúng pháp luật , có hiệu quả, tích cực đóng góp vào các hoạt động xã hội
+ Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng , phát huy vai trò của tổ chức chính trị_ xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng như cho từng doanh nghiệp tư nhân
III/ Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
Để phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế tư nhân đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, có hai loại việc sau đây cần được chú trọng.
Một là, về mặt Nhà nước. Trước hết là xóa bỏ những thể chế, chính sách còn thể hiện sự phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Trong thực tế, một môi trường kinh doanh thuận lợi, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật là yêu cầu hàng đầu để phát triển đất nước trong tình hình mới. Hơn nữa, khi hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ bị thu hẹp dần, môi trường kinh doanh bình đẳng không thể không thiết lập.
Điều đáng mừng là, từ 1-7-2006, Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005 có hiệu lực sẽ tạo sân chơi bình đẳng hơn giữa các loại hình doanh nghiệp (trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài) trong việc gia nhập thị trường, đầu tư kinh doanh và quản trị nội bộ doanh nghiệp. Thế nhưng, trong những thể chế, chính sách thuộc nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp tư nhân vẫn còn bị đối xử không bình đẳng, từ sản xuất đến lưu thông, từ đào tạo đến ứng dụng khoa học, công nghệ ... Nổi cộm nhất hiện nay là trong lĩnh vực vốn tín dụng và trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận. Về vốn, có đến 7- 80% vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh được dành cho doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp tư nhân rất khó vay vốn; trong đó ngoài những nguyên nhân khác, có một nguyên nhân không kém quan trọng là: ngân hàng cho doanh nghiệp nhà nước vay, nếu không thu hồi được thì Nhà nước sẽ thực hiện nhiều biện pháp để khắc phục, ngân hàng có thể yên tâm, nhưng nếu cho doanh nghiệp tư nhân vay mà không thu hồi được vốn, ngân hàng rất dễ bị "hình sự hóa", bị xét hỏi về lập trường, quan điểm ...
Về mặt bằng, doanh nghiệp tư nhân đi tìm đất cũng rất khó khăn. Ngay tại Hà Nội, nơi hiện có khoảng 40.000 doanh nghiệp tư nhân, nhưng có đến 8.000 doanh nghiệp thiếu mặt bằng sản xuất nghiêm trọng; thành phố có 20 cụm công nghiệp nhỏ và vừa nhưng cũng chỉ thu hút có 143 doanh nghiệp tư nhân, giải quyết được hơn 10% nhu cầu. Nếu tìm đất ngoài khu công nghiệp, thì quy trình cũng rất phức tạp: từ việc doanh nghiệp tự đi tìm đất, tự thỏa thuận đền bù với dân, xin địa phương phê duyệt dự án đầu tư, v.v... đến khi có đất, tất cả tới 8 bước, vài chục con dấu, chữ ký và nhanh nhất cũng mất gần một năm. Trong khi đó, có nhiều doanh nghiệp nhà nước lại đang thừa đất, doanh nghiệp tư nhân buộc phải thuê lại, nhưng với giá cả khá cao và thời gian không hạn định chắc chắn.
Chính vì vậy, việc rà soát lại và sửa đổi, bổ sung toàn bộ hệ thống thể chế, chính sách cho phù hợp với tư duy mới, loại bỏ những thể chế, chính sách còn phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân là hết sức cấp bách. Đương nhiên, đi đôi với việc hình thành hệ thống thể chế, chính sách, phải đẩy mạnh cải cách hành chính, khắc phục những hành vi tiêu cực, sách nhiễu doanh nghiệp tư nhân của những công chức trong bộ máy công quyền đang làm tăng chi phí, hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Những nhiệm vụ này đã được nói đến nhiều lần, ở nhiều diễn đàn, vấn đề hiện nay là sự chỉ đạo thực hiện với quyết tâm ở tất cả các ngành, các cấp quản lý nhà nước.
Hai là, về phía doanh nghiệp tư nhân. Bản thân doanh nghiệp tư nhân, chủ yếu vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang còn nhiều yếu kém, nhất là về khả năng tìm hiểu thị trường, trình độ lập dự án, xác định chiến lược kinh doanh; khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ mới; cũng như trình độ, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, v.v... Khó khăn lớn nhất hiện nay là nguồn nhân lực: là trình độ hạn chế của đội ngũ doanh nhân cũng như của người lao động trong doanh nghiệp khi phải đối mặt với yêu cầu nâng cao khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, dịch vụ cũng như của cả doanh nghiệp.
Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nhân phải xem lại mình, nhận rõ chỗ mạnh, chỗ yếu, để đề ra cho được những giải pháp thiết thực, bảo đảm hiệu quả. Mỗi doanh nghiệp đề ra cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với tình hình mới, khi bao cấp không còn, hàng rào bảo hộ phải gỡ bỏ ... Mỗi doanh nghiệp tư nhân phải đề cao văn hóa kinh doanh, tôn trọng pháp luật, tôn trọng người tiêu dùng, tôn trọng bạn hàng, khắc phục tình trạng trốn thuế, lậu thuế, kinh doanh bất hợp pháp.
Doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng nhanh, với yêu cầu cắp bách nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, cũng là nơi để đội ngũ doanh nhân thể hiện tài năng kinh doanh của mình; nói rộng ra, doanh nghiệp tư nhân trở thành nơi đào tạo một đội ngũ những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, những tài năng kinh doanh trong nước và vươn ra thế giới của đất nước. Nhân tài quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp chỉ có thể nảy nở trong quá trình vật lộn trên thương trường, trưởng thành trong cạnh tranh gay gắt. Vì thế, mỗi doanh nhân ngày nay chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát huy cao nhất vốn con người trong doanh nghiệp vào việc hiến kế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, chính là vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, song không kém phần quan trọng là vừa góp phần đào tạo nhân tài cho công cuộc quản trị kinh tế đất nước trong tương lai.
Đồng thời, để khắc phục yếu kém, bổ sung năng lực cho mỗi doanh nghiệp tư nhân trong tình hình mới, nhất là về các mặt tìm kiếm thị trường, đối mới công nghệ, cải tiến quản lý, rất cần thiết mở rộng hơn nữa việc liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp kinh doanh cùng một mặt hàng. Muốn vậy, cần phát triển hơn nữa các hội, hiệp hội nghề nghiệp. Hiện nay, Dự thảo Luật về Hội đang được soạn thảo và khi được Quốc hội thông qua sẽ là một đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, tạo thêm sức mạnh cho kinh tế tư nhân.
Kết luận
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong đó có kinh tế tư bản tư nhân hiện nay là sản phẩm gắn liền với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đúng đắn của Đảng ta đã được thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước chứng minh. Có thể nói, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã nội chủ ngnĩa ở nước ta. Đây cũng là một nội dung quan trọng của đổi mới trong nhận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay của Đảng ta đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, sáng tạo. Sự phát triển của kinh tế tư nhân có những đóng góp quan trọng và sự phát triển kinh tế - xã hội như: huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư và sản xuất kinh doanh; trở thành một bộ phận cấu thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước; làm cho sản xuất và lưu thông hàng hóa thêm phong phú và đa dạng; hình thành và phát triển các loại thị trường; làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước; tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong sản xuất, kinh doanh....
Trong khi khẳng định những mặt tích cực của kinh tế tư nhân ở nước ta, cũng cần thấy rõ những hạn chế, khuyết tật của nó trong quá trình phát triển như tính chất tự phát, vô chính phủ trong sản xuất, kinh doanh; tình trạng chấp hành không nghiêm luật pháp, kỷ cương... Đặc biệt, không ít các doanh ngniệp tư bản tư nhân trốn, lậu thuế, kinh doanh bất hợp pháp, bóc lột công nhân như thời tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản; móc ngoặc, làm tha hóa một số cán bộ có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước, các tổ chức và cơ quan kinh tế nhà nước; chiếm dụng, rút ruột hàng trăm tỷ đồng của Nhà nước... Vì vậy, cần đánh giá một cách khách quan, công bằng sự phát triển của kinh tế tư nhân, chống khuynh hướng đề cao quá mức dẫn đến tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế tư nhân
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung của dấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một biểu hiện rõ rệt nhất vấn đề “ai thắng ai” giữa con đường xã hội chủ nghĩa là con đường tư bản chủ nghĩa. Đương nhiên, đây là một cuộc đấu tranh rất phức tạp và khó khăn. Kinh tế tư nhân chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã lội khi Đảng và Nhà nước ta không chỉ có đường lối, chính sách đúng mà còn phải giỏi trong quản lý, điều hành để có thể đảm bảo sự phát triển theo mục tiêu và quỹ đạo đã xác định, không bị chệch hướng. Chúng ta chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân đồng thời cũng chủ trương đảm bảo thực hiện sự định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế tư nhân, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước Nếu không làm được như vậy thì kinh tế tư nhân sẽ phát triển thành kinh tế tư bản tư nhân, kéo theo những hệ lụy về chính trị, xã hội khó lường. Trong cuộc đấu tranh hiện nay, chủ nghĩa tư bản quốc tế và các thế lực thù địch rất mong điều này sẽ xảy ra.Nếu thực hiện được những vấn đề trên đây thì kinh tế tư nhân ở nước ta sẽ phát triển đúng hướng, có hiệu quả tốt; củng cố nhận thức và niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời có cơ sở để đấu tranh, đánh bại các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ và phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình kinh t ế chính trị Mác-Lênnin
- Giáo trinh kinh tế chính trị Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
- Phát triển kinh tế tư nhân ở VN hiện nay
- Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và TBTN
- Phát triển kinh tế tư nhân định hướng XHCN
- Trang web Bộ tài chính
- Tạp chí cộng sản điện tử
- Trang web Tổng cục thống kê
- Thời báo kinh tế Sài Gòn
- Báo thanh niên, Tuổi trẻ
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35737.doc