Đề tài Quan điểm chính trị, xã hội trong triết học Nho Gia và vai trò của nó đến xã hội Việt Nam hiện tại

Tóm lại, tư tưởng Nho giáo có nhiều điểm tích cực và tiêu cực, nhưng có một điều không thể phủ nhận là nó vẫn đang tồn tại, ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam từ xưa đến nay. Đây là một tư tưởng triết học lớn, vì vậy vẫn cần phải nghiên cứu thêm nữa để hiểu rõ hơn tầm ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng này. Mặc dù bị hạn chế do lịch sử, song một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Nho giáo đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cũng giống như Nho giáo, hiện nay chúng ta đã và đang ra sức phấn đấu cho một thế giới hoà bình, cho sự bình đẳng của mọi dân tộc trên toàn thế giới. Vì vậy, chúng ta cần ngăn chặn được các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ chiến tranh, chống lại được nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, kế thừa các tư tưởng nhân văn trong ứng xử và giao tiếp của Nho giáo là một việc làm hết sức cần thiết. Có vậy, ta như hiểu thêm về một phần nguồn gốc suy nghĩ của mình.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1875 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm chính trị, xã hội trong triết học Nho Gia và vai trò của nó đến xã hội Việt Nam hiện tại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới. Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân” (người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho mọi người sống hợp với luân thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó. Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hoá. Cũng bởi Nho giáo có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến nước ta, nên tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam ngày nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hoàn thiện bản thân, giúp lý giải nhiều thắc mắc về lối sống, phong tục cũng như suy nghĩ của người Việt Nam. Đó là lý do vì sao em chọn đề tài “Quan điểm chính trị, xã hội trong triết học Nho Gia và vai trò của nó đến xã hội Việt Nam hiện tại.” MỤC LỤC Nội dung 1. Khái quát lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại 1.1 Khái quát về đất nước Trung Hoa 1.1a- Địa lý : Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía Đông giáp bờ Thái Bình Dương, phía Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non hiểm trở như Himalaya, Tây Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng Xiberia quanh năm lạnh giá, phía Nam giáp các quốc gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước Trung Hoa chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên và điều kiện tự nhiên của nước Trung Hoa thay đổi rất lớn ở những vùng khác nhau. Phía Bắc là những cao nguyên, bình nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam có núi sông bao bọc hiểm trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như Hoàng Hà, Dương Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên, khí hậu mà có nhiều chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến nhiều nền văn minh, tư tưởng khác nhau. 1.1b- Nhân chủng học: Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên các khu vực chính như sau : - Phía Bắc : Các chủng tộc Hoa Bắc có cuộc sống chủ yếu là du mục, săn bắn. Do đời sống du mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các dân tộc kém phát triển, đồng hoá hay du nhập các nền văn hoá khác nhau. - Phía Nam : Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng, săn bắn, khai thác các sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân tộc này sống tương đối khép kín, yêu chuộng hoà bình, tự do. - Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà : các dân tộc Tam Miêu sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức toán học, khoa học tự nhiên. 1.2 - Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học : Trung Hoa thời cổ có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN kéo dài tới tận cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời kỳ lớn : 1. Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; 2. Thời kỳ từ thế kỷ VIII tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN. Trong thời kỳ thứ nhất : những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Thời kỳ thứ hai : còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai đoạn chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi) sang giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân rã làm 7 quốc gia khác nhau : Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thuỷ Hoàng - vua nước Tần đã tiêu diệt 6 nước thống nhất giang sơn hình thành nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên. Dưới thời thịnh vượng của nhà Chu, đất đai thuộc về nhà Vua thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bị một tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó, một loạt học thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Điều đó trở thành nét đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính trong thời kỳ loạn lạc này đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, được tồn tại và phát triển theo suốt bề dầy lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa. Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết những vấn đề của triết học như vấn đề bản nguyên thế giới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề con người; đặc biệt là vấn đề tính người, vấn đề sự biến dịch của vạn vật và một số vần đề thuộc lý luận nhận thức. 1.3 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại : a- Triết học tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng hành vi cá nhân, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội. b- Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu : hướng vào nội tâm - luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây (hướng ngoại). c- Đa dạng, phong phú : luôn chú ý các mặt đối lập, thống nhất của vấn đề, coi trọng sự hài hòa trong xã hội. d- Phương pháp tư duy : nhận thức trực quan được coi trọng, “Tâm” là gốc rễ của nhận thức. Tư tưởng triết học không được diễn đạt khúc chiết mà rời rạc thông qua các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn… e- Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần, hữu thần đan xen lẫn nhau. 1.4 Các học thuyết có ảnh hưởng đến Nho giáo: Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “Âm - Dương”, “Ngũ hành” đã được lưu truyền từ trước thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Tới thời Xuân Thu - Chiến Quốc, những tư tưởng về Âm Dương - Ngũ hành đó đã đạt tới mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới. a- Thuyết Âm - Dương : Tư tưởng triết học về Âm - Dương : Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau : Âm và Dương. + Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi. + Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực. + Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý : Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực thì Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khỏi”. Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận). Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như : Kiền, Khôn, Bí, Thái, Truân, Ký tế, Vị tế… Sự chú giải Kinh Dịch không phải của một tác giả mà là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành” của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc. b- Thuyết Ngũ hành : Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm dương hoàn bị hơn. Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên. Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa thì bùng cháy, bốc lên. Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng. Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay. Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được. Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật. Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau. Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ. Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau. Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái. Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, môĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó. Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển. Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau. Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc. Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành liên tục, tương phản, tương thành với nhau. Quy luật chế hoá ngũ hành là: Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc. Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả. Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ. Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim. Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ. Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc. Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng trongthiên nhiên. Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ nhìn hành mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả, nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị. c- Thuyết Bát quái : Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được tạo thành bởi 8 nhóm sự vật, hiện tượng khác nhau. Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ Trời. Vì lúc đó chưa có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả. Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho phần Dương. Sử dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho phân Âm. Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm gọi là Dương Nghi và Âm Nghi. Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Toàn Dương nên gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là đã lớn). Đặt một vạch Âm lên trên Dương Nghi thì ta có một Dương làm chủ ở dưới, nên gọi là Thiếu Dương (Thiếu có nghĩa là còn nhỏ). Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thì thành Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch Dương lên trên Âm Nghi thì ta có một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu Âm. Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm. Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương thể hiện Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong Âm có mầm Dương. Dương sinh ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch Dương mới sinh ở dưới làm chủ. Dương trưởng ở trên thành ra Thái Dương với hai gạch Dương là Dương đã toàn thịnh. Âm sinh ở trên cho nên Thiếu Âm có một Âm mới sinh ở dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới cho nên Thái Âm với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh. Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3 vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào), còn được gọi là Quẻ Đơn hay Đơn Quái, dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính của hoạt động Âm Dương trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành Bát Quái được thực hiện theo thứ tự hoàn toàn theo tự nhiên : Dương trước, Âm sau, tay mặt trước, tay trái sau. Thứ tự và tên gọi của Bát Quái như sau : Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Càn : Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy. Đoài : Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn. Li : Lửa, hơi nóng. Li vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn. Chấn : Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy. Tốn : Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy. Khảm : Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp tàn. Cấn : Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn. Khôn : Đất, Địa. Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy. 2. Những tư tưởng cơ bản trong triết học Nho giáo: 2.1 Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo: Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. a- Tứ Thư : là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử. C Đại học : Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước. Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử. Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”). C Trung Dung : Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư. C Luận Ngữ : là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách. Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo. C Mạnh Tử : Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học. - Tâm học : Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời. - Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này. b- Ngũ Kinh : C Kinh Thi : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận Ngữ). C Kinh Thư : ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ. C Kinh Lễ : ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ). C Kinh Dịch : nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện. C Kinh Xuân Thu : ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.) C Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh. 2.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo và tư tưởng chính trị xã hội: Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo". 2.2.1: Tư tưởng xã hội (đối với con người): Tu thân Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình. C Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ). - Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ. - Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng. - Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng. C Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. - Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật. - Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. - Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. - Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai. - Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. C Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" - Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha. - Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng, - Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con" C Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh. - Công: khéo léo trong việc làm. - Dung: hòa nhã trong sắc diện. - Ngôn: mềm mại trong lời nói. - Hạnh: nhu mì trong tính nết. Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân : · Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng. · Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường. · Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện. Hành đạo: Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). 2.2.2 Quan điểm về trị quốc Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội Đại Đồng, Nho giáo nêu ra nguyên tắc quản lý xã hội như sau: - Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung ương tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào tay 1 người được gọi là “Hoàng đế” (Hay “thiên tử”- tức con trời). Để thực hiện chế độ này, Nho giáo xây dựng chế độ công hữu về đất đai(đất đai thuộc nhà vua). Khổng Tử bản thân cũng rất ca ngợi chế độ kinh tế: “tỉnh điền”. - Nguyên tắc 2: Thực hiện “chính danh” trong quản lý xã hội Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ). - Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi người tự giác tuân theo. Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ giao tiếp trong trị quốc. Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ). Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi. Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường). Khổng Tử cho rằng việc trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh quân biết sử dụng ba loại người: Can đảm, Minh đản(trí thức) và Nghệ tinh. Nhà vua trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và thực hiện ba điều: Kính sự (chăm lo đến việc công). Như tín (giữ lòng tin với dân) Tiết dụng (tiết kiệm) Về đạo vua tôi, “Vua phải tự mình làm thiện, làm phải trước thiên hạ để nêu gương và phải chịu khó lo liệu giúp đỡ dân”. Theo ông, nhà cầm quyền phải thực hiện ba điều: Đảm bảo lương thực Xây dựng binh lực mạnh Xây dựng lòng tin với dân Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều kiện trên thì trước hết bỏ binh lực, sau bỏ lương thực, nhưng không thể bỏ lòng tin của dân đối với vua, nếu không chính quyền xã tắc sẽ sụp đổ. Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua phải như cha mẹ mình, phải tỏ lòng “trung quân” Tiếp tục, Mạnh Tử đề ra tư tưởng “Nhân chính”. Theo Mạnh Tử, việc chăm dân trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi. Ông chủ trương theo một chế độ “bảo dân”, trong đó người chị vì phải lo cái lo cho dân, vui cái thú của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no đủ, như thế dân không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa phải giữ mình khiêm cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế có chừng mực… Đặc biệt Mạnh Tử có quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về nhân quyền. Ông nói: “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Kẻ thống trị không được lòng dân thì sớm muộn cũng sụp đổ. Nếu vua tàn ác, không hợp với lòng dân và ý trời, thì sớm muộn sẽ bị phế. -Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội Sự không cồng bằng là đầu mối của loạn xã hội. Công bằng dựa trên cơ sở danh của mình. Tức là công bằng theo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lời phân phối theo chức vụ, địa vị. 3. Sự ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam: 3.1 Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng kể. Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Nếu không có sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam, nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự du nhập Nho giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà nho. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự đóng góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước. Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm. 3.2 Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam. 3.2.1 Ảnh hưởng Tích cực : - Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia. - Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam. - Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn. - Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”. - Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân. - Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo. 3.2.2 Ảnh hưởng Tiêu cực : - Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt. - Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau. 3.3 Ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia đến xã hội Việt Nam hiện nay 3.3.1 Ảnh hưởng tiêu cực: Trong xã hội Việt Nam ngày nay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn khá rõ của nét tư tưởng đạo Nho trong từng người, từng lứa tuổi. Nó tồn tại rất đa dạng, ở nhiều mức độ khác nhau trong từng mặt của đời sống xã hội. Ở một số người đã từng học nó ít nhiều thì có những mặt họ coi là đúng và bị ảnh hưởng một cách có ý thức. Riêng ở phần đông, tư tưởng đạo Nho sống dai dẳng trong nếp nghĩ, thói quen, thấm vào tư tưởng của họ từ rất xưa. Phần lớn nhân dân Việt Nam mang trong mình tư tưởng Nho giáo, nhưng họ không xác định được. Điều này ảnh hưởng xấu đến thế hệ Việt Nam hiện tại và sau này. 3.3.1.a: Đánh giá con người: Xã hội nào cũng có tiêu chuẩn đạo đức. Ở phong kiến, đó là người quân tử với ngũ thường, tu thân vì mình, vì quyền lợi của giai cấp thống trị. Tư tưởng vì mình đã tạo nên tâm lí ích kỉ trong một số người, từ đó nảy sinh ra các hiện tượng xã hội: tham ô, tham nhũng, ham quyền cố vị… gây tác hại cho sự nghiệp phát triển chung của xã hội. Thực tế nhiều người vẫn chịu ảnh hưởng của lối suy nghĩ đạo Nho, chú ý nhiều tới những mặt không chủ yếu của đạo đức con người. Điều đó khiến đánh giá con người trở nên phiến diện, lệch lạc. 3.3.1.b: Trọng nam khinh nữ “Tam cương” là một trong 3 trung tâm cấu thành nên đạo đức Nho giáo. Trong Tam cương có quan hệ vợ chồng, với các tiêu chuẩn về người vợ, người phụ nữ: tam tòng tứ đức. “Tam tòng” thể hiện thái độ khinh thường phụ nữ thời xưa, và đáng tiếc là vẫn tồn tại trong tư tưởng của 1 số đàn ông thời nay. Thời hiện đại, người phụ nữ không bị coi thường như trước nữa. Họ đã có vai trò lớn trong xã hội, có những đóng góp lớn trong việc xây dựng đất nước. Theo hiến pháp, phụ nữ đã bình đẳng so với nam giới. Nhưng ở gia đình, người phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi. Người phụ nữ hiện đại vừa phải đảm đang việc nhà, vừa phải giỏi trong hoạt động xã hội. Tất nhiên người đàn ông có trách nhiệm giúp đỡ người phụ nữ hoàn thành tốt công việc, nhưng 1 thiểu số vẫn còn tư tưởng “trọng nam khinh nữ” dẫn đến sự bất bình đẳng dành cho phụ nữ. Mặt khác, tư tưởng này còn được thể hiện qua việc sinh con trai để nối dõi tong đường. Đây là tư tưởng bị lên án từ lâu nhưng vẫn ăn sâu trong tiềm thức của nhiều gia đình hiện đại. Hiện trạng mất hạnh phúc vì tư tưởng “không có con trai” đang ngày càng nhiều trong xã hội ngày nay. 3.3.1.c: Tư tưởng an phận Xã hội bước sang thế kỉ 21, ngày càng đòi hỏi 1 thái độ lao động mới. Đó là thái độ làm việc năng động sáng tạo khẩn trương, thúc đẩy đất nước vào con đường hội nhập. Thế hệ trẻ hiện nay đã và đang phát hiu hết khả năng sáng tạo, tự tin làm chủ những công nghệ tiên tiến nhất. Nhưng tư tưởng an phận của Nho giáo đang gây trở ngại cho chúng ta. Điều này xuất phát từ tư tưởng “sợ” máy móc kĩ thuật, tính bất hướng ngoại của Nho giáo. Nho giáo cho rằng “cơ giới sinh tâm giới” sự phát triển của máy móc sẽ làm hỏng đạo đức nhân nghĩa của con người. Với tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thù ghét cái mới, sùng bái mù quáng tư tưởng cũ “an bần lại đạo”, một số người đang tự bóp chết khả năng sáng tạo của mình. 3.3.1.d: Nếp sống mất dân chủ Điều này thể hiện ở việc: một số người có trách nhiệm, khi nêu ra ý kiến thì không thể chịu ý kiến trái với mình, không bình tĩnh lắng nghe những ý kiến mới, ý kiến sáng tạo đột phá; nói 1 cách đơn giản thì là bảo thủ. Đây là nếp sống ảnh hưởng nặng nề từ tư tưởng “sợ” cái mới của Nho giáo xưa, làm nảy sinh nếp sống tiêu cực, đề cao cái cũ mà gạt bỏ cái mới. Nguy hiểm hơn là khi nó đề cao cá nhân 1 cách quá đáng, dung túng cho tính độc đoán phát triển trong mỗi con người. Còn những người đưa ra ý kiến trái ngược, ý kiến mới cũng không dám nói thẳng, nói thật, vì mất lòng cấp trên, vì lợi ích của bản thân mình, thậm chí là đồng tình với cái cũ, cái sai, thỏa hiệp với cái xấu. Nho giáo còn ăn sâu vào tâm tưởng, làm tuyệt đối hóa tôn ty đẳng cấp. Ở một số người đề cao “Lễ”, cho rằng trật tự, kỉ cương của xã hội đồng nghĩa với việc không nên, không được bàn cãi về ý kiến của bề trên. Họ chưa nhận ra nguyên tắc tổ chức dân chủ, lúc chưa có quyết định thì mọi người được tự do đưa ra ý kiến đúng nhất, được đa số ủng hộ. Tư tưởng tôn ty đẳng cấp này còn làm cho cấp trên kiêu căng, cấp dưới sợ sệt khúm núm, từ đó hình thành tư tưởng “cấp trên bao giờ cũng dung” làm mất đi tính dân chủ Trong gia đình, tư tưởng này còn rõ nét hơn, khi mà nhiều nhà vẫn “chồng xướng vợ tùy”. Đàn ông là chủ ra đình nên mọi việc phải nghe ý kiến của họ. Đặc biệt đàn ông rất xem nhẹ vai trò của người phụ nữ theo nguyên tắc :tam tòng. Bên cạnh đó, quan hệ cha mẹ con cái thì tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” tuy được hạn chết nhưng ý kiến của con cái nhiều khi vẫn không được lắng nghe. Nhiều gia đình hiện đại, con cái học theo ý cha mẹ, đi làm cũng theo ý cha mẹ, thậm chí cả hôn nhân. Mở rộng hơn, ngoài xã hội, tư tưởng Nho giáo còn quá đề cao bằng cấp, quá đề cao chức vụ và “danh” mà quên mất khả năng thực sự. Điều này tất nhiên chỉ xuất hiện ít, nhưng cũng đủ dẫn đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” và “học chỉ để lấy bằng” hiện nay. 3.3.2 Ảnh hưởng Tích cực: Tuy có nhiều hạn chế, nhưng chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế khách quan là Nho giáo vẫn có những mặt tích cực. Bằng chứng là nó tồn tại rất lâu cho đến ngày nay. Bên cạnh đó, không một học thuyết triết học nào trên thế giới, dù rất tiến bộ, có thể bảo tồn nguyên mọi giá trị mà không chịu một sự phủ định nào. Như vậy, Nho giáo bị phủ nhận trong xã hội hiện tại là điều dễ hiểu. Nhưng chúng ta vẫn cần khai thác và phát huy những mặc tích cực của Nho giáo, nối tiếp truyền thống để góp phần đưa đất nước đi lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy tinh hoa truyền thống tư tưởng dân tộc, trong đó có cả Nho giáo. Đó là sự phát huy tư tưởng trong Tam cưong, Ngũ thường và Ngũ luận. Trong ngũ luận, Nho giáo đưa ra khái niệm “Trung” và “Hiếu”. Trung với vua, Hiếu với phụ mẫu, đó là đạo dực của bề tôi, của phận làm con. Con người đề cao “Trung”, “Hiếu” cũng có nghĩa đề cao mối quan hệ gia đình và xã hội. “Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia” (gốc thiên hạ tại nước, gốc của nước tại gia – Mạnh Tử) Đó chính là mối quan hệ mật thiết giữa “tề gia” và “trị quốc”, gia đình trở thành tế bào của xã hội, là cơ sở quan trọng để tạo lập kỉ cương và ổn định xã hội. Hiện nay, tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị. “Trung với nước, Hiếu với dân” cũng là được suy rộng từ tư tưởng này, sao cho phù hợp với thời đại. Nho giáo đề cao chữ “Lễ”, có nghĩa đề cao tôn ty trật tự, kỷ cương phép tắc và chuẩn mực trong phong kiến. Trong xã hội hiện nay vẫn tồn tại những tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến chất. Người dưới không kính trọng người trên, thế hệ sau không biết ơn thế hệ trước. Tình trạng này khiến “Tiên học lễ, hậu học văn” trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Dòng chữ ấy vẫn xuất hiện trên các bục giảng trường học cho đến tận hôm nay. “Tu thân” tức là tự rèn luyện, đề cao đạo đức. Nho giáo khẳng định lý tưởng hay hoài bão suốt đời của quân tử “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, Nhưng lại đưa “tu thân” lên đầu. Đây là giá trị tốt đẹp của Nho giáo, ảnh hưởng đến quá trình rèn luyện đạo đức của mỗi người. Sách luận ngữ viết: “Dân vi bang bản, bản cố bang minh”. Tư tưởng trọng dân trong đạo Nho luôn được Bác và những vị lãnh tụ đặt lên hang đầu. “thuyền là vua, nước là dân, nước có thể đẩy thuyền mà nước cũng có thể lật thuyền” (Nguyễn Trãi). Hồ Chí Minh từng nói: Gốc có vững thì cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân Nho giáo đặc biệt đề cao đạo đức, xem đạo đức là gốc con người. Năm phẩm chất của người quân tử(ngũ thường) nay trở thành “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” của người Đảng viên. Bên cạnh đó, Nho giáo rất đề cao giáo dục, với mục đích tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Điều này có lẽ tạo nên truyền thống hiếu học của nhân dân ta, và tồn tại cho đến tận ngày nay. Đối với mỗi bậc cha mẹ, việc giáo dục con cái trở thành điều tối quan trọng. Đối với thế hệ trẻ, học tập là ưu tiên số một. Học để làm việc, để cống hiến cho đất nước, tất cả đều ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo khi xưa. 3.3.3 Thực trạng và Giải pháp, bài học: Hiện nay trong xã hội ta đang diễn ra xu thế chủ đạo là phê phán, bác bỏ những cái gì lỗi thời, cực đoan. Đối với nhiều người, Nho giáo là thứ cổ hủ lạc hậu không phù hợp với hiện tại. Nho giáo được coi như một tàn tích của chế độ phong kiến cũ. Nhưng như đã trình bày, Nho giáo vẫn còn nhiều ảnh hưởng, trong đó có rất nhiều điểm tích cực đối với xã hội Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Cái quan trọng là phải biết phát huy những giá trị tốt đẹp của Nho giáo Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho giáo. Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng nó vẫn còn hiện diện bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Lenin từng nói: “học, học nữa, học mãi” để chỉ sự không ngừng nghỉ của tiếp thu kiến thức. Sách Luận ngữ cũng từng viết: biển học là mênh mông, những điều ta biết chỉ là một giọt nước nhỏ. Vì vậy học sinh, sinh viên cần tích cực tìm hiểu Nho giáo nói riêng và các tư tưởng triết học nói chung, để tìm những điều hay, phù hợp với thực tại để áp dụng trong cuộc sống, như Bác từng kế thừa tư tưởng tốt đẹp của Nho giáo vậy. Sinh viên học cái mới không có nghĩa quên cái cũ, mà phải kế thừa cái cũ, làm cơ sở cho cái mới của mình. KẾT LUẬN Tóm lại, tư tưởng Nho giáo có nhiều điểm tích cực và tiêu cực, nhưng có một điều không thể phủ nhận là nó vẫn đang tồn tại, ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam từ xưa đến nay. Đây là một tư tưởng triết học lớn, vì vậy vẫn cần phải nghiên cứu thêm nữa để hiểu rõ hơn tầm ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng này. Mặc dù bị hạn chế do lịch sử, song một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Nho giáo đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cũng giống như Nho giáo, hiện nay chúng ta đã và đang ra sức phấn đấu cho một thế giới hoà bình, cho sự bình đẳng của mọi dân tộc trên toàn thế giới. Vì vậy, chúng ta cần ngăn chặn được các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ chiến tranh, chống lại được nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, kế thừa các tư tưởng nhân văn trong ứng xử và giao tiếp của Nho giáo là một việc làm hết sức cần thiết. Có vậy, ta như hiểu thêm về một phần nguồn gốc suy nghĩ của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại cương triết học Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản Thuận Hóa 2. Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. 3. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân 4. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu - Nhà xuất bản giáo dục. 5. Tư tưởng chính trị - xã hội của Nho giáo và vai trò – Nhà xuất bản chính trị quốc gia 6. Tiểu luận triết học: Nho giáo và ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam 7. Tạp chí triết học 15/1/08

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21512.doc
Tài liệu liên quan