Chủ động hội hập kinh tế quốc tế thực sự là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Bởi Việt Nam không chỉ là đi theo xu hướng chung của thời đại mà còn tìm kiếm những thời cơ cho đất nước.
Việt Nam hội nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi. Đó không chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng cho sự khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư.làm cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế giới
Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn thử thách như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe dọa đến sự tồn tại của một số doangh nghiệp trong nước, ảnh hưởng đến chính trị, văn hóa của một quốc gia.Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình, Trái lại chúng ta “hòa nhập chứ không hòa tan”, các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn mình mà tìm những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta hãy tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình hội nhập hơn nữa.
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1856 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm có tính chỉ đạo và giải pháp thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược chung với xu hướng thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế.. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Bởi vậy, hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với Việt Nam là một đề tài rất sâu rộng mang tính thời sự, được rất nhiều nhà kinh tế quan tâm. Bản thân em, khi được giao viết đề tài này cũng rất hứng thú và say mê. Tuy nhiên do sự hiểu biết, thời gian còn hạn chế nên bài viết còn nhiều hạn chế.Kính mong thầy giúp đỡ để em hoàn thành bài viết tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN NỘI DUNG
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm
Toàn cầu hóa là một phạm trù trừu tượng và rộng chưa có khái niệm cụ thể.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả.
1.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1 Nguyên tắc hội nhập của kinh tế quốc tế
Bất kỳ một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.
Một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập
Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia, tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt
1.2.2 Nội dung của hội nhập ( chủ yếu là hội nhập WTO)
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hóa, tự do hóa thương mại và đầu tư
Về thương mại hàng hóa, các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu…, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thỏa thuận…
Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương thức, cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ thông qua liên doanh, hiện diện
Về thị trường đầu tư, không áp dụng với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hóa đầu tư…
1.3.Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam
Xu hướng toàn cầu hóa được thể hiện rõ ở phát triển vượt bậc của thị trường thế giới.Về thương mại, trao đổi buôn bán trên thị trường thế giơi ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ.
Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hóa. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa. Ngoài ra hội nhập còn nhằm mục đích giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa các nước giàu luôn có những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập.
Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những khó khăn, sức ép.Đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập mang lại, Việt Nam, một bộ phận của cộng đồng quốc tế đã và đang từng bước hội nhập và phát triển. Chỉ có hội nhập, Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những thuận lợi để phát triển kinh tế.
Đại hội Đảng VII của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 đã dề ra đường lối chiến lược “Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đến Đại hội Đảng VIII, nghị quyết TW4 đã đề ra nhiệm vụ “giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với khu vực và thế giới”
1.4 Thời cơ đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu.
1.4.1. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam:
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), kim ngạch xuất nhập khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Tháng 5/2007, xuất khẩu Việt nam sang các nước ASEAN đạt 7,8 tỉ USD, tăng 21,7% so với năm 2006. Thị trường cho khu vực này hiện chiếm 16,3% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Dự kiến xuất khẩu Việt Nam 2008 sang các nước ASEAN tăng tới 9 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2007. Tuy nhiên kim ngạch xuất nhập khẩu vào ASEAN lại tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng bình quân. Trong khi đó kim ngạch XNK từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này có xu hướng tăng dần.Kim ngạch XNK gạo năm 2007 vào ASEAN đạt trên 1 tỷ USD và dự kiến năm 2008 vẫn duy trì mức này. Do lợi thế về vận tải nên thị trường ASEAN vẫn là thị trường quan trọng trong việc XNK gạo Việt Nam. Ngoài ra cà phê 2007 xuất khẩu sang ASEAN đạt 145 triệu USD, dự kiến năm 2008 đạt 155 triệu USD tăng 7% năm 2007. Dự kiến kim ngạch XNK 2008 dạt khoảng 202 triệu tăng 15% so với 2007.
Thực hiện hiệp định CEPT/AFTA hầu hết thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu của các nước ASEAN chỉ còn ở mức 0-5%. Đây là lợi thế mà doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng để đưa hàng hóa Việt Nam vào các nước trong khu vực mà thực tế hàng hóa Việt Nam cồn khiêm tốn.
1.4.2 Hội nhập kinh té quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế:
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ họi để doanh nghiệp trong nước huy đọng và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Hiện nay đã có trên 100 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn, có công nghệ tiên tiến.Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo nên công ăn việc làm.
Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hóa quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ.
Hội nhập kinh tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam: trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đôis ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua CLB Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước.
1.4.3. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tọ điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nhệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản ký và cán bộ kinh doanh:
Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đảy nhanh quá trình CNH-HĐH, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đườn để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả. Qua đó mà các kỹ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào vào nước ta, dồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật, công nghệ nước ngoìa nhằm phát triển năng lực kỹ thuật, công nghệ quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn các cán bộ KHKT, cán bộ qunả lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao động đến các nhà quản lý đều được đào tạo tya nghề, trình đọ chuyên môn được nâng cao.
1.4.4. Hội nhập kinh tế quóc tế góp phần duy trì hòa bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập.
Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu, nay đãthiết lập dược quan hệ ngoại giao với 172 quốc gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mói quan hệ với các nước láng giềng và tròn khu vực châu Á Thái Bình Dương. Chúng ta đã bình thừong hóa quan hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường quốc tế hòa bình, ổn định nhàm tạo thuạn lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đối với Mỹ chúng ta cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1955. Tháng 7, Việt Nam- Mỹ ký kết hiệp định thương mại,đánh dáu một mốc quan trọng trong tiên trình bình thườg hóa quan hệ kinh tế giữa hai nước.
1.4.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguòn lực nước ta với các nước:
Với dân số hơn 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thong qua hội nhập để xuất khẩu lao đọng hoặc sử dụng lao động thông qua các hợp đòng gia cong chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu LĐ kỹ thuật cao,các cong nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
1.5. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt ta trước nhiều thử thách.
1.5.1. Hiện trạng kinh tế Việt Nam hiện nay:
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế, sonh chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp.
Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám sát nhu cầu thị trường. Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thnàh cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ nước ta nói chung còn thấp do trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế giớ từ 10 đến 30 năm,cộng thêm những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh doanh, hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài. Nhiều doanh nghiệo không xác định được tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ của nàh nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. Thêm vào đó, hầu hết các sản phẩm của ta đều phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu nên chi phí đầu vào cao. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chịu chi phí do sự sách nhiễu của một số cán bộ nhà nước thoái hóa biến chất. Hơn nữa, sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh kiểm tra chồng chéo cũng làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp.
Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến song nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn, khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số tổng Công ty nhà nước, hệ thống ngân hàng tài chính còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa thông thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản… còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ.
Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế vào lao động rẻ có xu hướng đang mất dần.
Trước mắt do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên ngành may mặc và giày da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ đang ,mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa.
Như vậy, nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức cạnh tranh thấp.
1.5.2. Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực:
Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xóa bỏ phí thuế quan tạo điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các nước thì nó cũng gây ra những thách thức khá nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam:
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hóa nước ngoài sẽ ào ạt vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của nhân dân lao động. Bởi hàng hóa Việt Nam do kĩ thuât, công nghệ và quản lý còn kém nên chất lượng thấp, giá thành lại cao. Trong khi đó, nước ngoài với công nghệ hiện đại, tay nhề lao động vững vàng, trình độ quản lý cao, vốn lớn nên sản phẩm làm ra mẫu mã đệp, chất lượng tốt , lại không phải nộp thuế sang thị trường Việt Nam nên giá thành phù hợp.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hóa thương mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác. Nhưng hiệ tại nước ta còn vẫn còn tụt hậu khá xa về kinh tế so với các nước trong các tổ chức kinh tế mà ta đã và sẽ tham gia. Đây là một thách thức, bất lợi lớn mà ta đòi hỏi phải có nỗ lực và quyết tâm cao. Đã vậy, trên thị trường thế giới ta mới chỉ xuất khẩu các mặt hàng sơ chế như dầu thô, gạo, cà phê… còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là các sản phẩm chất lượng cao còn ít, sức cạnh tranh còn yếu. Trong khi đó giá các mặt hàng nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh hay bị tác động xấu bất lợi cho nước xuất khẩu.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ảnh hưởng đến quyền độc lập tự chủ của một quốc gia:
Không ít ý kiến cho rằng nền kinh tế nước ta còn lạc hậu, sức cạnh tranh kém… trong khi đó, các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì khó có thể tránh khỏi bị lệ thuộc vào kinh tế, từ chỗ bị lệ thuộc vào kinh tế có thể đi đến không giữ vững được quyền độc lập tự chủ. Nhưng độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa với thế giới. Nếu đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng tới bản sắc văn hóa dân tộc:
Xu thế toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập một mặt tạo điều kiện chưa từng có để các dân tộc, cộng đồng ở mọi nơi có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hóa, dịch vụ,kiến thức…qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển KH-CN, mở mang sự hiểu biết về văn hóa của nhau. Mặt khác,quá trình trên cũng làm nảy sinh nhiều mối nguy cơ ghê gớm về sự đồng hóa các hệ thoongd giá trị và tiêu chuẩn, đe dọa, làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của nhân loại. Chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp thu những tinh hoa của nhân loại thì văn hóa Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu vừa là động lực và sẽ điều tiết sự phát triển của kinh tế xã hội.
1.6. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế:
1.6.1 Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế:
Vị trí địa lý:
Bản chất kinh tế của vị trí địa lý là địa tô chênh lệch. Vị trí đại lý thuận lợi sẽ cho phép thu được địa tô chên lệch cao và ngược lại. Vị trí địa lý thuận lợi là lợi thế “so sánh” – là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế.
Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi, đó là:
+ Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, là nơi gặp gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự nhiên Việt Nam phong phú đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến cơ cấu, quy mô và hướng phát triển KTXH của Việt Nam.
+ Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một đầu mối giao thông quan trọng từ Ấn Độ tới Thái Bình Dương. Vị trí này cho phép ta có thể dễ dàng phát triển các kinh tế thương mại, văn hóa, KHKT với các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế, giao lưu học hỏi kinh nghiệm.
+ Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng: Đây là nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế đồng thời là đối tượng đầu tư của TB nước ngoài.
+ Tài nguyên nhân văn phong phú: Đây là đối tượng đầu tư rất quan trọng của TB nước ngoài.
Những lợi thế trên đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiến vào thế giới.
1.6.2. Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi tham gia hội nhập:
- Tuyên truyền, giải thích rộng rãi để đạt được nhận thức và hành động thống nhất trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp và nhân dân.
- Xây dựng chiến lược tổng thể và hội nhập với một lộ trình cụ thể.
- Chủ động và khẩn trương sử dụng cơ cấu kinh tế.
- Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị,có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ.
- Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
- Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng.
- Kiện toàn Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
2.THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Quan điểm,mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế:
2.1.1. Quan điểm:
Đại hội VI của Đảng( 12/1996) trong khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và KH-KT với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Trong Nghị quyết 07, Bộ Chính trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội Đảng IX: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, bảo đảmđộc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hội nhập kinh té quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa đề phòng tư tưởng thụ đọng vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng...
Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
2.1.2. Mục tiêu:
Bộ Chính trị: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng XHCN; thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010.
2.2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Để thực hiên những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban hành những chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập.
Nhà nước ban hành hệ thống Luật đồng bộ, sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam… Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật…
Đối với những chính sách, Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư…để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp…tạo điều kiện cho nước ta hội nhập knh tế quốc tế.
2.3. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
2.3.1.Con đường hội nhập:
Theo quan điểm của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình không quá nóngvề mức độ %, cũng không quá kéo dài quá trình hội nhập vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế.
Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định thời gain mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu của nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hóa và đầu tư dịch vụ.
Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường hóa quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng tháng 7/1995 công nghệ đã kí kết hiệp địn khung về hợp tác kinh tế, KH-KT và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu (EU). Đồng thời bình thường hóa quan hệ với Mỹ. khoảng tháng 3/1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế Á-ÂU (ASEAM). Tháng 11/1998 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã dược kí kết. Đặc biệt. Tháng 11/2006, Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
2.3.1.1 Việt Nam gia nhập ASEAN-Hiệp hội các nước Đông Nam Á:
-Quá trình gia nhập:
Ngày 25/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
Ngày 15/12/1995 Việt Nam chính thức tam gia thcự hiện AFTA bằng việc kí nghị định thư tham gia hiệp định CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày 1/1/1996 và kết thúc vào ngày 1/1/2006.
Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn danh mục hàng háo theo quy định của CEPT: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục cắt giảm thuế ngay, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến nhạy cảm cao.
Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của ta hoặc những mặt hàng chưa có trao đổi buôn bán gì với ASEAN.
-Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập ASEAN/AFTA/CEPT:
Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT cho thấy sự bất lợi của các doanh nghiệp trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các rào cản phi thuế. Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết bị máy móc… Cơ chế KHH tập trung trong thời gian dài đã tạo cho các nhà sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, thị trường tiêu thụ và vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng cụ thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất đẻ tồn tại và phát triển trong môi trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ.Tuy nhiên, cũng có một số ngành sản xuất trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay đổi trong môi trườn kinh doanh theo cơ chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ mới. Đối với các ngành này nếu được áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn và thích hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu.
Điều thuận lợi là hàng xuất khẩu của ta khi nhập vào các nước ASEAN được hưởng thuế suất ưu đãi, nhưng đây cũng là một vấn đề có những thách thức của riêng nó. Bởi khi ta được hưởng ưu đãi thì cũng phải dành ưu đãi về thuế suất cho bạn.khi đó nếu hàng hóa của ta chất lượng không bằng bạn, giá cao hơn thì các doanh nghiệp của ta rất dễ mất đi thị trường trong nước.
2.3.1.2. Việt Nam hội nhập vào APEC- Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương:
Ngày 15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập APEC và tháng 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa sản xuất thuận lợi hóa thương mại đầu tư hợp tác kinh tế kỹ thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện công khai và không phân biệt đối xử giữa các thành viên cũng như các đối tác không phải là thành viên.
2.3.1.3. Việt nam và Liên minh Châu Âu (EU):
Trên lĩnh vực thương mại, Việt Nam và các nước thuộc EU đã có mối quan hệ khá lâu song chúng được phát triển và mở rộng trong những năm gần đây, sau khi Việt Nam và EU chính thứcthiết lập quan hệ ngoại giao 2/1990, quan hệ buôn bán 2 chiều Việt Nam- EU có bước phát triển kảh quan, kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng.
Ngày 31/5/1995, Việt Nam và EU đã kí hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU. Ngày 17/7/1995, hiệp định khung hợp tác đã được kí chính thức ở Brucxen.
Khi tham gia kí kết hiệp định này Việt Nam được hưởng một số ưu đãi:
+ Hiệp định cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MNF), đặc biệt là quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập(GSP) thường được dành cho các nước đang phát triển.
+ Cải thiện môi trường kĩ thuật Việt Nam thông qua việc tạo thuận lợi cho Việt Nam tiếp cận công nghệ EU.
+Cuối năm 1995, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đã kí 32 bản thỏa thuận với các tổ chức hữu quan ở nước ngoài nhằm hợp tác, đẩy mạnh, xúc tiến thương mại avf đầu tư, trong đó có 8 bản thỏa thuận được kí với các tổ chức EU.
+ Ngày 15/12/1992, Hiệp định buôn bán hàng dệt may được kí kết avf đến 1/1/1993 bắt đầu có hiệu lực.Ngày 1/8/1995 Việt Nam và EU đã kí trao đổi thư điều chỉnh hiệp định, tăng hạn ngạch và biên bản thỏa thuận về mở rộng thị trường hàng dệt may.
2.3.1.4. Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO):
- Quá trình gia nhập:
Tháng 1/1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO.
1998- 2000 thành lập 4 phiên họp đa phương với ban công tác về việc minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7/1998,12/1998,7/1999,11/2000. Kết thúc 4 phiên họp Ban Công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa tự do.
Tháng 4/2002, tiến hành kì họp đa phương với Ban Công tác, Việt Nam đưa ra bản thảo đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ.
Ngày 26/10/2006, kết thúc phiên đàm phán họp cuối cùng. Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7/1998 đến tháng 10/2006.
Ngày 7/11/2006, WTO triệu tập phiên họp đặc biệt tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
Một số kết quả đạt được:
Trước hết phải khẳng định: những thành tựu trong phát triển kinh tế nước ta 1 năm qua là kết quả của quá trình cải cách không ngừng của đất nước và WTO là một cột mốc quan trọng trong tiến trình này. Trong vòng một năm hội nhập WTO, Việt Nam đã đón rất nhiều đoàn cấp cao của các nước đến thăm trao đổi các vấn đề hợp tác phát triển. Rất nhiều các nhà doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài, khách du lịch đã đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh. Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đầu tư, về xuất khẩu, du lịch... với mức cao kỷ lục.
Bắt đầu từ ngày 11/1/2007, theo cam kết trong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam phải mở cửa 11/12 ngành (khoảng 110 phân ngành nhỏ). Từ các cam kết này, một số ngành bán lẻ, tài chính, ngân hàng, viễn thông... phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn. Tới nay, Việt Nam đã mở cửa hầu hết các lĩnh vực sản xuất cho nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, điều tưởng như bất lợi này lại mang lại lợi ích vì hàng Việt Nam sẽ thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường nước ngoài, tạo lợi nhuận cao hơn cho nhà sản xuất trong nước. Điều này thể hiện ở kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48 tỷ USD, tăng 8,2 tỷ USD (tương đương 20,5%) so với năm 2006, vượt 3,1% so với kế hoạch Chính phủ giao. Các mặt xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như thủy sản, gạo, cà phê, rau quả, cao su, hạt tiêu, hạt điều… đều có kim ngạch xuất khẩu cao. Hàng may mặc, hàng điện tử, linh kiện máy tính… cũng tận dụng được điều kiện thuận lợi từ WTO mang lại. Tổng giám đốc Công ty may Việt Tiến, ông Nguyễn Đình Trường có những nhìn nhận lạc quan về tác động của WTO với doanh nghiệp sau 1 năm: “WTO tạo cho Việt Nam nhiều thuận lợi. Riêng trong ngành dệt may thuận lợi nhiều hơn thách thức: không bị giới hạn số lượng xuất khẩu, có thị trường của 150 nước giảm thuế; công nghệ của các nước vào ngày càng nhiều”.
Cũng từ ngày 11/1/2007, Việt Nam cam kết giảm 10.689 dòng thuế, trong đó thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm 23% so với mức thuế ưu đãi bình quân hiện hành, thực hiện theo lộ trình từ 5-7 năm. Những ngành có mức cắt giảm nhiều nhất là dệt may, thuỷ sản, hàng chế tạo và máy móc thiết bị thông dụng, ôtô và linh kiện ôtô... Điều này cũng đồng nghĩa với sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đối với doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO cũng ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, trong thực tế, mức giảm thu ngân sách do giảm thu từ thuế nhập khẩu là không đáng lo ngại. Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, bà Nhữ Thị Hồng Liên cho biết: “Khi tham gia WTO có một số sắc thuế giảm nhưng tình hình thu ngân sách của tỉnh lại có nhiều khởi sắc. Tổng thu trên địa bàn đạt tới 9.300 tỷ”.
Với việc thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, Việt Nam đã nỗ lực loại bỏ sự phân biệt giữa các doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân, giữa doanh nghiệp nước ngoài và trong nước, cũng như mọi rào cản để tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế. Nhà nước đã chuyển từ quản lý trực tiếp theo cách định giá, cấp phép sang quản lý gián tiếp, xây dựng chính sách, các tiêu chuẩn, tiêu chí để doanh nghiệp hoạt động theo. Điều này tạo sự chuyển biến đáng kể trong cách quản lý, cũng là động lực quan trọng đòi hỏi các doanh nghiệp chủ động hơn trong cơ chế thị trường.
Môi trường kinh doanh không ngừng mở rộng:
Việt Nam đã và đang ngày càng nổi bật trên bản đồ thu hút đầu tư thế giới với vốn đăng ký đạt hơn 20 tỷ USD, vượt xa mọi dự báo và vượt tới 53,2% kế hoạch năm. Trong đó, nguồn vốn gián tiếp vào trong nước cũng tăng lên đáng kể, góp phần làm sôi động và tăng trưởng nhanh lượng vốn trên thị trường chứng khoán. Theo ông Vũ Bằng - Chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước: “Một năm qua, quy mô thị trường chứng khoán tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Luồng vốn FDI vào ngày càng nhiều và đóng vai trò quan trọng đối với thị trường chứng khoán. Chúng tôi cũng nhận thấy nhiều thị trường trông vào Việt Nam, rất mong muốn có được thị trường hấp dẫn như ở Việt Nam. Chúng ta nên duy trì và thúc đẩy luồng vốn này vào thị trường Việt Nam”.
Trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam mở cửa cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài từ ngày 1/4/2007, mặc dù vẫn có một số ràng buộc cụ thể đối với các ngân hàng nước ngoài như: không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập WTO… Tuy nhiên, để nâng cao khả năng cạnh tranh, các ngân hàng Việt Nam đã có bước chuẩn bị từ lâu, trong đó có việc tăng cường tiềm lực tài chính và đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ. Thiết kế các sản phẩm mới theo hướng đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ, các phương thức vay vốn cũng được các ngân hàng thực hiện đơn giản và nhanh chóng.
Một năm Việt Nam gia nhập WTO, ngành bán lẻ trong nước tuy phải “chia” thị phần cho các nhà bán lẻ nước ngoài, nhưng vẫn giữ vững thị phần và doanh số bán hàng liên tục tăng. Các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ đã có những chiến lược cạnh tranh riêng trong thu hút khách hàng. Sau một năm chính thức trở thành thành viên của WTO, ngành dịch vụ bán lẻ tại Việt Nam đã phát triển theo chiều hướng tích cực và bền vững. Thứ trưởng Bộ Thương mại, ông Nguyễn Cẩm Tú cho rằng: “Biến đổi đáng kể nhất là các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam từ tình trạng tạm gọi là ngủ quên trên thành công bước đầu của mình, dần dần thấy rằng cần phải vươn lên trong nhiều lĩnh vực về quy mô, quản lý, công nghệ và đặc biệt sự vươn lên trong sự liên kết, kết hợp với nhau. Đương nhiên từ một miếng bánh từ 100% của Việt Nam sau đó có tham gia của nước ngoài thì phải san sẻ một phần thị phần”.
Sau một năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả về phát triển kinh tế và giảm nghèo, với tốc độ tăng GDP đạt gần 8,5% và tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 18% xuống còn 14,7% năm 2007.
- Sức ép mở cửa thị trường đang tạo ra những thách thức
Tuy nhiên, sức ép mở cửa thị trường đang tạo ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế, đặc biệt là với các doanh nghiệp trong nước khi năng lực cạnh tranh của họ còn hạn chế, còn người nông dân cũng gặp nhiều khó khăn khi vẫn với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Bên cạnh đó, khả năng tiếp nhận của nền kinh tế đối với đầu tư nước ngoài còn yếu. Dù lượng vốn đầu tư nước ngoài vào rất lớn nhưng việc sử dụng vẫn chưa thực sự hiệu quả, giải ngân chậm chạp.
Như vậy có thể thấy, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ của nền kinh tế trong 1 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, nền kinh tế vẫn bộc lộ những yếu kém và khuyết điểm. Nền kinh tế chưa tranh thủ tốt nhất những cơ hội và thách thức mới; tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa đi liền với cải thiện nhanh về chất lượng; môi trường đầu tư và kinh doanh, nhất là thể chế kinh tế, thủ tục hành chính, kết cấu hạ tầng xã hội và nguồn nhân lực đang là những khâu còn nhiều yếu kém, bất cập, làm hạn chế sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế đất nước.
Vì vậy, để tận dụng tối đa những cơ hội từ việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, phát huy đà tăng trưởng của nền kinh tế năm 2007, điều quan trọng là phải đảm bảo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, vừa thực hiện đúng các cam kết vừa phải tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Bên cạnh các chính sách tạo thuận lợi, các doanh nghiệp cần trang bị vốn kiến thức toàn diện và đặt mình trong bối cảnh liên kết toàn cầu nhằm thiết lập các liên kết chuỗi nâng cao năng lực cạnh tranh. Về phương diện vĩ mô, Nhà nước tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, trong đó có việc huy động các nguồn lực đầu tư để phát triển nhanh vào cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Đây là những yếu tố cần được tập trung đẩymạnh để nền kinh tế tăng trưởng bền vững và hội nhập thành công.
3. QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH CHỈ ĐẠO VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
3.1. Tầm vĩ mô:
3.1.1 Hệ thống pháp luật phải đồng bộ:
- Tham gia vào hội nhập kinh tế với những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức kinh tế, chúng ta phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và chặt chẽ để đảm bảo thực hiện những nguyên tắc đó.
Nhà nước phải đề ra những bộ luật rõ ràng, cụ thể về đầu tư, thuế xuất nhập khẩu, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong và ngoài nước… Có như vậy mới tạo ra được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.
3.1.2 Điều chỉnh một số chính sách:
Chính sách thương mại:
Chủ động hội nhập kinh tế alà một trong những phương hướng để tiếp tục phát triển kinh tế trong chiến lược 10 năm 2001-2010 của nước ta.Một nội dung quan trọng của hội nhập là mở cửa thị trường trong nước hướng ra thi trường quốc tế. Tức là các vấn đề thương mại giữa các bên cần phải có sự quan tâm đực biệt. Các cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế đặt ra những yêu cầu phải điều chỉnh quy chế thương amị của Việt Nam.
Cải cách thương mại theo hướng mở cửa và tự do háo luôn là một nôi dung qua trọng hàng đầu của mọi chương trình cải cách cơ cấu. Các quốc gia thực hiện cải cách thương mại nhằm 1 trong 2 mục đích: Khắc phục khủng hoảng cán cân thanh toán hoặc tạo lập môi trường thuận lợi cho tăng trưởng nhanh chóng và bền vững.
Trong năm 1999, thống nhất với Nhật Bản trong khuôn khổ chương trình Miyazaza về một lịch trình xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan từ nay cho đến năm 2010 với 20 nhóm mặt hàng nhập khẩu có điều kiện.
Trong năm 2000 đã đưa ra 9 nhóm mặt hàng ra khỏi danh mục cần giấy phép nhập khẩu như xút lỏng, hàng tiêu dùng bằng sành, thủy tinh...mở rộng sự than gia của tư nhân vào xuất khẩu gạo khi cho phép 5 công ty tư nhân và 4 liên doanh được phép xuất khẩu gạo.
Tháng 7, chính phủ đã kí hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, trong đó cam kết theo một lịch trình nhất định về việc tự do hóa thương quyền, xóa bỏ các hạn chế định lượng đối với hầu hết các sản phẩm, giảm thuế suất đối với một số hàng công nghiệp và nông sản…
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã hoàn tất lịch trình giảm thuế quan cho giai đoạn 2001-2006 theo khuôn khổ AFTA,dỡ bỏ yêu cầu tự cân đối ngoại lệ cho doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Như vậy, các nội dung cải cách thương mại nói trên là phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên chương trình cải cách thương mại phải được xây dựng và thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với các chính sách vĩ mô thận trọng để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của nó đưa lại. Cải cách thương mại đòi hỏi ý chí chính trị mạnh mẽ. Không nên vì nền kinh tế vẫn phát triển mà trì hoãn cải cách thương mại. Vì sự cạnh tranh ác liệt và những khó khăn hơn nhiều so với các nước công nghiệp đi trước đòi hỏi Việt Nam- đi sau phải chủ động đi nhanh hơn các nước khác.
Chính sách tài chính:
Chính sách tài chính bao gồm rất nhiều mảng, chiều lĩnh vực phức tạp liên quan đến toàn bộ dòng chu chuyển vốn và tiền tệ của nền kinh tế. Do đó chính sách tài chính cũng có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển kinh tế. Để tham gia hội nhập thành công, chúng ta không những chỉ cần một hệ thống chính sách tài chính linh hoạt, nhất quán và đồng bộ, mà cần phải có những giải pháp nhằm cỉa cách tài chính phù hợp nhất.
+Về chính sách thuế:
Theo nguyên tắc cơ bản của bất kỳ tổ chức kinh tế nào cũng đều có miễn giảm thuế nhập khẩu và xóa bỏ hàng rào phi thuế quan. Do đó:
Đối với thuế nhập khẩu cần phải xây dựng hệ thống thuế quan hợp lý, vận dụng chiến lược đàm phán thuế trần cao hơn mức áp dụng hiện tại; sử dụng tích cực chính sách thuế làm phương tiện bảo hộ hữu hiệu và hợp lý cho sản xuất trong nước, loại trừ dần các biện pháp phi thuế quan.
Đối với thuế gián thu trong nước, tiếp tục hoàn thiện các sắc thuế, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng(VAT).
Đối với thuế thu nhập duy trì hợp lý thuế thu nhập doanh nghiệp, mở rộng diện đánh thuế thu nhập các nhân với mức thuế suất thấp để dễ quản lý.
+ Về chính sách tỷ giá:
Hội nhập kinh tế về thương mại đầu tư đòi hỏi thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá. Tháng 2/1999, ngân hàng nhà nước đã thay đổi cơ chế điều chỉnh tỷ giá bình quân hình thành trong phiên giao dịch ngày hôm trước được dùng làm tỷ giá chính thức công bố cho phiên giao dịch ngày hôm sau. Đồng thời biên độ giao dịch cũng được thu hẹp từ 10% xuống 0,1%. Nhờ sự thay đổi cơ chế điều hành như trên mà chênh lệch tỷ giá công bố với tỷ giá giao dịch thực tế đã giảm đáng kể. Ngoài ra cùng với sự thay đổi cơ chế diieuf hành tỷ giá, cần kết hợp nhiều biện pháp kiểm soát sự biến động của tỷ giá thực tế, quản lý chặt chẽ khoản vay nước ngoài. Mặt khác cần nâng dự trữ ngoại tệ lên ít ra là mức 3 tháng nhập khẩu để đảm bảo hiệu lực điều tiết của Ngân hàng Trung ương khi cần thiết. Cần nâng dần sức cạnh tranh của đồng Việt Nam tránh đi đến kết cục phá giá mạnh, gây mất ổn định kinh tế.
+ Về cơ chế chính sách lãi suất:
Chính phủ cần hạn chế sử dụng tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu để cho vay đầu tư với lãi suất thấp.
Từng bước bãi bỏ hệ thống lãi suất trần, tiến tới việc xác đinh lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Biện pháp tình thế: Thực hiện chính sách lãi suất thấp để khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế.
Như vậy nhìn chung cần phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trên lĩnh vực tài chính trong quá trình hội nhập.
Những chính sách trên lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp:
+ Tăng cường thu hút vốn FDI và tích cực chuẩn bị hội nhập trên lĩnh vực đầu tư:
Đa dạng hóa hơn nữa các hình thức thu hút vốn FDI. Cho phéo các doanh nghiệp có vốn FDI được thí điểm chuyển đổi từ Cty TNHH thành Cty cổ phần và phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn đầu tư. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước theo một tỷ lệ khống chế nhất định...
Hướng dẫn triển khai và xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến việc áp dụng các luật thuế mới như: thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT...
Rà soát lại thuế suất thuế nhập khẩu để khuyến khích nội địa hóa, khăc phục tình trạng thuế nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện cao hơn nhập khẩu thành phẩm.
Xây dựng phương án, lộ trình áp dụng thốngnhất các loại giá cả dịch vụ đối với các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo tinh thần nghị quyết hội nghị TW4.
Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa công nghệ và sử dụng lao động, mối quan hệ giữa tiền lương và vấn đề việc làm.
Bên cạnh việc nỗ lực thu hút FDI cần tích cực chuẩn bị cho quá trình hội nhập về đầu tư bằng cách:
Sớm thống nhất luật đàu tư trong nước với đầu tư nước ngoài, đảm bảo đối xử quốc gia.
Mặt khác, cần nghiên cứu một số chính sách và bảo hộ cần thiết đối với xí nghiệp trong nước trong đó có xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Tiếp tục xây dựng thị trường chứng khoán chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Thị trường chứng khoán trong một nền kinh tế là điều kiện cần thiết thúc đẩy hội nhập. Bởi thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn dài hạn cho doang nghiệp, đặc biệt là vốn cổ phần. Việc huy động vốn cổ phần qua thị trườn chứng khoán là một biện pháp cân đối lại tỷ lệ vốn sở hữu so với vốn vay và như vậy giảm được các rủi ro,nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán là nơi thuận tiện để mua bán trái phiếu chính phủ, tạo điều kiện cho việc phát hành trái phiếu chính phủ quy mô lớn với chi phí thấp nhất.
Nhìn chung,các chính sách trên mà được điều chỉnh và cải cách phù hợp sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế.
3.1.3 Cải cách thủ tục hành chính:
Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường nhưng tự do trong khuôn khổ pháp luật và theo định hướng XHCN. Vì vậy nền kinh tế vẫn còn nhiều rườm rà gây cản trở việc thực hiện một số dự án kinh tế quan trọng. Chẳng hạn như một công ty muốn xin giấy phép xuất khẩu phải trải qua rất nhiều “cửa”. Mỗi cửa lại phải tốn một chi phí gọi là “làm luật”. Điều đó không chỉ làm tăng chi phí của công ty mà nhiều khi làm doanh nghiệp để tuột mất thời cơ vì khi xin được giấy phép xong thì đã quá muộn. Hay tình trạng nhiều cơ quan, chức năng nhiệm vụ chồng chéo lên nhau dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm khiến cho các doanh nghiệp nhiều khi không biết kiến nghị hoặc kiện tụng ai. Do đó, Chính phủ cần phải có những biện pháp cải cách thủ tục hành chính như:
Cụ thể hóa sự phân cấp quản lý giữa các cơ quan của chính phủ với các cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với yêu cầu nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành thống nhất và thông suốt của hệ thống tài chính nhà nước và thủ trưởng cơ quan hành chính.
Khắc phục tình trạng nhiều đoàn kiểm tra, thnah tra chồng chéo lên nhau gây phiền hà tốn kém cho cơ sở.
3.2. Tầm vi mô:
Như chỉ có những chính sách của nhà nước mà không có sự hợp tác của các doanh nghiệp (DN) thì Việt Nam vẫn chưa đủ điều kiện để hội nhập. Do vậy DN cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình hội nhập.
Theo nhiều ý kiến hiện nay, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế, tiến hành kí kết các hiệp định một mặt mở rộng thị trường cho các DN Việt Nam, nhưng mặt khác nó lại là thách thức đối với các DN trong quá trình cạnh tranh. Các DN Việt Nam phần lớn là các DN vừa và nhỏ, quy mô sản xuất không lớn, thiếu vốn, công nghệ chưa được cải tiến đồng bộ... do vậy chất lượng hàng hóa thấp nhưng giá thành lại cao. Hơn nữa nhiều DN lại quen với “vòng tay bảo hộ’ của nhà nước nên thụ động với nền kinh tế thị trường. Như vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN Việt Nam là thách thức lớn nhất đối với vấn đề hội nhập của nước ta. Vấn đề đặt ra là phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng DN và của cả đất nước, vận dụng có hiệu quả cơ hội , giảm thiểu những thách thức do hội nhập đen lại. Để làm được điều đó, Cca DN VIệt Nam phải xây dựng một kế hoạch dài hạn với những biện pháp cụ thể cải tạo tình hình hướng tới phát triển. Các biện pháp đó có thể là:
Các DN phải nắm bắt và vận dụng sáng tạo các thành tựu khoa học công nghệ mới vào quy trình sản xuất kinh doanh: đổi mới dây chuyền công nghệ sẽ giúp cho các DN giảm được chi phí đầu vào, từ đó hạ được giá thành sản phẩm mà chất lượng lại cao. Những tiến bộ về khoa học công nghệ còn giúp cho các DN giảm được số LĐ trực tiếp sản xuất, dẫn tới giảm nhân công và tăng lương cho người LĐ.
Các DN phải thường xuyên theo dõi thực trạng của thị trường: khảo sát nhu cầu của thị trương, xác định lượng cung, lượng cầu để có kế hoạch sản xuất. Bởi hiện nay, nhiều DN vẫn tiếp tục sản xuất các sản phẩm với giá trị gia tăng thấp trong khi đó nhu cầu thị trường đã có sự chuyển đổi. Để khảo sát được thị trường, DN có thể tổ chức các đợt tiếp thị, quảng cáo sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Chiến lược kinh doanh của DN cần có tầm nhìn dài đón đầu được xu hướng thay đổi thị trường khu vực và thế giới.
Các DN còn phải coi trọng cải tiến quản lý tài chính. Các chế định tài chính cần được củng cố vững mạnh và có công nghệ hiện đại đủ sức cạnh tranh các dịch vụ tài chính với các chế định tài chính nước ngoài để DN và nhà đầu tư trong nước không tìm kiếm dịch vụ nước ngoài.
Một vấn đề quan trọng nữa hiện nay đối với các DN là nâng cao tay nghề của người LĐ. Muốn vậy, các DN cần phải tạo điều kiện cho người LĐ tiếp cận với công nghệ hiện đại, tổ chức đào tạo nghiệp vụ qua trường lớp. Ngoài ra, DN còn phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của người LĐ để người LĐ có đủ điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Nói tóm lại, những giải pháp cả ở tầng vĩ mô và vi mô như trên mà được thực hiện tốt thì trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ mở rộng thị trường mạnh mẽ trên thế giới.
PHẦN KẾT LUẬN
Chủ động hội hập kinh tế quốc tế thực sự là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Bởi Việt Nam không chỉ là đi theo xu hướng chung của thời đại mà còn tìm kiếm những thời cơ cho đất nước.
Việt Nam hội nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi. Đó không chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng cho sự khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư...làm cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế giới
Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn thử thách như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe dọa đến sự tồn tại của một số doangh nghiệp trong nước, ảnh hưởng đến chính trị, văn hóa của một quốc gia...Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình, Trái lại chúng ta “hòa nhập chứ không hòa tan”, các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn mình mà tìm những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta hãy tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình hội nhập hơn nữa.
Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước phải thấy được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập đối với sự phát triển của quốc gia. Từ đó thực hiện tốt trách nhiệm của mình để góp phần vào sự tiến bộ của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX.
Nguyễn Luyện: “Việt Nam trên đường hội nhập kinh tế thế giới” ( Tạp chí xây dựng số 6- 2000);
Lênin: “Chủ nghĩa đế quốc- giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản toàn tập- tập 27”.
Nguyễn Thanh Mai: “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập của Việt Nam trước thiên niên kỉ mới” ( Thương mại số 7- 2000).
Phạm Bình Mân: “Hội nhập kinh tế quốc tế: cơ hội và thách thức” ( Tapj chí công nghệ Việt Nam số 3-2001).
Phạm Thị Túy: “Toàn cầu hóa và những tác động” ( Nghiên cứu kinh tế số 290- tháng 7/ 2002).
http//www.dantri.com.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10522.doc