1. Tóm tắt
Tóm lại trong đề tài là vấn đề con người và giải phóng con người trong triết học Mác – Lênin và trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đề tài cho em hiểu được nguồn gốc và bản chất của con người. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, vấn đề con người và giải phóng con người trong mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa của Đảng ta.
2. Kiến nghị:
Chúng ta xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang bước sang một kỷ nguyên mới, em muốn thế giới này xinh đẹp, không còn nạn phân biệt chủng tộc, đối xử bình đẳng với phụ nữ, được tham gia vào các quan hệ xã hội và trong hoạt động chính trị.
Mặc dù xây dựng con người trong thời kỳ mới hiện đại nhưng vẫn phải giữ dìn bản sắc văn hoá dân tộc. Thế kỷ 21 là thế kỷ hội nhập mở cửa nhưng “hoà nhập” chứ không phải “hoà tan”. Lấy giữ dìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc làm nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
23 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2124 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.Lời mở đầu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin lịch sử loài người xét đến mục tiêu cuối cùng là phát triển toàn diện cá nhân trong một xã hội văn minh, làn sang văn minh đang dưa loài người tới một kỷ nguyên mới mở ra bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Bởi lẽ người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sỗng xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế đất nước theo cươ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng người lao động là nhân tố quyêt định trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về con người mà tại hội nghị lần thứ 4 của ban chấp hành trung ương khoá Vii Đảng ta đẫ đề ra thông qua nghị quyết về sự phát triển con người việt nam tòn diện vưới tư cách là động lực của sự nghiệp xây dung xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đó là: "Con người phát triển cao về trí tuệ cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần trong sáng về đạo đức”
Do nhận thức tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay nên em đã chọn đề tài tiểu luận. "Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người".
Tuy nhiên, với giới hạn về thời gian cũng như về năng lực thực tế hiện có của sinh viên, chắc rằng đề tài tiểu luận này không tránh khỏi thiếu sót. Vậy khính mong nhận được sự góp ý của Thầy cũng như của các bạn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo cùng các bạn đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp đỡ bọn em trong quá trình làm tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 04 tháng 04 năm 2007
B. Nội dung
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
1. Quan điểm của các nhà trước Mác về con người
Vấn đề con người theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ nội dung nghiên cứu các khoa học xã hội và nhân văn.Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã tong tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc bản chất con người.Trước Các Mác vấn đề bản chất con người vẫn chưa được giải đáp một cách thực sự khoa học.Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người.
Con người từ đâu sinh ra? ý nghĩa cuộc sống con người là gì? trong mỗi thời đại lịch sử con người quan hệ với tự nhiên và với đồng loại như thế nào? vì đâu ở mỗi con người mỗi cộng đồng người có những nết độc đáo về tư tưởng tình cảm tâm lý tính cách nghị lực tài năng? con người có thể làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình hay không? côn người phải làm gì để xứng đáng với con người. Đó là những vấn đề chung nhất cơ bản nhất mà các học thuyết triết học từ cổ đại đến nay đã đặt ra và giải đáp bằng những cách khác nhau
Từ trong buổi sơ khai của mình do hạn chế về nhận thức con người sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên và đã thờ trời thờ đất, thờ núi sông,muông thú nhiều lúc đã coi những thứ đó là nguồn gốc của tổ tiên mình.Rồi dần dần con người bắt đầu tìm hiểu nguồn gốc của mình và có những ý thức ban đầu về sức mạnh của bản thân mình.Nói chung các tôn giáo đều quan niệm con người do thần thánh thượng đế sinh ra, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài sắp đặt.Giáo lý kito quan niệm con người về bản chất là kẻ có tội.Con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn.Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì còn lại,con người phải cứu lấy linh hồncủa mình linh hồn là phần cao quí của con người thể xác là phần thấp hèn vì vậy người ta phải chăm lo cho linh hồn.Có những trào lưu triết học duy tâm khong giải thích nguồn gốc con người từ thời thần thánh hoặc từ con vật linh thiêngnào hoạt động đã giải thích không kém phần bí hiểm.Theo Hêghen ý niệm tuyệt đối tự tha hoá thành tự nhiên con người.Các bí hiểm của những tác động cũng phần nào khác so với những từ thái, cực, đạo, khí ở phương đôngđược coi như nguồn gốc sinh ra vũ trụ và con người.
Song Hêghen cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra qui luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân đồng thời Heghen cũng đẫ nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát qui luật cơ bản của quá trình đó.
ở những nước chụi ảnh hưởng của khổng giáo, phật giáo và lão giáo triết học cũng giải thích nguồn gốc con người hoặc từ một đấng thần linh tối cao hoặc một lực lượng thần bí đã nói ở trên.
- Theo mạnh tử con người sinh ra vốn là tốt do điều kiện sống tác động vào mà trở thành người tốt kẻ xấu.
Khác với Mạnh tử,Tuân tử lại cho rằng con người sinh ra vốn ác nhưng có thể cải biến phải chống lại cái ác thì con người mới tốt được
Các nhà duy vật pháp thế kỷ 18 và Phoi ơ bắc nhà duy vật lớn trong triết học cổ điển Đức đều phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm thần bí và tìm cách giải thích nguồn gốc bản chất con người theo quan điểm duy vật.Với sự ra đời của thuyết Đacuyn về sự tiến hoá của các loài sinh vật các nhà triết học duy vật trên đã chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người.”Không phải chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chúa mà chính con người đẫ tạo ra chúa theo hình ảnh của con người”.Lời nói này của Phoi ơ bắc được Mác và Anghên đánh giá cao khi hai ông nói về vai trò của các nhà duy vật trong việc phê phán những quan điểm duy tâm thần bí về nguồn gốc con người. Song Phoi ơ bắc đã không gữ được quan điểm duy vật của mình khi phân tích những vấn đề về bản chất con người, về lịch sử xã hội loài người.Phoi ơ bắc xem xét con người tách rời với hoạt động thực tiễn trong điều kiện lịch sử nhất định.
Tóm lại các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những thức lý luận xem xét con người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu twongj tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng sinh học tuy nhiên họ còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
Chủ nhĩa Mác đã kế thừa, khắc phục và phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết trước đây để đi tới quan niệm về con người hiện thực,con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực, con vừa là sản phẩm của tự nhiên của xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh và mặt xã hội của nó.Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật.Do vậy nhiều qui luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Con người vốn là một sinh vật nhưng lại phân biệt với các sinh vật khác.Do đó để tồn tại con người cũng phải ăn phải uống…điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng con người trước hết phải ăn phải mặc, ở rồi mới làm chính trị nhưng chỉ có”con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mác là một quan điểm toàn diên.
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước rằng con người là một bộ phận của giới tự nhiên là một động vật xã hội. Nhưng khác với họ Mác –Anghen xem xét mặt tự nhiên của con người như ăn ngủ đi lại yêu thích…không còn hoàn toàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá, Mác viết”bản chất của con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của những mỗi quan hệ xã hội”.Con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người. Mác đã chỉ ra sự khác biệt đó ở nhiều chỗ như chỉ ra con người tự sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình. Đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con người quết định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hạot của mình như thế con người đã gián tiếp sản xuất chính đời sống vật chất của mình, con người biến đổi tự nhiên theo qui luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật. Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Khi C.Mác nói "trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc sinh của con người. Ông chỉ đối lập luận điểm con người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên còn bỏ qua không nói gì đến mặt xã hội của con người. Không có con người trừu tượng mà chỉ có con người sống hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện nhất định. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể đó con người mới bộc lộ và thực hiện được bản chất thực sự của mình. Tư duy con người phát triển trong hoạt giao tiếp xã hội. Trước hết là trong hoạt động lao động sản xuất, con ngời không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã hội loài người. Từ quan niệm đó Mác khẳng định sự phất triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con người. Mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện nâng cao năng lực phẩm giá con người, giải phóng con người để con người được sống với cuộc sống đích thực.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì loài người vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng con người theo Anghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do.
Ngày nay quan niệm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát của con người làm thước đo chung càng được khẳng định, loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động xã hội đang phát triển một cách đa dạng, phức tạp, chính sự phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các châu lục. Lịch sử phát triển của xã hội đã tồn tại nhiều giai cấp song chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp đáp ứng đầy đủ mọi qui luật của cuộc sống và đó cũng chính là những lý do tại sao Mác chọn giai cấp vô sản để nghiên cứu. Trong đó Mác tập trung nghiên cứu con người vô sản là chủ yếu. Với Mác người vô sản là người tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới có sứ mệnh và hoàn toàn có khả năng giải phóng mình, giải phóng xã hội để xây dung xã hội mới tốt đẹp hơn.
3. Vai trò của quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người trong đời sống xã hội
Đảng và nhà nước ta đã và đang xây dung, phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược con người. Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tưởng và chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng. Cũng như trên thế giới. ở nước ta chiến lược con người có một ý nghĩa rất quan trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người đúng đắn không để con người đi lệch tư tưởng.
Trong đới sống xã hội thực tiễn trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương đảng khoá Vii đề ra nghị quyết về việc phát triển con người Việt nam toàn diện với tư cách ‘ động lực của sự nghiệp xây dung xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Và nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Viii của đảng đã khẳng định:” Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước”.
Các nhà tư tưởng đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là”chủ nghĩa không có con người” thực tế thì chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của ba bộ phận triết học nghiên cứu các qui luật của thế giới giúp ta hiểu bản chất mối quan hệ tự nhiên – xã hội – con người – chính trị kinh tế, vạch ra qui luật đi lên của xã hội. Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của con người “ tổng hoà các quan hệ xã hội “ và bản tính con người “ luôn vươn tới sự hoàn thiện “ mà còn vạch hướng đưa con người đi đúng bản chất và bản tính của mình, giải phóng xoá bỏ sự tha hoá tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất con người. Chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin mới có thể vạch rõ được hướng đi đúng cho con đường đi lên xã hộ chủ nghĩa ở Việt nam, thực hiện ý chí độc lập tự do cho con người Việt nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác khong thể áp dụng được và chính chủ nghĩa Mác – Lênin đx làm thay đổi trở thành hê tư tưởng chính thống của toàn xã hội.
Với sức mạnh có tính khoa học học thuyết Mác – Lênin đã vạch rõ yếu tố phi khoa học phi nhân đạo, các loại thế giới quan nhân sinh quan sai lệch mà trước đó đã làm mai một trí tuệ tính tích cực trong con người của cac shệ tư tưởng truyền thống. Mặt khác chủ nghĩa Mác –Lênin còn thể hện rõ tính ưưu việt trong con người đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập của phương tây và các trào tư tưởng tư sản hiện đại đang làm lệch hướng đi của những con người chân chính trong điều kiện đới sống vật chất khó khăn.
Nếu như không có chủ ngghĩa Mác – Lênin xã hội Việt nam phát triển hơn đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết về một xã hội tiến bộ luôn coi cái trớc mắt mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào lưu. Điều đáng trách hơn là họ cho rằng văn hoá Việt nam sẽ phong phú hơn đặc sắc hơn. Thực tế từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác – Lênin xã hội Việt nam như được tiếp thêm sức mạnh, phat striển có khoa học hơn ở khía cạnh nào đó trình độ dân trí trình độ năng lực văn hoá nghệ thuật … con người Việt nam không thua kém con người của các nước văn minh khác.
Xây dung chủ nghĩa xã hội là xây dựng được một xã hội mà ở đó có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện trong thực tế nguyên tắc” sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Và ở đất nước ta một đất nước đang còn nghèo nàn thì việc phát triển yếu tố con người là một vấn đề mà đảng ta đã xác định đó là vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế đất nước lấy chủ nghĩ Mác – Lênin là kim chỉ man cho mọi hoạt động.
Chúng ta đẫ có những đổi mới rõ rệt. Sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế văn hoá, chính trị. Trên thế giới sự biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế sự phát triển vũ bão của cuộc cánh mạng khoa học công nghệ điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin một chách khoa học hợp lý và sáng tạo để đáp ứng những đòi hỏi của xã hội mới
II- Vấn đề con người và giải phóng con người trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Vấn đề con người và giải phóng con người trong mục tiêu cách mạng của Đảng ta.
Mục tiêu cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta là đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho cả cộng đồng và mỗi thành viên của cộng đồng với tư cách cá nhân. Trong quá trình đổi mới, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta, Nhà nước ta thực hiện các chủ trương, giải pháp kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội phục vụ lợi ích của toàn xã hội, của cộng đồng, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, phát triển mạnh mẽ vững chắc kinh tế, văn hoá, từng bước thực hiện công bằng xã hội đó là lợi ích cơ bản của nhân dân ta. Lợi ích chung đó không mâu thuẫn với lơi ích cá nhân mà là cơ sở của lợi ích cá nhân. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta động viên toàn thể cộng đồng phấn đấu vì lợi ích chung, đồng thời quan tâm thích đáng những lợi ích cá nhân chân chính. Trong mỗi bước đi của cách mạnh, chỉ có kết hợp hài hoà lợi ích của toàn xã hội, đồng thời phát huy được tính tích cực sáng tạo của mỗi cá nhân. Muốn được như vậy, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa sự phát triển kinh tế với từng bước thực hiện công bằng xã hội. Phải kết hợp hài hoà giữa giải phóng xã hội với giải phóng cá nhân. Phát huy nhân tố con người có nghĩa là đồng thời phát huy nhân tố cộng đòng và nhân tố cá nhân.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngày dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn có những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội cần tránh hai thái độ cực đoan:
Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, đòi hỏi thoả mãn những yêu cầu cá nhân không phù hợp hoặc chưa phù hợp với lợi ích của xã hội và với điều kiện chung của xã hội, chỉ đòi hỏi xã hội mà không thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội. Đó là chủ nghĩa cá nhân cần phê phán. Những người tuyệt đối hoá cái cá nhân đã không nhận thức rõ rằng nếu không đảm bảo những lợi ích cơ bản của xã hội thì không thể thực hiện được lợi ích cá nhân chân chính.
Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân.Khuynh hướng này biểu hiện ở chỗ quan niệm sai lầm về lợi ích xã hội, về chủ nghĩa tập thể, thực chất là tư tưởng của chủ nghĩa bình quân dẫn đến thiếu sự quan tâm thiết thực lợi ích cá nhân, coi nhẹ việc hình thành và phát huy bản sắc cá nhân, tài năng cá nhân, xem thường các nguyện vọng, tâm tư, ý kiến của cá nhân; không thấy rằng sự phát triển của một xã hội là do kết quả đóng góp tích cực sáng tạo của mọi cá nhân trong xã hội đó. C.Mác nhận định: “xã hội.... là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người” và “Lịch sử xã hội của người ta bao giờ cũng chỉ là lịch sử phát triển cá nhân của họ...” xã hội càng phát triển thì những yêu cầu, nguyện vọng, khuynh hướng phát triển của cá nhân càng đa dạng. Không quan tâm giải quyết những vấn đề đó chẳng những làm suy yếu động lực của sự phát triển xã hội mà còn làm cho đời sống xã hội trở thành nghèo nàn, đơn điệu, không phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
2. Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới.
Đối với giai cấp công nhân, Đảng cần có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác độ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về mọi mặt ddể xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và văn hoá, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình; có chế độ tiền lương và phúc lợi xã hội hợp lý, bảo đảm đời sống vật chất và văn hoá của công nhân, viên chức và gia đình. Đảng cần tổng kết kinh nghiệm và ra nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân. Nhà nước cần bổ sung Luật công đoàn.
Đối với nông dân, phải giải quyết tốt quan hệ giữa nghĩa vụ đóng góp cho đất nước và quyền lợi của nông dân. Nhà nước phải soát lại các chính sách quan hệ đến nông dân, bãi bỏ những chính sách không đúng.
Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển. Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân.
Thanh niên, phải được bảo đảm việc làm khi bước vào đời và được quan tâm giáo dục về nhân cách, bản lĩnh và lý tưởng theo phương châm “sống chiến đầu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Phải có ý thức đầy đủ rằng chính thanh niên là người có sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Mạnh dạn giao trách nhiệm cho thanh niên, và thông qua các hoạt động xã hội mà đào tạo và bồi dưỡng họ. Thiếu niên và nh đồng phải được học tập và chăm sóc trong tình thương của gia đình và xã hội. Các cấp bộ Đảng và đoàn thanh niên phải chăm lo xây dựng Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
Phụ nữ nói chung, và lao động nữ nói riêng, có những đặc điểm cần được chú ý. Để phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghệp cách mạng, cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thấu suốt trong cả hệ thống chuyên chính vô sản, được cụ thể hoá thành chính sách, luật pháp. Các cơ quan Nhà nước, với sự phối hợp của các đoàn thể, cần có biện pháp thiết thực tạo thêm việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, thực hiện đúng Luật hôn nhân và gia đình. Tạo điều kiện cho phụ nữ kết hợp được nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Đảng cầng tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh cách mạng kiên cường, dũng cảm của các dân tộc thiểu số ở nước ta nhằm củng cố và nâng cao thêm một bước khối đoàn kết các dân tộc, hướng vào việc xây dựng miền núi giàu mạnh, thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng do Đại hội đề ra. Tăng cường việc giáo dục chính sách dân tộc trong cán bộ, Đảng viên, trong quân đội và đồng bào cả nước, nâng cao cảnh giác, kịp thời vạch trần và làm thất bại âm mưu, hành động của kẻ thù chia rẽ dân tộc. Có qui hoạch và kế hoạch tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nhất là cán bộ các dân tộc thiểu số ở vùng cao, biên giới và một số vùng ở miền Nam.
Đảng và Nhà nước, trước sau như một, thực hành chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng. Lãnh đoạ và giúp đỡ đồng bào theo tôn giáo đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc. Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu , thủ đoạn của bọnđế quốc và phẩn động chia rẽ đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo với đồng bào theo đạo và với đồng bào theo đạo khác.
Người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đang hình thành một cộng đồng vừa hoà nhập vào xã hội sở tại vừa gắn bó với quê hương. Đảng và Nhà nước ta thông cảm và đánh giá cao lòng yêu nước của đồng bào, sẽ tạo thêm những điều kiện thuận lợi để đồng bào xây dựng khối đoàn kết cộng đồng, tiếp xúc với bà con trong nước, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
3. Gắn phát triển con người hiện đại với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có mục tiêu chiến lược là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đó chính là một quá trình cải biến xã hội sâu sắc, đòi hỏi phát huy cao độ khả năng và trí tuệ ở mỗi con người Việt Nam chúng ta hôm nay. Sự nghiệp to lớn ấy là quá trình phát triển hài hoà kinh tế với văn hoá, xã hội, lấy con người làm trung tâm, tất cả vì con người, do con người. Sự nghiệp ấy phải mang đậm tính nhân văn, ý nghĩa nhân đạo, phải vì sự phát triển con người Việt Nam hiện đại, phải do chính con người Việt Nam hôm nay, những người biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, luôn hướng tới hệ giá trị chân – thiệp – mỹ, thực hiện.
Ngay từ những ngày đầu của công cuộc xây dựng xã hội mới trên đất nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc phát triển con người Việt Nam thời đại mới vừa là mục tiêu, vừa là động lực. Trong quan niệm của Người, phát triển con người Việt Nam phải gắn liền với phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và quyền được hưởng thụ những thành quả văn hoá dân tộc cho mọi người dân. Khẳng định vị trí quan trọng, ý nghĩa lớn lao của truyền thống văn hoá dân tộc trong công cuộc xây dựng xã hội mới trên đất nước ta, Người cho rằng phát triển văn hoá phải nhằm mục đích nâng cao đời sống tinh thần cho quần chúng nhân dân lao động, “văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống tươi vui, lành mạnh của quần chúng” (10-59). Để phát triển văn hoá với tầm vóc và ý nghĩa lớn lao đó, theo Người, chúng ta phải “xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới” cho công cuộc kiến thiết đất nước, đồng thời “phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng” (10-173).
Khẳng định tầm chiến lược trong tư tưởng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lấy đó làm cơ sở nền tảng cho việc xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội ta, Đảng ta luôn xác định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Trên thực tế, Đảng đã làm tất cả những gì có thể làm được để “Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội” (110-111).
Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta chủ trương xây dựng và phát triển là “nền văn hoá yêu nước và tiến bộ” với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với mục tiêu tất cả vì con người, vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện cho mỗi con người Việt Nam trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc mà chúng ta cần giữ gìn và phát huy của nền văn hoá ấy là những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên quan hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã- Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, biết hy sinh vì sự nghiệp dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó là sự tế nhị trong giao tiếp, giản dị trong lối sống.
Khẳng định tính đúng đắn của đường lối xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nhấn mạnh: “Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hoá Việt Nam. Vì vậy, quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Đây là khâu trung trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hoá và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta” (14-11).
Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, trong thực tiễn lịch sử – cụ thể của nước ta hiện nay, công cuộc phát triển đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” đang đề ra những yêu cầu hết sức cao và cũng trông đợi rất nhiều ở văn hoá. Một khi văn hoá không được phát triển, bản sắc văn hoá dân tộc không được giữ gin và phát huy với tư cách là năng lực nội sinh, mối quan hệ biện chứng và sự tác động qu lại giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá không được chú ý thoả đáng, thì không những tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam bị suy yếu, mà cả vận hội cho sự phát triển tiếp theo với tiềm năng sáng tạo sẵn có của con người Việt Nam cũng không con. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong cơ chế thị trường mà tách rời cội nguồn văn hoá dân tộc, không dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thì chúng ta sẽ không thể tránh khỏi “lâm vào nguy cơ tha hoá”. Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá, mở cửa, giao lưu, hội nhập và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ với các nước trong khu vực và trên thế giới mà xa rời những giá trị văn hoá dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác” (15-6).
Chúng ta không thể xem nhẹ chiều cạnh của phát triển văn hoá nói chung, phát triển con người Việt Nam hiện đại nói riêng, bởi chính văn hoá làm coh phát triển trở nên có ý nghĩa, mang lại cho con người Việt Nam tiềm năng sáng tạo và góp phần duy trì, phát triển tiềm năng sáng tạo đó, hướng hoạt động sáng tạo đó theo mục đích nhân đạo, nhân văn. Bất cứ sự phát triển nào về kinh tế, khoa học, công nghệ, v.v... mà dẫn tới sự khủng hoảng những giá trị văn hoá, làm mất đi bản sắc dân tộc của văn hoá, làm xấu đi quan hệ vốn có giữa người với người đều có thể kéotheo hiểm hoạ khôn lường.
Với chúng ta, một nước có truyền thống văn hoá lâu đời, khi định hướng phát triển được xác định là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội, lấy sự phát triển con người Việt Nam hiện địa vừa là mục tiêu vừa là động lực, thì vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc càng trở nên có ý nghĩa cấp thiết, trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả chúng ta. “Việc tạo ra môi trường văn hoá của chủ nghĩa xã hội, trong đó có sự kết hợp hài hoà giữa các gái trị truyền thống và giá trị hiện đại,thấm nhuần tính dân tộc, nhân văn và trách nhiệm to lớn của toàn Đảng và toàn dân ta”. Tiến hành sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội trong bối cảnh một nước cho đến nay vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế kém phát triển, chúng ta không thể lấy việc mở rộng các hoạt động văn hoá lành mạnh, bổ ích, sáng tạo những giá trị văn hoá mới, sâu sắc, có tầm cỡ chiến lược, kết hợp với việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống làm định hướng, làm cơ sở chấn hưng và phát triển nền văn hoá Việt Nam ngang tầm thời đại. Chúng ta không thể không lấy việc bồi dưỡng, phát triển con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, bản lĩnh làm nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá, giữ gin và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Nói cách khác, đối với nước ta hiện nay, việc “vun trồng thế giới bên trong” cho con người Việt Nam hiện đại, làm cho họ đựơc phát triển toàn diện, giúp cho họ thực hiện được khát vọng ngàn đời của mình về Chân Thiện – Mỹ - đó là nhiệm vụ to lớn, không có gì có thể so sánh nổi của văn hoá, của sự nghiệp phát triển văn hoá, giữ gian và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Bởi lẽ, ở xã hội nào, ở thời đại nào cũng vậy, khi trình độ học vấn, trình độ văn hoá của con người càng cao thì họ càng có cơ hội nắm bắt các kiếnthức khoa học, sử dụng công nghệ và khả năng sáng tạo của họ càng lớn. Đó là điều kiện quan trọng bậc nhất để con người nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện địa hoá xã hội, khi các công nghệ lạc hậu được thay bằng các công nghệ tiên tiến, khi các phương tiện lao động cũ bị thay thế bởi các phương tiện lao động hiện đại hơn, thì trình độ học vấn, trình độ văn hoá của người lao động càng có tầm quan trọng hơn. Người lao động phải có học vấn, có trình độ văn hoá ở mức độ cần thiết nào đó thì họ mới có khả năng tiếp thu các kiến thức khoa học, kỹ thuật cần thiết để sử dụng và điều khiển các phương tiện kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Và trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội theo phương thức “đuổi kịp”, “đi tắt, đón đầu” như nước ta hiện nay, việc nâng cao trình độ học vấn, phổ cập văn hoá ở một bậc nào đó cho người lao động càng trở thành vấn đề cấp thiết. Để đạt được điều đó, chẳng những giáo dục và đào tạo phải trở thành “quốc sách hàng đầu”, mà thiết nghĩ, cả phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cũng phải được coi là “quốc sách hàng đầu”.
Có thể nói, ngày nay, khi chúng ta ý thức được một cách sâu sắc rằng chỉ có trên cơ sở “nâng cao cả mặt bằng dân trí và đỉnh cao dân trí, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam” mới tạo ra được “nhân tố quyết định thắng lợi” sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện địa hoá xã hội, thì phát triển văn hoá , giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cần phải được coi là đường lối chiến lược- chiến lược phát triển văn hoá. Đó là một sự nghiệp cách mạnh lâu dài, đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi chúng ta không chỉ có ý chí cách mạng, mà cả sự kiên trì, thận trọng.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cùng với việc tiếp thu và cải biến những tinh hoa văn hoá thế giới nhằm sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào đời sống xã hội, vào cuộc sống của mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh ở tất cả mọi người - đó là đòi hỏi bức bách, cấp thiết của chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện đại, của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Với chức năng “hướng con người tới cái đúng, cái thiện, cái đẹp”, sự nghiệp phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mà chúng ta đang thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII cần phải được coi là cội nguồn khơi dậy tiềm năng sáng tạo vô tận của con người Việt Nam ta, nhân lên sức mạnh của nhân dân ta để thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta đi vào thế kỷ XXI.
Như vậy, văn hoá, việc giữ gìn và phay huy bản sắc văn hoá dân tộc không thể đứng ngoài chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện đaị –con người ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó nằm ngay trong chiến lược phát triển ấy, gắn liền với chiến lược phát triển ấy. Nó là mục tiêu, là đông lực, là hệ điều tiết của chiến lược phát triển ấy.
4. Nghiên cứu con người trước thềm thế kỷ XXI.
ở Việt Nam, việc nghiên cứu về con người đương nhiên, có nhiều mục đích, nhưng một trong những mục đích đó là nhằm tiến tới một hiểu biết sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về chính con người Việt Nam – con người Việt Nam hiện đại và truyền thống: con người Việt Nam trong so sánh với con người phương Tây, Đông á và Đông Nam á .v.v.. Nhiệm vụ này rõ ràng là mới mẻ, cấp bách, nhưng về một phương diện nào đó, nhiệm vụ này lại cũng khá quen thuộc và có thể nói, đã ít nhiều có truyền thống đối với giới nghiên cứu ở Việt Nam.
Bởi lẽ, ở Việt Nam, trước kia, văn sử triết bất phân. Hơn một nghìn năm, kể từ khi Nho giáo du nhập, tri thức của văn hoá Nho giáo chủ yếu là tri thức về con người – chủ đề bao trùm là dạy và học làm người. Hồi đầu thế kỷ, với phong trào Duy tân, Đông du, con người Việt Nam lần đầu tiên được đem so sánh với người phương Tây và người Đông á. Kể từ đó cùng với sự tiếp thu và phát triển các khoa học chuyên ngnàh, tri thức về con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng đã được tích luỹ ngày một phong phú hơn, nhưng tản mạn trong các ngành khoa học riêng rẽ như sử học và khảo cổ học, y học và dân tộc học, xã hội học và tâm lý học .v.v. Từ giữa nhưng năm 80, vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc nổi lên và cùng với chủ đề này, việc nghiên cứu con người Việt Nam để xác định đặc trưng của người Việt Nam đã thu hút được sự chú ý của đông đảo các nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động xã hội.
Nhưng dẫu sao thì tri thức về con người Việt Nam vẫn còn khá đơn giản và có phần cảm tính trong nhiều ấn phẩm. Những kiến thức cơ bản về con người trong các khoa học y, sinh, hoặc xã hội và nhân văn... trên thực tế, vẫn chưa đủ để xác định đặc trưng người Việt. Hơn thế nữa, hình ảnh về con người trong hầu hết các khoa học xã hội và nhân văn cũng như trong một số khoa học tự nhiên có nghiên cứu về con người nhìn chung, đều bị cô lập hoá và chia cắt theo các khía cạnh quá chuyển biệt, đến nỗi rất khó hình dung bóng dáng của con người bằng xương bằng thịt trong các nghiên cứu chuyên ngành.
Sự ra đời của ngành tri thức mới về con người vào lúc này quả là phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống và của nhận thức.
Theo chúng tôi, con người Việt Nam, một mặt, do được sinh ra từ lịch sử đặc thù của xã hội Việt Nam và được đặt trước những thách thức riêng biệt đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam nên chắc chắn có những nét đặc thù só với người phương Tây. Người Nga, người Trung Hoa hoặc Đông – Nam á... song mặt khác, người Việt, ngay từ ngàn xưa đã là sản phẩm của sự giao thoa giữa các nền văn hoá. Có thể nói, về mặt địa – chính trị. Việt Nam thuộc khu vực Đông – Nam á, tức là có nhiều nét tương đồng với khu vực này. Nhưng về mặt văn hoá, do chịu ảnh hưởng nhiều của văn ohá không giao nên Việt Nam lại thuộc về vùng văn hoá Đông á. Đây là một đặc điểm khá tế nhị, có ý nghĩa qui định đáng kể đối với sự phát triển của con người và xã hội Việt Nam tương lai. Do vậy, đặc điểm này rất đang được lưu ý để nghiên cứu con người Việt Nam.
Đứng trước những thách thức mới của sự phát triển, những thách thức đặt ra trong thời đại toàn cầu hoá, người Việt có đặc thù xã hội, đặc thù tâm lý, đặc thù văn hoá (và có thể có những nét đặc thù sinh học) riêng. Đó là “những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước” như đã được Đảng ta khẳng định.
Đương nhiên, cái riêng, cái đặc thù ở đây không hiểu theo nghĩa tuyệt đối. “Riêng” không có nghĩa là không hề tồn tại ở các dân tộc khác, mà “riêng” chỉ với nghĩa là khác về vị trí trong bảng giá trị so với các dân tộc khác.
Với tinh thần ấy, chúng tôi hiểu những giá trị đặc thù của con người Việt Nam không phải chỉ là một hành trang dành riêng cho sự phát triển của xã hội Việt Nam, bên thềm thế kỷ XXI, đó còn là một phần tài sản chung của văn hoá nhân loại.
C- Kết luận
1. Tóm tắt
Tóm lại trong đề tài là vấn đề con người và giải phóng con người trong triết học Mác – Lênin và trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đề tài cho em hiểu được nguồn gốc và bản chất của con người. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, vấn đề con người và giải phóng con người trong mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa của Đảng ta.
2. Kiến nghị:
Chúng ta xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang bước sang một kỷ nguyên mới, em muốn thế giới này xinh đẹp, không còn nạn phân biệt chủng tộc, đối xử bình đẳng với phụ nữ, được tham gia vào các quan hệ xã hội và trong hoạt động chính trị.
Mặc dù xây dựng con người trong thời kỳ mới hiện đại nhưng vẫn phải giữ dìn bản sắc văn hoá dân tộc. Thế kỷ 21 là thế kỷ hội nhập mở cửa nhưng “hoà nhập” chứ không phải “hoà tan”. Lấy giữ dìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc làm nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
D. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác- Lênin – Nhà xuất bản chính trị quốc gia
2. Giáo trình kinh tế chính trị – Viện đại học mở hà nội
3. Có một Việt nam như thế đổi mới và phát triển – Giáo sư Trần Biên- Nhà xuất bản chính trị quốc gia
4. Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu - Chủ biên GSVSTSKH – Phạm Minh Hạc – Nhà xuất bản khoa học xã hội
5. Nền kinh tế tri thức và yêu cầu - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
6. Nguyễn Thị Phi Yến :” Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế “ - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
7. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
8. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35948.doc