Thành tựu mà đất nước Việt Nam đạt được trong những năm qua, đã chứng tỏ được con đường đi theo cách mạng XHCN từ năm1930, là hoàn toàn đúng đắn
và cũng là sự tin tưởng của toàn thể nhân dânViệt Nam vào con đường mà mình đã lựa chọn. Sau chiến tranh, Việt Nam đã bắt tay ngay vào xây dựng đất nước, cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất nhanh, đời sống của người dân Việt Nam đã được thay đổi rõ dệt so với trước kia, quyền công dân được tôn trọng và cuộc sống đã đầy đủ hơn Mong rằng con đường XHCN của nhân dân Việt Nam sẽ đưa đất nước phát triển mạnh hơn nữa.
33 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1104 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm lịch sử cụ thể trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tranh để sắp xếp lại một bước các tổ chức và giảm bớt các đầu mối đã đem lại kết quả rõ rệt so với trước đây- Đã giảm từ 43 bộ 37 cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng vào năm 1985- còn 24 Bộ và 28 cơ quan trực thuộc: gần 50% các Cục, Vụ với biên chế giảm 13,6% so với 1986. Bộ máy cấp Tỉnh, Huyện cũng giảm trung bình 40- 50% các đầu mối và biên chế hành chính. Riêng năm 1991 thực hiện Nghị quyết của quốc hội khoá VIII về sắp xếp tổ chức và giảm biên chế hành chính sự nghiệp đã giảm được trên 50.000 người.
Đội ngũ cán bộ cũng đã được đổi mới một phần trên cơ sở xác định chức danh tiêu chuẩn, phân loại cán bộ, trẻ hoá cán bộ, có sự phân công, phân cấp mới trong hệ thống quản lý cán bộ của Đảng với Nhà nước. Kết quả trong 5 năm qua chúng ta đổi mới 70% Bộ trưởng, 40% Bí thư tỉnh ủy, thành ủy; 60% Chủ tịch, Phó chủ tịch cấp tỉnh và hơn 50% cán bộ chủ chốt cơ sở. Trong quá trình bố trí lại cán bộ đã tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước( nhất là quản lý kinh tế và quản lý hành chính Nhà nước).
Tuy nhiên, với tinh thần mới- nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, trong quá trình chuẩn bị xây dựng phương án cải cách nền hành chính Nhà nước, các nhà nghiên cứu của ta có dịp đánh giá một cách tổng thể những yếu kém của nền hành chính nước ta trước hàng loạt những nhiệm vụ phức tạp về chỉ đạo quản lý một nền kinh tế chuyển tiếp từ một nền kinh tế hiện vật là chủ yếu với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có điều tiết của Nhà nước. Đối chiếu với yêu cầu xây dựng một Nhà nước dân chủ, Nhà nước pháp quyền, Nhà nước được tổ chức khoa học và Nhà nước trong sạch thì công cuộc cải cách nền hành chính Nhà nước ta là một đòi hỏi khách quan và cấp bách, mà theo đánh giá chung của các quốc gia đang phát triển thì nền hành chính có hiệu quả là một nguồn động lực của sự phát triển đất nước.
Những yếu kém về hệ thống hành chính Nhà nước ta hiện nay tập trung trong những nội dung chủ yếu sau đây:
Chưa hình thành một cơ cấu tổ chức trong đó không xác định đúng và
phân biệt rõ sự lãnh đạo của Đảng với vai trò chức năng quản lý của bộ máy Nhà nước; các chức năng Lập pháp- Hành pháp- Tư pháp trong cơ cấu của Nhà nước thống nhất chưa được phân định rõ ràng, còn trùng lập lẫn nhau, triệt tiêu hiệu lực của nhau.Trong đó hệ thống hành pháp chưa thành một hệ thống thống nhất từ Trung ương tới cơ sở, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bộ phận chưa được quy định rành mạch và đầy đủ; mối quan hệ giữa hành chính và chính trị cũng không xác định rõ ràng xét về tính lệ thuộc của hành chính và quyền lực chính trị cũng như tính liên tục, ổn định và độc lập tương đối của nó đối với chính trị.
Quyền lập quy và hoạt động lập quy của hệ thống hành chính không đầy
đủ(trên cơ sở của một hệ thống lập pháp không đầy đủ), vừa thiếu, không đồng bộ, không hoàn chỉnh, vừa có những mặt lạc hậu.Bộ máy tổ chức hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, hay thay đổi một cách thiếu căn cứ khoa học, thiếu tính ổn định cần thiết, trong đó chức năng của mỗi bộ phận không hợp lý, vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán tản mạn. Hoạt động thực tế của hệ thống hành chính còn mang nặng tính cắt cứ, địa phương cục bộ, cơ chế trách nhiệm không rõ ràng.
3. Đội ngũ cán bộ và viên chức Nhà nước vừa thừa, nhưng lại vừa thiếu, không được chuẩn bị chu đáo về kiến thức quản lý Nhà nước, quản lý hành chính và kiến thức pháp luật. Thiếu một quy chế viên chức Nhà nước có tính pháp lý khoa học, do đó các quá trình bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật, trách nhiệm và hưởng thụ v.v không hợp lý, mang nặng tính du kích, tuỳ tiện. Hiện nay vẫn còn tồn tại quan liệm cho rằng: Công việc hành chính ai cũng làm được nếu có chút ít kinh nghiệm và lương tri!?
4. Trong quản lý Nhà nước, chúng ta còn thiếu những bộ luật cơ bản như bộ Luật Lao động, Luật Hành chính và những thiết chế tài phán tương ứng. Điều này tạo ra cho các cơ quan và viên chức Nhà nước thường xuyên và đễ dàng vi phạm quyền và quyền lợi của công dân trong mối quan hệ hàng ngày với họ, trên các mặt đời sống xã hội. Mặt khác, còn tồn tại một thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, phiền toái, cùng bệnh cửa quyền, tham nhũng trở nên thực sự phổ biến và hết sức nghiêm trọng, làm triệt tiêu mọi nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các kế hoạch kinh tế- xã hội và thi hành pháp luật.
5. Chúng ta thiếu các định chế và kỹ thuật quản trị các dự án phát triển. Trong lĩnh vực hành chính, định chế là cả một hệ thống tổ chức và liêu tục để theo đuổi các mục tiêu xã hội đã xác định. Thời gian qua ta cũng có tiến bộ trong quản lý các dự án phát triển, song các cấp quản lý chỉ coi trọng khía cạnh tài chính mà chưa chú ý đúng mức tới khía cạnh phát triển tổ chức, quản trị và nhân sự.
6. Nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính quá thủ công, lạc hậu, gần như hàng chục năm khôngthay đổi, ít sử dụng kỹ thuật máy móc bình thường trong khoa học và nghiệp vụ hành chính, hệ thống thông tin lạc hậu, quá chậm trễ trong việc ứng dụng tin học. Do đó bộ máy và con người lạc hậu lại càng lạc hậu, không đáp ứng kịp sự phát triển mới của xã hội và đòi hỏi của việc xây dựng một Nhà nước hiện đại.
Những yếu kém trên đây cũng chính là những vấn đề căn bản của cải cách nền hành chính Nhà nước ta trong thời gian tới. Song, chúng ta cho rằng: Quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy Nhà nước ta phải được đặt trong quỹ đạo hoạt động của quy luật phù hợp trong lịch sử, và sự phát triển của một hình thái kinh tế- xã hội theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin. Vì vậy, việc xác định rõ mô hình tổ chức xã hội nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu cần được khẳng định và thực tế trong cương lĩnh xây dựng đất nước do Đại hội VII của Đảng thông qua đã thể hiện khá đầy đủ mô hình này. Ơ đây, từ sự phân tích các yếu tố kinh tế- chính trị- xã hội và thực trạng tổ chức Nhà nước ta trên đây, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một mô hình xã hội quá độ của ta như sau: Một xã hội trong đó có nền kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần sở hữu hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; trong lĩnh vực chính trị đòi hỏi phải có một Nhà nước pháp quyền; trong lĩnh vực xã hội phải là một xã hội đảm bảo quyền tự do- dân chủ của của mọi công dân và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân tố con người; trong lĩnh vực tư tưởng đòi hỏi phải đa dạng hoá ý kiến trên cơ sở khoa học Mác- Lê nin và những giá trị chung của nền văn minh nhân loại. Đây là cơ sở cho phép
chúng ta thiết kế một cơ cấu tổ chức Nhà nước và một cơ chế vận hành chúng có hiệu quả.
Công cuộc cải cách cơ bản của tổ chức bộ máy Nhà nước, cải cách nền hành chính nước ta hiện nay là một quốc sách.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo theo định hướng XHCN nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng để tiếp tục phát triển, chúng ta vừa kiên trì giữ vững những nguyên tắc tổ chức của một Nhà nước “ của dân, do dân và vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng; vừa kết hợp với nghệ thuật mềm dẻo trong soạn thảo và thực hiện chính sách để chủ động mở cửa hoà nhập vào các tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại, bảo vệ hoà bình và CNXH trong một thế giới phức tạp và đầy biến động.
(trích trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII- Hà Nội- ST1991- trang 44).
2.2 Đổi mới hình thức quản lý và phát triển các doanh nghiệp để thích ứng với sự phát triển kinh tế:
Hiện nay, trong tổ chức và hoạt động của các cơ Nhà nước, đang bộc lộ nhiều điểm thích ứng với yêu cầu đổi mới cơ chế kinh tế, trước hết là trong việc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô: đang còn tình trạng buông lỏng nhiều việc thuộc chức năng đích thực của mình, nhưng lại can thiệp trực tiếp vào công việc thuộc chức năng của các đơn vị sản xuất kinh doanh, sự nghiệp. Đây là một nhược điểm lớn đã và đang hạn chế kết quả công việc đổi mới kinh tế.Cải cách bộ máy Nhà nước là yêu cầu khách quan để làm cho các doanh nghiệp, xí nghiệp vừa thích ứng vừa phục vụ và thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Trong những năm tới, theo phương hướng của Hiến pháp sửa đổi, cần phân biệt làm rõ chức năng và phương thức hoạt động giữa tổ chức Nhà nước và tổ chức kinh doanh, sự nghiệp; xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy Nhà nước một cách khoa học, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực thích hợp với cơ chế mới. Chúng ta phải sớm xây dựng và hoàn chỉnh các luật về tổ chức Nhà nước, nghĩa vụ công dân đối với đất nước, luật về kinh doanh phù hợp với cơ chế kinh tế nhiều thành phần, luật giải quyết các tranh chấp giữa các doanh nghiệp.
Công cuộc cải cách cơ quan hành chính các cấp đối với nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nói riêng, làm cho cơ quan hành chính thực sự chuyển từ chỗ can thiệp trực tiếp vào công việc cụ thể về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sang cách làm chủ yếu là thông qua luật pháp và các đòn bẩy kinh tế để điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế; tăng cường chức năng kiểm kê, kiểm soát mọi hoạt động kinh tế.
( Trích báo cáo của HĐBTvề nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 1991- 1995 và năm 1992 do Chủ tịch HĐBT Võ Văn Kiệt trình bày tại kỳ họp thứ 10- Quốc hội khoá VIII, ngày 10-12-1991).
2.21 Thời cơ và thách thức:
Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới.Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được tạo ra. Sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam, trong năm 1994, một lần nữa lại chuyển động về phía trước.Theo báo cáo của Thủ tướng Võ Văn Kiệt trước quốc hội, GDP năm nay đạt mức 8,5%. Như vậy, tính chung cho thời kỳ 1991- 1994, mức tăng GDP bình quân 7,8% năm. Năm 1991, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 6%, năm 1992 tăng 8,6%, năm 1993 tăng 8,1% và năm 1994.
Một thành tựu quan trọng nhất của cải cách kinh tế là đã kìm chế và đẩy lùi nạn phát. Tốc độ lạm phát phi mã 3 con số ( 400- 500%) trước năm 1990 đã được giảm mạnh còn 68% năm 1991, 18% năm 1992, 5% năm 1993 và xấp xỉ 9-10% tính đến tháng 12 năm 1994. Kết quả to lớn này bắt nguồn từ việc chính phủ thi hành chính sách tài chính- tiền tệ tích cực, năng động linh hoạt. Số liệu đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam năm 1994:
* Tổng sản phẩm trong nước( GDP) tăng 8,5% so với năm 1993( kế hoạch 8%).
* Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 13%( kế hoạch 11%).
* Giá trị tổng sản lượng nông- lâm nghiệp tăng 4,5%.
*Tổng sản lượng lương thực đạt 25,6- 26 triệu tấn (tăng 30- 50 vạn tấn).
* Kim ngạch xuất khẩu đạt mức kế hoạch 3,6 tỷ USD.
* Kim ngạch nhập khẩu khoảng 4,5 tỷ USD.
* Nhập siêu 900 triệu USD.
* Vốn đầu toàn xã hội khoảng 43.000 tỷ đồng ( vượt 1000 tỷ so với dự kiến, tăng 35% so với năm 1993), đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 3,5 tỷ USD, tăng 26% so với năm 1993).
* Lạm phát: 9% năm 1994.
* Thất nghiệp: Theo một số liệu của Bộ lao động- thương binh và xã hội, lao động cả nước tăng thêm 4,7 triệu người trong vòng 5 năm( 1991-1995). Số người cần có việc làm(gồm số dôi ra sau khi xắp xếp lại lao động và chưa có việc làm đến nay khoảng 7,5 triệu người).
( Trích trong cuốn tạp chí Việt Nam & Đông Nam á ngày nay tiến vào ASEAN số 1/95).
Quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết. Khả năng giữ vững độc lập tự chi và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Đó là thời cơ lớn, cột mốc quan trọng mới trong quan hệ Việt Nam- ASEAN có thể diển ra vào tháng 7- 1995, với việc Việt Nam gia nhập tổ chức này. Nhưng bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ( 1- 1994) nêu lên cho đến nay vẫn là những thách thức lớn; Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Có những thế lực vẫn tiếp tục mưu toan diễn biến hoà bình, dân chủ hòng can thiệp vào nội bộ nước ta. Tình hình khu vực Châu á- Thái Bình Dương và Biển Đông còn
diễn biến phức tạp. Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận Đảng viên làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, các chủ chính sách của Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng; đó là mảnh đất thuật lợi cho diễn biến hoà bình.
Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Chúng ta chủ nắm thời cơ,vươn lên phát triển nhanh và vững chắc,tạo ra thế và lực mới;đồng thời luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng hướng.
Trong cuộc họp đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nêu ra hướng phấn đấu đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới- đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diệnvà đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN,phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau. Chú ý, phát triển và phát huy tốt tiềm lực khoa học và công nghệ; lựa chọn và làm chủ các loại hình công nghệ nhập và tích cực chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở giai đoạn sau. Tốc độ đổi mới công nghệ đạt 10% năm trở lên.
Đổi mới căn bản tổ chức, quản lý và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Phát triển các hình thức liên doanh, liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau, giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân, cá thể và các công ty nước ngoài. Tạo việc làm nhiều hơn số lao động tăng thêm hằng năm, giảm đáng kể thất nghiệp; xoá đói, tiếp tục giảm nghèo. Cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, nâng cao hưởng thụ văn hoá của nhân dân, đặc biệt các vùng nông thôn, miền núi. Tới năm 2000, nhịp độ tăng dân số dưới 1,8%. Khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng nặng ở trẻ em dưới 5 tuổi. Thanh toán nạn mù chữ cho người trong độ tuổi 15-35, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 22-25%. Ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường. Đẩy lùi tiêu cực và các tệ nạn xã hội. Giữ vững sự ổn định chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh.Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
3. Định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu:
3.1 Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo. Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại: tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn phương án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
3.12 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn:
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường trong, ngoài nước. Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao, phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại. Hoàn thành cơ bản việc giao đất, khoán rừng cho hộ nông dân. Điều chỉnh việc phân bổ vốn và huy động thêm nhiều nguồn vốn cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm
3.13 Phát triển công nghiệp:
Ưu tiên các ngành chế biến lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin.Phát triển có chọn lọc một số cơ sơ công nghiệp nặng( năng lượng- nhiên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa tàu thuỷ, luyện kim, hoá chất), tăng thêm năng lực sản xuất tương ứng với yêu cầu tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng độc lập tự chi về kinh tế và quốc phòng. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cần thiết trong từng thời kỳ.
Cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Xây dựng mới một số khu công nghiệp, phân bố rộng trên các vùng.
3.14 Xây dựng kết cấu hạ tầng:
Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có; khôi phục, nâng cấp và mở thêm một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ; mở thêm đường đến các vùng sâu, vùng xa; cải thiện giao thông ở các thành phố lớn. Cải tạo, nâng cấp một số cảng sông, cảng biển, sân bay; xây dựng dần cảng biển nước sâu.
Tiếp tục phát triển và hiện đại hoá mạng thông tin liên lạc điện thoại đến hầu hết các xã. phát triển nguồn điện; cải tạo và mở rộng lưới điện đáp ứng nhu cầu và cung cấp điện ổn định. Cải thiện việc cấp thoát nước ở đô thị, thêm nguồn nước sạch cho nông thôn.
Tăng đầu tư cho kết cấu hạ tầng xã hội ( giáo dục, y tế, khoa học, văn hoá- thông tin, thể thao).
Phát triển nhanh du lich, các dịch vụ:
Hàng không, hàng hải, bưu chính- viễn thông, thương mại, vật tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, công nghệ, pháp lý, thông tin và các dịch vụ phục cuộc sống nhân dân.
Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại- dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
3.16 Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả vùng đều phát triển.
Đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng kinh tế trọng điểm để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Dành nguồn lực thích đáng cho việc giải quyết những nhu cầu cấp bách, đặc biệt là các vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có bước tiến nhanh hơn, dần dần giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế- xã hội giữa các vùng, coi đây là trọng tâm chỉ đạo các ngành, các cấp. Đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế biển, kết với an ninh- quốc phòng.
Từng bước hình thành mạng lưới đô thị hợp lý, tránh không tạo thành các siêu đô thị. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị.
3.17 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh trên thị trường. Giảm tỉ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Nâng cao tỉ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu.Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý hàng sản xuất trong nước.
Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và đối tác.
Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp.
Việc sử dụng vốn vay và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải theo quy hoạch và kế hoạch phát triển ngànhvà vùng lãnh thổ, đảm bảo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Làm rõ và thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý nợ nước ngoài, của người đi vay và người sử dụng vốn vay.
3.21. Thực hiện những chủ trương, chính sách sau đây đổi với từng thành phần kinh tế:
Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng- an ninh. Doanh nghiệp Nhà nước có chung có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiến bộ, kinh có hiệu quả, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách.
Lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh. Triển khai tích cực và vựng chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Tổ chức hợp lý các tổng công ty, bảo đảm vừa trách phân tán lực lượng, vừa chống độc quyền hoặc trở thành cấp hành chính trung gian.
3.22 Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã:
Là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi thành viên có quyền như nhau đối với công việc chung.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả. Thực hiện tốt luật hợp tác xã.
3.23 Kinh tế tư bản Nhà nước:
Bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các Nhà tư bản
vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh.
3.24 Kinh tế cá thể, tiểu chủ:
Có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ những khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể,tiểu chủ vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào hợp tác làm ăn một cách tự nguyện.
3.25 Kinh tế tư bản tư nhân:
Có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh.
4 Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế:
4.1 Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường:
Phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ. Mở rộng thị trường, thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước. Phát triển thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý,tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bảo lãnhKhắc phục tình trạng kinh doanh trái phép trốn thuế, hạn chế độ quyền kinh doanh, duy trì đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường; khắc phục tình trạng buông lỏng thị trường nông thôn, miền núi.
Tổ chức quản lý và hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động, tạo thêm chỗ làm việc, tự tạo việc làm, tổ chức tốt dịch vụ giới thiệu việc làm và đào tạo nghề. Bảo hộ quyền lợi và an toàn lao động, giải quyết tốt mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không được tư nhân hoá, không cho phép buôn bán,trao đổi bất hợp pháp gây mất ổn định về kinh tế. Thực hiện đúng Luật đất đai; bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và chính sách về luật đất đai.
Xây dựng thị trường vốn , từng bước hình thành thị trường chứng khoán; thu hút vốn qua ngân hàng và các công ty tài chính để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu phát triển.
4.12 Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về kinh tế:
Ban hành một số luật mới và sửa đổi, bổ sung một số luật và pháp lệnh hiện hành để tiếp tục thể chế hoá Cương lĩnh, Chiến lược và chủ trương chính sách của Đảng, hình thành khuôn khổ pháp lý đồng bộ, cần thiết cho hoạt động kinh tế.
4.13 Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá:
Kế hoạch Nhà nước phải quán triệt đường nối, chủ trương của Đảng để đưa ra một hệ thống các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, cơ cấu và các cân
đối lớn, các chính sách, giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch.Tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, chương trình và dự án lớn cho cả nước và cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực.
4.14 Đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả:
Chính sách tài chính nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển; đáp ứng những nhu cầu chi thường xuyên thật sự cần thiết, cấp bách; bảo đảm quản lý thống nhất nền hành chính quốc gia; giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát. Xử lý đúng đắn các mối quan hệ: tích luỹ và tiêu dùng; tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư; ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi bảo đảm quốc phòng- an ninh; huy động vốn trong nước và vốn bên ngoài; vay và trả nợĐể tạo vốn đầu tư và phát triển phải làm ăn có hiệu quả, phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm triệt để trong Nhà nước ,trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của dân cư. Thực hiện chặt chẽ chế độ kế toán, kiểm toán và chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính.
Chuyển mạnh chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường, góp phần ổn định sức mua của đồng Việt Nam, huy động và cho vay vốn có hiệu quảCó chính sách tỉ giá hối đoái và quản lý ngoại hối hợp lý thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được nhập khẩu, từng bước làm cho đồng Việt Nam có giá trị chuyển đổi đầy đủ và là phương tiện lưu thông duy nhất trong nước.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giá cả và đổi mới công tác quản lý giá.
4.2 Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo:
4.21 Khoa học và công nghệ:
Hoạt động khoa học công nghệ của nước ta trong giai đoạn tới cần tập trung vào các phương hướng chủ yếu sau đây:
-Vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệĐẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và công nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng- an ninh.
Nắm bắt các công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, những công nghệ mới trong chế tạo máy để có thể đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. Đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn về khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên. Ưu tiên các công nghệ sạch, tốn ít nguyên, nhiên liệu. Đề xuất các phương pháp khoa học và ứng dụng các phương tiện kỹ thuật để hạn chế hậu quả thiên tai.
Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh các hình thức đào tạo cán bộ khoa học ở trong và ngoài nước. Gấp rút đào tạo chuyên gia đầu đàn. Sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ trẻ cho các cơ quan nghiên cứu triển khai, các trường đại học. Phát huy sự tìm tòi, sáng tạo
trong nghiên cứu, đồng thời đề cao trách nhiệm xã hội của những người làm công tác khoa học và công nghệ đối với đất nước. Thúc đẩy các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn của Nhà nước đổi mới công nghệ, thu hút lực lượng nghiên cứu-triển khai về các doanh nghiệp. Có chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, ưu đãi nhân tài có cống hiến quan trọng, khuyến khích cán bộ khoa học làm việc ở vùng sâu, vùng xa. Xây dựng quỹ tín dụng và ngân hàng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, quyết tâm đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học công nghệ.
4.22 Giáo dục và đào tạo:
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong 5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khắc phục tình trạng yếu kém trong giáo dục và đào tạo; bảo đảm đại bộ phận trẻ em 5 tuổi được hưởng chương trình giáo dục mầm non, thanh toán nạn mù chữ những người trong độ tuổi từ 15 đến 35, cơ bản hoàn thành phổ cập tiểu học trong cả nước. Có chính sách bảo đảm cho con em các gia đình diện chính sách, gia đình nghèo được đi học, động viên giúp đỡ những học sinh giỏi, có nhiều triển vọng. Xây dựng hệ thống những trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học. Coi trọng việc dạy ngoại ngữ và tin học từ cấp phổ thông. Mở thêm các trường phổ thông nội trú ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào thiểu số. Coi trọng giáo dục gia đình.
Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp nhận công nghệ tiên tiến. Phát triển các hình thức giáo dục từ xa. Mở rộng hệ thống các trường lớp dạy nghề và đào tạo công nhân lành nghề, nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo từ 10% hiện nay lên khoảng 22- 25%. Nâng cao kiến thức văn hoá, nghề nghiệp cho phụ nữ; bồi dưỡng lực lượng các bộ nữ. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc. Ngăn chặn và xử lý nghiêm những tiêu cực trong giảng dạy, học tập, thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ. Nâng dần tỉ trọng chi ngân sách cho giáo dục, đào tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. Phát huy trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo.
4.3 Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo dức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng một môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội.
Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ,các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc,kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam. Củng cố, tăng cường mạng lưới văn hoá cơ sở. Quản lý tốt các hoạt động văn hoá, văn nghệ. Nâng cao hiểu biết và hưởng thụ văn hoá của nhân dân ở mọi vùng đất nước. Hướng dẫn nhân dân về nếp sống văn hoá, văn minh; chống các thủ tục, mê tín dị đoan.
Phát triển đi đôi với quản lý tốt mạng lưới thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh và các hình thức nghệ thuật khác. Sớm hoạch định một chiến lược quốc gia về thông tin; coi trọng việc nâng cao chất lượng thông tin đại chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin; coi trọng việc phát hiện và đề cao các nhân tố mới đồng thời với việc phát hiện và phê phán các hiện tượng tiêu cực. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại. Khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy sáng tác văn học, nghệ thuật phản ánh các nhân tố mới trong xã hội, cổ vũ cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án cái xấu, cái ác, hướng chân, thiện mỹ. Phổ biến kịp thời các tác phẩm tốt, đưa các nhân tố văn hoá, tinh thần nhân văn thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ cách ứng sử trong gia đình, trường học, xã hội đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao tiếp
Xây dựng văn hoá là nhiệm vụ chung của toàn xa hội. Có chính sách đầu tư đích đáng cho văn hoá, văn nghệ. Phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ của Nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
4.4 Chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội:
Hệ thống chính sách xã hội được hoạch định trên những quan điểm sau đây:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
Trong những năm trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề xã hội sau đây:
- Tập trung sức tạo việc làm.
Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế- xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước,tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh- quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giám tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
- Thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện.
Thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. Mở rộng diện các xã có điện, có đường, có trường học, có trạm y tế, có nước sạch
Mở rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ. Bồi dưỡng và tạo điều kiện cho các con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh.
Thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định, từng bước được cải thiện. Xây dựng Luật bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ mồi côi, lang thang cơ nhỡ, người già leo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật; xây dựng quỹ tình thương trích từ ngân sách một phần và động viên toàn xã hội tham gia đóng góp; tiến tới xây dựng Luật về bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi. Giúp đỡ những vùng bị thiên tai và những rủi ro khác.
- Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể chất nhân dân.
Phấn đấu giảm tỉ lệ mắc bệnh truyền nhiễm gây dịch, các bệnh do ký sinh trùng và suy dinh dưỡng. Cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ của người người dân, nhất là sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, nâng cao tuổi thọ bình quân và giảm tỉ lệ tử vong. Tiếp tục củng cố hệ thống y tế Nhà nước, đặc biệt là y tế xã, huyện. Mở rộng, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Đẩy mạnh công tác y học dự phòng. Thực hiện rộng rãi các biện pháp vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm và cung cấp nước sạch. Phát triển phong trào thể dục thể thao sâu rộng trong cả nước, trước hết là trong thanh, thiếu niên; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, trong các lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ trang. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về thể dục, thể thao. Từng bước hình thành lượng thể thao chuyên nghiệp.
- Đẩy mạnh công tác dân số- kế hoạch hoá gia đình.
- Đẩy lùi tệ nạn xã hội: thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và pháp luật để phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma tuý, mua bán dâm
4.5 Quốc phòng và an ninh:
Nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong những năm tới là: phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, thế trận quốc phòng dân gắn với nền an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, cần nắm vững các tư tưởng chỉ đạo sau đây:
- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế.
- Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm an ninh, hai mặt có quan hệ khăng khít với nhau của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và XHCN; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để tăng cường tiềm năng quốc phòng; xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưuvà hoạt động chống phá ta.
- Hoàn thiệt hệ thống pháp luật về bảo về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
- Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an, đối với sự nghiệp xây dựng củng cố quốc phòng và an ninh.
4.6 Chính sách đối ngoại hợp tác quốc tế:
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuật lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình,độc lập dân tộc, dân chi và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục thực hiện đường nối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng.
Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế- chính trị thế giới, đồng thời luôn đề cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở châu á, châu phi, mỹ latinh với phong trào không liên kết.
Tăng cường hoạt động ở Liên hợp quốc, tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế, tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế khác. Tích cực đóng góp cho các hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ung hộ cuộc đấu tranh nhằm loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân và những phương tiện giết người hàng loạt khác.
Phát triển quan hệ với các Đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ; mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các Đảng khác.
Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
Thực hiện đại doàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Bằng chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc trong nước, tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng nhân dân: Xây dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, thanh niên, phụ nữ, các doanh nghiệp, dân tộc, tôn giáo và ngườiViệt Nam định cư ở nước ngoài.
( Trích trong cuốn Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ VIII trang 82- 126 ).
Những chuyển biến tích cực trong bộ máy hành chính, thay đổi trong chính sách đổi mới kinh tế trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, trong những năm qua đã đưa nền kinh tế của ta phát triển không ngừng, với sự tăng trưởng đáng kể của các ngành sản xuất. Đưa nước ta từ chỗ thiếu hàng hoá tiêu dùng, nguyên vật liệu, thiết bị trong sản xuất trở thành một nước xuất khẩu lương thực, hàng hoá tiêu dùng và một số thiết bị máy móc ta có thể tự sản xuất trong nước. Với thành công trong công cuộc đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã được bạn bè quốc tế nhìn nhận đánh giá rất cao:
Theo phóng viên báo Nhân Dân thường trú tại Trung Quốc với đầu đề “ thị trường Việt Nam chờ đợi các nhà đầu tư”. Bài viết trên tạp trí Liêu Vọng của Trung Quốc số ra ngày 6-5 2002 đã nêu bật những thành tựu đổi mới và tiềm năng phát triển, thu hút đầu tư của Việt Nam. Bài báo viết: “ Từ sau khi Đảng CS Việt Nam xác định đường lối đổi mới, mở cửa năm 1986, thành quả của sự nghiệp này đã tạo ra những thay đổi to lớn trên khắp các vùng miền, trên mọi lĩnh vực của Việt Nam. Những năm gầp đây, Việt Nam luôn là nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Sản lượng và lượng xuất khẩu cao su, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, chècũng đứng hàng đầu thế giới. Tháng 12-1987,Quốc Hội Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài. Đến cuối tháng 3 vừa qua, Việt Nam đã phê chuẩn 3.166 hạng mục đầu tư nước ngoài, với số vốn 38 tỷ USD. Một số tập đoàn kinh tế của Trung Quốc như TCL,Hy Vọng Mớicũng đã đánh giá đúng thị trường và đầu tư vào Việt Nam, đạt thành công lớn”. Bài báo này cho rằng Việt Nam có điều kiện thiên nhiên ưu đãi, nhưng trải qua thời gian dài bị chiến tranh tàn phá. Vì thế, Việt Nam hiện đang cần xây dựng, mở rộng và phát triển nhiều lĩnh vực công nghiệp, giao thông, khai thác khoáng sản, du lịchViệt Nam đang chờ đợi các nhà đầu tư.
( Trích trong báo nhân dân Việt Nam trang 8 ngày7- 5-2002)
Còn theo Báo “ Pa- xa- xôn” (Lào) ca ngợi Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Thành tựu mà đất nước Việt Nam đạt được trong những năm qua, đã chứng tỏ được con đường đi theo cách mạng XHCN từ năm1930, là hoàn toàn đúng đắn
và cũng là sự tin tưởng của toàn thể nhân dânViệt Nam vào con đường mà mình đã lựa chọn. Sau chiến tranh, Việt Nam đã bắt tay ngay vào xây dựng đất nước, cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất nhanh, đời sống của người dân Việt Nam đã được thay đổi rõ dệt so với trước kia, quyền công dân được tôn trọng và cuộc sống đã đầy đủ hơn Mong rằng con đường XHCN của nhân dân Việt Nam sẽ đưa đất nước phát triển mạnh hơn nữa.
( Trích trong báo Hà Nội mới trang 4ngày 4-6-2002 ).
Trong tình hình mới nền kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin như vũ bão. Đòi hỏi ngành công nghiệp cần phải liên tục áp dụng công nghệ mới, để tránh bị lạc hậu trong sản xuất. Mục tiêu quan trọng trong năm tới đầu tư sâu hơn cho phát triển công nghệ thông tin, với bước đi tắt đón đầu. Xây dựng một đội ngũ kỹ thuật viên tin học giỏi, để tiến tới ta có thể sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ này. Vấn đề về luật kinh tế, luật dân sự, việc kiểm tra Đảng viên trong từng cơ sở: loại bỏ những Đảng viên kém phẩm chất, bồi dưỡng những Đảng viên giỏi và có tư cách đạo đức được vươn lênvới những việc Đảng và Nhà nước ta đã làm được và chưa làm được nêu nên trong Đại hội toàn quốc lần thứ 9 năm 2001. Trong Đại hội lần này Đảng và Nhà nước vẫn coi sức mạnh toàn dân là quan trọng, chuẩn bị thế và lực đưa đất nước ta tiến vào kỷ nguyên mới.
III. Kết luận:
Công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam ta có được như hiện nay đã trải qua những thời kỳ khó khăn nhất từ một nền kinh tế lạc hậu lên nền kinh tế phát triển so với các nước phát triển Đông Nam á. Quá trình đó là một quá trình tất yếu của lịch sử đã được định rõ trong phương hướng xây dựng đất nước của Đảng và Nhà nước tuy không thể tránh khỏi những sai sót, nhưng Đảng ta đã kịp thời sửa chữa, từ những bài học của các nước XHCN khác điển hình là Liên Xô cũ và đưa nền kinh tế đi đúng hướng của XHCN. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay nước ta đã mở rộng cửa quan hệ với các nước khác, cần phải thay đổi nhiều về cung cách quản lý kinh tế, đưa khoa học và kỹ thuật vào các ngành sản xuất từ đơn giản đến phức tạp. Chú trọng vào những ngành nước ta có thế mạnh, nhằm hướng tới xuất khẩu các mặt hàng đó. Hiện nay đang xây dựng các cơ sơ hạ tầng để phục vụ cho hoạt động kinh tế được thuận lợi, thì cần có vốn đầu tư, trong khi vốn của ta còn thiếu, nên việc tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài là rất quan trọng. Việc ta tham gia vào các tổ chức thương mại thế giới như khối APEC và WTOlà điều kiện thuận lợi giúp hàng hoá nước ta có thể mở rộng thị trường, cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Nhưng cũng đặt ra cho chúng ta những thách thức mới khi nền kinh tế của ta vẫn còn yếu hơn so với các nước thành viên trong tổ chức này, các doanh nghiệp làm ăn theo quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít hơn so với các tập đoàn nước ngoài gây ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng sản xuất hàng hoá cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Đây là bài toán khó của Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam đang tìm cách giải quyết, trước khi gia nhập các tổ chức này. Trước sự thông thoáng của Đảng và Nhà nước ta có nhiều kẻ chống phá thành quả nhân dân ta sẽ lợi dụng tuyên truyền phản động, viện trợ và hứa hẹn hạogây chia rẽ tinh thần đoàn kết dân tộc mà Đảng và Nhà nước ta cần giải quyết. Những hành động đó đã được ngăn chặn ngay từ khi nó mới bắt đầu hình thành, với tinh thần cảnh giác cao độ của nhân dân ta. Hy vọng đất nước ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức đưa nền kinh tế hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
I. Đặt vấn đề
- Quá trình thay đổi nền kinh tế
- Lý do nghiên cứu.
II. Nội dung
1. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Mặt hạn chế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Nhìn nhận và đánh giá những thực trạng trongthời kỳ quá độ.
2. Công cuộc cải cách kinh tế từ thời kỳ quá độ sang XHCN.
Nhận thức đúng để tiến hành cải cách nền hành chính quốc gia.
2.12 Những ảnh hưởng của nền kinh tế CNTB đối với nền kinh tế thế giới trong suốt thập kỷ qua.
2.13 Việc đổi mới bộ máy hành chính Nhà nước phù hợp với sự phát triển kinh tế.
2.2 Đổi mới hình thức quản lý và phát triển các doanh nghiệp để thích ứng với sự hoà nhập cơ chế thị trường trong thời kỳ đổi mới.
2.21 Thời cơ và thách thức.
3. Định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.
3.1 Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3.12 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
3.13 Phát triển công nghiệp.
3.14 Xây dựng kết cấu hạ tầng.
3.15 Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ.
Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
3.21 Thực hiện chủ trương, chính sách sau đây đối với từng thành phần kinh tế.
3.22 Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã.
3.23 Kinh tế tư bản Nhà nước.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Kinh tế tư bản tư nhân.
4. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Tạo lập đồng bộ các yếu của thị trường.
4.12Hoàn chỉnh hệ thống luật phấp về kinh tế.
4.13 Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá.
4.14 Đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả.
Phát triển khoa học và công nghệ.
4.22 Giáo dục và đào tạo.
Xây nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính sách, giải quyết một số vấn đề xã hội.
Quốc phòng và an ninh.
Chính sách đối ngoại hợp tác quốc tế.
Danh mục các tài liệu tham khảo
Cuốn “thông tin công tác tổ chức Nhà nước” Ban tổ chức cán bộ chính phủ ( Xuất bản tháng 1 năm 1992 ).
Triết học Mác- lênin, tập I, II, III của khoa triết. Học viện chính trị Nguyễn Aí Quốc Trung ương.
Nhà xuất bản tư tưởng văn hoá xuất bản năm 1991.
Cuốn tạp chí Việt Nam và Đông Nam á ngày nay tiến vào ASEAN số 1/ 95
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
( Nhà xuất bản chính trị Quốc gia năm 1996 ).
5. ( Tạp chí Liêu Vọng của Trung Quốc số ra ngày 6-5-2002 ) in trên báo nhân dân Việt Nam trang 8, ngày 7-5-2002.
( Báo Pa- Xa- Xôn của Lào ) đăng trên báo Hà Nội mới trang 4, ngày 4- 6-2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8995.doc