Trải qua hơn 20 năm đổi mới, xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, nền kinh tế của nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế, sự tồn tại và phát triển của nền KTTT ở nước ta là một sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, nó phù hợp với quy luật tất yếu, khách quan. Mặc dù đã thể hiện tầm quan trọng trong nền kinh tế tuy nhiên trong qúa trính phát triển, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta không thể tránh được những mặt hạn chế. Qua sự phân tích trên chúng ta có thể thấy được quan niệm lịch sử -cụ thể với việc phát triển KTTT định hướng XHCN. Vì vậy nghiên cứu quan điểm lịch sử - cụ thể với việc xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nền KTTT ở nước ta, đồng thời sẽ giúp chúng ta đưa ra được những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, xây dựng và phát triển nền KTTT của nước ta nhằm thúc đẩy quá trình CNH,HĐH; đưa nền kinh tế của nước ta phát triển theo hướng XHCN và vươn lên là nước công nghiệp vào năm 2020.
22 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 945 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm lịch sử - Cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề Cương:
A. Đặt vấn đề
B. Nội Dung
I. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể với phát triển kinh tế thị trường (KTTT)
1. Quan điểm lịch sử cụ thể và cơ sở khách quan của quan ta điểm lịch sử cụ thể
1.1 Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
1.2 Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể
1.3 Ý nghĩa của phương pháp luận quan điểm lịch sử cụ thể
2. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
II. Những vấn đề cơ bản về KTTT định hướng XHCN ở nước ta
Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam
1.1 Sự cần thiết khách quan
1.2 Khái niệm KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Đặc trưng và bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Vai trò của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể
Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Điều kiện trong nước
Những điều kiện thế giới và khu vực
Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Những thành tựu đạt được
Nguyên nhân
3. Những giải pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
C. Kết Luận
D. Tài Liệu Tham Khảo
A. Đặt Vấn Đề
Nhìn lại 20 năm trước, trong bối cảnh quốc tế: chế độ chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm mọi cách chông phá Việt Nam trên nhiều mặt. Thế giới có những biến động phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á và Đông Á thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, nền kih\nh tế lâm vào khubgr hoảng trầm trọng, ssản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu.
Với tình hình như vậy Đại hội Đại biểu lần thứ VI (tháng 12-1986), để khôi phục và phát triển kinh tế -xã hội đảng ta đã ra đường lối đổi mới toàn điện đất nước, trong đó thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường, và đề ra chủ trương: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa – đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trải qua các kỳ đại hội, đảng luôn luôn nhấn mạnh đến phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, và đến nay, thực tiễn đã cho thấy vai trò quan trọng của nền KTTT trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đât nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới và với thời đại, tức là chung ta phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động và phát triển.
Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử- cụ thể của triết học Mác-Lênin vào quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là rất cần thiết. Vì vậy trong bài tiểu luận của mình em đã chọn đề tài “Quan điểm lịch sử - cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
B. Nội Dung
I. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể với phát triển KTTT định hướng XHCN
1. Quan điểm lịch sử cụ thể và cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
1.1 Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Điểm xuất phát của quan điểm lịch sử-cụ thể là sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật , hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu trong suốt quá trình mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử-cụ thể khác nhau đó.
Theo triết học Mác-Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sủ của thế giới khách quan trong quá trình lịch sử- cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hoá của sự vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử- cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng. Mỗi sự, vật hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, trong không gian và theo thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hoá trong các hình thứcc biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật hiện tượng trong không gian, thời gian cụ thể; gắn với điều kiệnm, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại.
1.2 Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể được V.I.Lênin nêu rõ : “xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”1. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó . Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể thể hiện:
Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó:phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trung chất và lượng vốn có của sự vật.
Thứ hai: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiẹn tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật hiện tượng mới.
Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét các sự vật hiện tượng trong mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người.
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.39, tr. 78.
2. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Trước hết cần khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam cũng tồn tại, vận động, phát triển theo những nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin. Mà cụ thể là những điều kiện không gian, thời gian theo quan điểm lịch sử-cụ thể .
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của đất nước ta, nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng và nhân dân ta, mặc dù đã có sự phát triển trong thời gian qua, tuy nhiên nước ta về cơ bản nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển. Khi chúng ta chuyển từ nền kinh tế tập chung quan liêu vao cấp sang nền cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ nại, do đó khi chuyển sang nền KTTT với tính chất năng động đã không tránh khỏi những sai lầm. Thêm nữa thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so với những nước trên thế giới và khu vực khi mà những nước tư bản như Mĩ, Nhật, đã tiến hành cơ chế thị trường và vượt xa ta hàng trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu về kinh tế-xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, quản lý xã hội đã đạt được về văn minh hành chính, văn minh công cộngtuy nhiên KTTT của chủ nghĩa tư bản, với bản chất tư hữu về tư liệu sản xuất đã không tránh khỏi những tiêu cực và hạn chế như: cạnh tranh gay gắt dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, tình trạng phân hoá giàu nghèo diễn ra phổ biến, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội Với nước ta, là một nước đi sau và phát triển theo con đường XHCN chúng ta có cơ hội phát triển và kế thừa những thành tựu của nhân loại mà trước hết đó là những văn minh của KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn.
Chính vì lẽ đó chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử-cụ thể vào việc nghiên cứu trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT định hướn XHCN ở Việt Nam.
II. Những vấn đề cơ bản về KTTT định hướng XHCN ở nước ta
1. Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam
1.1 Sự cần thiết khách quan
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế -xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội.
KTTT là trình độ phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, trong đó các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Như vậy KTTT là trình độ phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, do đó điều kiện tồn tại, phát triển của kinh tế hàng hoá c ũng là điều kiện tồn tại và phát triển của KTTT đó là hai điều kiện:
Thứ nhất: có sự phân công lao động xã hội
Thứ hai: có sự tách biệt về mặt kinh tế của người sản xuất
Trong thời kỳ quá độ, ở nước ta có đầy đủ hai điều kiện để tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá do đó nền KTTT tồn tại và phát triển ở nước ta đó là một tất yếu, khách quan. Hai điều kiện đó là:
Thứ nhất: phân công lao động xã hội hiện nay trong nền kinh tế ở nước ta không những tồn tại mà ngày càng phát triển cả về chiều sau và chiều rộng: nền sản xuất phát triển thành nhiều nghành nghề sản xuất khác nhau và nhiều ngành nghề mới không ngừng được ra đời, phát triển do đó dẫn đến sản phẩm hàng hoá đa dạng, dồi dào, phong phú và nhiều sản phẩm hàng hoá mới không ngừng ra đời và phát triển. Phân công lao động ngày càng phát triển trong từng ngành nghề, địa phương thống nhất trên cả nước và không ngừng mở rộng phân công lao động hợp tác quốc tế.
Thứ hai: Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá-tiền tệ.
Như vậy kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan.
1.2 Khái niệm KTTT định hướng XHCN
Đến nay, chúng ta có thể khẳng định, kinh tế thị trường là một thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội đạt ở trình độ cao, phản ánh trình độ văn minh của nhân loại và là kết quả của sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Nhờ kinh tế thị trường chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, đem lại sự phồn thịnh cho các nước tư bản phát triển.
Vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu như thế nào? Đây chưa là một tiền lệ trong các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đến nay chưa có ai đưa ra khái niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách khái quát. Tuy nhiên, qua những cách mô tả về bản chất, mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và Việt Nam có thể thấy rằng, mô hình kinh tế thị trường này vừa bao hàm những nhân tố của kinh tế thị trường, lại vừa có những nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục đích cuối cùng là phát triển kinh tế đạt hiệu quả cao nhưng vẫn đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn, nhằm nâng cao đời sống cho nhân dân, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, xây dựng đất nước văn minh và thịnh vượng. Vì vậy, về khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể đưa ra như sau: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một phạm trù kinh tế chính trị, phản ánh bản chất và mục đích của nền sản xuất xã hội, đó là nền kinh tế vận động dựa trên cơ sở các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật của thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, để xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đặc trưng và bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trương: Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; Hai là, giá cả do thị trường quyết định , hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng cơ sở cho việc phân phôi các nguồn lực kinh tế vào các ngành , các lĩnh vực của nền kinh tế. Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranhsự tác độgn cảu các quy luật đó hình thành nên cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Bốn là, nếu là nền kinh tế hiện đại thì có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. mặt khác KTTT định hướng XHCN của Việt Nam còn dựa trên cơ sở được dẫn dắt, chi phôi bởi nguyen tắc và bản chất của XHCN. Do đó, KTTT định hướng XHCN có những đặc trung bản chất sau:
Hệ thống mục tiêu và động lực: Đảng ta đã nêu lên mục tiêu xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chính mục tiêu đó sẽ quy định phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đạt tới mục tiêu. Đó là sử dụng kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn.
Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: Các hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân chỉ là những hình thức hay cấp độ của sở hữu kinh tế. Bởi sở hữu như một phạm trù kinh tế luôn chứa các cực kinh tế đối lập hay những mâu thuẫn xã hội hiện thực, bắt buộc phải thừa nhận lẫn nhau như những chủ thể kinh tế riêng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu xã hội sẽ có ý nghĩa ngày càng quan trọng để đảm bảo tính kế hoạch và định hướng xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát triển.
Cơ chế vận hành kinh tế: Đương nhiên cơ chế thị trường là cơ chế chủ yếu vận hành kinh tế, nhằm đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn lực, kích thích phát triển các tiềm năng kinh doanh và các lực lượng sản xuất, tăng hiệu quả và tăng năng suất lao động xã hội. Tuy nhiên, điều đó không hề phủ nhận vai trò của "nhân tố mới" – Nhà nước xã hội chủ nghĩa - trong việc quản lý, hiệu chỉnh những sai lệch và thất bại của cơ chế thị trường. Trong trường hợp này, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua chức năng tổ chức và quản lý vĩ mô, sử dụng tốt các công cụ hành chính – pháp lý và kinh tế, đặc biệt, công cụ kế hoạch hoá và các chương trình mục tiêu quốc gia, các chiến lược phát triển trung và dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn, các công cụ đòn bẩy, để quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng.
Hình thức phân phối: Kết hợp phân phối theo lao động, theo đóng góp và cổ phần, trên nguyên tắc ưu tiên phân phối theo lao động và hiệu quả, đồng thời đảm bảo phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội. Điều này vừa khác với phân phối theo tư bản của kinh tế thị trường thông thường, lại vừa khác với phân phối theo lao động mang tính bình quân trong chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Trong kinh tế thị trường hiện đại và kinh tế tri thức, tiềm năng lao động - "tư bản con người" được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu và có khả năng sáng tạo rất lớn. Việc đề cao con người cũng như nguyên tắc phân phối theo lao động là phù hợp với xu thế và tính nhân văn của phát triển hiện đại. Mặt khác, bảo đảm sự phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội thái quá cũng là điều kiện để nuôi dưỡng, phát triển chính nguồn lao động sáng tạo này.
Chủ thể lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể ai khác là Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần không ngừng được củng cố, trên cơ sở phát huy đầy đủ quyền và trách nhiệm của toàn dân tham gia vào quá trình tổ chức, xây dựng nhằm sáng tạo hệ thống kinh tế thị trường mới. Đó là những điều kiện tiên quyết cho việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành công.
2. Vai trò của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Sự phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sảnr xuất lớn, của xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất, kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ , lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Đồng thời, với những điều kiện khách quan vốn có của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn mang lại nhưng tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế nước ta từ khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH còn mang nặng tính tự túc tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.Biểu hiên :
Thứ nhất: kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản suất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kĩ thuật để giảm chi phí sản xuất tới mức tối thiểu, nhờ đó có thể cạnh tranh và đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Thứ hai: kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Thứ ba: Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. Đến lượt nó, sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế, phát huy được tiềm năng, lơi thế của từng vùng cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Thứ tư: Sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất. Do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có tính xã hội hoá cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng yêu cầu của đất nước.
Ngày nay, không ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Không ai phủ nhận sự khách quan của chúng trong nhiều chế độ khác nhau. Không còn ai cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của CNTB.
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”.
Quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Điều kiện trong nước
Bức tranh của nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới đó là: tăng trưởng 3,7%, làm không đủ ăn, phải phụ thuộc vào nguồn viện trợ lớn từ bên ngoài. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80%-90% thu nhập quốc dan sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ bên ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang, nhà nước không thể kiểm soát nổi. Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã để lại hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền khoa học-công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết hệ thống máy móc hoạt động trong các xí nghiệp đều do Liên Xô giúp đỡ trong thời kỳ chiến tranh nên năng suất thấp , chất lượng kém.
Điều kiện địa lý cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, mang đập nét của sự phân dj sâu sắc vê mặt điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế, Việt Nam có khả nằn phát triển nhiều loại hình kinh tế khác dưah trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng, ngay cả trên mỗi vùng cũng phân tán, thiếu đồng bộ, không gắn kết được với nhau gây khó khăn cho việc khai thác và sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân số dông, nguồn lao động dồi dào nhung phân bố không đồng đều, trình đô lao động còn thấp.
Về chế độ chính trị; quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế”, Lênin đã chỉ rõ;” để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần”. Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động cảu chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không được tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét và giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như vậy chúng ta có thể thống nhất rằng kinh tế- chính trị thống nhất biện trứng với nhau dựa trên nền tảng quyết định của kinh tế.
Sau khi miền bắc giải phóng và từ sau khi thống nhất đất nươc năm 1975, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường CNXH-đây là lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên chúng ta tiến lên CNXH bằng bước nhảy vọt không qua CNTB, vì vậy chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong bước đầu của công cuộc xây dựng đổi mới,một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố dẫn đường thì hệ thống CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã tạo thêm khó khăn cho đât nước ta.
Những điều kiện thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng lúc này, hoà bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đẩy nhanhquá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy là ngày nay không một nền kinh tế nào có thể đúng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng sâu rộng tạo nên thê phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển.
Đối với các khu vực, Việt Nam cằm trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và phát triển với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực đã tiến hành xây dựng nền KTTT khoảng vài thập kỷ và một số nươc đã trở thành những nước công nghiệp mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt mà đặc biệt về kinh tế. Vì thế đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), Đảng đã phê phán những hạn chế, yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế và thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, thị trường. Đồng thời cũng đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh phù hợp. Coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chú ý chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người; có nhận thức mới về chính sách xã hội.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng nhận định nền kinh tế đất nước là đã bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.(1)
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, với những kết quả đạt được bước đầu, Đảng nhận định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa”(2).
Như vậy chúng ta đã có bước đột phá về tư duy về kinh tế thị trường, coi đó là yếu tố quan trọng để phát triển đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục cùng với quá trình đổi mới toàn diện của đất nước và thông qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng đã chỉ ra: “... thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(3) và khẳng định rõ ràng: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.(4)
Đến nay, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn tiếp tục được Đảng khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X như sau: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”(5).
1. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, H.1997, tr.21.
2. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính Trị quốc gia, H.1996, tr.26.
3,4. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội. 2001, tr.86
5. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr.69
Đồng thời, những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được làm sáng rõ hơn, cụ thể với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
3. Những giải pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách - một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại... cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản - là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
C. Kết Luận
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, nền kinh tế của nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế, sự tồn tại và phát triển của nền KTTT ở nước ta là một sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, nó phù hợp với quy luật tất yếu, khách quan. Mặc dù đã thể hiện tầm quan trọng trong nền kinh tế tuy nhiên trong qúa trính phát triển, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta không thể tránh được những mặt hạn chế. Qua sự phân tích trên chúng ta có thể thấy được quan niệm lịch sử -cụ thể với việc phát triển KTTT định hướng XHCN. Vì vậy nghiên cứu quan điểm lịch sử - cụ thể với việc xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nền KTTT ở nước ta, đồng thời sẽ giúp chúng ta đưa ra được những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, xây dựng và phát triển nền KTTT của nước ta nhằm thúc đẩy quá trình CNH,HĐH; đưa nền kinh tế của nước ta phát triển theo hướng XHCN và vươn lên là nước công nghiệp vào năm 2020.
D. Tài Liệu Tham Khảo
Giáo trình triết học. Nxb Lý luân Chính trị, năm 2006.
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, năm 1997.
Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội. 1996.
Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội. 2001.
Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội 2006.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Tạp chí Đảng Cộng Sản. Số 1 năm 2007.
Tạp chí Đảng Cộng Sản. Số 11 năm 2007.
Tạp chí Đảng Cộng Sản. Số 17 năm 2007.
Tạp chí Đảng Cộng Sản. Số 22 năm 2007.
Trang Wed của Tạp chí Đảng Cộng Sản.
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Khoa t¹i chøc
Tiểu luận triết học:
Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Họ và tên : Ngô Thị Dung
Lớp : QTKDTH_K41
Giáo viên hướng dẫn: Mai Xuân Hợi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9013.doc