Đề tài Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái với cán cân thương mại và một số giải pháp xây dựng tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý ở Việt Nam

Tỷ giá hối đoái là vấn đề lớn và phức tạp trong lĩnh vực tỷ giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục tìm hiểu. Để có được những định hướng đúng đắn chỉ dẫn phù hợp cho công tác quản lý, việc điều hành tỷ giá hối đoái trong giai đoạn hiện nay cũng như xây dựng một chính sách chiến lược tỷ giá hối đoái thực sự tự chủ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta và quá trình toàn cầu hoá cần phải tiếp tục xây dựng cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc xác định tỷ giá hối đoái danh nghĩa, tỷ giá thực tế, tỷ giá cân bằng. Trong điều kiện nước ta chuẩn xác hoá, hệ thống hoá dữ liệu kinh tế, có liên quan đến tỷ giá, đến việc tính toán và điều chỉnh tỷ giá hối đoái (chỉ số lạm phát, hệ số giảm phát, tính xác thực của tài khoản vòng lại cán cân thanh toán quốc tế và nợ nước ngoài .) là yêu cầu cấp thiết. Để có được câu trả lời chính xác cho vấn đề tỷ giá hối đoái hiện nay đã phù hợp chưa? nên điều chỉnh theo hướng nào? khả năng điều chỉnh trên thực tế ra sao? đặc biệt là lượng hoá được hậu quả của các biện phát điều chỉnh thì vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu và xem xét.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái với cán cân thương mại và một số giải pháp xây dựng tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạn tỷ giá hối đoái lại được hình dựa trên các cơ sở khác nhau. Trong giai đoạn lưu thông tiền vàng và tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng thì tỷ giá hối đoái được xác định một cách hoàn toàn đơn giản chỉ cần so sánh trọng lượng hai đồng tiền hoặc lượng vàng mà hai đồng tiền đại biểu. Ví dụ: Hàm lượng vàng của đồng đô la Mỹ là 0,73666gr, của bảng Anh là 2,13281gr ngang giá vàng Anh/đôla Mỹ là 2,13281/0,73666 = 2,895 nghĩa là một bảng Anh có giá trị bằng 2,895 đôla Mỹ. Trong thời kỳ lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi lấy vàng tỷ giá hối đoái được xác định qua các yếu tố đó là: Căn cứ vào lý thuyết ngang giá sức mua nghĩa là tỷ giá bất kỳ giữa hai đồng tiền sẽ điều chỉnh và phản ánh đầy đủ những biến động của mức giá mỗi nước. Yếu tố thứ hai đó là tỷ giá hối đoái còn được hình thành trên cơ sở điều kiện ngang giá lãi, nghĩa là được so sánh bởi mức lãi tức về tiền gửi trong nước và tiền gửi nước ngoài. Tỷ giá hối đoái còn được hình thành dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu trên thị trường. I.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Trong điều kiện tiền giấy và lạm phát tiền giấy trở nên phổ biến tỷ giá hối đoái chịu sự chi phối của một số yếu tố chính như sau: I.1.1. Mức chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia TGHĐ thực tế = TGHĐ danh nghĩa x Chỉ số lạm phát nước ngoài Chỉ số lạm phát trong nước Như vậy mức độ lạm phát giữa các nước khác nhau sẽ dẫn tới giá cả hàng hoá ở hai nước khác nhau do đó sức mua của hai đồng tiền thay đổi dẫn đến tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền bị phá vỡ. I.1.2. Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán quốc tế của một nước với nước ngoài trong mỗi thời kỳ phản ánh kết quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước đó với các nước khác. Do đó nếu cán cân thanh toán quốc tế thay đổi sẽ dẫn tới sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Nếu cán cân thanh toán quốc tế trong tình trạng thâm hụt dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ tăng lên làm tăng tỷ giá hối đoái giữa đồng bản tệ và ngoại tệ. Ngược lại khi cán cân thanh toán quốc tế thặng dư làm cho nhu cầu về ngoại tệ giảm xuống do đó tỷ giá hối đoái giảm xuống. I.1.3. Sự chênh lệch mức lãi suất. Khi lãi suất trong nước tăng lên một cách tương đối so với các nước khác trong những điều kiện nhất định sẽ làm cho đường cầu về tiền của các nước đó tăng lên và làm tăng tỷ giá hối đoái. Ngược lại khi mức lãi suất trong nước giảm tương đối so với nước khác trong một số điều kiện làm cho đường cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang trái và làm giảm tỷ giá hối đoái. Ngoài ra sự biến động của tỷ giá hối đoái còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố khác như yếu tố tâm lý, khủng hoảng ngoại hối, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tín dụng ở các nước, chiến tranh, khả năng điều tiết của Chính phủ. I.2. Các chế độ tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cân bằng mà tại đó hai đồng tiền được trao đổi với nhau. Những mức giá này được xác định như thế nào lại phụ thuộc vào các yếu tố trên. Vì vậy một cơ chế tỷ giá hối đoái chính là tổng hoà các điều kiện đó. Trong lịch sử giao dịch quốc tế đã có nhiều chế độ tỷ giá hối đoái thay nhau. Tuy nhiên, có thể gộp chung lại thành hai loại chế độ tỷ giá hối đoái cơ bản là tỷ giá hối đoái cố định và tỷ giá hối đoái thả nổi. I.2.1. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Trong chế độ này tỷ giá hối đoái cố định là việc so sánh giữa hai đồng tiền của một quốc gia dựa vào một mẫu chung theo công ước chính thức. * Chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này tỷ giá được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của các đồng tiền ví dụ: Đồng tiền của nữ hoàng Anh nặng 1/4 Ounce vàng; 1Ounce = 35 USD => 1/4 OUNCE vàng = 35/4 gần bằng 9 USD tức là một đồng tiền nữ hoàng Anh gần bằng 9 USD Đặc điểm của chế độ tỷ giá này là: + Chính phủ mỗi nước định giá vàng tính bằng đồng tiền trong nước. + Chính phủ duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước thành vàng. + Bảo đảm nguyên tắc bảo chứng 100%. Tỷ giá danh nghĩa dưới chế độ bản vị vàng được cố định vô thời hạn. * Chế độ tỷ giá hối đoái theo đồng đô la (bản vị đồng đô la). Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và khủng hoảng kinh tế (1924 - 1933) đã làm sụp đổ chế độ bản vị vàng và năm 1944 chế độ tỷ giá hối đoái mới - tỷ giá hối đoái Brettonwoods được thành lập. Trong chế độ tỷ giá hối đoái này, tỷ giá hối đoái chính thức giữa các thành viên được xác định trên cơ sở lượng vàng chính thức của đô la Mỹ và không được phép biến động quá 1% của tỷ giá chính thức được đăng ký tại IMF. Tại mức tỷ giá hối đoái cố định các ngân hàng Trung ương cam kết mua hoặc bán đôla hiện có để bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định theo đồng đô la. Như vậy đồng đô la đã thay thế vàng làm tiêu chuẩn cố định cho hệ thống tỷ giá hối đoái mới, song do sự mất giá liên tục của đồng đô la làm cho nạn đầu cơ tiền tệ tăng lên. Các ngân hàng không còn đủ sức can thiệp do đó Mỹ buộc phải tuyên bố phá giá đồng đô la kéo theo sự sụp đổ của tỷ giá hối đoái cố định trong chế độ tỷ giá Brettonwoods. Từ đây thế giới chuyển sang một chế độ tỷ giá hối đoái mới - chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt. I.2.2. Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt. Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt hay thả nổi là chế độ mà tỷ giá hối đoái do cung và cầu thị trường quyết định nhưng do tỷ giá tác động trực tiếp đến ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế bởi vậy thường có bàn tay can thiệp của Chính phủ. Do đó người ta phân chia chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt thành hai loại: Thả nổi thuần tuý và thả nổi có quản lý. * Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi thuần tuý. Dưới chế độ này tỷ giá hối đoái hoàn toàn được xác lập dựa theo quan hệ cung cầu, không có bất kỳ bàn tay can thiệp nào của Chính phủ. Tỷ giá hối đoái biến động hầu như phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu trên thị trường lại là kết quả của các hoạt động ngoại thương và cán cân thanh toán. Cán cân thanh toán thay đổi làm cho tỷ giá hối đoái thay đổi, đến lượt tỷ giá hối đoái mới được thiết lập lại tác động lại cán cân thanh toán và các hoạt động kinh tế đối ngoại làm cho các mối quan hệ thương mại ngày càng phức tạp và rối loạn. Và việc so sánh giá trị giữa hai đồng tiền không còn được xác định theo một nguyên tắc thống nhất hay không có cơ sở chung, thước đo chung như trước đây nữa. * Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Là chế độ trong đó tỷ giá hối đoái vẫn được xác định bởi các lực lượng thị trường sang có sự tác động của Nhà nước thông qua việc Nhà nước tham gia như một lực lượng của thị trường. Chế độ này đã thể hiện rõ vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết và sử dụng công cụ tỷ giá nhằm duy trì các hoạt động kinh tế phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế đất nước. Phần II: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Việt Nam. Tỷ giá hối đoái có quan hệ mật thiết với cán cân thương mại cụ thể là với hoạt động xuất nhập khẩu. Khi tỷ giá hối đoái tăng có nghĩa là đồng bản tệ thấp giá, đồng ngoại tệ cao giá dẫn tới khuyến khích hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu ví dụ: USD/VNĐ = 10.500 Nếu VNĐ giảm giá 10% thì USD/VNĐ = 11.000 Trước khi giảm giá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ một hàng hoá giá thành là 10.000đ thì phải bán với giá 1USD. Sau khi giảm giá 10% cũng hàng hoá đó xuất sang Mỹ bán 1USD thì nhà xuất khẩu Việt Nam thu được 11.000 VNĐ (giả sử các điều kiện khác không thay đổi). Do đó chỉ cần bán với giá hơn 0,91USD nhà xuất khẩu Việt Nam cũng đã thu về hơn 10.000VNĐ và họ có thể lợi dụng ưu thế này để cạnh tranh trên thị trường quốc tế bằng cách giảm giá hàng hoá. Đối với hoạt động nhập khẩu thì ngược lại tức là sau khi giảm giá thì để mua được một đơn vị đặt hàng hoá của nước ngoài phải cần nhiều đồng tiền trong nước hơn. Trường hợp của Nhật là một ví dụ điển hình. Sau chiến tranh thế giới thứ II Nhật đã áp dụng chính sách giữa đồng Yên (JPY) giá thấp (USD/JPY = 360) đã giúp Nhật phát triển ngoại thương một cách nhanh chóng và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế (xuất khẩu năm 1970 so với năm 1948 tăng 74,8 lần, GDP từ 1959 - 1969 bình quân tăng 11% hàng năm. Nếu tỷ giá hối đoái giảm tức là giá trị đồng bản tệ tăng giá trị đồng ngoại tệ giảm sẽ làm cho giá thành hàng hoá xuất khẩu đắt hơn trước, khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ngược lại giá hàng nhập khẩu lại hạ do đó sẽ kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Kinh nghiệm của nước Anh sau thế chiến thứ nhất, giữ nguyên tỷ giá đồng bảng Anh (GBP) như trước chiến tranh (nhưng trên thực tế GBP đã bị mất giá nhiều trong chiến tranh). Trong khi các nước khác (Pháp, Đức, ý...) đều giảm giá đồng tiền của mình đã làm cho hàng hoá của Anh có giá cao không cạnh tranh nổi với hàng hoá các nước khác trên thị trường dẫn đến nền kinh tế của Anh bị suy sụp. Liên hệ thực tế của Việt Nam ta thấy. II.1. Giai đoạn từ 1954 - 1989. Sau khi miền Bắc được giải phóng đất nước ta chuyển sang thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Miền Bắc thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung với nguồn ngân sách của Nhà nước rất hạn hẹp chủ yếu dựa vào viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa mà Liên Xô là chủ yếu. Tiền viện trợ này được tính theo tỷ giá do Nhà nước qui định. Từ 25-11-1955 đồng Việt Nam được chính thức qui định tỷ giá với nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc (1 nhân dân tệ = 1470 đồng Việt Nam). Một Rúp Liên Xô = 0,50 NDT, tức là 735 đồng Việt Nam. Đến năm 1959 nước ta đổi tiền vì thế tỷ giá giữa Việt Nam đồng và nhân dân tệ và đồng Rúp cũng thay đổi. Năm 1977 các nước xã hội chủ nghĩa thoả thuận với nhau, thanh toán với nhau bằng đồng Rúp chuyển nhượng. Một Rúp chuyển nhượng có lượng vàng là 0,987412 gram và tỷ giá đó dùng trong thanh toán mua bán. Song song với tỷ giá đó Nhà nước ta còn ấn định tỷ giá kết toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức ngoại thương, các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Do vậy tỷ giá kết toán nội bộ được điều chỉnh như sau: Năm 1958 là 1 Rúp = 5,64 đồng Việt Nam, năm 1986 1 Rúp = 18 đồng Việt Nam, năm 1987 là 1 Rúp = 150 đồng Việt Nam, cuối năm là 700 đồng Việt Nam và cho đến năm 1989 thì bị huỷ bỏ. Việc sử dụng tỷ giá hối đoái trên đây đã cho chúng ta thấy được: + Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này hoàn toàn là do ý đồ của Nhà nước quyết định, không xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế cũng từ thị trường trong nước và quốc tế. + Tỷ giá kết toán nội bộ được sử dụng để tính thu chi ngân sách đã không phản ảnh trung thực, đầy đủ sức mua của đồng Việt Nam với đồng Rúp và một số đồng tiền khác. Từ năm 1985 sau khi có chủ trương thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài thì USD lần lượt vào thị trường Việt Nam nhưng chúng ta lại dùng tỷ giá do ngân hàng Trung ương qui định còn cách rất xa với tỷ giá thực tế (giá trị thị trường). Tuy chênh lệch tỷ giá đã được ấn định sát với thị trường hơn trong việc tự tạo ra một tỷ giá chính thức bóp méo so với thực tế đã không phản ánh được các quan hệ kinh tế quốc tế và làm cho các quan hệ kinh tế chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Chính sách giữ tỷ giá hối đoái thấp của Việt Nam đã đánh giá cao đồng tiền việt một cách giả tạo. Tỷ giá USD/VNĐ do ngân hàng Nhà nước ấn định chỉ bằng 1/3, 1/2 so với giá thị trường. Năm Tỷ giá hình thức Tỷ giá thị trường Chênh lệch 1985 15 115 7,6 lần 1986 80 425 5,6 lần 1987 368 1270 3,5 lần 1988 3000 5000 1,7 lần 1899 3900 4100 1,1 lần Sự áp đặt tỷ giá giao dịch chính thức tưởng là giữ được giá trị đồng Việt Nam với các đồng ngoại tệ nhưng đã đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt. Không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, đẩy mạnh nhập khẩu làm cho cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng. Việc tự ý nâng cao giá trị đồng tiền một cách thiếu cơ sở đã khiến các công ty xuất khẩu phản ứng lại bằng cách thực hiện phương châm “dùng lãi hàng nhập bù lỗ hàng xuất” nguyên nhân của tình trạng đồng nội tệ bị đánh giá quá cao là do khi xác định tỷ giá chính thức đã loại bỏ yếu tố lạm phát. Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam với ngoại tệ không được điều chỉnh tương ứng với lạm phát. Tuy nhiên những tác động tiêu cực của tỷ giá hối đoái trên chưa được biểu hiện rõ trong nền kinh tế đóng trong cơ chế độc quyền về ngoại thương vì quan hệ ngoại thương của Việt Nam thời kỳ này chủ yếu với các nước SEV. Tuy cán cân thương mại đã có những chuyển biến tích cực song tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến tỷ lệ xuất /nhập khẩu của giai đoạn 1975 - 1980 là 1/ 4,2 ; giai đoạn 1981 - 1985 là 1/1,28; giai đoạn 1986 - 1990 là 1/ 1,8. II.2. Giai đoạn từ 1989 đến nay. Nhà nước đã xoá bỏ các tỷ giá hối đoái trước đây như tỷ giá kết toán nội bộ và thực hiện chế độ một tỷ giá. Tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh gần sát với thị trường. Nhà nước đã giao cho ngân hàng Trung ương công bố tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ mạnh đặc biệt là USD và cho phép các ngân hàng thương mại được xây dựng tỷ giá hàng ngày với mức chênh lệch 5% so với tỷ giá chính thức. Ngoại trừ sự đột biến về tỷ giá vào cuối năm 1991 và đầu năm 1992 thì giao động của tỷ giá hối đoái là tương đối ổn định. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa dao động từ khoảng 4.500 đồng/ 1USD lên khoảng gần 13.000 đồng vào cuối năm 1991 đầu năm 1992. Ngân hàng Việt Nam đã can thiệp nâng giá đồng Việt Nam, đồng thời giữ ổn định tỷ giá ở mức 10.000 - 11.000 đồng/ 1USD trong suốt thời gian từ 1992 đến hết 1996. Đầu năm 1997 đến nay ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá chính thức, nới rộng liên độ giao dịch từ - 5%, rồi - 10% đưa tỷ giá giao dịch từ 10970 đồng/ 1USD năm 1996 lên đến 12984 đồng/ 1USD vào quí II năm 1998. Nhờ áp dụng tỷ giá hối đoái mới nên đã mang lại những kết quả thiết thực và quan trọng cho ngoại thương Việt Nam. Kinh doanh xuất nhập khẩu được đẩy mạnh đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu góp phần tăng nhanh doanh số xuất nhập khẩu cải thiện cán cân thương mại. Chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước nhưng việc điều hành của Nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể tạm thời chia làm 3 thời kỳ. II.2.1 Thời kỳ từ năm 1989 - 1993: Trong giai đoạn này tình hình tỷ giá hối đoái lạm phát và xuất nhập khẩu được thể hiện qua bảng số sau: Tỷ giá USD/VNĐ Tỷ lệ lạm Xuất khẩu Nhập khẩu Năm Giá chính thức Nhà nước Giá thị trường tự do Tăng giảm % phát% (Triệu USD) (Triệu USD) 1 2 3 4 5 6 7 1989 4.200 4.570 +8,80 34,7% 1946 2.566 1990 6.650 7.550 +13,550 67,50 2.404 2.752 1991 12.720 12.550 -0,02 68,00 2.087 2.338 1992 10.720 10.550 -0,02 17,50 2.581 2.541 1993 10.835 10.736 -0,01 5,20 2.989 3.879 Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy tỷ giá USD/ VNĐ qua các năm có biến động lên xuống, tuy nhiên nhìn tổng thể trong thời gian này tỷ giá USD/VNĐ có khuynh hướng tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát với thị trường tự do làm cho khuynh hướng xuất nhập khẩu tăng theo tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1989 là 4.512 triệu USD và năm 1993 là 6.868 triệu USD tăng 1,5 lần tuy rằng cả thời kỳ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên song tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến dẫn đến cán cân thương mại luôn ở trong tình trạng thâm hụt năm 1989 thâm hụt là 620 triệu USD; năm 1990 là 348 triệu USD; năm 1991 là 251 triệu; năm 1993 là 890 triệu USD, ngoại trừ trường hợp năm 1992 có thặng dư 40 triệu USD. Qua bảng số liệu trên cũng cho ta thấy tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do của đồng đô là trong những năm 1990 ít thay đổi. Sự lên giá của đồng đô la trong những năm 1991 (đặc biệt là những tháng cuối năm) làm tỷ giá này dâng lên rõ rệt, và sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam được cải thiện. Tuy nhiên xu hướng hạ giá đồng đô la trong năm 1992 làm cho giá trên thị trường giảm mạnh làm xấu đi khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Đáng tiếc là xu hướng này vẫn được tiếp tục duy trì trong khi tỷ giá danh nghĩa của đồng đô la so với đồng Việt Nam biến động không đáng kể so với năm 1992. Hay nói cách khác đồng nội tệ hiện vẫn trong tình trạng bị đánh giá cao so với đồng ngoại tệ. Mặt khác khi tỷ giá thực tế (tỷ giá trên thị trường) thay đổi nó không lập tức ảnh hưởng ngay đến cán cân thương mại mà cần phải có một thời gian nào đó để những nhà xuất khẩu và nhập khẩu mới thay đổi được quyết định của mình cho phù hợp với sức ép của tỷ giá. Sự thay đổi tỷ giá thực tế từ năm 1989 - 1991 đã có lợi cho khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam năm 1992 đã có thặng dư 40 triệu USD. Tuy nhiên số liệu về cán cân thương mại trên chưa thực sự phản ánh tình trạng mậu dịch của Việt Nam với các quốc gia khác. nó đã bỏ qua những hoạt động xuất nhập khẩu ngầm, trong đó lượng hàng hoá xuất nhập khẩu bất hợp pháp chắc chắn là đáng kể. Tính đến cả điều này thì kết luận về tính bất lợi của tỷ giá danh nghĩa ngày càng được khẳng định. Ngay cả tỷ giá thực tế những năm 1989 - 1990 vẫn chưa đủ để đảm bảo sự thăng bằng trong cán cân thương mại. Do tỷ giá hối đoái hình thành và vận động căn cứ vào hàng loạt yếu tố cộng với hoàn cảnh điều kiện Việt Nam trình độ phát triển kinh tế thấp, kim ngạch ngoại thương nhỏ và thường xuyên trong tình trạng nhập siêu thì mức tỷ giá hối đoái được hình thành căn cứ vào những yếu tố. Chính đó là giá vốn xuất khẩu cung cầu thị trường trên thị trường nội địa và chính sách đối với đồng nội tệ, tình hình lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải phấn đấu thực sự để có chi phí xuất nhập khẩu thấp hơn tỷ giá hối đoái hình thành trên thị trường, chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường và chi phí xuất khẩu càng lớn thì doanh nghiệp càng có lợi. Điều này có nghĩa là với khả năng tiết kiệm chi phí bị giới hạn thì đồng nội tệ càng mất giá thì xuất khẩu càng có lợi. Đối với nhập khẩu thì ngược lại. Hàng hoá nhập về được bán với giá càng cao bao nhiêu so với tỷ giá chuyển đổi tiền tệ thì doanh nghiệp nhập khẩu càng có lợi bấy nhiêu. Hay đồng nội tệ càng có giá thì người nhập khẩu càng có lợi bấy nhiêu. Như vậy mức tỷ giá hợp lý phải nằm giữa giới hạn tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu. Tỷ giá xuất xuất khẩu< Tỷ giá hối đoái <Tỷ giá nhập khẩu. Tương quan nói trên giữa tỷ giá hối đoái với giá vốn xuất khẩu, tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu (tỷ giá đạt được thông qua mua bán hàng nhập khẩu thu đồng nội tệ) ở nước ta thời kỳ này diễn ra như sau: Năm Tháng 1 3 6 9 12 Năm 1991 1. Tỷ giá hàng nhập 7.500 8.839,4 10.200 10.541 11.300 2. Tỷ giá hàng xuất 6.456 7.160,0 7.750 9.293 9.200 3. Tỷ giá USD/VNĐ - Mua vào 7.012,5 7.375 8.250 10.790 12.720 - Bán ra 7.048 7.407 8.290 10.845 12.915 Năm 1992 1. Tỷ giá hàng nhập 12.038 11.520 11.262 11.312 11.264,5 2. Tỷ giá hàng xuất 9.200 9.600 9.820 9.890 9.686 3. Tỷ giá USD/VNĐ - Mua vào 11.667,5 11.370 11.111,2 10.760 10.642,2 - Bán ra 11.880,0 11.550 11.260,0 10.960 10.764,1 Năm 1993 1. Tỷ giá hàng nhập 11.880 11.460 12.3301 11.840 11.000 2. Tỷ giá hàng xuất 10.456 10.400 10.110 10.700 10.600 3. Tỷ giá USD/VNĐ - Mua vào - Bán ra 10.500 10.530 10.585 10.750 10.835 Tương quan tỷ giá xuất khẩu, tỷ giá nhập khẩu và tỷ giá hối đoái được minh hoạ qua sơ đồ sau đây. USD/1.000VNĐ Nguồn số liệu: Tạp chí ngân hàng số 11 năm 1994 trang 52. Qua bảng trên so sánh tỷ giá xuất khẩu với tỷ giá hối đoái tại các thời điểm đồng Việt Nam mất giá mạnh so với USD thấy rõ xuất khẩu tại các thời điểm trên được khuyến khích mạnh mẽ. Đó là vào giai đoạn cuối 1991 đầu năm 1992 khi tỷ giá hối đoái tăng quá mức 1.200 VND/USD là tỷ giá hàng nhập khẩu có thể đạt được tại cùng thời điểm trong khi tỷ giá xuất khẩu, nhóm hàng nông - lâm - thuỷ sản chỉ xấp xỉ 9000 VNđ/USD. Chênh lệch gần 30% giữa tỷ giá xuất khẩu (thấp hơn) và tỷ giá hối đoái đã dẫn đến xuất siêu trong 6 tháng đầu năm 1992. Mặc dù 6 tháng cuối năm lại nhập siêu nhưng cả năm vẫn có xuất siêu (thặng dư cán cân thương mại gần 40 triệu USD. Đây là lần đầu tiên có thặng dư thương mại. Tuy nhiên do tác dụng kích thích xuất khẩu vì đồng nội tệ mất giá lại kéo theo tác dụng kìm hãm nhập khẩu. Cũng lấy ví dụ cuối năm 1991 đầu năm 1992 trong khi chênh lệch giữa tỷ giá xuất khẩu với tỷ giá hối đoái gần 30% thì chênh lệch tỷ giá nhập khẩu với tỷ giá hối đoái chỉ khoảng 15%. Khoảng cách hẹp giữa tỷ giá nhập khẩu và tỷ giá hối đoái đãn làm cho các nhà nhập khẩu ở vào thế bất lợi so với các nhà xuất khẩu. Mức tỷ giá hối đoái VNĐ/USD cao đã phản ánh vào giá vốn hàng nhập làm cho giá bán hàng nhập tại thị trường nội địa tăng lên kéo theo lạm phát cao ở cuối năm 1991, đầu năm 1992. Như vậy vào những thời điểm đột biến giá ngoại tệ (USD) lạm phát cũng tăng cao. Mức lạm phát cả năm 1991 vẫn cao (68%) còn lạm phát ở 3 tháng đầu năm 1992 thì gấp đôi 9 tháng còn lại và ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái VNĐ/USD đến giá vốn hàng nhập khẩu và hàng hoá sản xuất từ nguyên liệu vật tư nhập khẩu ỏ nước ta là rất đáng kể nếu tính đến tỷ trọng cao của giá trị vật tư nguyên liệu nhập khẩu trong giá thành. Nếu như chưa tính đến các yếu tố khác thì lợi ích do tăng xuất khẩu nhờ phá giá đồng Việt Nam là nhỏ so với tổn thất do lạm phát gây ra cho nền kinh tế trong các năm 1991 - 1992. Do giai đoạn cuối năm 1992 tương quan tỷ giá hối đoái và tỷ giá nhập khẩu bị đảo ngược do đồng Việt Nam lên giá đã khiến cho xuát khẩu bị chững lại dẫn tới dẫn tới nhập siêu 890 tỷ USD. Đường biễn diễn tỷ giá hối đoái VNĐ/USD từ chỗ sát với đường biễu diễn tỷ giá nhập khẩu giai đoạn đầu năm 1992 đã chuyển sang sát với đường biểu diễn tỷ giá nhập khẩu từ đầu năm 1993 (quý II/1993). Khi xu hướng giảm giá USD được ngăn chặn và đồng Việt Nam được phá giá dần dần thì lạm phát cũng đồng thời được kiểm soát. Một yếu tố quan trọng khác cũng chưa được xem xét một cách thoả đáng đó là tác động của cung và cầu ngoại tệ nên đã có tình trạng cân đối ngoại tệ không thiếu ở mức bình thường song vẫn xảy ra đột biến. Đó là những năm 1990 - 1991 trong khi tài khoản ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ngoại thương lên đến 600 - 700 triệu USD nhưng do cơ chế quản lý ngoại tệ cứng nhắc nên ngoại tệ được gửi ở ngân hàng nước ngoài chứ không dùng để điều hoà tín dụng cho xuất nhập khẩu. Có thể khẳng định rằng đồng Việt Nam bị phá giá quá mức trong giai đoạn này là có căn cứ xét theo góc độ trên. Trong những năm 1992 - 1993 xảy ra cơn sốt đầu tư vào Việt Nam và do đó có một lượng ngoại tệ đáng kể của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về Việt Nam dưới nhiều hình thức. Theo báo chí nước ngoài dự đoán hàng năm người Việt Nam ở nước ngoài gửi về ít nhất là 500 triệu USD (Phần lớn số tiền này không qua kênh ngân hàng). Trong khi đó, thống kê của hệ thống ngân hàng cho thấy có bội thu cán cân thanh toán. Mức thặng dư về cung này gây ra giảm giá đô la vào cuối năm 1992 đầu năm 1993. Giữa đầu năm 1993 do có sự can thiệp của ngân hàng nên tỷ giá hối đoái tăng dần. Bên cạnh lý do sự can thiệp của ngân hàng tỷ giá VNĐ/USD tăng còn do một lượng cầu đáng kể được đầu tư vào bất động sản trong thời gian này. Vào thời gian những năm 1989 - 1991 giá trị đồng Việt Nam không ổn định, lạm phát cao bội chi ngân sách lớn lại được bù đắp bằng nguồn phát hành việc cung ứng tiền tệ không được kiểm soát hợp lý, quản lý ngoại tệ vừa lỏng lẻo vừa cứng nhắc hành chính đã góp phần làm chao đảo tỷ giá hối đoái VND/USD , tạo nên những cơn sốt ngoại tệ làm trầm trọng thêm lạm phát và ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thương mại. Từ năm 1992 - 1993 những đổi mới trong chính sách tài chính tiền tệ như chấm dứt bù đắp thiếu hụt ngân sách bằng phát hành, duy trì lãi suất tiết kiệm, đồng nội tệ cao hơn USD áp dụng tỷ giá hối đoái thị trường, quản lý lượng cung ứng tiền tệ theo tốc độ tăng trưởng và mục tiêu chống lạm phát... Do vậy đã ổn định được sức mua của đồng Việt Nam. Lạm phát giảm từ 67,5% năm 1990- 1991 xuống còn 17.5% trong năm 1992 và 5,2% trong năm 1993. II.2.2. Thời kỳ năm 1993 - 1996: Trong thời kỳ này Nhà nước đã chủ động can thiệp và giữ tỷ giá hối đoái ổn định trong suốt khoảng thời gian 1993 -1996 với mức biến động rất nhỏ được thể hiện qua bảng sau: Lạm phát và tỷ giá của Việt Nam qua các năm 1993 -1996. Năm Tỷ giá USD/VNĐ So sánh % năm trước Tốc độ lạm phát 1 2 3 4 1993 1083500 100,00% 5,2% 1994 1105000 +1,98% 14,4% 1995 1104000 0% 12,7% 1996 1106000 +0,18% 4,5% Nguồn: Tạp chí phát triển kinh tế số 93 tháng 7/1998 trang 14. Do tỷ giá chính thức của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời kỳ này chênh lệch không nhiều nên ta chọn tỷ giá chính thức của Nhà nước làm cơ sở tính toán. Qua số liệu trên ta thấy tốc độ tăng của tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố kinh tế đối ngoại việc duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức mua của đồng Việt Nam, kìm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn nội tệ vào ngân hàng, khuyến khích đầu tư nước ngoài ... Tuy nhiên, tỷ giá ổn định từ 1993 - 1996 đã không khuyến khích được xuất khẩu, làm cho ngoại thương kém phát triển và được biểu hiện qua bảng số liệu sau: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm 1993 - 1996 (Đơn vị tính: Triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh 1 2 3 4 1993 2.989 3.879 -890 1994 4.054 5.825 -1771 1995 5.448,9 8,155,4 -2.706,5 1996 7.255 11.143 -3.888 Nguồn: Tạp chí phát triển kinh tế số 93 tháng 7/1998. Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng nhưng nhập siêu vẫn kéo dài đã làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia. Trở lại bảng số liệu ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996) tốc độ lạm phát đã tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VNĐ so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn, cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993 - 1996 từ nhập siêu 890 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7tỷ USD năm 1995 và 3,8 tỷ USD năm 1996. Một điều dễ nhận thấy là tốc độ xuất khẩu cao trong những năm qua là kết quả của nỗ lực thay đổi cơ cấu kinh tế hướng xuát khẩu, theo chính sách mở rộng quan hệ với các quốc gia, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và mặt bằng tỷ giá đủ đảm bảo khuyến khích xuất khẩu sang để duy trì được chính sách tỷ giá tăng phụ thuộc vào phản ứng của xuát nhập khẩu đối với tỷ giá thực. Tốc độ phát triển kinh tế trong nước, cơ cấu kinh tế, cơ cấu nhập khẩu của các nền kinh tế trên thế giới đều tác động đến xuất nhập khẩu. Trong giai đoạn 1993 -1996 nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm bình quân là 27% - 37% nhưng thâm hụt cán cân thương mại ngày càng tăng nếu tính theo GDP thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 1993 là 7,3% năm 1994 là 11,7% năm 1995 là 13,3% và năm 1996 là 17%. Tốc độ tăng của xuất khẩu là khá cao 30%, do trọng tâm của chính sách là khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm đầu tư vào công nghiệp chế biến và công nghiệp chế tạo theo nhiều hình thức khác nhau mà lợi thế về tiền lương, lao động vẫn còn là nhân tố lớn trong sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khác với xuất khẩu, nhập khẩu bị tác động mạnh bởi các yếu tố thay đổi tỷ giá thực và tăng trưởng kinh tế trong nước. Nhân tố đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một nhu cầu lớn về nhập khẩu, và đây có thể giải thích cho lý do tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao. Nhu cầu xăng dầu, nguyên vật liệu cần nhập khẩu trong nước cũng cao. Đời sống dân chúng được nâng cao trong những năm qua, tạo nên sự thay đổi trong nhu cầu đối với nhập khẩu các hàng hoá tiêu dùng đặc biệt là hàng hoá điện tử. Việc nhập khẩu cao, đặc biệt là thâm hụt cán cân thương mại là không thể tránh khỏi được với một nước có nền kinh tế đang phát triển có nhu cầu lớn về vốn nước ngoài, nhưng thâm hụt cán cân vàng lại trên 7% GDP là mức báo động với một nền kinh tế. Tình trạng nhập siêu 17% GDP năm 1996 có đặc điểm khác với các năm trước là do có 2 tỷ USD L/C trả chậm chiếm 18% giá trị nhập khẩu. Vì vậy, nếu không có L/C trả chậm thì nhập siêu đã ở mức 8,5% GDP. Nhưng khối lượng L/C trả chậm lớn là nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị máy móc và nguyên vật liệu, đồng thời đã tăng đáng kể tổng cung nên chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ đã giảm xuống 4,5% cho cả năm 1996. Năm 1996 thâm hụt cán cân thương mại trừ L/C nhập khẩu đã được bù đắp bởi thu từ xuất khẩu, viện trợ, vay nợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vậy tổng giá trị L/C trả chậm đến hạn cuối năm 1996 đầu năm 1997 đã tăng nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả nợ đến hạn, và nó chính là nguyên nhân gây nên áp lực giảm giá đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la (tức là tăng tỷ giá danh nghĩa). Tỷ giá thực thấp sẽ khuyến khích mạnh nhập khẩu thiết bị máy móc, như vậy nền kinh tế sẽ hướng vào các ngành thiên về đầu tư vốn, giảm sử dụng tỷ lệ lao động, xu thế sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu sẽ tăng lên. Đồng thời giảm các ngành sản xuất hướng xuất khẩu, và do đó không tạo được nhiều công ăn việc làm đáp ứng cung lao động ngày càng cao. Tình hình trên sẽ dẫn đến nợ chồng chất mà hiệu quả sản xuất của khu vực sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu lại không cao, về trung hạn sẽ dẫn đến việc mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài. Ví dụ đầu tư cho dự án sản xuất các loại hàng hoá thay thế nhập khẩu, như nhà máy đường, nếu nhập khẩu toàn bộ thiết bị máy móc sẽ tích tụ nợ nước ngoài, trong khi sản xuất không hiệu quả hơn là nhập khẩu đường và trong dài hạn, sản lượng đường trên thế giới đang thừa, giá đường giảm. Nhưng nếu đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm trung gian cho các ngành khác ví dụ: xi măng,sắt, thép có nhu cầu cao cho các ngành kinh tế khác, thì sẽ tăng được cung cấp hàng hoá cho đầu tư phát triển. Từ năm 1997 đến nay Nhà nước đã có những chỉ đạo: * Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở L/C thanh toán một cách tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở L/C At Sight là chủ yếu, hạn chế mở L/C trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc. * Điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách thả nổi có kiểm soát. II.2.3. Thời kỳ điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm 1997 đến nay. Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế 6 tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường có lúc bị ngừng chệ. Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997 doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997 nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không mua được ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá mạnh làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi suất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung, cầu VNĐ trên thị trường. Nhà nước đã mở rộng biên độ giao dịch của các ngân hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi đến 10% những giải pháp này đã kịp thời góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái VNĐ. Năm 1997 chủ nợ L/C ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USD so với 1,4 tỷ USD vào tháng 6/1996. Tuy nhiên một yếu tố đã gây tác động không nhỏ đến tỷ giá hối đoái đó là cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á gây sức ép đối với VNĐ do yếu tố tâm lý đầu cơ trên thị trường do vậy đã đẩy tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do tăng mạnh có lúc lên đén 14.600 VNĐ/USD. Sự biến động của tỷ giá hối đoái được mô tả dưới bảng sau: Năm Quý I Quý II Quý III Quý IV 1997 11.645 11.660 11.714 12.921 1998 12.964 12.984 Mặc dù có những biến động phức tạp về tỷ giá song tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1997 vẫn tăng năm 1997 đạt được 20.050 triệu USD mức tăng xấp xỉ 9% chỉ tính riêng ở tháng đầu năm 1998 đã đạt 8.463 triệu USD. Thâm hụt cán cân thanh toán vẵng lai đạt 8,6% GDP. Trong điều kiện dự trữ ngoại tệ không nhiều, việc quản lý những khoản ngoại tệ lớn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn sang năm 1997 Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng kể. Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện cho giá trị đồng VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung , cầu ngoại tệ, góp phần kìm chế lạm phát một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao su giảm 42% dầu thô giảm 30%, giày da và may mặc cũng giảm mạnh. Riêng mặt hàng gạo trong năm qua bị thiên tai lũ lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và đã nhanh chóng duy trì việc xuất khẩu gạo. Một nguyên nhân dẫn tới nhập siêu trong năm qua là do ngân hàng điều hành tỷ giá đồng cứng, đúng là tỷ giá có tác động lớn đến xuất và nhập khẩu bởi nó là giá cả của hoạt động mua (nhập khẩu) và hoạt động bán (xuất khẩu). Tỷ giá trên thực tế là giảm so với biến động giá trong nước do đó dẫn đến tình trạng mua bán với giá thấp. Bán với giá thấp sẽ không khuyến khích bán, ngược lại giá thấp lại kích thích mua làm cho cán cân thương mại thâm hụt. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như định hướng xuất khẩu yếu kém, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý. Sang đến năm 1998 tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng biến động phức tạp, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD ngày càng tăng, thậm chí có ngày thay đổi vài lần điều này đã ảnh hưởng không tốt tới đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng nắm giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua máy móc, thiết bị hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không giám vay vì sợ tỷ giá biến động đột biến sẽ không trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, các ngân hàng không mua, không bán hoặc cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó Chính phủ đã ra quyết định 37/1998/QĐ - TTg (ngày 14/2/1998) về một số biện pháp quản lý ngoại tệ và đã kiểm soát được lượng ngoại tệ, ngăn chặn cơn sốt tỷ giá. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên thị trường có tổ chức (thị trường liên ngân hàng, ngân hàng) đã sát lại gần nhau. Ngân hàng đã kiểm soát được 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường. Phần III: Xây dựng hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý ở Việt Nam. III.1. Cơ sở hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái. Việc hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái cần phải xuất phát từ nhiều cơ sở khác nhau, trong đó quan trọng nhất là phải xem xét hiện trạng và chiến lược phát triển kinh tế tài chính đất nước, bối cảnh kinh tế và chính trị quốc tế. III.1.1. Hiện trạng kinh tế tài chính đất nước. Mặc dù trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu kinh tế rất đáng kể song thực trạng kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn và chưa đứng những nguy cơ bất ổn. Trong lĩnh vực tài chính sự đổi mới diễn ra chưa đồng bộ triệt để, cơ chế quản lý tài chính vẫn mang tính chất quá độ bên cạnh đó thâm hụt ngân sách Nhà nước còn lớn khả năng thu hẹp thâm hụt ngân sách Nhà nước trong tương lai gần là rất khó do nhu cầu đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước còn cao và cơ chế bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước là yếu tố trực tiếp tác động đến tỷ giá hối đoái. Thực trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước một mặt hạn chế khả năng và trình độ phối hợp các công cụ khác để điều chỉnh tỷ giá hối đoái mặt khác mỗi phương thức bù đắp sẽ có một hiệu ứng khác nhau đối với tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, nước ta đang từng bước mở rộng tự do hoá thương mại, điều chỉnh thuế theo hướng giảm thuế khi tham gia ASEAN, ký kết hợp tác với EU cả hai việc này tương đương và nâng cao giá nội tệ. Thứ 3 là hiện trạng nợ nước ngoài thì không được cho phép giảm giá mạnh VNĐ bởi như vậy sẽ làm tăng gánh nặng trả nợ. Trong lĩnh vực tài chính tín dụng cơ chế điều hành lĩnh vực tiền tệ vẫn đang cải cách, hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ còn chưa đầy đủ, chưa phát triển nhất là các công cụ gián tiếp, thị trường tài chính còn sơ khai. Vì vậy trực tiếp hạn chế khả năng điều chỉnh của chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó nền kinh tế tăng trưởng cao, khối lượng tín dụng gia tăng nhanh sẽ làm cho nguy cơ tại lạm phát tăng lên. Hiện trạng thị trường ngoại tệ và cơ chế quản lý ngoại tệ có nét nổi bật là thị trường còn đơn giản, cả thị trường chính thức và phi chính thức ít chịu tác động của thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Cơ chế quản lý ngoại hối đã được đổi mới song vẫn mang nhiều hạn chế, còn nhiều sơ hở, quan hệ mua bán ngoại tệ dư thừa của các đơn vị chưa phù hợp, gây khó khăn cho khách hàng vận chuyển, thanh toán, lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường còn nhiều. Trong lĩnh vực cung và cầu ngoại tệ. Nếu căn cứ vào động thái phát triển của các nguồn ngoại tệ thì trong giai đoạn tới tổng cung về ngoại tệ vẫn có khả năng vượt cầu vấn đề đặt ra là phương sách hấp thụ lượng ngoại tệ thừa nếu không sẽ tiếp tục gây sức ép với đồng nội tệ. Trong cán cân thương mại và thanh toán quốc tế. Điều chúng ta mong muốn là thặng dư thương mại bền vững, hiệu quả chứ không phải hiện tượng nhất thời do đánh đổi các mục tiêu khác. Khi tập trung cho chiến lược kinh tế hướng ngoại cần phải thấy mối liên hệ hữu cơ giữa đẩy mạnh xuất khẩu với thay thế nhập khẩu hợp lý giữa các yếu tố bên trong với các yếu tố bên ngoài và để có được chiến lược xuất khẩu thực sự hiệu quả cần có sự phân phối chặt chẽ giữa Nhà nước và khu vực sản xuất, tạo được hệ thống đòn bẩy thích hợp/ III.1.2. Bối cảnh kinh tế - chính trị và tài chính thế giới . Tham gia hợp tác quốc tế là quá trình hội nhập, thâm nhập hai chiều, nếu chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta thì nó đã chiếm tỷ trọng khoảng 60% GDP, và có xu hướng tiếp tục gia tăng vào các năm tới. Điều này chứng tỏ là mức độ mở cửa của Việt Nam nhanh lớn và nền kinh tế Việt Nam ngày càng gắn bó với hiện trạng kinh tế - tài chính thế giới. Rõ ràng khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế nói chung, chiến lược kinh tế đối ngoại và chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng không thể không phân tích một cách kỹ lưỡng hiện trạng và xu hướng phát triển kinh tế - tài chính thế giới. Bên cạnh đó cần phải nắm chắc một thực tế đó là: * Thứ nhất trong thời đại toàn cầu hoá quốc tế hoá đời sống kinh tế nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đặc biệt những diễn biến phức tạp thường thấy khó lường những năm gần đây như khủng hoảng kinh tế tài chính diễn ra tại các nước Đông Nam á mới đây và với nền kinh tế mở thì tác động của tình hình tài chính - kinh tế thế giới qua con đường tỷ giá, chế độ tỷ giá diễn ra nhanh chóng có ảnh hưởng đồng thời có chiến lược mở cửa phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư. * Thứ hai là thời gian mở cửa ngắn vì vậy kinh nghiệm trong hợp tác quốc tế còn ít, khả năng thích ứng với môi trường thông lệ quốc tế của nền kinh tế, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý của ta còn thấp nhất là khi phải đối mặt với những biến động dữ dội cuả đời sống kinh tế thế giới. * Thứ ba trong giai đoạn mới không thể tách biệt các yếu tố chính trị, ngoại giao với hợp tác kinh tế đặc biệt là các ý đồ chiến lược của các cường quốc kinh tế, các liên minh kinh tế - tài chính. Từ những vấn đề nêu trên đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo, tránh mọi tư tưởng nóng vội chủ quan, chủ động đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách, cơ chế để nhanh chóng giành thế chủ động trong hợp tác quốc tế hai chiều. Mặt khác việc lựa chọn chiến lược tốc độ trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, tỷ giá phải có cơ sở khoa học, luận cứ thực tiễn vững chắc, khả thi và phù hợp với môi trường quốc tế và năng lực của đất nước. III.2. Những mục tiêu của chính sách tỷ giá. * Mục tiêu trực tiếp là thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá hối đoái cân bằng, ổn định dựa trên sức mua thực tế của VNĐ với các ngoại tệ, tương quan cung - cầu trên thị trường. * Mục tiêu chiến lược là không ngừng nâng cao của VNĐ trên thị trường trên cơ sở ổn định vững chắc giá trị của nó, sự tương đồng hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại. * Phối hợp với chính sách quản lý ngoại hối đẩy lùi căn bản hội chứng. Đó là nền kinh tế trên cơ sở tạo ra đầy đủ tiền đề kinh tế pháp chế để VNĐ thực hiện trọn vẹn chức năng cuả mình và tăng cường vai trò trong đời sống kinh tế, nhất là trong lưu thông thanh toán và với tư cách là phương tiện tích luỹ tài sản. Phấn đấu đến năm 2000 thực hiện đầy đủ vấn đề chủ quyền tiền tệ quốc gia. * Tạo ra các tiền đề cần và đủ để mở rộng hình thức, nội dung phạm vi chuyển đổi của VNĐ, tiến tới chuyển đổi hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam khi bước sang thế kỷ mới. * Tăng cường dự trữ ngoại tệ lên mức thích hợp và cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái nêu trên có mối quan hệ nội tại thống nhất hữu cơ hết sức chặt chẽ với nhau, trong đó mục tiêu chủ quyền tiền tệ chuyển đổi chỉ có thể thực hiện nếu VNĐ thực sự có uy tín cao, ổn định, ngược lại khi VNĐ mở rộng nội dung hình thức chuyển đổi, mục tiêu chủ quyền tiền tệ được thực hiện sẽ có tác động rất lớn trong việc củng cố nâng cao uy tín VNĐ tăng cường dự trữ ngoại tệ quốc gia, trong khi đó thực lực dự trữ ngoại tệ lại là một trong các tiền đề bảo đảm duy trì khả năng chuyển đổi, và tăng cường sự điều chỉnh can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực ngoại tệ. Thực tiễn những năm qua và lịch sử thế giới cho thấy củng cố và nâng cao uy tín địa vị của đồng tiền quốc gia trong đời sống kinh tế - xã hội là con đường đúng đắn để phát triển kinh tế đất nước. III.3. Nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Tuy có những nét chung song nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái của mỗi nước có những đặc thù riêng do hoàn cảnh cụ thể và những vấn đề mà nền kinh tế đặt ra và cần phải tập trung giải quyết. Xuất phát từ đặc điểm nổi bật là tính chất quá độ chuyển đổi cơ chế kinh tế diễn ra đồng thời với quá trình mở rộng hợp tác quốc tế là quá trình thực hiện những nhiệm vụ chiến lược kinh tế hết sức nặng nề. Vì vậy tổng thể nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái ở nước ta hiện nay là tạo ra tiền để cần và đủ để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra, hỗ trợ hiệu quả các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác. * Tạo cơ sở khoa học cho việc hoàn chỉnh cơ chế, thiết chế quản lý, định hướng lựa chọn phương án điều chỉnh hợp lý cho phép giải quyết hài hoà các mục tiêu của chính sách tỷ giá và các mục tiêu kinh tế vĩ mô của từng giai đoạn phát triển. * Tăng cường và bảo đảm sự quản lý hiệu quả từ phía Nhà nước đối với lĩnh vực quản lý hối ngoại. * Giảm đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của các thị trường tài chính tiền tệ quốc tế và sự tổn thương đối với nền kinh tế trước cái cú sốc từ bên ngoài qua các kênh tỷ giá và qua sự vận động của các nguồn ngoại tệ và vốn. * Tạo điều kiện thuận lợi về phương diện thanh toán, quan hệ ngoại hối cho hoạt động kinh tế đối ngoại đồng thời hỗ trợ cho cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hội nhập vơí thị trường thế giới. Bên cạnh mục tiêu dài hạn là ổn định kinh tế vĩ mô kìm chế lạm phát thì chính sách tỷ giá cần có sự hỗ trợ hợp lý cho mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Vì bản thân tỷ giá cũng là một hàm số kinh tế vĩ mô tức là cùng một lúc có nhiều yếu tố tác động đến nó, ngược lại nó cùng tác động trở lại tới nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Vì vậy để đạt được các mục tiêu nhiệm vụ đặt ra đòi hỏi phải có sự phối hợp hết sức đồng bộ và có hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô và quan trọng nhất là: + Chính sách quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành lĩnh vực ngoại tệ. + Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả đồng bộ thống nhất các chính sách giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ nhằm đạt được tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của VNĐ. Việc xây dựng hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý ở Việt Nam phải tuân thủ các nguyên lý nhất định. III.4. Những nguyên lý cần tuân theo khi áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý. * Việc xác định tỷ giá và điều chỉnh tỷ giá phải dựa trên quan hệ cung - cầu trên thị trường hối đoái cũng như quan hệ cung - cầu trên thị trường vốn và sự tác động qua lại giữa thị trường hối đoái và thị trường vốn. * Xác định một số ngoại tệ “sổ ngoại tệ” chủ yếu để xác định tỷ giá, có thể là USD, Bảng Anh, DM, Yên Nhật, Fran Pháp (ở đây phải sử dụng và tính toán tỷ lệ các ngoại tệ đó trong thương mại và thanh toán quốc tế của Việt Nam). * Đối với nước ta, việc xác định tỷ giá trong từng thời kỳ phải đảm bảo được việc khuyến khích xuất khẩu, giữ được sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, buộc các nhà sản xuất phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, tăng sức cạnh tranh trong kinh doanh. Bảo vệ được hàng hoá nội địa trước sự cạnh tranh của hàng ngoại. * Chính sách tỷ giá nằm trong khuôn khổ của chiến lược phát triển kinh tế đất nước do đó việc đảm bảo tính đồng bộ của chính sách tỷ giá trước tiên là với chính sách tiền tệ, tiếp theo là với các chính sách kinh tế khác. * Việc điều chỉnh tỷ giá không được phép gây ra những cú sốc, phá vỡ lòng tin đối với chính sách kinh tế nói chung và đối với chính sách tiền tệ nói riêng. III.5. Cơ chế vận hành chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. III.5.1. Xác định cung cầu trên thị trường ngoại hối. Hình thành thị trường ngoại hối trên cơ sở mở rộng phát triển từ hai trung tâm giao dịch đã có ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mở rộng các thành viên tham gia vào thị trường, bao gồm các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các công ty tài chính và các tổ chức tín dụng khác. Trong đó ngân hàng Nhà nước tham gia với tư cách là một thành viên nhưng có vai trò đặc biệt trong việc điều tiết thị trường. Nếu thị trường ngoại hối cảng được mở rộng sẽ phản ánh đầy đủ và chính xác hơn quan hệ cung cầu ngoại tệ. III.5.2. Kết hợp chính sách quản lý ngoại hối với chính sách lãi suất. Điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa sát với tỷ giá thực tế qua một công thức nhất định, chẳng hạn: Trong đó: Et là tỷ giá thực tế; E là tỷ giá danh nghĩa; P*m là giá quốc tế hàng mậu dịch; Pm là giá nội địa hàng mậu dịch. Việc điều chỉnh giá thực chất là xét tới yếu tố lạm phát của đồng bản tệ dùng để so sánh. Cơ chế này nhằm giảm bớt gánh nặng lạm phát cho các ngành xuất khẩu, tăng tính cạnh tranh với hàng ngoại kích thích xuất khẩu. Điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ giữa lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế. Sự chênh lệch quá lớn giữa lãi suất tiền tiết kiệm bằng nội tệ và ngoại tệ sẽ tạo ra sự đầu cơ để hướng chênh lệch lãi suất. Trong trường hợp tự do chuyển vốn ra, vào trong nước, những nguồn vốn lớn từ nước ngoài sẽ đổ vào Việt Nam, cung ngoại tệ sẽ tăng lên làm tăng giá tiền đồng VNĐ. Tỷ giá thực tế sẽ giảm và đưa đến nhập siêu ào ạt. Mức gia tăng nhập khẩu cao là điều kiện để đảm bảo tăng trưởng cao. Nhưng mức tăng nhập khẩu phải kèm theo mức tăng xuất khẩu tương ứng tức là phải đảm bảo cân đối về cán cân thương mại. Do đó phải có cơ chế điều chỉnh tỷ giá linh hoạt giữa lãi suất tiền gửi hàng nội tệ và ngoại tệ, giữa lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế phù hợp với mức độ lạm phát trong nước và diễn biến trên thị trường quốc tế. III.5.3. Cơ chế điều chỉnh lãi suất từ từ dần tiến tới một sự cân bằng hợp lý. Xuất phát từ đặc thù của nền kinh tế Việt Nam cũng như tác động tâm lý của dân chúng, việc điều chỉnh tỷ giá không được gây ra những cơn sốc. Do đó cần áp dụng phương pháp điều chỉnh thoe kiểu hình sin với biên độ nhỏ theo chiều dương để tiến tới điểm cân bằng hợp lý tương đối, khi đạt tới điểm cân bằng tương đối hợp lý biên độ điều chỉnh sẽ nhỏ hơn và sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào sự biến động của thị trường quốc tế. Với cách thức này sẽ hoà nhập từng bước thị trường hối đoái Việt Nam với thị trường hối đoái trong khu vực thế giới. III.5.4. Điều chỉnh tỷ giá theo mức độ và cơ chế cung ứng tiền. Cơ chế cung ứng tiền năm trong khuôn khổ hoạt động của chính sách tiền tệ. Việc tăng giảm mức cung tiền ảnh hưởng tới tỷ giá, khi việc cung tiền vượt quá mức cân bằng làm sức mua của đồng tiền bản tệ giảm và ngược lại khi cung tiền thấp hơn cầu sẽ làm tăng sức mua của đồng bản tệ. Việc cung tiền ở đây không cần thiết phải phân biệt giữa tiền mặt và tiên ghi sổ. Vấn đề là tạo ra sự chuyển đổi dễ dàng giữa hai loại tiền đó thông qua cơ chế hạch toán của hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính. Kết luận Tỷ giá hối đoái là vấn đề lớn và phức tạp trong lĩnh vực tỷ giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục tìm hiểu. Để có được những định hướng đúng đắn chỉ dẫn phù hợp cho công tác quản lý, việc điều hành tỷ giá hối đoái trong giai đoạn hiện nay cũng như xây dựng một chính sách chiến lược tỷ giá hối đoái thực sự tự chủ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta và quá trình toàn cầu hoá cần phải tiếp tục xây dựng cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc xác định tỷ giá hối đoái danh nghĩa, tỷ giá thực tế, tỷ giá cân bằng. Trong điều kiện nước ta chuẩn xác hoá, hệ thống hoá dữ liệu kinh tế, có liên quan đến tỷ giá, đến việc tính toán và điều chỉnh tỷ giá hối đoái (chỉ số lạm phát, hệ số giảm phát, tính xác thực của tài khoản vòng lại cán cân thanh toán quốc tế và nợ nước ngoài ...) là yêu cầu cấp thiết. Để có được câu trả lời chính xác cho vấn đề tỷ giá hối đoái hiện nay đã phù hợp chưa? nên điều chỉnh theo hướng nào? khả năng điều chỉnh trên thực tế ra sao? đặc biệt là lượng hoá được hậu quả của các biện phát điều chỉnh thì vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu và xem xét. Tài liệu tham khảo + Tạp chí tài chính số 2,9 năm 1994 + Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3 năm 1994 + Tạp chí diễn đàn doanh nghiệp số 25 năm 1994 + Tạp chí thông tin kinh tế kế hoạch số 9 năm 1994 + Tạp chí thương mại số 10 kỳ 2 năm 1995 + Tạp chí phát triển kinh tế số 41 năm 1994; số 77 năm 1997; số 93 năm 1998. + Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 1,5 năm 1995; số 12 năm 1998; số 2,5,9 năm 1997; số 7 năm 1998. + Tạp chí Ngân hàng số 6,7,10,11,12 năm 1994 Số 1,2,4 năm 1995 Số 7,10,11 năm 1996 Số 10 năm 1997 Số 5,7,13,15,20 năm 1998

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34998.doc
Tài liệu liên quan