Đề tài Quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp

Căn cứ vào số liệu (bảng 4) cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu của Pháp là 420 tỷ USD, chiếm gần 5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu toàn thế giới. Pháp là một trong số 10 nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới. Nằm trong tốp những nước dẫn đầu về kim ngạch xuất nhập khẩu trên thế giới, hàng năm, Pháp đạt mức tăng trưởng rất cao về kim ngạch xuất nhập khẩu ( những năm gần đây, mức tăng trưởng đạt tới 6-7%, cao hơn mức trung bình của thế giới). - Pháp là cường quốc kinh tế thế giới. Là một trong những cường quốc kinh tế thế giới, Pháp đứng thứ tư sau Mỹ, Nhật Bản, Đức, GDP hàng năm tăng gần 3%. Nền kinh tế Pháp, kể từ năm 1997, luôn đạt mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân của các nước thành viên khu vực euro. GDP bình quân đầu người năm 2000 của Pháp tăng 6,4 lần, cao hơn mức tăng trung bình của thế giới (4,7 lần). GDP/người so với chỉ tiêu này của Mỹ đạt 75,6% [13].

doc93 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 992 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2000 Việt Nam đã ký với EU hiệp định song phương về hàng dệt may và giày dép theo đó EU sẽ tăng hạn ngạch hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này khoảng 20% kể từ 2001. Kể từ 1995 xuất khẩu của ta sang Châu Âu tăng 14 lần và nhập khẩu tăng 8 lần. Tổng kim ngạch trao đổi vượt quá 3 tỷ USD trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Âu là 2,3 tỷ USD, nhập khẩu gần 1 tỷ USD. Riêng đối với thị trường Pháp, từ 1995 xuất khẩu của ta sang Pháp tăng 17%/năm và nhập khẩu từ Pháp đứng hàng thứ 8, chiếm 3% tổng kim ngạch. Những thành quả này chắc chắn sẽ làm tiền đề cho những bước phát triển mới trong mối quan hệ của hai nước trong tương lai. Hơn nữa , kể từ khi đổi mới và cả trong thời gian tới, Việt Nam đã và vẫn chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ nhằm phát huy những lợi thế so sánh của mình với các nước khác trên thế giới. Thật vậy, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, Việt Nam không thể quay lưng lại với cộng đồng quốc tế, không chỉ bó hẹp quan hệ với một vài đối tác. Trên tinh thần đó, phát triển quan hệ kinh tế, thương mại với Châu Âu nói chung và với Pháp nói riêng nằm trong chiến lược chung về phát triển kinh tế đối ngoại, là chính sách nhất quán của Đảng và nhà nước ta. Đây là điều kiện tiên quyết cho phép nước ta phát huy được tiềm năng trong quan hệ với Pháp. 3.3 các Giải pháp về phía việt nam nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp 3.3.1 Những giải pháp chung 3.3.1.1 Thúc đẩy quan hệ chính trị Quan hệ chính trị đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy các quan hệ khác. Trên thực tế, điều này đã được nhận thức đầy đủ không chỉ ở cấp lãnh đạo hoạch định chính sách mà cả ở cấp thực thi chính sách. Đại sứ Pháp ở Việt Nam, S. Degallaix đã nói : " Nhìn từ Paris, Việt Nam chiếm một vị trí ưu tiên ở Châu á ... Pháp là nước bạn hàng phương tây hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và viện trợ phát triển chính thức". Kể từ năm 1993, tiếp xúc chính trị giữa hai nước được duy trì và đẩy mạnh. Chính các cuộc tiếp xúc chính trị đã tháo gỡ các khó khăn về các mặt hoặc thúc đẩy quan hệ phát triển hơn nữa. Pháp nối lại nghị định thư tài chính dành cho Việt Nam sau chuyến thăm của Bộ trưởng ngoại giao Pháp Dumas năm 1989 và từ đó viện trợ không hoàn lại cũng như tổng giá trị của nghị định thư hàng năm tăng liên tục cho đến năm 1996. Sau chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Pháp Mitterand, cơ quan phát triển Pháp bắt đầu hoạt động ở Việt Nam và đã cung cấp 150 triệu USD cho 11 dự án, COFACE - Công ty Bảo hiểm Ngoại thương của Pháp - cũng được phép tham gia vào thị trường Việt Nam để bảo lãnh cho các công ty Pháp. Tháng 6 năm 1993, thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức Pháp thì tháng 7 năm 1993 chính phủ Pháp viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 50 triệu USD và ngân hàng Ngoại thương Pháp BFCE cùng ngân hàng Nhật cho Việt Nam vay nóng để giải toả quan hệ với Quỹ Tiền Tệ Quốc tế và ngân hàng thế giới. Điều đáng nói nữa là tiếp xúc chính trị góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo và các nhà hoạch định chính sách của cả hai nước, đồng thời còn củng cố niềm tin và sự yên tâm làm ăn lâu dài của các nhà doanh nghiêp, các nhà đầu tư. Chính tiếp xúc chính trị sẽ giải toả những vướng mắc tâm lý, những đắn đo không cần thiết, đặc biệt với những nhà doanh nghiệp, đầu tư Pháp. Với những lý do đó, có thể khẳng định quan hệ chính trị đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển các mối quan hệ khác giữa hai quốc gia, đặc biệt là quan hệ kinh tế - thương mại. Vì vậy, điều cần thiết là phải duy trì, thúc đẩy và tăng cường quan hệ chính trị giữa hai nướcViệt Nam - Pháp với nhịp độ cao hơn nữa và ở mọi cấp, mọi ngành liên quan đến việc hoạch định chính sách. Quan hệ chính trị cần được mở rộng ra các bộ, ngành kinh tế, kỹ thuật. Những năm qua, quan hệ chính trị này diễn ra khá đều đặn và có hiệu quả giữa hai nước. Trước hết phải kể đến sự hợp tác giữa hai bộ tài chính về thuế, hải quan, kho bạc và hai ngành tư pháp về việc hợp tác và xây dựng môi trường pháp lý cho Việt Nam. Nhưng điều mong mỏi của các nhà doanh nghiệp là làm sao các cuộc tiếp xúc chính trị phải thu hẹp dần sự không tương thích của hệ thống tiêu chuẩn hàng hoá giữa hai nước và lý tưởng là xóa đi sự "phân biệt đối xử " đối với hàng hóa của Việt Nam nhập vào Châu Âu nói chung và vào Pháp nói riêng. Thúc đẩy quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Pháp còn có tác dụng thúc đẩy đối thoại chính trị với EU và từng thành viên của EU. Chẳng hạn, hiệp định khung hợp tác EU - Việt Nam được ký kết tháng 7 năm 1995 không tách rời nỗ lực của Pháp với cương vị chủ tịch EU từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1995. Có thể nói những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và EU, cụ thể mới đây nhất là quyết định ngày 6 tháng 11 năm 1999 của EU đưa Việt Nam vào danh sách các nước được phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU một phần lớn Nam vào danh sách các nước được phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU một phần lớn là nhờ vào các cuộc đối thoại chính trị đa phương và song phương. 3.3.1.2 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. - Các cơ quan, Bộ ngành, địa phương, cần cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý, kiểm soát, giám sát mọi hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Đồng thời có chính sách khen thưởng kịp thời đối với những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để khuyến khích động viên họ hoạt động tốt hơn. - Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý đối với các doanh nghiệp để có thể kiểm soát chặt chẽ nhất các hoạt động kinh doanh, đồng thời có thể giảm thiểu các hành vi gian lận, trốn thuế... 3.3.1.3 Cải cách thủ tục hành chính. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong việc kiểm tra, giám sát, cấp phép...cho các doanh nghiệp, cho các hoạt động kinh doanh. Cải tiến mạnh thủ tục hành chính ở mọi khâu của nền kinh tế nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong cả hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư. Cần bổ sung, sửa chữa các quy chế, quy định cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh. 3.3.1.4 Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII viết : "cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...Phương hướng chung của lĩnh vực đào tạo trong năm năm tới là: phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa...". Thật vậy, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nói chung, cán bộ làm kinh tế đối ngoại nói riêng vừa mang tính chiến lược vừa có nội dung cấp thiết bởi vì muốn làm chủ được công nghệ, nắm bắt được xu thế phát triển của thế giới và hội nhập được tốt thì phải có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực. Nói đến đào tạo cán bộ ta cần phân biệt đào tạo ban đầu với cán bộ mới và bồi dưỡng cán bộ hiện có. Đội ngũ hiện đang làm kinh tế đối ngoại của ta số đông là được đào tạo cơ bản, trải qua nhiều năm công tác, có kinh nghiệm chuyên môn. Song bước vào thời kỳ đổi mới, với nhu cầu phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại cả về chiều rộng và chiều sâu đồng thời đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đội ngũ này bọc lộ nhiều yếu điểm. Những cán bộ phụ trách quan hệ Việt Nam - Pháp cũng nằm trong tình trạng này. Do vậy, họ cần được bồi dưỡng hoậc cập nhật kiến thức nhằm: - Nâng cao hiểu biết về nước Pháp và Châu Âu, đặc biệt về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tài chính. - Trau dồi ngoại ngữ tiếng Pháp nhằm có đủ khả năng làm việc độc lập trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. - Cập nhật những kiến thức về luật và kinh tế quốc tế, bổ sung những kiến thức mới. - Nâng cao khả năng chuyên môn, thực hành cụ thể như trình độ lập và triển khai dự án đầu tư, soạn thảo, thực thi những hợp đồng thương mại có giá trị lớn. Để công tác bồi dưỡng cán bộ có hiệu quả ta cần : - Thống kê đội ngũ cán bộ công tác trong từng lĩnh vực của kinh tế đối ngoại nói chung và về Châu Âu và Pháp nói riêng. - Kê khai ngành học được đào tạo ban đầu, thâm niên công tác trong kinh tế đối ngoại. - Xác định nội dung chương trình cần bồi dưỡng cho từng đối tượng. - Tận dụng mọi cơ hội và khả năng gửi cán bộ đi thực tập, tham quan thực tế tại Pháp và Châu Âu. 3.3.2 Những giải pháp cụ thể 3.3.2.1 Đối với hoạt động thương mại. 3.3.2.1.1 Ưu tiên đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu cả chiều rộng và chiều sâu. Trước hết cần xác định sản xuất hàng xuất khẩu phải được ưu tiên hàng đầu bởi vì xuất khẩu được xem là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Trong thực tế hiện nay việc đầu tư chủ yếu vẫn đang tập trung vào sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. Để tăng kim ngạch nhập khẩu, cần hết sức chú ý đến việc đa dạng hóa chủng loại hàng hoá xuất khẩu và thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng mới, hàng qua chế biến và hàng có giá trị gia tăng cao. Muốn vậy cần định hướng lại luồng vốn đầu tư. Song nếu như nhà nước thực hiện việc ưu đãi đầu tư trên diện rộng và dàn đều vào mọi ngành hàng thì sẽ gây tình trạng lãng phí do đầu tư cả vào những lĩnh vực không có hiệu quả và ngay cả khi tăng được xuất khẩu cũng chỉ tăng được về lượng mà không mang lại những thay đổi về chất đối với hàng xuất khẩu. Chính vì thế đa dạng hoá hàng xuất khẩu phải chú ý tới phát triển những ngành hàng mới (hàng mới ở đây được hiểu là hàng có tiềm năng nhưng chưa xuất khẩu được hoặc đã xuất khẩu được nhưng kim ngạch còn nhỏ bé) đồng thời chú trọng vào việc nâng cao tỷ trọng hàng qua chế biến, hàng có hàm lượng nội địa cao. Mục tiêu trước mắt năm 2002 là phải hạ tỷ trọng xuất khẩu của nhóm nguyên liệu thô xuống còn 35-36%, đến năm 2005 nhóm này chỉ được chiếm tối đa là 25-28% kim ngạch xuất khẩu. Để đạt được mục tiêu đó, nhà nước cần triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu được đề cập trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi (Luật năm 1998), xoá bỏ các thủ tục xét duyệt phiền hà đối với đầu tư của tư nhân đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu đặc biệt trong việc phê duyệt nhập khẩu máy móc thiết bị. áp dụng các chính sách ưu đãi như nhau giữa doanh nghhiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tránh khuyến khích đầu tư mới kể cả đầu tư nước ngoài vào những ngành hàng thay thế hàng nhập khẩu mà năng lực sản xuất của nó đã tương đối đủ. Ưu tiên hàng đầu cho các dự án đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao cấp độ chế biến hàng hoá. Nhà nước cũng cần dành một phần vốn đầu tư cho việc triển khai và tăng cường hoạt động của Ngân hàng dữ liệu công nghệ, tăng cường phổ biến đến các doanh nhân để họ biết đến ngân hàng này nhằm cung cấp cho họ những thông tin cập nhật về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm để họ tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết định đầu tư. 3.3.2.1.2 Có chính sách hỗ trợ hàng Việt Nam xuất khẩu sang Pháp Thúc đẩy quan hệ với Pháp là chính sách nhất quán cuả Đảng và chính phủ Việt Nam. Sự nhất quán này được thể hiện qua bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam, các nghị quyết của Đảng và các chính sách cụ thể. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII nêu rõ : " Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được với các nước trong khu vực và các nước thuộc Liên minh Châu Âu ... Chú trọng đa phương hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung vào một vài đối tác". Đường lối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, nhưng trên thực tế cơ cấu quan hệ kinh tế đối ngoại của ta mất cân đối. Có thể nói Việt Nam đã chuyển từ thái cực này sang thái cực kia. Nếu như trước đây Việt Nam chỉ buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa cũ với 85% kim ngạch ngoại thương thì nay trao đổi thương mại chủ yếu thực hiện với các nước Châu á. Năm 1998, gần 70% ngoại thương được thực hiện với 6 nước và lãnh thổ Châu á: Nhật Bản, Singapo, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Trung Quốc. Hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN chiếm 1/3 tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam và 30% hàng xuất khẩu là sang các nước ASEAN. Trong số 10 nước cung cấp hàng lớn nhất cho Việt Nam chỉ có một nước Châu Âu, đó là Pháp, đứng thứ 8, và trong số 10 nước bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam thì chỉ có Đức là nước Châu Âu chiếm 60% giá trị xuất khẩu. Để phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, để đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu, nhà nước cần phải từng bước hoàn thiện chính sách quản lý xuất nhập khẩu của mình. Giảm bớt sự can thiệp quá sâu của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Xoá bỏ những thủ tục hành chính quan liêu bao cấp, tinh giảm các thủ tục xuất nhập khẩu cho đơn giản, gọn nhẹ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu chớp lấy thời cơ kinh doanh khi nó đến nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Cần quản lý xuất nhập khẩu theo nguyên tắc điều gì mà pháp luật không cấm thì được tự do kinh doanh, không nên gây phiền hà dưới bất cứ hình thức gì. Nếu pháp luật không qui định rõ ràng thì chỉ tạo ra những hành vi không trung thực. Chính tư duy "tôi được làm tất cả những gì pháp luật không cấm" rất phù hợp với lối làm ăn của người Pháp. Để điều hành xuất nhập khẩu có hiệu quả cần tích cực hoàn thiện các bộ luật để tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu theo đúng thông lệ quốc tế. Điều này đảm bảo cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm trong trao đổi buôn bán với Việt Nam. Tăng cường quản lý xuất nhập khẩu bằng luật và các văn bản pháp lý là rất cần thiết, nhưng cần tạo ra sự nhất quán tương đối giữa các văn bản pháp lý được ban hành và nếu đó là các văn bản sửa đổi thì phải qui định một thời kỳ chuyển tiếp để các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thời gian thay đổi và thích nghi với những qui định mới. Ngoài ra cần gấp rút ban hành các văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh do các cơ quan hữu trách thiếu cơ sở pháp lý để nhận định hành vi của họ. Trong quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá, còn một khâu rất quan trọng là kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu để đảm bảo hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường thế giới sẽ không làm mất uy tín của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới và đảm bảo hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam phù hợp với yêu cầu chất lượng Việt Nam qui định. 3.3.2.1.3 Xây dựng chiến lược bạn hàng hợp lý và đẩy mạnh công tác thông tin, xúc tiến thương mại. - Xây dựng chiến lược bạn hàng hợp lý Pháp là thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Điều này thể hiện rõ ở chỗ Pháp là thành viên của khối EU- một trong những thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới, có nhu cầu đa dạng phong phú về hàng hoá, nhu cầu nhập khẩu của EU nói chung, của Pháp nói riêng đối với mặt hàng chủ lực của Việt Nam rất lớn và chính sách thương mại của EU, của Pháp đối với Việt Nam đang dần được hoàn thiện. Hơn nữa Pháp nằm trong khu vực phát triển kinh tế khá ổn định trên thế giới, cùng với sự ra đời của đồng euro, khu vực này ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tại thời điểm này, Việt Nam đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Do vây, thị trường Pháp là nơi để các nhà xuất khẩu Việt Nam thể hiện sức mạnh của mình, là cửa ngõ quan trọng để hàng hoá của Việt Nam có thể xâm nhập vào thị trường EU. Vì vậy,việc xác định Pháp là thị trường trọng điểm là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với định hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. - Đẩy mạnh công tác xúc tiến thông tin, xúc tiến thương mại Cục xúc tiến thương mại cần xây dựng ngay mạng thông tin chuyên ngành mậu dịch đối ngoại, hiện đại hoá, quốc tế hoá việc quản lý kinh doanh và dịch vụ xuất nhập khẩu để nâng cao hiệu quả kinh doanh, đơn giản hoá trình tự mậu dịch, tăng cơ hội kinh doanh và để thế giới hiểu rõ hơn thị trường Việt Nam. Mạng thông tin chuyên ngành này có thể tư vấn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong việc tìm kiếm thị trường và khách hàng phù hợp đồng thời tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Cục xúc tiến thương mại cần tiến hành một chiến dịch sâu rộng để cải thiện hình ảnh về hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới như có thể cho ra đời một tạp chí chính thức giới thiệu các sản phẩm Việt Nam tiêu biểu có chất lượng cao đạt giải thưởng tại các hội chợ quốc tế. Cùng với việc tăng cường buôn bán với các nước trên thế giới, Việt Nam cần tăng cường việc thiết lập các cơ quan thương vụ ở các nước và khu vực trên thế giới, kể cả các nước chưa có quan hệ ngoại giao để phát triển hoạt động ngoại thương thông qua việc liên hệ với các ngành và các giới kinh doanh nưóc sở tại. Các thương vụ phải là cơ quan gắn kết doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trên thị trường mà thương vụ đó hoạt động, thông qua hoạt động thu thập thông tin về hoạt động ngoại thương của nước sở tại, tìm hiểu nhu cầu nơi đó để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn về đối tác kinh doanh của mình để có đối sách kinh doanh thích hợp. 3.3.2.1.4 Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Mỗi doanh nghiệp cần đặt lên hàng đầu mục tiêu nâng cao chất lượng hàng hoá cuẩ mình và từ đó là sức cạnh tranh của hàng hoá đó. Cùng với việc nâng cao chất lượng là việc giảm giá thành, đa dạng hoá mẫu mã, cải tiến bao bì...cũng góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Các doanh nghiệp không thể đổ lỗi cho thiếu vốn hay thiết bị lạc hậu để biện hộ cho khả năng cạnh tranh yếu của hàng hoá bởi vì còn nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm như các yếu tố vĩ mô (tỷ giá hối đoái, lãi xuất, thuế khoá) và các yếu tố vi mô (qui trình sản xuất, khả năng quản lý của từng doanh nghiệp). Vì vậy, trong tình hình hiện naydo các nguồn vốn còn hạn hẹp, các doanh nghiệp cần chủ động vạch ra chiến lược cạnh trânh dài hạn cho hàng hoá của mình bằng khả năng tạo ra nét độc đáo cho sản phẩm, dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành cũng như qui trình sản xuất hợp lý hơn. Các doanh nghiệp cần hạn chế tình trạng dựa vào các yếu tố lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên, trợ cấp riêng rẽ, lãi xuất ưu đãi... để tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hoá của mình. Ngoài ra, việc kiểm tra chất lượng một cách chặt chẽ đối với hàng hoá cũng là một biện pháp để nâng cao uy tín cho hàng hoá của doanh nghiệp nói riêng và của Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới. 3.3.2.1.5 Chủ động thực hiện tốt công tác thị trường, thông tin, tiếp thị Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội trợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt thị trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất và kinh doanh, tự mình lao tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá. Việc tham gia các hội chợ triển lãm nhất là ở nước ngoài, đặc biệt ở thị trường Châu Âu, có thể gặp khó khăn về kinh phí do giá thuê gian hàng đắt, các doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin qua các thương vụ Việt Nam tại các khu vực này, qua cục xúc tiến thương mại của Việt Nam, để từ đó có thể tìm được những bạn hàng tin cậy, nắm bắt được tương đối chính xác nhu cầu thị trường đối với hàng hoá của mình cũng như khả năng cung cấp của thị trường đó, giá cả, chất lượng cho những mặt hàng mà doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu để phục vụ sản xuất và kinh doanh trong nước. 3.3.2.1.6 Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sang thị trường Pháp. Tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng Pháp - Da giầy: Các nhà sản xuất giầy dép và đồ dùng bằng da - một mặt hàng mang tính thời trang cao - cần quan tâm đến sự biến đổi củâ nhu cầu tiêu dùng, thị hiếu đối với từng chủng loại và chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, chủng loại giầy dép xuất khẩu lại phụ thuộc vào thời vụ cho nên đối với doanh nghiệp Việt Nam điều cốt yếu là phải đảm bảo sản xuất và giao hàng đúng hạn. - Dệt may: Các nhà tạo mẫu Pháp xưa nay luôn là những người đi đầu trong việc tạo mốt mới làm thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng và thay đổi sản phẩm theo thời vụ. Vậy muốn cho sản phẩm của mình giữ được chỗ đứng lâu dài ở thị trường Pháp, chúng ta phải điều chỉnh cơ cấu mặt hàng. Hiện nay đang có sự chuyển đổi từ hàng dệt thoi sang hàng dệt kim trên thị trường Pháp. Trước đây, người dân Pháp thường dùng hàng dệt kim để mặc lót. Hiện nay, với những ưu điểm mới của mình, sản phẩm dệt kim đã được dùng để mặc ngoài trong nhiều hoạt động. - Cà phê: Cà phê của Việt Nam thơm ngon do được trồng từ giống tốt và trên những vùng thổ nhưỡng rất thích hợp với cây cà phê. Thế nhưng cà phê xuất khâủ lại không đạt chất lượng tương xứng nên các doanh nghiệp Việt Nam thường bị thua thiệt về giá cả so với các nước khác. Điều cốt lõi là phải đầu tư, phat triển công nghệ chế biến ngay từ khâu chế biến sơ cấp. Chế biến cà phê bột hay cà phê hoà tan sẽ nâng cao giá trị của cà phê xuất khẩu, giảm việc xuất khẩu cà phê hạt. - Chè: Chè xanh của Việt Nam có ưu điểm là hương vị thơm ngon đặc sắc, phù hợp với thị hiếu hiện nay của người tiêu dùng Pháp nhất là nam giới và thanh niên do người Pháp có xu hướng quay trở lại những sở thích truyền thống và bị thu phục bởi Châu á và nền văn minh phương Đông. Chúng ta cần làm tốt hơn nữa công tác tiếp thị ở Pháp, tìm mối khách hàng tiêu thụ để có thể xuất khẩu với khối lượng lớn hơn gấp 2- 3 lần hiện nay cả về chè bột gói nhỏ lẫn chè lạng. - Thuỷ, hải sản: Để có thể thiết lập lòng tin của người tiêu dùng Pháp chúng ta cần phải nâng cao chất lượng an toàn vệ sinh để đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường EU trong đó Pháp là một thị trường quan trọng. Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng, chế biến, bảo quản, vận chuyển đến khâu sản xuất là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang Pháp. Các doanh nghiệp chế biến hàng thuỷ sản phải nâng cấp nhà xưởng, thiết bị theo tiêu chuẩn EU. Tìm hiểu thị trường Pháp. - Da giầy: Là ngành có năng lực sản xuất khá lớn của Việt Nam với khoảng 360 triệu đôi các loại/năm. Ngành giày dép Việt Nam vươn lên đứng thứ tư trong mười nước và lãnh thổ xuất khẩu hàng đầu thế giới. Năm 2001, xuất khẩu da giày nước ta đạt 1,55 tỷ USD trong đó thị trường Pháp khoảng trên 300 triệu USD. Dự kiến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu giày dép đạt 1,8 tỷ USD trong đó phần xuất sang thị trường Pháp phải được duy trì và tăng trên 300 triệu USD. Với một năng lực như vậy, ngành da giầy cần phải đi vào đầu tư theo chiều sâu, hoàn chỉnh công nghệ và luôn có phương án điều chỉnh để có thể đáp ứng nhu cầu thường xuyên biến đổi của người tiêu dùng Pháp. Hơn nữa, chủng loại giầy dép xuất khẩu lại phụ thuộc vào thời vụ cho nên đối với doanh nghiệp Việt Nam điều cốt yếu là phải đảm bảo sản xuất và giao hàng đúng hạn. Các nhà sản xuất giầy dép và đồ dùng bằng da - một mặt hàng mang tính thời trang cao - cần quan tâm đến sự biến đổi của nhu cầu tiêu dùng, thị hiếu đối với từng chủng loại và chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là chúng ta cần tăng cường đầu tư cho công nghiệp thuộc da để tăng chất lượng nguyên liệu bằng da, hạn chế việc phải nhập da giá đắt. Mẫu mã hấp dẫn thường là kết quả của sự sáng tạo, của sự dầy công nghiên cứu và những dự đoán chính xác xu hướng tiêu dùng của các sản phẩm da và giầy dép của người tiêu dùng Pháp. - Dệt may: Hiện nay, EU trong đó có Pháp vẫn là thị trường quan trọng nhất đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam với hơn 40%. Trên thế giới, Pháp là nước nhập khẩu hàng dệt may đứng thứ 5 sau Mỹ, Trung Quốc, Đức, Anh với trị giá trên 8 tỷ USD năm 2001 chiếm 4,8% thị phần thế giới. Năm 2001, Pháp nhập khẩu khoảng 120 triệu USD hàng dệt may Việt Nam. Trên thị trường Pháp, hàng dệt may Việt Nam phải chịu sự hạn chế về hạn ngạch dệt may vào EU và một cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà xuất khẩu hàng dệt may và hơn nữa, Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ hiện là những nước có mức tăng trưởng về xuất khẩu hàng dệt may mạnh. Sắp tới, Thổ Nhĩ Kỳ có khả năng trở thành thành viên chính thức của EU và được hưởng quy chế hải quan thống nhất thì hàng dệt may của nước này càng có điều kiện vào thị trường EU và vào Pháp dễ dàng hơn. Vậy Việt Nam phải tranh thủ hết sức hạn ngạch của mặt hàng này vào EU. Hạn ngạch các năm sau cần phải được mau chóng phân bổ sao cho các doanh nghiệp có đơn đặt hàng ngay từ đầu năm để có kế hoạch triển khai sản xuất. Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu thẳng cho khách hàng Pháp không qua trung gian. - Cà phê, chè: Cà phê được coi là ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Pháp luôn đứng hàng thứ ba với 7,11% thị phần cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong các năm 1996, 1997. Từ năm 1998 trở đi, lượng cà phê tiêu thụ ở Pháp không tăng, tuy nhiên chính phủ Pháp rất quan tâm đến việc trồng cà phê ở Việt Nam nên đã tham gia dự án trồng cà phê với diện tích 40.000 ha trong 5 năm từ 1997 đến 2001. Cùnh với cà phê, chè xanh Việt Nam cũng được xuất khẩu sang Pháp tuy giá trị không lớn, khoảng 600 ngàn USD. Nhu cầu về chè xanh ở Pháp đã tăng mạnh kể từ năm 1998 và dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong năm 2002 với mức tiêu thụ khoảng 1 tỷ FRF/năm. - Thuỷ, hải sản: Việt Nam sau hàng chục năm ở danh sách 2 các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU, tháng 11 năm 1999, đã được EU cho vào danh sách 1 và các nước ở danh sách 2 không được phép xuất khẩu thuỷ sản sang EU kể từ 1/1/2000. Đây là một thuận lợi lớn, là nguyên nhân khiến xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Pháp tăng mạnh trong năm 2000 và 2001. - Hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống: Hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống như gốm, sứ, sơn mài, bàn ghế song mây, các sản phẩm bằng gỗ dùng để trang trí là những mặt hàng còn kém sức cạnh tranh trên thị trường Pháp. ở trong nước, đầu tư vào các ngành nghề thủ công còn mang tính tự phát, sản xuất còn nhỏ và manh mún, lại thường sử dụng lao động nông nhàn nên chất lượng chưađạt được độ đồng đều, khâu thiết kế mẫu mã còn yếu, cộng thêm giá chuyên chở sang Châu Âu còn cao. Để tăng nhanh kim ngạch hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu sang Pháp, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải dành cho khách hàng Pháp những ưu đãi trong các điều kiện hợp đồng, nhất là đối với những bạn hàng lâu dài và ổn định. Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ nghệ nhân, đào tạo lao động ngành nghề, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào máy móc để tăng cường quy mô sản xuất cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Lựa chọn bạn hàng để đẩy mạnh xuất khẩu Ngành phân phối của Pháp phát triển mạnh về số lượng các siêu thị lớn, nhỏ. Dưới áp lực cạnh tranh, các hãng phân phối lớn thường xuyên phải giảm giá để thu hút khách hàng. Để thực hiện được chiến lược này các hãng phân phối thường ký hợp đồng với người sản xuất ở nước ngoài. Tuy giá không cao nhưng bù lại là việc tiêu thụ được ổn định. Nên chăng, các doanh nghiệp Việt Nam tìm cách ký kết những hợp đồng tiêu thụ với những hãng phân phối lớn của Pháp. Sản phẩm của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của những khách hàng có thu nhập vừa hoặc thấp ở Pháp. Họ là những người muốn mua hàng rẻ nên thường chọn siêu thị của các hãng lớn để mua sắm mọi thứ trong gia đình từ đồ điện tử, quần áo cho đến đồ ăn thức uống hàng ngày. Ngoài ra chúng ta nên dành ưu tiên cho các doanh nghiệp Việt kiều. Họ là những người quảng cáo tích cực cho hàng hoá của Việt Nam trong các cộng đồng người Châu á sống ở Pháp. Phải có sự tin cậy lẫn nhau giữa các nhà xuất khẩu Việt Nam với Việt kiều tiêu thụ hàng ở Pháp thì sản phẩm Việt Nam mới có thể cạnh tranh được với những sản phẩm của Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan. 3.3.2.1.7 Nâng cao hiệu quả nhập khẩu hàng từ Pháp. Như đã giới thiệu ở phần trước, Pháp có những thế mạnh mà Việt Nam có thể khai thác như những mặt hàng công nghệ cao ( máy bay, ô tô, hoá dược...). - Máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng. Công nghệ của Pháp có thể coi là công nghệ nguồn, ta có thể nhập từ Pháp các loại thiết bị cho công nghiệp nặng như khai thác dầu, lọc dầu, thiết bị y tế, máy móc công cụ phục vụ sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, thiết bị viễn thông, truyền hình, thiết bị hàng không. Chúng ta cần tận dụng, khai thác thế mạnh này của Pháp vì Pháp hầu như không còn công nghệ trung gian cũng như công nghệ đã qua sử dụng. - Nguyên vật liệu cho sản xuất. Ngành may mặc của Việt Nam rất cần những phụ liệu của Pháp để đảm bảo chất lượng xuất khẩu. Da thuộc của Pháp có chất lượng cao do kỹ thuật thuộc da rất phát triển cùng với ngành chăn nuôi. Nguyên liệu cho ngành thực phẩm như bột mỳ, men làm bia, sữa bột cũng được nhiều liên doanh Pháp - Việt nhập về. Hoá chất các loại như thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng... cũng nên nhập của Pháp vì chất lượng các sản phẩm này được bảo đảm không có hại tới sức khoẻ của người tiêu dùng. Chúng ta có thể giảm dần việc nhập khẩu nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ bằng cách tăng cường nghiên cứu phát triển sản xuất bằng công nghệ trong nước. - Tân dược và mỹ phẩm Các loại sản phẩm này của Pháp vì rất nổi tiếng nên giá thường đắt hơn các nước khác. Chúng ta nên hạn chế nhập khẩu vì trong nước các liên doanh cũng đã sản xuất được với chất lượng không thua kém, vừa là nhằm kích thích sản xuất trong nước vừa giảm được một phần đáng kể ngoại tệ dùng vào việc nhập khẩu những mặt hàng này. - Hàng tiêu dùng cao cấp: Nhà nước nên quản lý bằng việc chỉ cấp hạn ngạch vừa đủ cho một số công ty chuyên nhập khẩu cung cấp cho các khách sạn, nhà hàng. Việc tuyên truyền dùng các sản phẩm nội địa mà các liên doanh Pháp - Việt đã sản xuất được với chất lượng khá cao là hết sức quan trọng. 3.3.2.2 Đối với hoạt động đầu tư 3.3.2.2.1 Cải thiện môi trường đầu tư để thu hút hơn nữa và nâng cao hiệu quả FDI Năm 1987, khi sự nghiệp đổi mới được triển khai mạnh mẽ và rộng khắp, Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài mở ra thời kỳ kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào nước ta. Tính đến năm 2001 Việt Nam đã cấp giấy phép cho 3628 dự án đầu tư với tổng số vốn đầu tư 46,5 tỷ USD. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng FDI của Châu Âu nói chung và của Pháp nói riêng tại Việt Nam quá nhỏ bé so với sức mạnh kinh tế của họ. Pháp là nước phương Tây đầu tư lớn nhất ở Việt Nam cũng chỉ có số vốn 1,7 tỷ USD. Toàn bộ đầu tư nước ngoài của các nước thành viên Liên minh Châu Âu ở Việt Nam chỉ chiếm từ 12 đến 15% số vốn FDI ở Việt Nam. Đương nhiên, không ai, kể cả chính phủ nước họ có thể bắt buộc các nhà đầu tư đầu tư vào nước này hay nước kia. Vấn đề là tìm ra nguyên nhân của xu thế không lấy gì làm phấn khởi này và kiến nghị những giải pháp thích hợp nhằm thu hút mạnh mẽ hơn nữa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói chung và nguồn vốn FDI của Pháp nói riêng, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Các đối tác Châu Âu trong đó có Pháp nhìn chung thích làm ăn có "bài bản", luật lệ rõ ràng và minh bạch trong các mối quan hệ. Nếu Việt Nam muốn tạo ra một sự cân bằng mới nào đó trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì cần phải đẩy mạnh hơn nữa quan hệ với Liên minh Châu Âu nói chung và Pháp nói riêng. Muốn vậy chính sách phải đi đôi với quyết tâm chính trị. Nói cách khác, đường lối chính trị của Đảng cần được cụ thể hoá bằng các chính sách và biện pháp thu hút đầu tư từ Châu Âu và đẩy mạnh quan hệ thương mại. Trong những năm qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng nhằm tạo ra "sân chơi" hấp dẫn đối với các nhà doanh nghiệp Âu- Mỹ. Song, vẫn còn nhiều vấn đề mà các đối tác nước ngoài phàn nàn và bản thân chúng ta cũng thừa nhận. Trước hết phải nói đến tính bất cập trong hệ thống ngân hàng, tài chính của ta. Thứ đến, cải cách hành chính quá chậm chạp, chưa khắc phục được tệ quan liêu, giấy tờ trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Một tin mừng là năm 1999 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định huỷ bỏ 84 các loại giấy phép khác nhau và năm 2000 luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã được ban hành là một bước tiến đáng kể trong việc cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ đến, Việt Nam cần xúc tiến thúc đẩy vận động đầu tư nước ngoài mạnh hơn nữa. Đây là biện pháp hữu hiệu nhằm tạo ra cho Việt Nam một hình ảnh hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Muốn vậy, ta cần tăng cường tiếp xúc ở mọi cấp về mọi mặt với chính phủ các nước liên quan và trực tiếp với các nhà đầu tư. Bên cạnh đó ta phải thực hiện chế độ thông tin. Cần cung cấp cho các nhà đầu tư mọi quy định, thủ tục liên quan đến FDI ở Việt Nam, từ các văn bản pháp lý hành chính, chiến lược, quy hoạch lâu dài và tổng thể về FDI đến những thông tin chi tiết cho từng dự án, thậm chí cả những đặcđiểm của địa phương đón nhận FDI. Thông tin cần được chuyển tải qua nhiều kênh khác nhau: hội nghị, hội thảo, ấn phẩm, internet... Để tăng cường giải ngân cho các dự án FDI, cần có những biện pháp hữu hiệu để giải phóng mặt bằng trước khi gọi vốn, rút ngắn thời gian thẩm định và đơn giản hoá mọi khâu thủ tục hành chính khác. Đầu tư nước ngoài còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như ngân hàng, bảo hiểm, luật sư. Các nhà đầu tư Pháp nổi tiếng là thận trọng, đôi khi họ không tin vào hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, luật sư của nước nhận đầu tư. Do vậy, những quy định pháp lý cho việc mở chi nhánh, văn phòng cho ngân hàng, bảo hiểm và luật sư cần phải được ban hành và hoàn thiện. Hiện nay, các công ty của Pháp đã mở trên 100 văn phòng đại diện, 5 ngân hàng, 7 văn phòng luật sư ở Việt Nam dưới hình thức các chi nhánh. Điều họ mong muốn là chế độ hoạt động của các chi nhánh này được tự do hoá hơn nữa và lý tưởng nhất là không có bất kỳ sự hạn chế nào trong kinh doanh. Về quy mô của các dự án và phân bố theo địa lý, FDI của Pháp nhỏ hơn so với quy mô trung bình của FDI nói chung và tập trung chủ yếu ở miền Nam. Nên chăng, ta cần có những biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào các vùng ưu tiên cao của ta như các vùng sâu và xa vì Pháp thông thạo địa lý Việt Nam, tâm lý của người Việt Nam. Chẳng hạn như ta lo giải phóng mặt bằng trước, cấp không quyền sử dụng đất, miễn thuế trong một thời gian nhất định, sản phẩm làm ra được tiêu thụ tại chỗ, không bắt buộc phải xuất khẩu một phần. Phát huy nội lực là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp phát triển của đất nước nhưng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trong đó có vấn đề FDI nói chung và FDI của Pháp nói riêng có vai trò của nó trong phát triển kinh tế. Đảng và nhà nước ta đã và sẽ có những chủ trương, chính sách đúng đắn, hữu hiệu và kịp thời để thu hút nguồn vốn này. 3.3.2.2.2 Hoàn thiện hệ thống phát luật về đầu tư nước ngoài. - Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và hoạt động đầu tư của Pháp nói riêng phát triển theo đúng định hướng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật phải được cải thiện theo hướng ổn định, lâu dài, thống nhất, rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng, hấp dẫn, mang tính cạnh tranh cao và có so sánh đối chiếu với các nước trong khu vực. - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung cho hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập một môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng, ổn định, phù hợp với xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế. Đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp từng đối tượng. - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút mới như cho phép thành lập công ty dưới hình thức công ty hợp doanh, công ty cổ phần; cho phép các tập đoàn có nhiều dự án ở Việt Nam thành lập công ty quản lý vốn ( Holding company); cho phép thành lập công ty đa mục đích, đa phương án; nghiên cứu mô hình kinh tế mở. 3.3.2.2.3 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước - Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án FDI đã được cấp phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp FDI; đồng thời có những biện pháp động viên khen thưởng các doanh nghiệp làm ăn tốt, rút giấy phép đối với những dự án hoàn toàn không có khả năng triển khai. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiến hành rà soát, phân loại các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của mình và sau đó sẽ phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân địa phương và ban quản lý các khu công nghiệp. - Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách, cơ chế; chú trọng phân cấp quản lý giai đoạn sau khi cấp giấy phép; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các bộ, nghành. 3.3.2.2.4 Cải tiến mạnh các thủ tục hành chính - Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, phân định rõ chức năng quyền hạn của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh, tránh chồng chéo và buông lỏng trong quản lý. Duy trì việc tiếp xúc thường xuyên giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài - Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư nước ngoài theo hướng đơn giản hoá việc cấp giấy phép đầu tư, mở rộng diện đăng kí cấp phép đầu tư; rà soát và bãi bỏ các giấy phép đang cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài; hoàn chỉnh quy trình ban hành văn bản pháp quy để ngăn chặn việc ban hành các văn bản trái quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm quyết định của chính phủ về đầu tư nước ngoài. - Quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính; xây dựng cơ chế tổ chức quản lý theo hướng một cửa đối với đầu tư nước ngoài ở cả trung ương và địa phương trong toàn bộ các khâu từ xin phép đầu tư đến triển khai hoạt động dự án. 3.3.2.2.5 Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh. - Tiếp tục lộ trình giảm chi phí đầu tư, tiến tới chế độ một giá áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Theo các nhà đầu tư nước ngoài giá thuê đất trong các khu công nghiệp ở Việt Nam tương đương với các nước trong khu vực nhưng phí sử dụng cơ sở hạ tầng lại cao hơn rất nhiều và chất lượng các dịch vụ được hưởng lại không tương ứng với các chi phí bỏ ra. Giá quảng cáo, cước phí vận chuyển, giá điện, nước và giá điện thoại quốc tế còn cao. Ban vật giá chính phủ cần nhanh chóng hoàn thành đề án chính sách một giá đối đầu tư nước ngoài và người nước ngoài . - Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài theo hướng tiếp tục giảm dần và tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo các nguyên tắc của thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước 3.3.2.3 Đối với hoạt động viện trợ. Có chính sách thu hút mạnh mẽ hơn và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Việt Nam nhận viện trợ phát triển chính thức ODA từ trước khi có hội nghị các nhà tài trợ năm 1993. Trong thời gian Mỹ bao vây cấm vận chống Việt Nam, các nước Bắc Âu vẫn dành cho ta một khoản viện trợ không hoàn lại. Năm 1989, Pháp nối lại nghị định thư tài chính dành cho Việt Nam. Song, chỉ từ khi quan hệ giữa Việt Nam và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế được bình thường hoá và vấn đề nợ của ta được giải quyết, ODA mới "ồ ạt" được đưa vào Việt Nam. Vốn ODA được chính phủ Việt Nam nhìn nhận là một nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng để hỗ trợ đầu tư phát triển các lĩnh vực ưu tiên thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam hiểu rõ rằng để phát triển kinh tế và thực hiện các chương trình cải cách ... thì phải có nguồn lực, do vậy cùng với việc huy động tối đa nguồn nội lực, chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng các nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn ODA của các nước và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Do vậy, vận động, thuyết phục các nước, các tổ chức tài chính - tiền tệ cam kết nhiều ODA là rất cần thiết. Nhưng điều quan trọng hơn là thực hiện hoá các cam kết ODA, thông qua việc thực hiện các chương trình, dự án một cách có hiệu quả cao. Giải ngân ODA chậm dẫn đến việc không đưa được các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này vào sử dụng đúng tiến độ, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế và hiệu quả đầu tư, điều kiện ưu đãi của các khoản ODA kém đi, thời gian ân hạn bị rút ngắn và uy tín của nước ta về năng lực tiếp thu viện trợ bị giảm sút. Hiện nay có hai vấn đề đặt ra đối với nguồn vốn ODA. Thứ nhất là tỷ lệ vốn ODA không hoàn lại chỉ chiếm chưa đầy 15%, còn lại là vốn cho vay. Riêng đối với Pháp, trong những năm gần đây ODA không hoàn lại chỉ chiếm 4,4% trong tổng vốn ODA dành cho Việt Nam và hoàn toàn chấm dứt bắt đầu từ năm 1999. Nếu sử dụng ODA không có hiệu quả thì đây sẽ là một gánh nặng tài chính cho những thập kỷ tới. Thứ hai là vốn ODA không hoàn lại càn tập trung cho đào tạo nhân lực, hỗ trợ kỹ thuật cho các dự án ở vùng sâu, vùng xa thuộc địa bàn ưu tiên nhằm khắc phục tình trạng hiện nay là chỉ tập trung vốn ODA ở các thành phố lớn và thành phố cấp trung ương. Muốn giải quyết những vấn đề nổi cộm hiện nay về ODA cần nâng cao hiệu quả của nguồn vốn này. Khác với nguồn vốn FDI, ODA đòi hỏi rất cao trách nhiệm của nước tiếp nhận viện trợ ngay từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ đến đánh giá kết quả thu được. Muốn Việt Nam cần phải tiến hành những biện pháp sau đây: - Ta cần xây dựng bức tranh toàn cảnh về nhu cầu nguồn vốn ODA sao cho nguồn vốn này được phân bổ tốt về mặt địa lý theo ưu tiên đầu tư trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, tránh được sự trùng lặp về đầu tư và tập trung quá cao vào một ngành, một vùng nào đó. - Một mặt ta có tính đến ý kiến của các nhà tài trợ, mặt khác ta phải hoàn toàn chủ động trong quá trình đề xuất nhu cầu, xây dựng dự án, điều hành, quản lý và đánh giá dự án... - Để vừa phát huy tính chủ động của nước tiếp nhận viện trợ và tôn trọng ý kiến của các nhà tài trợ, ta cần minh bạch trong mọi khâu, hài hoà các chính sách, chia sẻ thông tin về mọi mặt với các nhà tài trợ và giữa các nhà tài trợ với nhau. - Để thực hiện tốt các biện pháp trên, điều cốt lõi là tăng cường năng lực cán bộ tham gia vào quá trình quản lý ODA ở mọi cấp, đặc biệt là cấp thực hiện dự án ở địa phương. Đối với ODA của Pháp, ngoài những biện pháp trên, cần chú trọng một số điểm sau : - Cần chú trọng đến nguồn tài chính của cơ quan phát triển Pháp vì phần vốn ODA không hoàn chỉ nằm trong các dự án được cơ quan này tài trợ. - Từ năm 1999, Pháp đã chấm dứt phương thức công bố số tiền tài trợ cho từng nước và ở từng năm. Tài trợ của Pháp được xác định trên cơ sở các dự án được hai bên cùng xây dựng và hoàn thiện. Trong bối cảnh mới này, ta nên chủ động thiết lập các dự án theo các lĩnh vực, ngành, địa phương ưu tiên để chủ động trong đàm phán thông qua dư án với bạn. - Các dự án ODA của Pháp thường nhỏ, manh mún. Cách tiếp cận tổng hợp theo ngành hoặc theo chương trình đối với nhu cầu về ODA sẽ khắc phục một phần sự trải "mành mành" này. - Ta phải sử dụng có hiệu quả hơn kinh phí hợp tác, khoản viện trợ không hoàn lại do ngoại giao Pháp quản lý. Đây chính là nguồn tài chính giúp ta một cách có hiệu quả trong việc đào tạo nhân lực và trợ giúp kỹ thuật nếu ta tận dụng tốt. Nguồn vốn ODA của Pháp khá đa dạng, phong phú và tổng số vốn không nhỏ. Vấn đề cơ bản là làm sao ta phải sử dụng một cách có hiệu quả vốn ODA nói chung và vốn ODA của Pháp nói riêng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tạo ra khả năng trả nợ sau này. Coi trọng FDI và ODA trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính phủ ta luôn thực hiện chính sách nhất quán thu hút và sử dụng nguồn lực này. Phương châm chỉ đạo trong việc quản lý và chỉ đạo và thực hiện hai nguồn vốn này là hiệu quả đầu tư. Đương nhiên, mọi chính sách, biện pháp cần phải thường xuyên được bổ sung, sửa đổi xuất phát từ thực tế và nhu cầu phát triển của đất nước cũng như từ mối quan tâm về quyền lợi hợp tác của các nhà đầu tư, tài trợ nước ngoài. Nguồn vốn FDI và ODA của Pháp đóng vai trò không nhỏ trong tổng giá trị FDI và ODA nói chung. Để tận dụng tối đa hai nguồn vốn này, ngoài những chính sách và biện pháp chung, ta cần có những chính sách phù hợp với từng đối tác. Kết luận Với GDP đứng hàng thứ tư trên thế giới, Pháp cũng là cường quốc xuất nhập khẩu, chiếm 5,3% thị trường xuất khẩu thế giới. Giai đoạn hiện nay, mặc dù thường xuyên có những nước mới nổi lên, Pháp vẫn giữ được thị phần xuất khẩu của mình trong khi mà thị phần của các nước lớn khác như Mỹ, Đức, Anh giảm đáng kể. Cùng với sức mạnh kinh tế, Pháp còn có những lợi thế khác ở Việt Nam mà các nước khác không có. Đó là sự gần nhau về văn hóa và tư duy, quan hệ lịch sử giữa hai dân tộc cũng như một số cơ sở kinh tế, nếp quản lý hành chính mà Pháp còn để lại Việt Nam. Tất cả những cái đó đã và sẽ là tiền đề để Pháp mở rộng và tăng cường sự có mặt của mình cả về chính trị, kinh tế, văn hoá ở Việt Nam và tạo ra đầu cầu để đi vào các thị trưòng khác ở Đông Nam á. Về phía Việt Nam, với sự quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện mà các kỳ họp quốc hội đã khẳng định và với những thành quả đạt được về mọi mặt trong đó có ngành kinh tế đối ngoại, Việt Nam sẽ tăng cường hơn nữa quan hệ kinh tế với Pháp, một đối tác hàng đầu trong quan hệ của Việt Nam với các nước công nghiệp phát triển. Lợi thế của Việt Nam trong quan hệ với Pháp là quan hệ chính trị giữa hai nước được duy trì đều đặn, tạo ra cơ sở cho quan hệ kinh tế, thương mại,đầu tư. Hơn nữa, Pháp luôn đi đầu trong quan hệ với Việt Nam, như vậy sẽ lôi kéo các nước khác thiết lập hoặc mở rộng quan hệ với Việt Nam. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Pháp trong thập kỷ 90, đặc biệt là trong vài năm gần đây đã có những bước tiến rõ rệt về kim ngạch trao đổi (trên 5 tỷ FRF mỗi năm), quan hệ đầu tư cũng được tăng cường (Pháp luôn giữ vị trí nhất nhì trong số những nước đầu tư vào Việt Nam). Song, quan hệ đó tuy phát triển nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng của cả hai nước. Người ta mong đợi hơn nữa từ quan hệ giữa hai nước. Tại sao cả hai nước đều có nhiều lợi thế với nhau so với các đối tác khác mà vẫn để cho quan hệ kinh tế cả thương mại lẫn đầu tư ở mức khiêm tốn? Sự "dè dặt" và "chặt chẽ của người Pháp, bệnh quan liêu và sự thiếu đồng bộ trong chính sách cũng như môi trường tài chính ở Việt Nam là những nguyên nhân cơ bản của tình trạng kém sáng sủa này. Cả hai nước cần nhận thức đúng nguyên nhân và đưa ra giải pháp để quan hệ giữa hai nước phát triển đúng tiềm năng. Mục lục Lời mở đầu 1 Chương1: Khái quát về nước cộng hoà Pháp và quan hệ hợp tác Việt Nam - Pháp 3 1.1.Khái quát về nước cộng hoà Pháp và tiềm lực kinh tế của nước Pháp 3 1.1.1 Khái quát về nước cộng hoà Pháp 3 1.1.1.1 Vị trí địa lý, dân số, chế độ chính trị 3 1.1.1.2 Văn hoá xã hội 3 1.1.2 Tiềm lực kinh tế của Pháp 4 1.1.2.1 Tiềm lực kinh tế của Pháp 4 1.1.2.2 Vai trò của Pháp đối với nền kinh tế EU và thế giới 6 1.2 Quan hệ hợp tác Việt Nam - Pháp 8 1.2.1 Vài nét về quan hệ hợp tác Việt Nam - Pháp 8 1.2.2 Sự cần thiết phát triển quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp 14 1.2.2.1 Về phía Pháp 14 1.2.2.2 Về phía Việt Nam 16 Chương2: Thực trạng quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp 19 2.1. Quan hệ thương mại 19 2.1.1 Kim ngạch 19 2.1.2 Cán cân thương mại 21 2.1.3. Xuất khẩu từ Việt Nam sang Pháp 22 2.1.4. Nhập khẩu từ Pháp vào Việt Nam 27 2.1.5. Những thuận lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với Pháp 30 2.1.5.1 Về phía Việt Nam 30 2.1.5.2 Về phía Pháp 32 2.1.6 Khó khăn thách thức trong hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam - Pháp 34 2.2 Quan hệ đầu tư 38 2.2.1 Đâù tư của Việt Nam sang Pháp 38 2.2.2 Đầu tư của Pháp vào Việt Nam 38 2.2.2.1 Đầu tư theo hình thức 39 2.2.2.2 Đầu tư theo lĩnh vực 40 2.2.2.3Vốn bình quân một dự án 43 2.2.2.4 Đầu tư theo địa bàn 43 2.2.2.5 Đánh giá hiệu quả FDI của Pháp ở Việt Nam 45 2.2.2.5.1 Tác động tích cực 45 2.2.2.5.2 Tồn tại 48 2.3 Viện trợ phát triển chính thức của Pháp cho Việt Nam 51 2.3.1 Những mục tiêu viện trợ ODA của Pháp 52 2.3.2 Các hình thức viện trợ ODA chính của Pháp 53 2.3.3 Những bộ phận và tổ chức tham gia quản lý viện trợ ODA của Pháp 53 2.3.4 Tình hình viện trợ ODA của Pháp cho Việt Nam 53 2.3.4.1 Giai đoạn 1955 - 1989 53 2.3.4.2 Giai đoạn 1990 - 1995 54 2.3.5 Nhận xét về viện trợ ODA của Pháp 55 Chương 3: Các giải pháp về phía Việt Nam để thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp 57 3.1. Bối cảnh tình hình cho việc phát triển quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp 57 3.2. Triển vọng phát triển quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp 59 3.3. Các giải pháp về phía Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Pháp 60 3.3.1 Những giải pháp chung 60 3.3.1.1 Thúc đẩy quan hệ chính trị 60 3.3.1.2 Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước 62 3.3.1.3 Cải cách thủ tục hành chính 62 3.3.1.4 Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 62 3.3.2 Những giải pháp cụ thể 64 3.3.2.1 Đối với hoạt động thương mại 64 3.3.2.1.1 Ưu tiên đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu cả chiều rộng và chiều sâu 64 3.3.2.1.2 Có chính sách hỗ trợ hàng Việt Nam xuất khẩu sang Pháp 65 3.3.2.1.3 Xây dựng chiến lược bạn hàng hợp lý và đẩy mạnh công tác thông tin, xúc tiến thương mại 67 3.3.2.1.4 Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá 68 3.3.2.1.5 Chủ động thực hiện tốt công tác thị trường, thông tin, tiếp thị 69 3.3.2.1.6 Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sang thị trường Pháp 69 3.3.2.1.7 Nâng cao hiệu quả nhập khẩu hàng từ pháp 73 3.3.2.2 Đối với hoạt động đầu tư 74 3.3.2.2.1 Cải thiện môi trường đầu tư để thu hút hơn nữa và nâng cao hiệu quả FDI 74 3.3.2.2.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài 77 3.3.2.2.3 Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước 77 3.3.2.2.4 Cải tiến mạnh các thủ tục hành chính 78 3.3.2.2.5 Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh 78 3.3.2.3 Đối với hoạt động viện trợ 79 Kết Luận 83

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuanvan.doc
Tài liệu liên quan