Trong các hoạt động kinh tế, thương mại, hầu như không có quốc gia nào đứng một mình lại có thể đạt được những thành quả phát triển cao. Sự hình thành các liên kết về kinh tế trên thế giới đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của các Hiệp định Thương mại song phương, khu vực và đa phương. Chính đặc điểm nổi bật này của nền kinh tế thế giới đã làm xuất hiện một xu thế mới là “tự do hoá thương mại”.
30 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ thương mại về hàng hoá Việt-Mỹ sau khi ký kết Hiệp định Thương mại giữa hai nước: Triển vọng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
USD tôm, cà phê xuất sang California. Năm 1996, doanh số hàng xuất sang Mỹ của EPCO đạt xấp xỉ 8 triệu USD. Cùng với EPCO, bia Sài Gòn đã xuất được sang Mỹ 13.455 thùng bia chai ngay từ năm đầu tiên khi bỏ cấm vận. Bia Sài Gòn hiện đã có mặt ở các tiểu bang Colorado, Washington, Oregon, Kansas, Virginia... với chất lượng được đánh giá cao hơn hẳn bia Trung Quốc vốn đã có mặt từ lâu. Năm 1995, hãng Biti’s cũng đã đặt văn phòng đại diện tại New York để mở rộng buôn bán hàng giày dép sang Mỹ.
Cho dù chưa được hưởng quy chế MNF mà nay gọi là Quan hệ thương mại bình thường (NTR), xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng nhanh chóng từ hơn 50 triệu USD năm 1994 đến 609 triệu USD năm 1999 và ước tính năm 2000 là hơn 683 triệu USD. Năm 1994 và 1995, hàng nông nghiệp Việt Nam xuất sang Mỹ chiếm 76% tổng kim ngạch xuất khẩu, còn lại là hàng phi nông nghiệp. Như vậy, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản. Trong nhóm này, cà phê chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu. Hàng công nghiệp nhẹ cũng bắt đầu xâm nhập vào thị trường này, chủ yếu là hàng dệt, may. Những năm tiếp sau, hàng nông nghiệp xuất khẩu giảm dần, nhường chỗ cho các mặt hàng khác. Nhóm hàng giày dép nổi lên như một điểm sáng với kim ngạch vượt cả nhóm hàng dệt may. Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đã có bước chuyển biến tích cực. Từ năm 1996, ta bắt đầu xuất khẩu dầu thô sang Mỹ và đạt trị giá hơn 80 triệu USD, báo hiệu sự tăng mạnh mặt hàng này trong tương lai. Tuy xuất hiện muộn nhưng giá trị mặt hàng này nhanh chóng chiếm vị trí thứ hai, chỉ sau cà phê.
Bên cạnh đó, mặt hàng hải sản cũng tỏ ra ngày càng có triển vọng tại thị trường Mỹ với tốc độ tăng nhanh và ổn định qua các năm. Kỹ thuật chế biến cũng ngày càng được nâng cao, góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Những năm trở lại đây, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ đã có bước phát triển vượt bậc. Khối lượng hàng hoá trao đổi tăng lên nhiều, chất lượng hàng hoá Việt Nam do phải cọ xát với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường Mỹ nên đã được cải thiện đáng kể. Cho tới nay, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là 5 mặt hàng chủ lực sau
Bảng 1: 5 mặt hàng xuất khẩu chính từ Việt Nam sang Mỹ.
Đơn vị: triệu USD.
Mặt hàng
1994
1995
1996
1997
1998
1999
8 tháng đầu năm 2000
Cá và thuỷ hải sản
5,8
19,6
33,9
46,4
80,5
108,1
161,6
Hạt tiêu, gia vị, cà phê, chè
31,2
146,5
110,9
108,5
147,6
117,7
99,4
Năng lượng, khoáng sản, dầu
1,1
0,0
93,4
36,7
104,7
100,6
37,8
Quần áo len
2,4
15,1
20,0
21,0
21,3
24,9
22,7
Giày dép
0,1
3,3
39,1
97,7
114,9
145,8
86,4
Tổng cộng
40,6
184,5
297,3
310,3
469
496,6
407,9
Nguồn: Cơ quan thông tin thương mại toàn cầu.
Nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ.
Ngay từ năm đầu tiên sau khi Mỹ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ đã tăng mạnh về số lượng và phong phú, đa dạng về chủng loại. Nếu năm 1993 chỉ có 4 nhóm hàng của Mỹ được phép xuất sang Việt Nam thì ngay năm sau đó, con số này đã tăng lên 35 nhóm hàng. Các mặt hàng Mỹ xuất khẩu chủ yếu sang Việt Nam là máy móc, thiết bị, phân bón, máy móc xây dựng, ô tô, thiết bị viễn thông.
Xét về cơ cấu hàng nhập khẩu, nhóm hàng máy móc, thiết bị nói chung chiếm phần lớn tổng kim ngạch nhập khẩu từ Mỹ. Điều này phản ánh đúng định hướng nhập khẩu của ta cũng như định hướng xuất khẩu của Mỹ. Nhóm mặt hàng nguyên nhiên vật liệu cũng chiếm phần kim ngạch đáng kể, chủ yếu là phân bón, bông, sợi, xăng dầu, sắt thép, một số loại hoá chất..., những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được hay sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ. Hàng tiêu dùng, các mặt hàng nông sản thực phẩm... cũng được nhập từ Mỹ nhưng với kim ngạch thấp hơn nhiều.
Như vậy, chỉ trong vòng hơn 5 năm sau khi Mỹ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, quan hệ thương mại giữa hai nước đã có sự thay đổi lớn cả về số lượng và cơ cấu xuất nhập khẩu. Buôn bán giữa hai nước gia tăng nhanh chóng do Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng được miễn thuế vào Mỹ như cà phê, hay các mặt hàng có thuế suất rất thấp như hàng may mặc... Còn Mỹ xuất khẩu nhanh chóng vào thị trường Việt Nam cũng một phần nhờ vào chính sách thương mại mở cửa bình đẳng, không phân biệt đối xử của Việt Nam. Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam chỉ có một loại thuế suất duy nhất đánh vào mỗi loại hàng hoá không phân biệt xuất xứ. Chính vì vậy, Mỹ đã có ngay sự cạnh tranh bình đẳng với các bạn hàng truyền thống của Việt Nam.
2. Lộ trình đi tới Hiệp định Thương mại Việt Mỹ.
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được ký kết là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài và phức tạp. Nguyên nhân cơ bản của quá trình đàm phán lâu dài này là do những khác biệt giữa hai nước về chế độ chính trị, xã hội, cơ chế kinh tế...
Hiệp định đã thể hiện quyết tâm và nỗ lực của cả hai bên trong việc tìm ra một tiếng nói chung đối với vấn đề hợp tác thương mại. Các bên đã trải qua tất cả 11 vòng đàm phán diễn ra tại Hà nội và Washington.
Trong ba vòng đàm phán đầu tiên, các bên chỉ tìm hiểu về cơ chế, chính sách, luật định của nhau. Việt Nam và Mỹ đều đưa ra những thông tin về khung luật pháp có liên quan đến quan hệ thương mại mà các bên cần xem xét và nghiên cứu. Như vậy, cả hai sẽ có điều kiện để hiểu thêm về “luật chơi” của phía đối tác.
Trong các vòng đàm phán từ vòng thứ 4 đến vòng thứ 7, hai bên đã trao đổi tổng thể quan điểm của mình về vấn đề thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ và đầu tư. Những vấn đề nêu lên trong dự thảo Hiệp định phù hợp với GATT năm 1994, trừ một số vấn đề liên quan đến quan hệ song phương và có một số vấn đề cao hơn GATT. Ví dụ như đầu tư không hề dược đề cập tới trong GATT.
Trong vòng đàm phán thứ 8 Việt Nam đã đưa ra một số đề xuất được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc của WTO, đồng thời đưa ra một lộ trình hợp lý để thực hiện các nguyên tắc của WTO trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Vòng 9 là cuộc gặp mặt cấp Bộ trưởng. Hiệp định đã được thoả thuận về mặt nguyên tắc.
Trong vòng đàm phán thứ 10, các bên thảo luận về các vấn đề kỹ thuật. Vòng 11 các bên hoàn tất Hiệp định và đến ngày 13/7/2000 diễn ra lễ ký chính thức Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ.
Một số nội dung quan trọng liên quan đến thương mại được đề cập trong hiệp định:
Thuế: Ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, mỗi bên dành ngay lập tức và vô điều kiện cho hàng hoá có xuất xứ hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bên kia sự đối sử dành cho hàng hoá tương tự từ bất kỳ nước thứ ba nầo khác trong tất cả các vấn đề liên quan tới thuế xuất khẩu hay nnhập khẩu.
Phí:Không bên nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, được quy định bất kỳ một loại thuế hay phí nội địa nào đối với hàng hoá của bên kia nhập khẩu vào lãnh thổ nước mình cao hơn mức áp dụng cho hàng hoá tương tự trong nước.
Các biện pháp phi thuế: Các quy định về kỹ thuật không được soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng để tạo ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại quốc tế. Những quy định này chỉ được đưa ra trong trường hợp :
-Do yêu cầu về an ninh quốc gia.
-Ngăn ngừa những hành vi lừa đảo.
-Bảo vệ sức khoẻ và an toàn cho con người,đời sống và sức khoẻ động thực vật hoặc môi trường.
Quyền kinh doannh :Mỗi bên theo quy định của Hiệp định, phải dành cho công nhân và công ty bên kia quyền sản xuất, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá theo lộ trình mà hai bên đã thoả thuận .
Vấn đề trị giá tính thuế hải quan: Trong vòng hai năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các bên áp dụng hệ thống định giá hải quan trên cơ sở giá giao dịch của hàng nhập khẩu để tính thuế hoặc của hàng hoá tương tự, chứ không dựa vào giá trị của hàng hoá theo nước xuất xứ, hoặc giá trị được xác định một cách võ đoán, không có cơ sở. Giá trị giao dịch ở đây là thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hoá kkhi được xuâts khẩu sang nước nhập khẩu.
Quyền tự vệ trong kinh doanh: Đây là một công cụ quan trọng để bảo vệ thị trường trong nước.Trong trường hợp hàng hoấ nước ngoài ồ ạt và thị trường,giảm giá, bán phá giá hanngf hoá lầm suy sụp nền kinh tế thì mỗi bên có thể đưa ra các biện pháp để tự vệ.
3. Triển vọng quan hệ thương mại hàng hoá Việt-Mỹ sau khi ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
A. Nhu cầu của thị trường Mỹ.
Là một cường quốc về kinh tế với số dân trên 271,8 triệu người, Mỹ là một thị trường khổng lồ và đầy tiềm năng. Chính sách thương mại của Mỹ rất rộng mở, chỉ trừ một số ít mặt hàng có hạn ngạch, còn lại các công ty của Mỹ đều được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng. Chính vì vậy, họ luôn tìm kiếm những cơ hội kinh doanh mới nhằm mở rộng hợp tác kinh tế-thương mại với các quốc gia trên thế giới. Việt Nam, một đất nước có số dân gần 80 triệu người với nguồn lao động rẻ và dồi dào được họ xem như một địa chỉ dừng chân đáng tin cậy.
Xu thế nhập siêu hàng năm của Mỹ ngày càng lớn, chủ yếu là do sự tăng trưởng kinh tế đều qua các năm và sự thay đổi cơ cấu kinh tế của Mỹ.
Có thể thấy Mỹ là một thị trường có dung lượng lớn và đa dạng. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Mỹ gồm máy móc, thiết bị, các mặt hàng công nghiệp, thiết bị vận tải các loại, hoá chất, nông sản và các hàng hoá khác. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Mỹ, hàng tiêu dùng chiếm một vị trí quan trọng, khoảng 20% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Theo dự báo chiến lược của Mỹ, nền kinh tế Mỹ sẽ còn phát triển mạnh trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 3%-4% và xuất nhập khẩu khoảng 5%-10%.
Như vậy, Mỹ là một thị trường lý tưởng cho tất cả các nước trên thế giới, từ các nước phát triển như Châu âu, Nhật Bản đến các nước đang phát triển như ấn Độ, Trung Quốc và các nước nghèo như Campuchia, Banglades đều có thể xuất khẩu hàng vào Mỹ. Theo báo cáo của thương vụ Việt Nam tại Mỹ, hiện Việt Nam đang đứng hàng thứ 76 về tổng kim ngạch buôn bán với Mỹ và đứng thứ 71 trong tổng số 229 nước xuất khẩu vào Mỹ. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng hoá Việt Nam mới chỉ chiếm 0,05% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ, một con số còn rất khiêm tốn.
Chất lượng hàng hoá xuất khẩu vào Mỹ cũng rất linh hoạt, không quá khắt khe như ở Châu âu hay Nhật BảnTuy nhiên, hàng hoá chất lượng cao của các nước này cũng có thể bày bán ở các cửa hàng đắt tiền và trung bình. Đây thực sự là một thuận lợi cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ vừa được ký kết và sắp tới sẽ được phê chuẩn.
B. Dự báo khả năng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong tương lai.
B.1. Triển vọng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ.
Thị trường Mỹ là đích đến của hàng hoá tất cả các nước trên thế giới. Nhiều nước trên thế giới đã tích cực khai thác thị trường này một cách có hiệu quả. Theo dự đoán của các chuyên gia nghiên cứu về thương mại, đến hết năm 2000, tổng kim ngạch Việt-Mỹ có thể lên tới 2 tỷ USD (tăng hơn hai lần năm 1999) trong đó Việt Nam xuất khẩu 1,2 tỷ USD và nhập khẩu 0,8 tỷ USD. Trong những năm tiếp theo, buôn bán giữa Việt Nam và Mỹ sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, đặc biệt là Việt Nam có thể phát huy được thế mạnh của mình trong việc xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực, tận dụng những lợi thế do hiệp định Việt-Mỹ đem lại.
Nhóm hàng nông sản.
* Cà phê, chè, quế, hạt tiêu, gia vị (HS 09).
Đặc điểm của nhóm hàng này là có nhu cầu cao trên thị trường Mỹ và mức thuế nhập khẩu bằng 0 hoặc rất thấp. Ngoài ra, mặt hàng này phụ thuộc vào sản lượng, thời tiết, giá ở Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta có lợi thế là được ưu đãi về khí hậu, diện tích canh tác có thể mở rộng thêm và đặc biệt là chi phí nhân công thấp hơn các nước trong khu vực, một số sản phẩm đạt năng suất cao hơn các nước trong khu vực. Vì vậy, định hướng xuất khẩu các mặt hàng bình quân có thể tăng 15% mỗi năm và tới năm 2010 dự kiến đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 350 triệu USD.
Cà phê (HS 0901). Tổng nhập khẩu của Mỹ đối với các loại cà phê năm 1992 là 1,612 tỷ USD, bình quân mỗi năm tăng 17%. Chỉ có năm 1998 là giảm một chút so với năm 1997, từ 3,726 tỷ USD còn 3,237 tỷ USD. Năm 1999 tăng lên 3,9 tỷ USD. Dự kiến trong vòng 10 năm tới, nhu cầu nhập khẩu của Mỹ sẽ tăng khoảng 10% giá trị mỗi năm.
Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ đạt 89 triệu USD, đứng thứ 7 về giá trị nhập khẩu cà phê vào thị trường Mỹ. Hiện nay Việt Nam đang là nước xuất khẩu nhiều cà phê thứ 4 trên thế giới (chủ yếu là cà phê Robusta và một ít Arabica). Trong vòng 10 năm tới (đến năm 2010), nếu đảm bảo được chất lượng và giá cả cạnh tranh, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ có thể tăng tương đương với mức tăng của nhu cầu thị trường Mỹ và có thể đạt trên 300 triệu USD vào năm 2010. Tuy nhiên, do thị trường Mỹ tiêu thụ chủ yếu là cà phê Arabica nên nếu chương trình trồng cà phê đang tiến hành ở miền Bắc Việt Nam thành công thì cà phê của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường Mỹ.
Chè các loại (HS 0902). Hàng năm Mỹ nhập khẩu các loại chè xanh và đen, trung bình 130 triệu USD mỗi năm, trong đó hơn 80% là chè đen (HS 090240). Hiện nay, mức tiêu thụ chè đen ở Mỹ ngày càng tăng, thay thế dần một phần tiêu thụ cà phê. Hai nước xuất khẩu chè vào Mỹ nhiều nhất là Achentina và Trung Quốc. Năm 1999, Việt Nam xuất khẩu khoảng 1 triệu USD chè vào Mỹ, lọt vào “Top 15” nước xuất khẩu chè đen vào Mỹ.
Trong giai đoạn 2000-2010, Việt Nam có thể tăng đều đặn 20% giá trị mỗi năm do được xuất khẩu trực tiếp mà không phải qua trung gian và có thể đạt tới 3 triệu USD năm 2010.
Quế. Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng trên dưới 30 triệu USD trị giá quế các loại. Năm cao nhất là năm 1996 với giá trị nhập khẩu trên 36,4 triệu USD. Tuy nhiên những năm gần đây, giá trị nhập khẩu đã giảm xuống còn khoảng 26 triệu mỗi năm.
Việt Nam xuất khẩu quế sang thị trường Mỹ từ năm 1994 và đạt mức cao nhất là 878.000 USD vào năm 1996. Năm 1998 giảm 22% còn 596.000 USD và năm 1999 tăng 20% so với năm 1998, đạt khoảng 700.000 USD. Việt Nam đứng hàng thứ ba trong số các nước xuất khẩu quế vào Mỹ. Thứ hạng này khó có thể thay đổi vì hai nước đứng đầu là Indonesia và Sri Lanka có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn rất nhiều lần, còn các nước khác thì có trị giá thấp hơn nhiều. Trong giai đoạn 2000-2010, trị giá xuất khẩu quế của Việt Nam có thể tăng 300%-400%, đạt khoảng trên 3 triệu USD vào năm 2010.
Hạt tiêu (HS 0904). Hàng năm Mỹ nhập khẩu một số lượng lớn hạt tiêu chưa xay và đã xay. Năm 1992, Mỹ nhập khẩu trên 112 triệu USD, bình quân mỗi năm tăng khoảng 28%. Hai nước xuất khẩu hạt tiêu nhiều nhất vào thị trường Mỹ là Indonesia và ấn Độ.
Việt Nam thâm nhập vào thị trường hạt tiêu của Mỹ chậm hơn quế, nhưng từ năm 1997 đã đánh dấu sự tăng nhanh về trị giá xuất khẩu, đạt 2,1 triệu USD. Năm 1998 tăng 71% lên 3,6 triệu USD, năm 1999 đạt khoảng 8 triệu USD, đứng thứ 9 trong số các nước xuất khẩu hạt tiêu vào Mỹ.
Trung Quốc và Tây Ban Nha tuy đứng trên Việt Nam về giá trị xuất khẩu hạt tiêu vào Mỹ nhưng hai nước này lại không có nhiều lợi thế như Việt Nam. Ngoại trừ điều kiện thời tiết, khí hậu thuận lợi thì lợi thế của Việt Nam vẫn là chi phí cho các yếu tố đầu vào như đất đai, nhân công thấp, vì vậy giá thành hạt tiêu của Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Trong những năm tới, khả năng xuất khẩu mặt hàng này sang Mỹ của Việt Nam bình quân hàng năm có thể tăng khoảng 25%-30% và dự kiến đạt tới 30 triệu USD vào năm 2010.
Các mặt hàng gia vị khác (HS 0909, 0910). Giá trị xuất khẩu những mặt hàng này của Việt Nam sang thị trường Mỹ những năm qua chưa nhiều. Cả năm 1998 đạt 33.000 USD, sang năm 1999 có tăng hơn, đạt 150.000 USD.
Trong những năm tới, Việt Nam có thể tăng xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ do ở Mỹ có nhiều người dân gốc Châu á và có nhiều công ty nhỏ của Việt kiều nhập khẩu vào Mỹ. Dự kiến năm 2010 Việt Nam có thể đạt trị giá xuất khẩu 1 triệu USD mặt hàng này vào thị trường Mỹ.
* Gạo. Mỹ là nước nhập khẩu gạo lớn trên thế giới, đồng thời cũng là một nước có lượng gạo xuất khẩu lớn, đứng thứ 4 trên thế giới.
Mặc dù bị tính thuế nhập khẩu, mặt hàng gạo có thể coi là một trong những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế do chính sách nới lỏng của Chính phủ Mỹ. Trước kia, do Việt Nam chưa được hưởng NTR nên gạo nhập vào Mỹ phải chịu một mức thuế là 0,055 USD/kg. Còn bây giờ, Việt Nam sẽ chỉ phải chịu mức thuế suất là 0,021 USD/kg vì đã ký kết được Hiệp định Thương mại với Mỹ. Mức thuế suất đánh vào gạo như vậy là rất thấp, chỉ mang tính chất tham khảo chứ không vì mục đích kinh tế.
Trước năm 1994, Mỹ không nhập khẩu gạo của Việt Nam. Năm 1994, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu 4,51 triệu USD gạo sang thị trường Mỹ với tư cách là nguồn xuất khẩu lớn thứ 3 trong tổng kim ngạch nhập khẩu 103 triệu USD gạo của Mỹ. Đến năm 1998, con số này tăng lên 39 triệu USD. Song cả năm 1999, Việt Nam chỉ xuất được 4,9 triệu USD do chủng loại gạo không thích hợp. Nhưng vì sao Mỹ là một quốc gia tham gia xuất khẩu gạo vào loại lớn trên thế giới lại phải nhập khẩu của Việt Nam? Thực ra, khách hàng Mỹ mua gạo của Việt Nam không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang Châu Phi theo các chương trình viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ và làm môi giới. Qua đó, Việt Nam có thể rút ra hai điểm cần lưu ý sau:
- Việt Nam muốn chiếm được thị trường nhập khẩu gạo của Mỹ thì phải nâng chất lượng gạo lên nữa, đặc biệt chú trọng khai thác gạo đặc sản như tám thơm, nàng hương...
- Mỹ rất chú trọng yếu tố thời gian giao hàng - đây chính là yếu tố cạnh tranh trong các hợp đồng xuất khẩu gạo của Mỹ.
Xét về tiềm năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, theo một chuyên gia phân tích chính sách lương thực thế giới của Hoa Kỳ: “lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có thể lên tới 5 triệu tấn nếu Việt Nam có những chính sách, biện pháp quản lý vĩ mô và vi mô tốt hơn và chú trọng đến tăng sản lượng gạo, vì thế khả năng Việt Nam sẽ trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất là rất có thể”.
Xét về truyền thống xuất khẩu gạo lâu đời thì Việt Nam nằm trong vùng trọng tâm của nền văn minh lúa nước của các nước ASEAN. Cách đây hơn một thế kỷ, gạo Việt Nam đã có mặt trên thị trường thế giới và sản lượng xuất khẩu tăng dần qua các năm.
Xét về mặt lợi thế so sánh, nền sản xuất lúa gạo vẫn là nền sản xuất tạo điều kiện sử dụng nhiều lao động, đất đai nên đây chính là lợi thế của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu gạo.
Xét về mặt kỹ thuật, tập quán canh tác cũng như giống lúa của Việt Nam còn lạc hậu, nghèo nàn và chưa đem lại năng suất cao. Do đó, nếu đầu tư thêm công nghệ sản xuất lúa hiện đại và giống lúa thích hợp với điều kiện của Việt Nam thì tiềm năng sản xuất lúa còn rất lớn, cần phải được khai thác triệt để. Như vậy mới có thể nâng cao năng suất và sản lượng gạo xuất khẩu.
Nhóm hàng hải sản (HS 03).
Mỹ là nước xuất khẩu hải sản lớn nhất trên thế giới, đồng thời cũng là nước nhập khẩu lớn thứ hai sau Nhật Bản. Các loại hải sản xuất khẩu chính của Mỹ là: cá hồi, cua, trứng cá và surimi. Các loại hải sản nhập khẩu chính vào Mỹ gồm: tôm, tôm hùm, sò và cua, trong đó tôm có trị giá lớn nhất, hàng năm Mỹ nhập trên 2 tỷ USD. Vì vậy, đây là thị trường vô cùng rộng lớn và đầy triển vọng đối với ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản của Việt Nam.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hải sản vào thị trường Mỹ từ năm 1994 với trị giá hơn 5,8 triệu USD và tăng dần qua các năm. Đến năm 1998, Việt Nam đứng hàng thứ 19 trong số các nước xuất khẩu hải sản vào Mỹ, đạt 79,5 triệu USD. Đứng đầu là Canada và thứ hai là Thái Lan với tổng kim ngạch vượt trội hơn hẳn. Năm 1999, Việt Nam vươn lên đạt kim ngạch xuất khẩu 125,5 triệu USD và dự kiến năm 2000 sẽ là trên 200 triệu, năm 2001 từ 220 triệu đến 260 triệu khi Hiệp định được thông qua.
Các sản phẩm chính của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là tôm và của đông lạnh, đặc biệt là tôm. Việt Nam hiện đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng các nước xuất khẩu tôm vào thị trường Mỹ nhiều nhất.
Bảng 2: Tỷ trọng tôm các loại trong số các mặt hàng hải sản
Việt Nam xuất sang Mỹ.
Đơn vị: triệu USD
Mặt hàng Việt Nam
Xuất sang Mỹ
1994
1995
1996
1997
1998
1999
5 tháng đầu
năm 2000
Hải sản các loại
5,8
19,6
33,9
46,4
79,5
125,5
76,9
Trong đó tôm các loại
5,1
16,6
28,2
35,3
62,1
91,5
56,0
Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Mặt hàng hải sản nhập khẩu chính vào thị trường Mỹ là tôm các loại. Trong khi đó, đây lại là mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam do Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc nuôi trồng tôm và lại không phải chịu thuế nhập khẩu của Mỹ. Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể hy vọng vào năm 2010 có thể đạt được khoảng 600 triệu USD trị giá hải sản xuất vào Mỹ, tăng gần 5 lần so với năm 1999 và gần bằng mức xuất khẩu của Thái Lan hiện nay.
Hiện nay Việt Nam đang đứng hàng thứ 4 trong nội bộ các nước Đông Nam á về kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Việc Uỷ ban Châu Âu (EC) thuộc Liên minh Châu âu (EU) quyết định đưa Việt Nam vào danh sách các nước xuất khẩu thuỷ sản ngày 16/11/1999 là một trong những nhân tố quan trọng giúp hàng thuỷ sản Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội hơn để xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Ngoài ra, việc Cơ quan quản lý dược phẩm và lương thực Mỹ (FDA) đã cử đoàn cán bộ đến Việt Nam để khảo sát tình hình thực hiện các quy định theo tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh thực phẩm trong Hệ thống HACCP (Hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) tại các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản chính là cơ hội hợp tác của ngành thuỷ sản giữa hai nước, tạo điều kiện xúc tiến xuất khẩu hàng thuỷ sản của ta sang Mỹ.
Tuy nhiên, Mỹ được coi là một trong những thị trường khó tính đối với các nước xuất khẩu, đặc biệt đối với các nước đang phát triển có khí hậu nhiệt đới. Việc xuất khẩu hải sản sang thị trường này phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm của Văn phòng Hải sản (Seafood Office) thuộc FDA. Do vậy, để nâng cao giá trị xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý đến vấn đề này khi tiến hành xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Nhóm các mặt hàng gốm, sứ (HS 69).
Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng 2-3 tỷ USD các mặt hàng này. Do thị trường Mỹ hầu như không sản xuất các mặt hàng này nên nhu cầu nhập khẩu tăng đều mỗi năm, từ 5% đến 7%. Việt Nam chủ yếu xuất sang Mỹ các loại tượng, chậu gốm, sứ (HS 6913) và đồ gốm sứ nghệ thuật (HS 6914). Xuất khẩu của Việt Nam tăng đều đặn qua các năm, từ 40% đến 100% mỗi năm.
Đối với nhóm hàng này, Việt Nam có nhiều lợi thế vì đây là ngành thủ công truyền thống, nhân công rẻ và mẫu mã đẹp, đặc biệt bây giờ sẽ không phải chịu thuế nhập khẩu 56% như trước nữa. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp khó khăn do các mặt hàng giống của Trung Quốc về chủng loại, nhưng chất lượng lại không đều và không đẹp bằng. Vì vậy, nếu tổ chức tốt khâu sản xuất, giám định chất lượng và hạ giá thành sản xuất thì một số chủng loại gốm sứ như chậu cảnh, voi gốm... có khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu lên tới hàng chục triệu USD vào thị trường Mỹ.
Hàng dệt may.
Mỹ là nước luôn đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt và hàng may mặc. Hiện nay, Mỹ phải nhập khẩu khoảng 50-60 tỷ USD loại hàng này, chiếm khoảng hơn 6% tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu á, chiếm trên 50% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ, trong đó Trung Quốc chiếm khoảng 18%, Hồng Kông 12%, các nước ASEAN (chưa kể Việt Nam) chiếm khoảng 15%...
Trong số các mặt hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ, các mặt hàng sau có giá trị lớn nhất.
Bảng 3: Các mặt hàng may mặc chính nhập khẩu vào Mỹ.
Mặt hàng
Năm 1999
(tỷ USD)
6 tháng đầu năm 2000 (tỷ USD)
áo complê, bộ quần áo đồng bộ nữ.
8,71
5,35
áo complê nam, bộ quần áo đồng bộ nam.
6,97
3,84
Sơ mi nam dệt thoi.
3,03
1,62
Sơ mi nữ dệt thoi.
2,28
1,32
áo len, áo ghi lê.
9,46
3,98
T-shirt, may ô.
3,32
1,97
Sơ mi nam dệt kim.
1,88
0,98
Váy lót nữ và pyjams.
1,87
0,87
Nguồn: Textile Asia 9/2000.
Đây là mặt hàng có mức chênh lệch về thuế giữa NTR và phi NTR khá lớn, khoảng 55%. Do đó hàng dệt may Việt Nam xuất sang Mỹ mới chỉ có 8 cat: 331, 338, 340, 435, 438, 444, 636, 644 thuộc hàng may chứ chưa bao gồm hàng dệt. Về hàng dệt, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ một số mặt hàng dệt thoi như găng tay, sơ mi trẻ em, hàng dệt kim như sơ mi trẻ em, sơ mi nam, nữ, găng dệt kim, áo len... Mặc dù nhu cầu mặt hàng này ở Mỹ rất lớn nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được nhiều do trước kia chưa được hưởng NTR cũng như sự khác biệt giữa hai nước về tiêu chuẩn sợi dệt và quy trình lắp ráp sản phẩm.
Năm 1999, trong khi nhiều thị trường phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì thị trường Mỹ khá ổn định và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này đạt 37 triệu USD, tăng 13% so với năm 1998. Tuy nhiên con số này còn quá nhỏ bé so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Ước tính năm 2000, Việt Nam có thể đạt giá trị xuất khẩu lên tới 60 triệu USD.
Mô hình: Dệt may Việt Nam với tay tới Mỹ.
Một trong những đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam là trong vòng 10 năm qua, các công ty Việt Nam chủ yếu làm gia công cho các công ty nước ngoài, lấy công làm lãi. Phần lớn nguyên phụ liệu là các công ty nước ngoài đưa vào do trong nước chưa sản xuất được hoặc chất lượng thấp. Lượng hàng các công ty may xuất khẩu của Việt Nam tự lo nguyên liệu, bán thành phẩm, gọi là bán FOB rất hạn chế. Đây cũng là tình hình chung của các nước như Nam Triều Tiên, Đài Loan, Thái Lan... cách đây hai ba chục năm khi ngành dệt may chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển.
Việc bán các mặt hàng dệt may cho các công ty nước ngoài phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: khả năng sản xuất các loại nguyên phụ liệu, khả năng thiết kế mẫu mã, khả năng tiếp thị phân phối tại nước ngoài, khả năng quan hệ với các kênh phân phối hiện hành tại nước ngoài. Hiện nay mới chỉ có một số công ty như Thành Công, Thắng Lợi đã có sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ nhưng kim ngạch còn rất nhỏ. Mặc dù vậy, kim ngạch hàng dệt may của Việt Nam xuất sang Mỹ đã tăng nhanh hơn nhiều so với các mặt hàng khác.
Việt Nam có nhiều khả năng sản xuất những mặt hàng liên quan đến dừa nhưng sản lượng xuất khẩu những năm qua chưa nhiều mặc dù chênh lệch vể thuế MFN và thuế phi MFN bằng 0% hoặc không phải là lớn.
Bảng 4: So sánh mức thuế MFN và phi MFN.
Mã số HS
Mô tả hàng hoá
Thuế MFN
Thuế phi MFN
57022010
Tấm, thảm trải sàn từ sợi xơ dừa, đã dệt, chưa viền mép, có tuyết.
0%
0%
57022020
Tấm, thảm trải sàn từ sợi xơ dừa, đã dệt, chưa viền mép, không có tuyết.
0%
16%
Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, với lợi thế là nước có lực lượng lao động dồi dào, có tay nghề và chi phí nhân công rẻ nên dệt may là ngành có nhiều khả năng sản xuất và xuất khẩu. Đặc biệt Việt Nam và Mỹ lại vừa ký kết được Hiệp định Thương mại song phương nên khả năng thâm nhập vào thị trường này của Việt Nam từ nay đến năm 2010 có thể đạt tới 1,5 tỷ USD.
Hàng giày dép (HS 64).
Mỹ là thị trường tiêu thụ giày dép lớn thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc, là một thị trường đầy triển vọng và hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu giày dép. Giày dép được tiêu thụ ở Mỹ rất đa dạng và phong phú về chủng loại, mẫu mã. Đặc biệt, nhu cầu về giày dép nữ khá cao, chiếm 50,9% nhu cầu về giày dép trên toàn nước Mỹ.
Theo nghiên cứu của Tạp chí Dịch vụ Thông tin Thương mại thế giới, gần 600 công ty nước ngoài thường xuyên nhập khẩu giày dép vào thị trường Mỹ. Các nước có thị phần lớn trên thị trường giày dép Mỹ là Trung Quốc, Italy, Braxin, Indonesia và Thái Lan với tỷ trọng hiện nay lần lượt là: 69%; 6,2%; 6%; 3,5% và 1,7%.
Đối với việc nhập khẩu giày dép, Mỹ cũng áp dụng chính sách như các mặt hàng khác. Nếu được hưởng quy chế NTR thì thuế suất là 6% và áp dụng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập đối với các nước đang phát triển. Ngược lại, mức thuế suất đánh vào mặt hàng này sẽ từ 27-33% tuỳ theo từng loại.
Lần đầu tiên vào năm 1993-1994, bằng con đường phi mậu dịch, Việt Nam đã bán được vài trăm đôi giày Biti’s sang thị trường Mỹ, trị giá khoảng 1.000 USD. Bước sang năm 1996, Biti’s xuất được 46.000 đôi, trị giá 103.000 USD và tăng dần giá trị xuất khẩu qua các năm. Nhận thấy chưa đủ khả năng cạnh tranh với các đối thủ có nhiều thế mạnh trong việc sản xuất giày dép cao cấp, Biti’s chủ động tìm kiếm những phân đoạn còn được đáp ứng trên thị trường này. Vì vậy, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là giày dép sử dụng trong nhà, trong sinh hoạt hàng ngày và tắm biển.
Những năm trước đây, do chưa được hưởng quy chế NTR nên giá trị xuất khẩu của Việt Nam chưa cao, hàng giày dép Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ chủ yếu là của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Mỹ là nước nhập khẩu giày dép lớn cả về số lượng và giá trị. Hơn nữa, mặt hàng này Việt Nam lại có ưu thế về giá cả rẻ hơn so với các nước khác trong khu vực nên hoàn toàn có cơ sở để hy vọng đạt kim ngạch xuất khẩu giày dép 1,5 tỷ USD sang Mỹ vào năm 2010.
b.2. Triển vọng nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ.
Nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ tăng liên tục trong những năm qua cùng với sự tăng trưởng kinh tế. Có thể thấy các mặt hàng do Mỹ sản xuất đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Song giá cả của các mặt hàng khá cao so với khả năng của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, đối với mặt hàng là máy móc thiết bị, các doanh nghiệp Việt Nam thường nhập khẩu các loại cũ song vẫn đảm bảo khả năng sản xuất. Xét về cơ cấu nhập khẩu các mặt hàng, cơ cấu này cần phù hợp với quy mô và khả năng xuất khẩu thì mới có thể đáp ứng được mục tiêu đổi mới, hiện đại hoá thiết bị, công nghệ, ổn định thị trường, ổn định nền kinh tế và đời sống.
Có thể thấy triển vọng của một số nhóm hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam như sau:
Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị y tế và các loại máy móc chuyên dụng khác.
Đây là những mặt hàng ưu tiên nhập khẩu của Việt Nam. Đa phần các mặt hàng này của Mỹ đã có uy tín rất lớn trên thị trường. Chúng không chỉ thâm nhập nhanh vào Việt Nam mà còn vào cả rất nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Kim ngạch nhập khẩu những mặt hàng này của Việt Nam từ Mỹ mỗi năm chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Đây là một con số khá lớn. Việt Nam không chỉ nhập khẩu những máy móc thiết bị thế hệ mới của Mỹ mà còn nhập một phần lớn là máy móc của thập kỷ 80 vì những máy móc này phù hợp với nền kinh tế Việt Nam cả về công dụng và khả năng thanh toán.
Căn cứ vào nhu cầu trong nước và chủ trương đổi mới công nghệ của Mỹ, có thể thấy kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này từ Mỹ sẽ rất cao, đặc biệt là các loại máy phục vụ sản xuất, các thiết bị vô tuyến điện, viễn thông... Trong thời gian tới, kim ngạch nhập khẩu máy móc, phương tiện vận tải sẽ tăng vọt nếu ta tiếp tục ký các hợp đồng nhập khẩu máy bay của Mỹ. Ngoài ra, việc tăng cường đầu tư và thực hiện các cam kết đầu tư đã có sẽ tạo điều kiện hơn nữa nhập khẩu nhóm hàng này từ Mỹ.
Phân bón.
Đây là mặt hàng nhập khẩu quan trọng đối với nền kinh tế nông nghiệp như nước ta, khi mà hầu hết lượng phân đạm tiêu thụ trong nước phải nhập khẩu, sản xuất phân lâm mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu... Trong những năm vừa qua, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Việt Nam từ Mỹ tăng khá nhanh do đáp ứng được yêu cầu của người nông dân, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, trong vài năm tới, nhập khẩu vẫn là nguồn cung cấp chính mà thị trường cung cấp chủ yếu cho các doanh nghiệp Việt Nam là thị trường Mỹ.
Bông, sợi.
Mỹ là nước có sản lượng bông lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thế giới. Mỹ cũng là một trong số những nước xuất khẩu bông hàng đầu. Thị trường Việt Nam lại có nhu cầu bông, sợi ngày càng tăng do sự tăng trưởng mạnh của ngành dệt may. Với việc nhập khẩu bông sợi từ Mỹ, Việt Nam sẽ đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng cho hàng may mặc xuất khẩu, đặc biệt là xuất sang thị trường Mỹ. Dự báo vào năm 2000-2001, nhu cầu bông xơ của Việt Nam có thể lên tới hơn 200.000 tấn. Vì vậy, Mỹ sẽ là thị trường cung cấp bông đầy triển vọng của Việt Nam trong những năm tới.
Hàng tiêu dùng.
Hàng tiêu dùng của Mỹ nhập vào Việt Nam thời gian qua chủ yếu là do các công ty của Mỹ ở Châu á sản xuất. Tuy nhiên nhà nước lại có xu hướng hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, dưới 20% tổng kim ngạch nhập khẩu. Như vậy, trong thời gian tới, xu hướng nhập khẩu hàng tiêu dùng từ Mỹ của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu tại chỗ của các công ty Mỹ tại Việt Nam.
Tóm lại, cho dù Việt Nam và Mỹ có những chiến lược phát triển kinh tế khác nhau nhưng Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được ký kết sẽ nhanh chóng mở cửa thị trường hai nước cho tất cả các loại hàng hoá từ nông sản, hàng công nghiệp tới các sản phẩm viễn thông. Hiệp định thực sự là kết quả tiếp nối những bước phát triển các năm qua trong quan hệ song phương, mở ra triển vọng mới trên con đường đi tới những lợi ích chung, vượt qua quá khứ, tiến tới tương lai để hoà giải và hợp tác.
Chương III.
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩyquan hệ thương mại với mỹ
1.Một số giải pháp đối với doanh nghiệp .
Quốc tế hoá là xu hướng tất yếu và là một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ quốc gia nào trong quá trình rõ rệt, mà nét nổi bật là nền kinh tế thị trường đang trở thành một sân chơi mới, một thị trường hiện đại mmà các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang tham gia vào. Song để có thể tham gia một cách hiệu quả ta cần phải nắm luật chơi tại thị trường Mỹ.
a)Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ:
Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự nghiệp phát triển của đất nước Nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.tuy là Việt Nam có những nguồn nhân lực dồi dào nhưng trình độ tay nghề thấo, ít thợ lành nghề,tác phong công nghiệp kém, trình độ quản lý kém...kể cả bộ phận có trình độ chuyên môn cao nên khả năng tiếp nhận thông tin, kiến thức còn nhiều hạn chế. Vì vậy trong thời gian tới , nếu không chú trọng đầu tư về con người thì cũng không thể phát huy được tính ưu việt của sản phẩm chứ chưa nói gì đến tiếp cận và mở rộng thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần năng cao trình độ cuă đội ngũ cán bộ, kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề, khả năng tiếp thị.Đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, để thành công phải có các cán bộ ngoại thương lành nghề.
b)Nâng cao hệ thống quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn ISO9000 và HACCP.
Để chiếm lĩnh được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trungmọi nỗ lực để cải tiến chất lượng hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam không còn con đường nào khác là phải tranh thủ sự giúp đỗ về tài chính, kỹ thuật của Nhà nước và quốc tế để đạt được các tiêu chuẩn. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc của thị trường Mỹ. Và tương lai không xa, đây cũng là tiêu chuẩn bắt buộc cho hàng hoá và tất cả các thị trường khác.
Tuy nhiên tính đến nay số doanh nghiệp đạt các tiêu chuẩn còn quá ít so với doanh nghiệp đang hoạt động xuất khẩu nhập khẩu trong đó có các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sang thị trường Mỹ. Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia tổ chức tiêu chuẩn hoá lớn nhất thế giới ISO,tham gia Uỷ ban Tiêu chuẩn hoá thực phẩm doFAO và WTO thành lập . Sắp tới Việt Nam sẽ tham gia Tiểu ban Tiêu chuẩn và chứng nhận sự phù hợp của APEC. Nếu gia nhập WTO,Việt Nam sẽ tham gia Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
Để giúp các doanh nghiệp khắc phục những khó khăn trong việc áp dụng các tiêu chuẩn, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợi tài chính, kỹ thuật cho các doanh nghiệp.
c)Nâng cao kỹ năng đàm phán .
Khi các doanh nghiệp đàm phán với bất kỳ một doanh nhân của quốc gia nào đều phải có những thông tin liên quan đến họ như:kinh tế- chính trị- văn hoá, hệ thống luật pháp...Đặc biệt khi chúng ta làm việc với các doanh nhân Mỹ cần phải hiểu rõ hơn nữa về họ bởi vì văn hoá Mỹ rất phức tạp, người Mỹ là một dân tộc đa văn hoá. Mỹ lại có nhiều tiểu bang ghép lại nên luật lệcủa từng tiểu bang khác nhau nhưng có một đặc điểm nổi bật của người Mỹ trong đàmm phán là đi thẳng vào vấn đề.Ngoài lý do Muốn tiết kiệm thời gian người Mỹ muốn nhanh chóng định đoạt thương vụ.Trong đàm phánhọ thấy đối tác không có khả năng buôn bán thì sẽ chấm dứt ngay để dành thời gian tiếp xúc với đối tác khác.
Các thương nhân của Mỹ thường có những biện pháp giảm bớt rủi ro trong kinh doanh một cách khéo léo để có thể thắng kiện khi có tranh chấp xảy ra.
Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam khi đàm phán với người Mỹ:
*Cần chuẩn bị chu đáo đầy đủ mọi thông tin kèm theo danh thiếp, ảnhcủa doanh nghiệp và của những người lãnh đạo doanh nghiệp, quyển danh mục mặt hàngdịch sang tiếng Mỹ, biểu giá bằng USD, giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm...Trong khi thương lượng phải đưa ra những vấn đề cụ thể, những con số rõ ràng.
*Cần có một luật sư tư vấn am hiểu về luật lệ của Mỹ .
*Người Mỹ rất thẳng thắn nên khi thương lượng phải khai thông ngay vấn đề lợi nhuận, biết nghe, biết đặt câu hỏi cho hợp lý. Người Mỹ lại rất chính xác về giờ giấc,nên có bất kỳ lý do nào trễ cũng phải thông báo cho họ. Điều tất yếu không thể thiếu đố là ngôn ngữ trong cuộc đàm phán phải nói bằng tiếng Anh.
d)Tìm hiểu và nắm vững hệ thống luật Mỹ.
Cũng như trên ta nói Mỹ là một nước có nhiều tiểu bang hợp lại thành nước Mỹ, mỗi một tiểu bang có nhữnh luật lệ riêng áp dụng cho tiểu bang đó.Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định liên quan đến xuất nhập khẩu trong luật kinh doanhcủa Mỹ phần nào giúp các doanh nghiệp Việt Nam có quyết định đungs trong việc hợp tác kinh doanh với các công ty Mỹ sao cho có hiệu quả.Và để tránh những sai lầm do ít am hiểu về luật, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên tìm đến luật sư trong mỗi thương vụ. Sự tư vấn đúng lúc sẽ cứu được hàng triệu USD trong lúc gặp rác rối.
e)Hệ thống cung cấp thông tin.
Hiện nay, khi toàn cầu hoá , khu vực hoá đã trở thành xu thế của nền kinh tế thế giới thì hệ thống cung cấp thông tin cũng trỏ thannhf một vấn đề quan trọng. Khi tham gia vào thị trường Mỹ lại là một thị trường hiện đại có tiềm lực về tầi chính, công nghệ, kinh nghiệm quản lý thì các doanh nghiệp Việt Nam phải có đầy đủ thông tin về họ thì điều tất nhiên phải có một hệ thốngcung cấp thông tin hiện đại . Nhất là về thương mại điện tử-nó đang trở thành một mô hình hoạy động thương nghiệp hoàn toàn mới từ trước tới nay chưa hề có. Nó đang dẫn tới một cuộc cải cách sâu sẳctong lĩnh vực thương mại . Thương mại điện tử mang lại cho các doanh nghiệp những tác dụng như:
-Nó nối trực tiếp giữa người mua và người bán trong bất kể thời gian hay về đạ điểm.
-Tác động lên nhiều mặt của hoạt động kinh doanh:tiếp thị ,bán hàng, khuyến mại,tài chính, bảo hiểm, thanh toán, giao hàng, đặt hàng...
-Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiết kiệm các chi phí dành cho dịch vụ, tăng doanh thu của các doanh nghiệp, giảm giá thành...
-Mang lại những thông tin về giá cả, thị trường thế giới cần được cập nhật, những thông tin về chế độ chính sách, luật pháp cần tìm hiểu để hợp tác với các doanh nghiệp của quốc gia khác.
Mỹ đang tích cực thiết lập một môi trường kinh doanh sao cho thương mại điện tử phát triển nhanh hơn nữa trên phạm vi toàn cầu. Nên các doanh nghiệp Việt Nam không còn cách nào khác phải phải từng buớc tiếp cận với nó.
Tuy nhiên, thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích cho các doânh nghiệp nhưng cũng không kém phần bất lợi đặc biệt đối với các doanh nghiệp Việt Nam . Khitham gia vào hệ thống này trước hết phải có người biết sử dụng, biết ngoại ngữ nhất là tiếng Anh là chủ yếu. Các doanh nghiệp nhanh chóng phải làm quen với hệ thống cung cấp thông tin hiện đại này nhất là phải biết sử dụng các dịch vụ trong các hoạt động kinh doanh, Tham gia tích cực vào việc trao đổi những thông tin trên mạng.
Ngoài sử dụng hệ thống cung cấp thông tin hiện đại các doanh nghiệp vẫn sử dụng những phương pháp thông thường như: sách báo thương mại do các tổ chức quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và cá nhân xuất bản . Các thông tin do bản thân doanh nghiệp thu thập được trên thị trường thông qua trao đổi trực tiêps với các khách hàng nước ngoài(bằng các hình thức quan sát, phỏng vấn, thử nghiêm trên thị trường)...
*Một số biện pháp để nhập khẩu các mặt hàng cần thiết.
Hiện nay, đất nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế do đó mọi thứ cần thiết để xây dựng một nền kinh tế vững chắc vẫn còn thiếu đối với chúng ta. Vì thế, không chỉ chính phủ có các giải pháp nhập khẩu mà từng doanh nghiệp cụ thể trong nước cũng phải có những biện pháp những chiến lược cụ thể cho việc nhập khẩu của doanh nghiệp mình.
Khi muốn nhập khẩu một mặt hàng nào đó các doanh nghiệp phải đưa ra được những yêu cầu để đạt được mục tiêu đặt ra. Nhất là ta phải tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của thị trường trong nước về mặt hàng nhập khẩu để đưa ra những kế hoạch nhập khẩu như:
+Hiện tại thị trường nội địa có nhu cầu về sản phẩm không ? Dung lượng của nhu cầu và triển vọng phát triển của nhu cầu đó trong tương lai.
+ Đối tượng tiêu thụ sản phẩm là ai ?
+ Nhu cầu hiện tại được đáp ứng như thế nào ?
+ Dự kiến mức độ thoả mãn trong tương lai về sản phẩm nhập khẩu ?
+ Tình hình cạnh tranh trên thị trường như thế nào ? Nếu có sự cạnh tranh thì cạnh tranh bằng hình thức gì ?
+ Tính quy luật của sự thay đổi dung lượng nhu cầu ?
+ Dự kiến mức giá bán sản phẩm để đánh giá khả năng cạnh tranh với hàng trong nước và hàng nhập khẩu từ nước khác ?
+ Khả năng có thể thay thế bằng các sản phẩm trong hiện tại và tương lai.
Đặc biệt đối với mặt hàng nhập khẩu về thiết bị, dây truyền chuyển giao công nghệ thì ta phải có những thông tin cần thiết:
-Thông tin về dây chuyền thiết bị công nghệ cần lựa chọn :
Phải trả lời được câu hỏi: Ta cần công nghệ gì ? Những ai có khả năng cung cấp dây chuyền thiết bị công nghệ đó ? Thông tin về bản thân công nnghệ đó ? Các lĩnh vực thông tin liên quan đến bên ta và bên đối tác dự định:
+Lịch sử và kinh nghiệm.
+Địa vị và hiện tại.
+Chiến lược và kế hoạch của hàng.
-Luật quốc gia và quốc tế về vấn đề này.
-Thực hiện các bước chuyển giao.
Sau khi đã mua dây chuyền thiết bị công nghệ có cần phải tiến hành cải tiến hay không ? Nếu như công nghệ đó vượt quá sức đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì các doanh nghiệp có cần phải tìm đến và sử dụng các tổ chức tư vấn hay không?
2. Một số kiến nghị
Việt Nam là một thị trường có tới 80 triệu dân với nguồn lực dồi dào và tích cực . Mặt khác ,Mỹ cũng là một thị trường lớn và hấp dẫn đối vớicác doanh nghiệp trong tương lai . Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, có mức tăng trưởng cao và có nhu cầu lớn về xuất nhập khẩu để phục vụ cho công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Việt Nam đang cần vốn ,công nghệ tiên tiến và kinh nghiệp quản lý của Mỹ.Như vậy, nền kinh tế của hai nước hoàn toàn bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển vì lợi ích chung. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Mỹ trong thời gian qua đã đạt được mức tăng trưởng đáng kể qua các năm. Tổng kim nghạch xuất khẩu đã có bước nhảy vọt, đặc biệt là từ năm 1995 khi Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam .Tuy nhiên, tiềm năng hợp tác giữa hai nước vô cùng to lớn và mới chỉ khai thác một phần nhỏ. Điều quan trọng là cần nhanh chóngtạo ra môi trường thuận lợi nhằm biến tiềm năng này thành hành động thực sự đem lại hiệu quả cao.
Trong công cuộc đổi mới nhằm hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới, làm thế nào để có hiệu quả vào thị trường Mỹ là vấn đề bức xúc không chỉ của các doanh nnghiệp Việt Nam mà còn của cả Chính phủ. Đây là vấn đề đòi hỏi phải có sự kết hợp nỗ lực của cả doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước:
+Để đạt được các mục tiêu đã đề ra,Bộ Thương mại cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tạo các điều kiện cần thiết cho các nghành hàng có triển vọng như dệt may,giày dép, hải sản, sành sứ, mây tre đan, hàng thêu ren... thâm nhập thành công vào thị trường Mỹ.
+Ngoài ra, để hỗ trợ các doanh nghiệp chuẩn bị tốt hành trang khi vào thị trương Mỹ Chính phủ và Bộ Thương mại cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong một số vấn đề:
-Cung cấp thông tin về thị trương như mở website và tiếp cận các nguồn thông tin có giá trị thương mại ở nước ngoài.
-Thành lập các trung tâm triển lãm,trưng bày sản phẩm ở các trung tâm kinh tế lớn của Mỹ cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia, mở thêm văn phòng và chi nhánh thương vụ tại các địa bàn cần thiết.
+Thực hiện cải cách hành chính: Hiện nay cơ chế quản lý của ta vẫn còn chưa có sự thống nhất từ trên xuống dưới. Khi làm với đối tác Việt Nam phải trải qua nhiều thủ tục ruờm rà, những chi phí tốn kém không cần thiết cho nên các nhà sản xuất kinh doanh nói chung và các nhà sản xuất kinh doanh quốc tế cảm thấy nản chí. vì vậy, Nhà nước có những bước cải cách hành chính theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực.
+Hoàn thiện hệ thống luật pháp :Luật pháp của Việt Nam chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhất quán làm cho tâm lý tư tưởng cho các doanh tham gia xuất khẩu sang Việt Nam vẫn còn e ngại nhất là đối với các doanh nghiệp Mỹ. Xét về mặt lý thuyết thì có thể nói những chiến lược, chính sách đung nhưng trong thực tế lại được áp dụng một cách tràn lan, chưa có lộ trình được công bố công khai để các doanh nghiệp phấn đáu thực hiện. Hậu quả là người tiêu dùng phải gánh chịu khi đi mua hàng hoá. Một số nội dung trong chính sách thương mại vẫn chưa rõ ràng ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Nếu chúng ta không có những chủ trương, biện pháp thích hợp, kịp thời thì sẽ bị thua thiệt khi tham gia vào quan hệ thương mại với các nước khác . Vì vậy, , cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, quy định và quản lý thương mại, bảo đảm thực hiện nghiêm minh, hạn chế đến mức thấp nhất những vi phạm pháp luật thương mại .
+Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng đã có cải thiện, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Đó là do thiếu quy hoạch tổng thể, đồng thời những quy hoạch chi tiết cụ thể cho từng bộ phận, từng vùng không được tuân thủ thực hiện nghiêm ngặt nên vốn đầu tư nhiều khi không được sử dụng hoàn toàn theo mục đích ban đầu, chất lượng công trình không đảm bảo, những vùng hoặc lĩnh vực cần được ưu tiên có khi lsị không được thực hiện trước. Chính vì vậy các bước quy hoạch, kế hoạch xây dựng năng cấp cơ sở hạ tầng hiện cần phải có sự kiểm soát,chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ từ trung ương đến địa phương và đến cơ sở thực hiện.
Về phía các doanh nghiệp cần tiếp cận, phân tích, khai thác thông tin, thường xuyên tham gia các cuộc hội thảo khoa học, hội chợ triện lãm để đẩy mạnh tiếp thị, kịp thời nắm bắt thị trường, tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất kinh doanh, tự do tìm kiếm bạn hàng, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu thị trường, không nên ỷ lại vào các cơ quan nhà nước. Các doanh nghiệp cần chủ động chộn thời cơ để phát triển, đa dạng hoá sản phẩm. Nếu năng lực hiện tại chưa đủ để mở rộng sản xuất, các doanh nghiệp cần chủ động tìm đối tác đâù tư thiết bị, công nghệ cho doanh nghiệp với phương thức trả chậm, khấu trừ vào tiền công và bao tiêu sản phẩm.Theo cách này, doanh nghiệp sễ giữ được khách hang, đưa trang thiết bị, công nghệ hiện đại vào sản xuất.
Kết luận.
Trong các hoạt động kinh tế, thương mại, hầu như không có quốc gia nào đứng một mình lại có thể đạt được những thành quả phát triển cao. Sự hình thành các liên kết về kinh tế trên thế giới đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của các Hiệp định Thương mại song phương, khu vực và đa phương. Chính đặc điểm nổi bật này của nền kinh tế thế giới đã làm xuất hiện một xu thế mới là “tự do hoá thương mại”.
Mặc dù bắt đầu chính sách mở cửa không mấy khả quan, lại trải qua hơn ba mươi năm thực hiện chính sách kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp, nên so với các nước khác, Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc hội nhập vào xu thế này.
Tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng của xu thế tự do hoá thương mại, Việt Nam đã và đang tích cực đẩy nhanh quá trình hợp tác về thương mại với các nước thông qua các thoả thuận song phương, khu vực và đa phương. Việt Nam đã đạt được những thành quả đáng kể trong quan hệ thương mại với các nước trên thế giới, đặc biệt là với Mỹ. Việc ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ cũng đồng nghĩa với quyết tâm hội nhập của Việt Nam nhằm đem lại lợi ích cho sự ổn định và phát triển của đất nước.
Bên cạnh những thuận lợi và triển vọng tốt đẹp về khả năng tăng xuất khẩu san thị trường Mỹ, Việt Nam cũng gặp không ít các khó khăn. Mỹ là một thị trường giàu tiềm năng. Thị trường này không chỉ là mối quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam mà còn của rất nhiều doanh nghiệp khác trên thế giới. Bên cạnh đó, những quy định nghiêm ngặt về luật pháp, tập quán tiêu dùng... sẽ ngăn cản những ai yếu bóng vía. Đó chính là những thử thách ban đầu đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực để vượt qua. Đây là nhiệm vụ không của riêng ai. Các doanh nghiệp Việt Nam phải phối hợp với Chính phủ để có thể vượt qua chặng đường chông gai trước mắt này.
Hy vọng rằng, với những cải cách về cơ chế chính sách gần đây của Việt Nam, hai nước sẽ có dịp nhìn nhận lại, hiểu nhau hơn và tìm cho mình nhiều điểm tương đồng hơn nữa, thúc đẩy quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng hơn. Và như vậy, chắc hẳn Việt Nam và Mỹ sẽ là những đối tác thương mại có tầm quan trọng đáng kể trong một tương lai không xa.
Tài liệu tham khảo
I. Sách.
1. “Đôi điều cần biết về nước Mỹ”. Lê Quang Huy. (Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh_2000).
2. “Kinh tế quốc tế”. Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
3.”Kinh doanh quốc tế”. Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
4.”Chính sách kinh tế đối ngoại”. Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
II. Tạp chí.
1. “Châu Mỹ ngày nay”. Các số năm 1999, 2000.
2. “Ngoại thương”. Các số năm 1998, 1999, 2000.
3. “Thông tin kinh kế thương mại ngoại thương”. Các số năm 1999, 2000.
III. Báo.
1. “Nhà báo và công luận” Ngày 1-7/12/2000.
2. “Quốc tế”. Các số từ tháng 8/2000.
3. “Thời báo kinh tế Việt Nam”. Các số tháng 11/2000.
4. “Thương mại”. Các số năm 1999, 2000.
IV. Tài liệu từ các nguồn khác.
1. “Báo cáo của Thươmg vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ năm 2000”.
2. “Các vấn đề chiến lược phát triển của Việt Nam có liên quan đến chính sách thương mại”. Bộ Thương mại.
3. “Chính sách thương mại của Việt Nam và các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới”. Bộ Thương mại.
4. “Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ”. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
5. “Luật Thương mại" năm 1997. Bộ Thương mại.
6. “Những điều cần biết khi nhập khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ”. Vụ xuất nhập khẩu-Bộ Thương mại, năm 1999.
7. “US trade policy toward 21”. Nguồn: Internet
8. “Year-to-date U.S. merchandise trade balance, selected partners in Asia”. Nguồn: Internet
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0148.doc