Đề tài Quản lý biển thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC MỞĐẦU PHẦN THỨ NHẤT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG BIỂN ĐÔNG CHƯƠNG 1. ĐỊA LÝ BIỂN ĐÔNG 1.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ BIỂN ĐÔNG 1.2.2. Các dạng địa hình chủ yếu đáy đại dương 1.2.3. Quá trình hình thành địa hình đáy Biển Đông 1.2.4 Hệ thống đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN BIỂN ĐÔNG 2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀKHÍ HẬU BIỂN ĐÔNG 2.1.1 Điều kiện hình thành chếđộ khí hậu Việt Nam 2.1.2 Chếđộ khí hậu Việt Nam 2.1.3 Miền khí hậu Biển Đông Việt Nam 2.2 CHẾĐỘ HOÀN LƯU LỚP NƯỚC MẶT VÀ CẤU TRÚC KHỐI NƯỚC BIỂN ĐÔNG 2.3 CHẾĐỘ THỦY TRIỀU VÙNG BIỂN VEN BỜ VIỆT NAM 2.3.1 Sự hình thành hiện tượng thủy triều trên vùng biển Việt Nam 2.3.2 Đặc điểm chếđộ thủy triều ven bờ Việt Nam CHƯƠNG 3. TÀI NGUYÊN VÙNG BIỂN VEN BỜ VIỆT NAM 3.1 CÁC HỆ SINH THÁI CƠ BẢN Ở VÙNG BIỂN VEN BỜ VIỆT NAM 3.1.1 Hệ sinh thái rừng ngập m ặn (RNM) 3.1.2 Hệ sinh thái cỏ biển 3.1.3 Hệ sinh thái san hô 3.1.4 Hệ sinh thái nước trồi 3.2. TÀI NGUYÊN VÙNG BIỂN VIỆT NAM 3.2.1 Nguồn lợi sinh vật biển 3.2.2 Tài nguyên giao thông hàng hải 3.2.3 Tài nguyên khoáng sản biển 3.2.4 Tài nguyên du lịch biển CHƯƠNG 4. QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG ĐỚI BỜ 4.1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG 4.1.1. Sựkhai thác quá mức tài nguyên sinh vật biển 4.1.2. Sự can thiệp c ủa con người lên chu trình nước và dòng trầm tích trong các vùng biển ven bờ và vùng ven biển. 4.1.3. Biến đổi khí hậu, những biến đổi toàn cầu và vùng ven biển, vùng biển ven bờ 4.1.4. Sự gia tăng dân số vùng ven biển . 6.4 LUẬT BIỂN VIỆT NAM 6.4.2 Nguồn của luật biển Việt Nam 6.4.3. Các vùng biển Việt Nam PHẦN THỨ BA QUẢN LÝ BIỂN THEO PHÁP LUẬT CHƯƠNG 7. ĐẢM BẢO THI HÀNH PHÁP LUẬT TRÊN BIỂN 7.1. MỤC ĐÍCH VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC ĐẢM BẢO THI HÀNH PHÁP LUẬT TRÊN BIỂN 7.2. PHẠM VI CỦA CÔNG TÁC BẢO ĐẢM THI HÀNH PHÁP LUẬT 7.3. THỰC CHẤT CỦA VIỆC BẢO ĐẢM THI HÀNH PHÁP LUẬT 7.4. ĐẢM BẢO THI HÀNH PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC CỤ THỂ 7.4.1.Đảm bảo thi hành pháp luật trong lĩnh vực nghề cá 7.4.2.Đảm bảo thi hành pháp luật trong lĩnh vực môi trường 7.4.3.Đảm bảo thi hành pháp luật trong lĩnh vực giao thông. 7.5. THỦ TỤC TUẦN TRA KIỂM SOÁT, KHÁM XÉT, BẮT GIỮ VÀ XỬ LÝ TẦU THUYỀN VI PHẠM 7.5.1. Một sốđiểm lưu ý trong qúa trình tuần tra kiểm soát và khám xét 7.5.2. Quyền truy đuổi 7.5.3. Thủ tục bắt giữ tàu thuyền nước ngoài vi phạm 7.5.4. Dẫn giải tàu thuyền vi phạm về căn cứ gần nhất để giao lại cho các cơ quan chức năng xử lý 7.5.5. Bàn giao để xử lý 7.5.6. Xử lý tàu thuyền vi phạm CHƯƠNG 8. NHỮNG VẤN ĐỀ TRANH CHẤP TRÊN BIỂN VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ BIỂN CỦA VIỆT NAM 8.1. VẤN ĐỀ RANH GIỚI CÁC VÙNG BIỂN VÀ THỀM LỤC ĐỊA 8.1.1. Vấn đề ranh giới giữa Việt Nam và Campuchia trong vịnh Thái Lan . 8.1.2. Vấn đề ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và Inđônêxia 8.1.3. Vấn đề ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và Malaixia 8.1.4. Vấn đề ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và Thái Lan 8.1.5. Phân định lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ 8.2. TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA 8.2.1. Với Trung Quốc 8.2.2. Với Philippin 8.2.3. Với Malaixia 8.3. TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TRÊN THỀM LỤC ĐỊA PHÍA NAM VIỆT NAM 8.4. BỐI CẢNH TRANH CHẤP TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ BIỂN 8.4.1. Chính sách quản lý để không gây ra xung đột 8.4.2. Giải quyết các đường biên giới, ranh giới biển 8.4.3. Quản lý tài nguyên 8.4.4. Bảo vệ môi trường 8.4.5. Tìm kiếm, cứu nạn 8.4.6. Tăng cường hợp tác gi ữa các quốc gia có yêu sách biển khác nhau 8.4.7. Quản lý biển trong khu vực quần đảo bị tranh chấp ch ủ quyền 8.5. BIÊN GIỚI QUỐC GIA CHƯƠNG 9. MỘT SỐĐỊNH HƯỚNG QUẢN LÝ THỐNG NHẤT VÙNG BIỂN 9.1. QUẢN LÝ THỐNG NHẤT ĐỚI BỜ (QLTN ĐB 9.1.1 Những nội dung cơ bản trong quản lý thống nhất đới bờ (QLTNĐB) 9.1.2 Xây dựng chính sách và hoạt động quản lý thống nhất đới bờ (QLTNĐB) 9.1.3 Một sốđịnh hướng để xây dựng các hoạt động QLTNĐB 9.1.4. Xuất phát điểm của nhu cầu QLTNĐB 9.1.5. Các bước xây dựng kế hoạch 9.1.6. Việc triển khai thực hiện chương trình 9.1.7. Giám sát, đánh giá và việc đảm bảo thực hiện 9.1.8. Phối hợp ch ương trình QLTNĐB với kế hoạch phát triển của quốc gia và quốc tế 9.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ NỘI DUNG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN VÙNG BIỂN VÀ VEN BIỂN VIỆT NAM 9.2.1 Vị trí của quy hoạch trong công tác kế hoạch hoá 9.2.2. Một số lý luận cơ bản về quy hoạch vùng 9.2.3. Những nội dung chủ yếu của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển và vùng ven biển việt nam đến 2010 TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf205 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý biển thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cư, vấn đề ô nhiễm biển cũng là một vấn đề không có biên giới. Các quốc gia ven biển phải coi đó là một vấn đề có tính chất đa phương ảnh hưởng đến các hoạt động phát triển kinh tế. Chẳng hạn, việc hủy hoại rừng đước ở vùng ven biển của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến sản lượng tôm hay cá ở các bãi đánh bắt ven bờ của quốc gia khác. Cũng tương tự, những nguồn nước trên đất liền cũng cần được quản lý. Việc cùng quản lý giữa các quốc gia liên quan là một vấn đề cần thiết trong lĩnh vực này. 190 Những thỏa thuận quốc tế về môi trường Các công ước và hiệp định quốc tế hiện nay đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc quản lý môi trường. Các tổ chức của Liên hợp quốc đã và đang trợ giúp xây dựng nhiều hiệp định và biên bản hỗ trợ cho việc hợp tác quốc tế, khu vực và song phương giữa các quốc gia ven biển. Chúng bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; Định ước về Nguồn gốc ô nhiễm từ đất liền (1987); Công ước Luân Đôn về Nhận chìm (1972); Công ước MARPOL 73/79 ... Vai trò của các tổ chức nghiên cứu khoa học Các tổ chức nghiên cứu khoa học trong khu vực có thể trợ giúp tư vấn khoa học liên quan đến việc sử dụng và quản lý các tài nguyên biển trong khu vực. Các chương trình khu vực, như Chương trình các vùng biển thuộc các khu vực của UNEP và ADB hiện nay có thể thực hiện các chức năng cung cấp các dịch vụ tư vấn cho các quốc gia ở các khu vực trên thế giới. Trên cơ sở đó, nước ta có thể đóng góp một cách có hiệu quả thông qua việc tham gia vào các chương trình của khu vực và qua đó thu nhận được các thông tin khoa học để định hình các chính sách và xây dựng các chương trình quản lý của mình. 9.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ NỘI DUNG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN VÙNG BIỂN VÀ VEN BIỂN VIỆT NAM Trong thời đại hiện nay, để giải quyết những vấn đề then chốt về lương thực thực phẩm cũng như về nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng... cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại, không còn con đường nào khác là phải kết hợp chặt chẽ giữa khai thác tiềm năng kinh tế của đất liền với tăng cường khai thác các tiềm năng kinh tế của biển. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật trong mấy thập kỷ gần đây đã cho phép loài người có thể khai thác, sử dụng được nhiều loại tài nguyên biển, không chỉ ở khu vực gần bờ mà cả các nguồn tài nguyên phong phú ở thềm lục địa và các vùng biển khơi, kể cả các tài nguyên dưới đáy biển sâu. Thế kỷ thứ 21 sẽ thực sự là "thế kỷ của Biển và Đại dương" như nhiều chiến lược gia trên thế giới đã dự đoán. Việt Nam là một quốc gia biển từ bao đời nay, biển đã gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc Việt Nam và ngày càng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, công tác quản lý phát triển vùng biển và ven biển ở nước ta hiện nay còn nhiều yếu kém cả về nhận thức và trong hành động. Nghị quyết 03 NQ/TƯ ngày 6/5/1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt đã chỉ rõ: "Vị trí và đặc điểm địa lý của nước ta, cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một nước mạnh về kinh tế biển". Thực hiện Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 399 của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua Viện Chiến lược phát triển đã phối hợp với các ngành ở Trung ương và các địa phương có biển xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và các hải đảo của Việt Nam đến năm 2010. Chương này trình bày về một số vấn đề cơ bản về phương pháp luận và nội dung chủ yếu của quy hoạch và quản lý phát triển vùng biển và ven biển Việt Nam, nhằm góp phần từng bước nâng cao năng lực quản lý và phát triển cho đội ngũ cán bộ quản lý biển ở Trung ương và địa phương theo Chỉ thị 171/TTg của Thủ tướng Chính phủ. 9.2.1 Vị trí của quy hoạch trong công tác kế hoạch hoá Trong công tác kế hoạch hoá thì chiến lược, quy hoạch và kế hoạch là ba khâu hết sức quan trọng 191 và có mối quan hệ mật thiết với nhau theo một quy trình thống nhất. Chiến lược là hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu chủ yếu và các định hướng lớn về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các chính sách khai thác, huy động, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực phát triển và các giải pháp chủ yếu để thực hiện. Chiến lược là sự kết hợp giữa định tính với định lượng để đi tới định hướng đúng. Nhưng so với quy hoạch thì chiến lược mang tính chất định tính nhiều hơn là định lượng và có tính linh hoạt cao, cho phép điều chỉnh trong từng bước thực hiện. Về mặt thời gian, chiến lược thường được xây dựng cho thời gian dài hạn, từ 10 đến 20 năm, hoặc xa hơn nữa. Hiện nay Viện Chiến lược Phát triển đang phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam cho giai đoạn đến năm 2010 và Tầm nhìn dài hạn đến năm 2020. Quy hoạch là bước cụ thể hoá của chiến lược cả về mục tiêu phát triển và các giải pháp thực hiện và là cầu nối quan trọng giữa Chiến lược với các kế hoạch phát triển cụ thể (bao gồm các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn). Quy hoạch thể hiện tầm nhìn và bố trí chiến lược về không gian và thời gian (sắp xếp lại giang sơn) để chủ động hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao, bền vững. Trong quy hoạch phải tính toán luận chứng cụ thể các khả năng và phương án phát triển, xử lý các mâu thuẫn để tìm giải pháp tối ưu. Song cần hết sức tránh tư tưởng "duy ý trí", việc xác định mục tiêu quá cao mà không có các giải pháp đảm bảo là phi hiện thực. Như vậy, cũng như chiến lược, quy hoạch chủ yếu vẫn ở giác độ định hướng, tuy mức độ có khác nhau. Việc xây dựng quy hoạch vì thế không được cứng nhắc mà phải linh hoạt, có thể điều chỉnh trong từng bước thực hiện cho phù hợp với điều kiện của thực tế. Thời gian của quy hoạch thường được xây dựng cho thời kỳ từ 10 - 15 năm. Hiện nay, chúng ta đã xây dựng quy hoạch phát triển đối với một số vùng lớn, các vùng kinh tế trọng điểm và hầu hết các ngành, các tỉnh trong cả nước cho giai đoạn đến năm 2010. Kế hoạch là bước cụ thể hoá hơn các mục tiêu, giải pháp để tổ chức thực hiện chiến lược và quy hoạch trong từng bước đi cụ thể. Kế hoạch thường được xây dựng cho các giai đoạn trung hạn và ngắn hạn. Mối quan hệ giữa chiến lược, quy hoạch và kế hoạch trong hệ thống kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân được thể hiện theo sơ đồ sau: Chiến lược =====> Quy hoạch =====> Kế hoạch phát triển 9.2.2. Một số lý luận cơ bản về quy hoạch vùng Khái niệm về vùng và quy hoạch vùng Mấy năm gần đây, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ giao làm đầu mối triển khai công tác quy hoạch trên phạm vi cả nước cho thời kỳ đến năm 2010, bao gồm quy hoạch các vùng kinh tế lớn, các địa bàn kinh tế trọng điểm, một số tuyến trục và dải hành lang kinh tế quan trọng và toàn bộ các tỉnh, thành trong cả nước. Để thực hiện nhiệm vụ trên, Viện Chiến lược phát triển đã tổ chức nghiên cứu một số vấn đề lý luận về vùng và quy hoạch vùng và đã đi đến thống nhất một số khái niệm cơ bản sau: 192 Khái niệm về vùng Vùng, với tư cách là đối tượng của quy hoạch và tổ chức lãnh thổ được hiểu là một bộ phận lãnh thổ thống nhất và liên tục, có sự đồng nhất tương đối về các yếu tố tự nhiên, tài nguyên, môi trường và kinh tế - xã hội. Vùng có ranh giới xác định (có thể mang tính pháp lý hoặc ước lệ), tồn tại và phát triển khách quan trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các bộ phận lãnh thổ khác. Tuy nhiên, việc xác định quy mô và phạm vi ranh giới của vùng lại thường mang tính chủ quan, phụ thuộc vào chủ trương và mục đích yêu cầu phát triển của từng khu vực trong từng giai đoạn nhất định. Tuỳ theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển cụ thể mà người ta xác định quy mô, số lượng vùng, cũng như các khu vực lãnh thổ có ý nghĩa động lực, hoặc những khu vực lãnh thổ còn trì trệ, kém phát triển cần được hỗ trợ để tiến hành quy hoạch. Khái niệm về quy hoạch vùng Quy hoạch vùng là lĩnh vực khoa học về tổ chức và quản lý lãnh thổ đã được hình thành từ cuối thế kỷ thứ XIX và phát triển mạnh từ giữa thế kỷ XX. Quy hoạch vùng được hiểu là nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách hợp lý và có hiệu quả cao. Bảng 16. Đối tượng quy hoạch vùng ở một số nước trong khu vực Nước Đối tượng quy hoạch Trung Quốc - Vùng phát triển: vùng ven biển. - Vùng đối trọng với Hồng Kông (vùng Quảng Đông) - Các đô thị lớn - Các vùng nông thôn (xã hoặc nhiều thôn) Hàn Quốc - Vùng Thủ đô, tỉnh - Các khu vực chịu ảnh hưởng của các thành phố lớn - Vùng duyên hải Đông Nam (đối trọng với Thủ đô) Ấn Độ - Vùng ảnh hưởng đô thị hoá - Các vùng nông nghiệp - Vùng biên giới Singapore - Khu trung tâm của thành phố - Khu vực đô thị hoá - Các khu đảo - Khu vực sát biển (khu công nghiệp sát biển) Các nước ASEAN khác - Các vùng ưu tiên phát triển (có giới hạn) + Các đô thị + Vùng ven biển - Các vùng khó khăn Nhà nước cần hỗ trợ Nội dung của quy hoạch vùng là tìm kiếm một tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển kinh tế - xã hội trong nội bộ một vùng và giữa vùng với các vùng khác trong một quốc gia (có xét đến các yếu tố quốc tế) nhằm sử dụng hợp lý lợi thế so sánh và các nguồn lực (bao gồm các điều kiện tự nhiên, tài nguyên, nguồn nhân lực, nguồn vốn...) để đẩy nhanh quá trình phát triển, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đảm bảo phát triển bền vững. Do quy hoạch vùng có ý nghĩa hết sức to lớn cả về lý luận và thực tiễn, nên hầu hết các nước trên thế giới đều rất quan tâm đến công tác quy hoạch vùng, nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương chính sách và các chương trình phát triển cho cả nước nói chung và cho từng vùng nói 193 riêng. Tuy nhiên đối tượng và mục đích quy hoạch vùng của mỗi nước cũng có những điểm khác nhau. Cụ thể là: * Liên Xô cũ và các nước Đông âu: đối tượng của quy hoạch vùng là hệ thống các vùng kinh tế (gồm các vùng lớn hoặc cực lớn), áp dụng trong nghiên cứu lập Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất. Quy hoạch vùng ở đây tập trung giải quyết các vấn đề sau: - Phân bố hợp lý sức sản xuất, - Đảm bảo tỷ lệ không gian tối ưu, - Hoàn thiện các khu vực quần cư, - Bảo vệ tự nhiên và môi trường sống. * Tại các nước công nghiệp phát triển, đối tượng của quy hoạch vùng trong thời gian đầu là những "cực phát triển" - các trung tâm kinh tế quan trọng (thường là các thành phố lớn) có ảnh hưởng mạnh mẽ về các mặt kinh tế và chính trị trên phạm vi toàn quốc gia, sau này mở rộng ra các vùng lãnh thổ còn trì trệ, kém phát triển và các vùng suy thoái. * Đối với các nước đang phát triển, công tác quy hoạch trong thời gian đầu cũng tập trung vào việc phát triển các địa bàn trọng điểm, các hành lang, các trục tăng trưởng... có khả năng phát huy hiệu quả sớm, nhằm tạo ra "bộ xương" cho nền kinh tế quốc gia, đồng thời có khả năng tạo lực kích thích mạnh các vùng khác tăng trưởng nhanh. Thời gian sau đó tiến tới triển khai quy hoạch phát triển cho các vùng khó khăn, lạc hậu và các vùng nông thôn... Quy hoạch vùng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam Đặc điểm của Việt Nam đối với công tác quy hoạch - Lãnh thổ Việt Nam kéo dài, có sự phân hoá đa dạng theo hướng Bắc - Nam và Đông - Tây, điều kiện tự nhiên phân dị mạnh theo không gian và thời gian... Các nhân tố này có ý nghĩa rất lớn đối với công tác quy hoạch vùng của nước ta. Việt Nam có nhiều dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là chủ yếu. Nền văn minh lúa nước có ảnh hưởng rộng và mạnh mẽ đến sự phát triển. Lịch sử phát triển đất nước đã hình thành các vùng lãnh thổ với những nét khác nhau về cộng đồng dân cư, về tập quán sản xuất và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam đang thực hiện đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong bối cảnh quốc tế hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ đã đặt ra cho nước ta những cơ hội và thử thách to lớn trong quá trình cạnh tranh và hoà nhập, đòi hỏi phải có những khu vực phát triển nhanh để làm đối trọng với các nước láng giềng. - Việt Nam có lợi thế của nước đi sau, có thể tiếp thu và kế thừa những kinh nghiệm thành công và thất bại trong lĩnh vực quy hoạch vùng và phát triển của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Một số điểm chính về quy hoạch vùng ở Việt Nam Thông qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới và thực tiễn triển khai công tác quy hoạch trong cả nước thời gian qua, có thể thống nhất một số điểm chính sau: - Quy hoạch vùng là bản luận chứng khoa học về chủ trương phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức không gian hợp lý nền kinh tế quốc gia (hay bố trí hợp lý kinh tế - xã hội quốc gia theo lãnh thổ) trên cơ sở khai thác sử dụng có hiệu quả các yếu tố và nguồn lực phát triển, đặc biệt là các nguồn lực nội sinh. Nhiệm vụ chủ yếu của quy hoạch vùng là dự báo viễn cảnh dài hạn phát triển vùng và tổ chức hợp lý không gian. - Quy hoạch vùng là một quá trình động, có trọng điểm cho từng thời kỳ. Do vậy trong quy hoạch phải đề cập nhiều phương án (kịch bản) phát triển, phải thường xuyên cập nhật, bổ sung các thông tin 194 và tư liệu cần thiết để có những giải pháp điều chỉnh kịp thời phù hợp với tình hình thực tế. - Trong quá trình nghiên cứu quy hoạch vùng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản: + Kết hợp giữa yêu cầu phát triển với khả năng thực tế có thể được. + Kết hợp giữa những yêu cầu trước mắt và yêu cầu lâu dài, + Kết hợp giữa định tính và định lượng, + Kết hợp giữa phát triển điểm và toàn diện, + Kết hợp giữa phát triển cả hệ thống và từng phân hệ, + Kết hợp giữa các quy luận vận động của tự nhiên và kinh tế xã hội. Nội dung của quy hoạch vùng a) Phân tích, đánh giá và dự báo các nguồn lực phát triển Trong phần nay cần phân tích, đánh giá kỹ và có luận cứ đầy đủ về các yếu tố nguồn lực chính của sự phát triển, bao gồm các nguồn lực nội sinh (vị trí địa lý kinh tế chính trị, các điều kiện tự nhiên, môi trường, các nguồn tài nguyên chính, nguồn nhân lực... trong vùng) và các nguồn lực bên ngoài (bối cảnh quốc tế và khu vực, xu thế phát triển của cả nước và các vùng xung quanh, tình hình thị trường, vốn, công nghệ... là các tác nhân bên ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của vùng), phân tích đánh giá thực rrạng phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Qua đó rút ra những lợi thế so sách cũng như các hạn chế và thách thức chủ yếu của vùng trong quá trình phát triển. Ngoài ra cần dự báo xu thế biển đổi của các nguồn lực trên và khả năng huy động chúng vào quá trình phát triển của vùng trong thời kỳ quy hoạch. b) Thiết kế quy hoạch Đây là nội dung chủ yếu để giải quyết 2 nhiệm vụ cơ bản nêu trên của quy hoạch vùng. Trên cơ sở phân tích đánh giá các nguồn lực phát triển, kết hợp với các định hướng chiến lược của cả nước, tiến hành xây dựng các quan điểm và mục tiêu phát triển của vùng. Lựa chọn và luận chứng các phương án phát triển từng ngành, từng lĩnh vực, luận chứng về tổ chức hợp lý không gian lãnh thổ trong vùng để khai thác tối đa và có hiệu quả các nguồn lực nhằm đạt mục tiêu phát triển. Đặc biệt cần xác định rõ các khu vực trọng điểm, các ngành kinh tế mũi nhọn... để ưu tiên đầu tư phát triển tạo động lực thúc đẩy cả vùng phát triển nhanh. Trong quá trình luận chứng cần tính toán kỹ các điều kiện đảm bảo để thực hiện các phương án phát triển. Đồng thời cũng cần làm rõ các bước đi cụ thể, xác định lựa chọn các công trình và dự án đầu tư cụ thể cho từng thời kỳ. c) Tổ chức thực hiện quy hoạch Vấn đề tổ chức thực hiện là khâu rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc đưa các nội dung của quy hoạch vào cuộc sống. Do vậy để đạt được các mục tiêu quy hoạch đòi hỏi phải nghiên cứu đề xuất các giải pháp và chính sách cụ thể nhằm tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để huy động tối đa các nguồn lực vào phát triển vùng. Ngoài ra cần tổ chức tốt việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện các nội dung quy hoạch theo đúng định hướng quy hoạch đã được phê duyệt. 9.2.3. Những nội dung chủ yếu của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển và vùng ven biển việt nam đến 2010 Khái niệm về vùng biển và ven biển Kinh tế biển là sự kết hợp chặt chẽ giữa các hoạt động kinh tế trên biển và các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển (và có thể vào sâu trong nội địa). Việc phát triển kinh tế biển không thể tách 195 rời phát triển kinh tế vùng ven biển và các hải đảo và ngược lại. Do vậy cần xác định rõ phạm vi vùng biển và ven biển, làm cơ sở cho việc khai quy hoạch. - Vùng biển bao gồm toàn bộ lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của nước ta trên Biển Đông (kể cả vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa) cùng các hải đảo nằm trên đó. Vùng ven biển là vùng chuyển tiếp giữa biển và lục địa, mang tính hỗn tạp cả về tự nhiên, môi trường, sinh thái và giá trị tài nguyên. Vùng ven biển được đặc trưng bởi các quá trình tương tác giữa biển và lục địa, giữa nước mặn và nước ngọt, giữa các hệ sinh thái khác nhau trong vùng. Theo PGS. Nguyễn Chu Hồi, "Vùng ven biển (hay còn gọi là đới bờ biển) là một hệ thống tự nhiên phức tạp, đặc trưng bởi quá trình phát sinh, phát triển, tiến hoá và suy tàn, cũng như có giá trị tài nguyên đặc thù khác hẳn với vùng lục địa và vùng biển lân cận". Phạm vi vùng ven biển, xét theo các yếu tố tự nhiên, gồm các khu vực chịu ảnh hưởng và tác động trực tiếp của các yếu tố biển như: khí hậu thuỷ văn, sóng gió, hải lưu, thuỷ triều, nhiễm mặn, cát bay cát chảy, vùng nuôi nước lợ... Phạm vi ảnh hưởng này có thể khác nhau đối với từng yếu tố và trong từng khu vực. Còn xét theo các yếu tố kinh tế thì tuỳ từng lĩnh vực mà sự tương tác giữa các hoạt động kinh tế trên đất liền có nội dung và phạm vi khác nhau. Do vậy ranh giới vùng ven biển thường mang tính ước lệ, là một "ranh giới mềm", có thể trùng hoặc không trùng với ranh giới hành chính. Việc xác định phạm vi ranh giới của vùng ven biển, tuỳ thuộc vào từng mục đích nghiên cứu khác nhau có những phương pháp khác nhau. Để thuận tiện trong việc thu thập, xử lý và tính toán các số liệu đáp ứng yêu cầu của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển và vùng ven biển trên phạm vi cả nước, phần không gian trên đất liền của vùng ven biển được xác định theo một "ranh giới cứng", gồm địa giới hành chính của toàn bộ các thành phố và các huyện thị giáp biển từ Móng Cái đến Hà Tiên. Căn cứ để xây dựng quy hoạch Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và các hải đảo của Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng dựa trên những căn cứ chủ yếu sau: Đường lối và chính sách đổi mới của Đảng, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 của cả nước, Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 7 về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của các vùng kinh tế trọng điểm (Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ) và các tỉnh có biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Quy hoạch phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng của cả nước đến năm 2000 và 2010. Tình hình kinh tế - xã hội của cả nước và vùng ven biển trong những năm qua, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới. Kết quả nghiên cứu của các chương trình, dự án phát triển của các bộ, ngành và địa phương liên quan. Những yếu tố tác động đến phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cho phép khai thác tổng hợp những tiềm năng và lợi thế của biển. Xu thế đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, sự phát triển năng động của các nước trong khu vực và đường lối mở cửa của ta... đã mở ra khả năng lớn để đẩy mạnh khai thác vị trí địa lý 196 kinh tế của vùng biển và ven biển. Vị trí và vai trò đặc biệt của Biển Đông đối với các nước trong khu vực và một số cường quốc khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc... vừa là yếu tố quan trọng vừa là những thách thức lớn trong chiến lược phát triển và bảo vệ của Việt Nam. Công cuộc đổi mới của nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng về nhiều mặt, tạo tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển và khai thác, quản lý và làm chủ vùng biển đảo của Tổ quốc. Các nguồn lực phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Vị trí địa lý của vùng biển, ven biển và các hải đảo là một lợi thế đặc biệt quan trọng. Nằm trên các tuyến hàng hải huyết mạch thông thương trong trong khu vực chây á - Thái Bình Dương, vùng biển Việt Nam là chiếc "cầu nối" cực kỳ quan trọng để mở rộng giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới. Vùng ven biển trải dài hơn 3.260 km là địa bàn rất thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển với tốc độ nhanh. Dầu khí là tài nguyên mũi nhọn, có ưu thế nổi trội nhất của biển với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi, cho phép khai thác khoảng 20 triệu tấn dầu (quy đổi) vào năm 2000 và từ 30 - 35 triệu tấn dầu cùng hàng chục tỷ mét khối khí vào năm 2010. Điều kiện thuận lợi của vùng ven biển cho phép hình thành một số cảng biển lớn hiện đại cỡ quốc tế cùng với đội tàu vận tải biển hùng hậu là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ gắn với cảng, phục vụ cả kinh tế và quốc phòng. Tài nguyên du lịch gồm hơn 100 bãi biển đẹp thuận lợi cho phát triển du lịch, trong đó khoảng 20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế, cũng là một ưu thế đặc biệt, cho phép hình thành một số quần thể du lịch - thể thao - nghỉ dưỡng biển hiện đại trong khu vực. Tài nguyên hải sản tương đối phong phú và đa dạng là thế mạnh đặc trưng của biển. Riêng khu vực độ sâu dưới 200 mét nước có trữ lượng khoảng 3 triệu tấn, cho phép khai thác hàng năm từ 1,2 đến 1,4 triệu tấn cá, 60 - 70 ngàn tấn tôm, 30 - 40 ngàn tấn mực và hàng trăm ngàn tấn đặc sản khác... tạo nguồn hàng xuất khẩu quan trọng. Nguồn lợi vùng biển khơi chưa được đánh giá đầy đủ nhưng cũng có triển vọng khá. Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản gồm hơn 30 vạn ha bãi triều và 50 vạn ha đầm phá, eo vịnh, là môi trường rất thuận lợi để phát triển mạnh nghề nuôi trồng ven biển và biển của nước ta trong tương lai. Tài nguyên khoáng sản (ngoài dầu khí) gồm: than, sắt, titan, cát thuỷ tinh, đá vôi, đá xây dựng, muối và các hoá phẩm từ nước biển... cũng là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế vùng ven biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nguồn nhân lực dồi dào của vùng ven biển cùng với tiềm năng trí tuệ là một nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế biển và vùng ven biển trong tương lai. 9.2.3.5. Hiện trạng phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Những năm gần đây, kinh tế biển và vùng ven biển đã đạt được nhiều thành tự to lớn, tạo tiền đề quan trọng cho phát triển. Năm 1996, GDP vùng ven biển chiếm 27,8% GDP cả nước, đạt tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1991 - 1996 hơn 11 %/năm (trung bình cả nước là 9,3%), trong đó công nghiệp tăng 15%, nông lâm nghiệp tăng hơn 5% và dịch vụ tăng 11,5%/năm. Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, từng bước hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn. Ngành dầu khí tuy mới ra đời đã mau chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Sản lượng dầu thô 197 khai thác tăng bình quân 23,4%/năm. Năm 1997, đạt sản lượng 9,8 triệu tấn, xuất khẩu gần 1,7 tỷ USD, chiếm 20% giá trị xuất khẩu cả nước. Đã sử dụng khí cho phát điện (hơn 1 triệu mét khối/ngày). Nhà máy lọc dầu công suất 6,5 triệu tấn/năm đang được chuẩn bị xây dựng. Ngành hải sản có bước phát triển khá, đạt tốc độ tăng trưởng 12,6%/năm. Đặc biệt xuất khẩu hải sản tăng mạnh (16-18%/năm). Năm 1997, đạt sản lượng khai thác 900 ngàn tấn, xuất khẩu 760 triệu USD. Song do công nghệ đánh bắt lạc hậu nên khu vực gần bờ đã bị khai thác quá mức, gây tổn hại lớn đến nguồn lợi. Chế biến hải sản được chú trọng đầu tư phát triển cả về chất lượng và chủng loại. Nghề nuôi trồng hải sản phát triển mạnh trên suốt dải ven biển cả nước. Ngành hàng hải phát triển chậm hơn. Dọc bờ biển đã hình thành 73 hải cảng lớn nhỏ với tổng công suất 35 tr.T/năm, nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật cũ, lạc hậu, luồng lạch bị sa bồi, đội tàu nhỏ và cũ... không đáp ứng được yêu cầu lớn về mở cửa cạnh tranh và hội nhập. Du lịch vùng ven biển phát triển nhanh, đạt tốc độ 18-20%/năm, riêng doanh thu ngoại tệ tăng 25%/năm. Cùng với sự gia tăng nhanh của lượng khách du lịch, một số bãi tắm và khu du lịch biển đang được cải tạo và mở rộng. Nhiều khách sạn hiện đại tiêu chuẩn quốc tế đã và đang được xây dựng dọc ven biển trên cơ sở hợp tác liên doanh với nước ngoài. Các ngành công nghiệp ven biển phát triển mạnh với tốc độ trên 15%/năm (cả nước là 13%/năm). Dọc ven biển đã hình thành 18 khu công nghiệp tập trung, hàng năm tạo ra 70% GTSL và thu hút hơn 50% lao động công nghiệp toàn vùng. Một số khu công nghiệp mới, khu chế xuất đã và đang được xây dựng. Đã hình thành một số ngành công nghiệp mới ven biển như: luyện cán thép, lắp ráp điện tử... Riêng ngành cơ khí tầu biển có nhiều ưu thế nhưng phát triển chậm, chỉ có thể đóng mới tầu đến 3.000 tấn (chủ yếu đóng vỏ tàu) và sửa chữa tàu đến 12.000 tấn, năm 2004 chúng ta đã có thể đóng được tàu vận tải trên 3 vạn tấn. Sản xuất nông lâm nghiệp cũng có chuyển biến rõ rệt, đạt tốc độ tăng trưởng 5%/năm. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Đặc biệt chăn nuôi tăng nhanh (12%/năm) và ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Song nhìn chung, sản xuất nông nghiệp vẫn ở trình độ thấp. Chưa hình thành các vùng nguyên liệu lớn, ổn định cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu, ở một số vùng nông thôn ven biển, nhất là trên các đảo, sản xuất còn mang nặng tính độc canh, tự cung tự cấp, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Nghề muối có vị trí quan trọng đối với một số khu vực ven biển và giữ ổn định ở mức 600-650 ngàn tấn/năm. Song do công nghệ hoàn toàn thủ công nên chất lượng thấp, chưa đạt yêu cầu của sản xuất công nghiệp. Kinh tế đối ngoại vùng ven biển gần đây phát triển nhanh. Năm 1996 xuất khẩu trực tiếp của vùng đạt hơn 3 tỷ USD (chưa kể các ngành dịch vụ thu ngoại tệ khác), chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn ODA tăng mạnh. Đến hết 1996, vùng biển và ven biển đã thu hút 38% vốn FDI và 56% vốn ODA của cả nước. Mặc dù đạt nhiều kết quả, nhưng nhìn chung kinh tế biển và ven biển còn nhỏ bé. Kỹ thuật - công nghệ khai thác biển nhiều mặt còn lạc hậu. Kết cấu hạ tầng ven biển yếu kém gây trở ngại lớn cho phát triển nhanh và thu hút đầu tư bên ngoài. Công tác điều tra cơ bản và khoa học - công nghệ biển còn nhiều hạn chế, thiếu các dữ liệu tin cậy để hoạch định chiến lược khai thác biển lâu dài. Công tác quản lý biển còn nhiều yếu kém cả về pháp chế, kỷ cương và năng lực cán bộ... Tuy nhiên, về cơ bản vùng biển và ven biển vẫn có nhiều lợi thế so sánh hơn hẳn các vùng khác trong nội địa, là nơi hội tụ của nhiều yếu tố quan trọng để phát triển nhanh trong thời gian tới. 198 Một số định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và các hải đảo của Việt Nam Các mục tiêu cơ bản Phát triển nhanh kinh tế biển và vùng ven biển làm động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế cả nước, đồng thời góp phần tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển - đảo. Xây dựng vùng biển và ven biển thành vùng kinh tế phát triển năng động, có sức lan toả và thu hút mạnh các vùng khác trong nội địa, đồng thời là địa bàn thuận lợi để đẩy mạnh giao lưu, cạnh tranh và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế biển và vùng ven biển (khoảng 12%/năm giai đoạn 1997 - 2000 và 13-14%/năm giai đoạn 2001 - 2010), đến năm 2010 đạt GDP bình quân đầu người cao gấp 1,5 - 2 lần mức bình quân cả nước. Cơ cấu kinh tế được chuyển biến cơ bản theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công nghiệp và xây dựng chiếm 50-51%, nông lâm nghiệp chiếm 9-10% và dịch vụ chiếm 39-40% tổng GDP của vùng. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố an ninh quốc phòng, tạo thế và lực mạnh để bảo vệ và làm chủ toàn diện vùng biển của Tổ quốc. Kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường đảm bảo phát triển bền vững. Định hướng phát triển đến năm 2010 Khai thác triệt để lợi thế đặc biệt của biển, vùng ven biển để mở rộng giao lưu, cạnh tranh và hội nhập với thế giới * Đầu tư xây dựng một số cảng biển lớn làm đầu mối giao lưu và trung chuyển quốc tế trong khu vực, đồng thời tạo những "mũi tên mạnh" của cả vùng lục địa rộng lớn quanh bán đảo Đông Dương để mở ra Biển Đông, hội nhập mạnh với các nước trong khu vực và thế giới. Xây dựng cảng Bến Đình - Sao Mai (40 - 50 triệu tấn/năm) liên kết với các cảng Vũng Tàu - Thị Vải, cảng dịch vụ dầu khí tạo thành một cụm cảng tổng hợp, một trung tâm thương mại và trung chuyển quốc tế của cả khu vực và làm đầu ra cho tuyến đường xuyên á phía Nam. Xây dựng đồng bộ cụm cảng đà Nẵng - Liên Chiểu - Chân Mây (khoảng 15 triệu tấn/năm) thành cụm cảng trung chuyển quốc tế chính cho khu vực miền Trung, vừa làm chức năng mở cửa cho cả vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, vừa làm đầu ra cho hành lang Đông - Tây, nối Đông Bắc Thái Lan với Lào qua đường 9 ra cụm cảng miền Trung Việt Nam. Phát triển nhanh cụm cảng Hải Phòng - Quảng Ninh. Xem xét xây dựng một cảng trung chuyển quốc tế trong khu vực, làm cửa mở ra biển cho cả miền Bắc và về lâu dài làm đầu ra cho tuyến đường xuyên á phía Bắc: Vân Nam và Tây Nam Trung Quốc - Hải Phòng. * Tận dụng lợi thế cửa mở của vùng ven biển và hải đảo để hình thành và phát triển một số đặc khu kinh tế (hoặc khu thương mại tự do) nhằm thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, từng bước hình thành các trung tâm giao dịch và hội nhập chính của cả nước. Trước mắt có thể xây dựng đặc khu kinh tế ở Móng Cái, Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc và một số địa bàn ở khu vực Huế - Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu... gắn với các khu cảng trung chuyển và dịch vụ quốc tế. Xây dựng hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ, thông thoáng và khuyến khích mạnh mẽ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi và hấp dẫn đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài. * Phát triển mạnh kinh tế đối ngoại (hướng vào các ngành kinh tế chủ chốt như: dầu khí, điện, luyện kim, cơ khí tàu biển, hoá chất, các khu chế xuất, khu công nghiệp và các công trình hạ tầng quan trọng...) nhằm tăng cường cạnh tranh, hội nhập. Lấy xuất khẩu làm đòn bẩy và động lực chủ yếu để 199 phát triển kinh tế của vùng và cả nước. Mở rộng hợp tác đầu tư để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Xây dựng một số trung tâm kinh tế biển mạnh (chủ yếu tại ba vùng kinh tế trọng điểm) làm đầu tầu lôi kéo vùng ven biển và cả nước, đồng thời làm bàn đạp vững chắc để tiến ra khai thác biển khơi Tổ chức sắp xếp lại hệ thống đô thị ven biển, hình thành một mạng lưới hợp lý các "cực thu hút" và các "tuyến lực" để gắn kết và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng. Hình thành một số Trung tâm kinh tế biển mạnh làm đầu tầu lôi kéo các vùng ngoại vi và làm bàn đạp vững chắc để tiến ra khai thác biển khơi. Cụ thể là: Xây dựng khu vực Hải Phòng - Hạ Long thành một trung tâm kinh tế biển mạnh của cả nước ở phía Bắc, làm nhiệm vụ đối ứng cạnh tranh với khu vực ven biển cực Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Tập trung phát triển mạnh cảng biển làm trung tâm gắn kết và thúc đẩy các ngành khác, tạo cho khu vực có bước phát triển nhảy vọt (16-17%/năm), sớm trở thành một "cực phát triển" lớn của cả nước ở phía Bắc. Xây dựng khu vực Đà Nẵng - Huế thành trung tâm kinh tế biển của vùng Trung Bộ để thúc đẩy khai thác vùng khơi Biển Đông, kết hợp với bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển, nhất là các vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa. Các ngành ưu tiên phát triển ở đây gồm: cảng biển, sân bay và công nghiệp gắn với cảng, công nghiệp chế tác xuất khẩu, khai thác chế biển hải sản, du lịch và dịch vụ... Trong đó cảng và công nghiệp gắn với cảng được chọn làm khâu đột phá chính để thúc đẩy các ngành khác. Tổ chức, sắp xếp lại hợp lý thành phố Vũng Tàu để phát triển thành trung tâm kinh tế biển lớn và hiện đại của cả nước ở phía Nam với chức năng chính là công nghiệp và dịch vụ tổng hợp biển, trong đó khai thác và chế biến dầu khí, cảng và công nghiệp gắn với cảng, du lịch và dịch vụ... là các khâu đột phá quan trọng. Xây dựng Rạch Giá thành trung tâm nghề cá lớn và hiện đại của cả nước, đồng thời làm căn cứ vững chắc để đẩy mạnh khai thác toàn diện vùng biển Tây Nam của Tổ quốc. Hướng chủ yếu ở đây là phát triển công nghiệp và dịch vụ nghề cá làm trọng tâm và từng bước phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ khác. Cùng với các trung tâm kinh tế biển nêu trên, quy hoạch phát triển hợp lý hệ thống đô thị cấp tỉnh từ Móng Cái đến Hà Tiên và các thị trấn, thị tứ, hình thành một hệ thống đô thị dọc ven biển liên kết với nhau, có sức hút và lan toả mạnh trên toàn dải ven biển và với các vùng phía trong. Tổ chức hợp lý không gian kinh tế ven biển, tạo sự phát triển năng động, làm động lực mạnh thu hút và thúc đẩy các vùng khác trong cả nước * Tận dụng lợi thế gần cảng và đầu mối giao thông, tập trung tổ chức hợp lý không gian công nghiệp ven biển nhằm tạo "bộ xương"kinh tế của vùng. Hình thành và phát triển nhanh các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung (gần 50 khu) với quy mô thích hợp, tạo môi trường thuận lợi thu hút vốn và công nghệ hiện đại để phát triển nhanh. * Hình thành các tuyến hành lang kinh tế ven biển phát triển nhanh, năng động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng nông thôn. Phát triển tuyến kinh tế ven biển Hạ Long - Móng Cái trong mối gắn kết chặt chẽ với các vùng nông thôn miền núi phía trong, từng bước xây dựng tuyến Hạ Long - Móng Cái thành một hành lang kinh tế phát triển mạnh để làm tuyến trục quan trọng đối ứng với phía Trung Quốc. Phát triển mạnh tuyến kinh tế ven biển miền Trung, mà nòng cốt là hành lang Quốc lộ 1, đường sắt xuyên Việt và các trung tâm đô thị gắn với cảng biển, đưa tuyến kinh tế này có mức tăng trưởng 200 cao để thu hút và thúc đẩy kinh tế cả vùng Trung Bộ và Tây Nguyên. Phát triển tuyến kinh tế ven biển Bạc Liêu - Cà Mau - Năm Căn gắn với trục quốc lộ 1A và các thị xã, trị trấn ven biển. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông hải sản xuất khẩu dọc theo tuyến, từng bước hình thành một dải công nghiệp - dịch vụ dọc ven biển gắn kết với sự phát triển nông, ngư nghiệp trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phát triển tuyến kinh tế ven biển Rạch Giá - Hà Tiên với các ngành mũi nhọn là khai thác chế biến hải sản, công nghiệp xi măng, vật liệu xây dựng và du lịch dịch vụ... hình thành một tuyến kinh tế quan trọng ở phía Tây Nam Tổ quốc làm động lực thúc đẩy sự phát triển các khu vực khác trong vùng. Phát triển các tuyến kinh tế dọc đường 10 (Ninh Bình - Hải Phòng), tuyến Thanh Hoá - Sầm Sơn, Vinh - Cửa Lò - Bến Thuỷ, Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình, Phan Thiết - Hàm Tân, Cần Thơ - Sóc Trăng... Đồng thời rất coi trọng hỗ trợ sự phát triển của các khu vực còn nhiều khó khăn chậm phát triển, nhất là các vùng bãi ngang, cồn cát... xoá đói giảm nghèo và tiến dần lên theo xu thế phát triển chung của vùng biển. * Tổ chức các tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây nối các cửa biển với các vùng phía trong, tạo các "tuyến động lực phát triển", các "sợi dây liên kết" để lan toả và gắn kết chặt chẽ vùng ven biển với các vùng nội địa phía trong. Các tuyến kinh tế Đông - Tây quan trọng dự kiến phát triển gồm: tuyến hành lang kinh tế dọc đường 18, dọc đường 5, đường 8, và các đường 9, 14B, 24, 19, 25, 26 và 51... Phát triển kinh tế vùng biển khơi Vùng biển khơi (phần ngoài lãnh hải) rộng khoảng 90 vạn km2, chiếm 26% diện tích Biển Đông, là bộ phận cấu thành cực kỳ quan trọng của đất nước. Các nước quanh Biển Đông đang ra sức khai thác tài nguyên và tranh giành quyền lợi trên Biển Đông, đặc biệt là đối với hai khu vực Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, việc khai thác Biển Đông, trước hết là khai thác các vùng biển khơi của Tổ quốc cần đặt thành vấn đề quan trọng và cấp bách. Cần xây dựng một chiến lược tổng thể quốc gia về khai thác, bảo vệ và làm chủ toàn diện các vùng biển của Tổ quốc. Các lĩnh vực chủ yếu về khai thác biển khơi trong giai đoạn đến năm 2010 là: Đầu tư phát triển nhanh năng lực đánh bắt hải sản xa bờ (bao gồm cả phương tiện, thiết bị, tổ chức và nguồn lao động kỹ thuật...) kết hợp với bảo vệ an ninh quốc phòng trên biển, nhất là các khu vực khơi Vịnh Bắc Bộ, khơi Vịnh Thái Lan và khu vực Trường Sa - Tư Chính... Đẩy mạnh công tác điều tra nguồn lợi nhằm đánh giá rõ ràng tiềm năng hải sản của vùng khơi, tiến tới sau năm 2005 có khả năng dự báo các bãi cá và luồng di chuyển cá để có kế hoạch điều động thuyền nghề và định hướng đầu tư phát triển. Mở rộng các hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ra các vùng khơi Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan và khu vực Trường Sa - Tư Chính. Chú trọng liên doanh với các công ty lớn của thế giới tiến hành thăm dò và khai thác ở các khu vực đang bị nước ngoài tranh chấp. Phát triển đội tàu viễn dương mạnh, kể cả đội tàu chuyên dùng (tàu container, tàu chở dầu...) và đội tàu tổng hợp để sớm tham gia cạnh tranh, hội nhập với xu thế phát triển của khu vực và góp phần làm chủ toàn diện các vùng biển khơi. Phát triển kinh tế hải đảo Vùng biển Việt Nam có gần 3.000 đảo lớn nhỏ, là ưu thế đặc thù về phát triển kinh tế biển và an ninh quốc phòng. Do vậy, cần phát triển mạnh kinh tế hải đảo, xây dựng một vành đai "các đảo sống", có kinh tế phát triển đa dạng và làm phòng tuyến vững chắc bảo vệ chủ quyền các vùng biển - đảo. Hướng phát triển chủ yếu của kinh tế hải đải là: 201 Trọng tâm là phát triển khai thác và hậu cần dịch vụ nghề cá, phát triển hợp lý du lịch sinh thái nghỉ dưỡng phù hợp với điều kiện và khả năng của từng đảo. Ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các công trình thiết yếu như cầu cảng, mạng lưới giao thông trên đảo, thông tin liên lạc, điện, nước,... và các công trình y tế, giáo dục, văn hoá - xã hội khác, tạo sức hút và điều kiện cần thiết để đưa dân ra định cư phát triển kinh tế đảo ổn định lâu dài. Quy hoạch phát triển một số đảo quan trọng như Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc và một số đảo khác thành các đặc khu kinh tế (hoặc khu mậu dịch tự do) để thu hút mạnh đầu tư và hội nhập, sớm trở thành những đảo giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, làm căn cứ vững chắc để thúc đẩy kinh tế biển phát triển và là đầu mối quan trọng để gắn kinh tế biển - đảo với kinh tế đất liền. Trong đó ưu tiên phát triển các lĩnh vực mũi nhọn là du lịch, dịch vụ tổng hợp cao cấp, cảng thương mại, khai thác và dịch vụ nghề cá xa bờ. Phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn * Ngành dầu khí Dầu khí là ngành kinh tế biển mũi nhọn, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần được đầu tư phát triển mạnh và toàn diện (trên 20%/năm) theo hướng từng bước tự chủ về năng lượng và tăng khả năng tự lực phát triển. Đến năm 2000 đạt sản lượng khai thác 20 triệu tấn dầu quy đổi và năm 2010 khoảng 40 triệu tấn (trong đó có 6 - 7 tỷ mét khối khí), đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và xuất khẩu. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến dầu khí. Triển khai xây dựng nhà máy lọc dầu 6,5 triệu tấn/năm tại Dung Quất và một số cơ sở hoá dầu ở phía Nam trước năm 2000. Sau năm 2000 xây dựng thêm một số nhà máy lọc dầu khác và đồng bộ các công trình hoá dầu như: sản xuất chất dẻo, phân đạm, sợi tổng hợp, cao su tổng hợp, sản xuất các hoá chất cơ bản... làm tiền đề phát triển cho các giai đoạn tiếp theo. Phát triển đồng bộ và vững chắc công nghiệp chế biến khí, trong đó giai đoạn đầu tập trung cho phát điện, sau năm 2000 chuyển mạnh sang phát triển các ngành chế biến khí công nghệ cao. * Ngành hải sản Đầu tư toàn diện để phát triển nhanh hơn ngành thuỷ hải sản (13-14%/năm), lấy kinh tế thuỷ sản làm trung gian gắn kết với nông lâm nghiệp và các ngành khác để tạo bước phát triển năng động, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống dân cư. Đổi mới cơ cấu ngành hải sản theo hướng tăng nhanh tỷ trọng chế biến, phát triển khai thác biển khơi, mở rộng nuôi trồng và đẩy mạnh xuất khẩu. - Về khai thác: Uu tiên phát triển khai thác vùng khơi kết hợp với bảo vệ chủ quyền, an ninh chính trị và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Xây dựng các đội tàu lớn, hiện đại và các trung tâm nghề cá mạnh dọc ven biển và trên các đảo làm chỗ dựa cho ngư dân phát triển khai thác xa bờ. Nâng cấp và xây dựng mới các bến cá nhân dân, hình thành các làng cá văn minh, hiện đại dọc ven biển và trên một số hải đảo. Tổ chức sắp xếp hợp lý nghề cá ven bờ. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển khai thác với bảo vệ và làm giàu nguồn lợi. - Về nuôi trồng: Đẩy mạnh nuôi trồng hải sản ven biển theo hướng cải tiến kỹ thuật, mở rộng nuôi thâm canh và nửa thâm canh. Xây dựng các mô hình nuôi bền vững về môi trường và có hiệu quả, phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái và từng loại hình mặt nước. Phát triển nuôi cá và đặc sản ở biển theo hướng công nghiệp, từng bước đưa ngành nuôi trồng biển nước ta trở thành một ngành kinh tế mạnh và hiện đại. - Về chế biến: Ưu tiên phát triển đồng bộ và hiện đại công nghiệp chế biến hải sản, tăng nhanh 202 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lên 1 tỷ USD vào năm 2000 và 2,5 đến 3 tỷ USD vào năm 2010, tiếp tục giữ vị trí mũi nhọn trong kinh tế biển. Phát triển rộng rãi các hình thức chế biến nội địa nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của toàn xã hội, đồng thời nâng cao giá trị sản phẩm và giải quyết lao động cho vùng ven biển. * Ngành vận tải biển Phát triển toàn diện hệ thống cảng biển, đội tàu, công nghiệp đóng mới, sửa chữa tàu biển và dịch vụ hàng hải, xây dựng ngành vận tải biển Việt Nam mạnh và hiện đại, tạo tiền đề tiến nhanh ra đại dương, đồng thời hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. - Phát triển mạnh và hiện đại hệ thống cảng biển quốc gia, lấy phát triển cảng làm yếu tố liên kết và động lực chính thúc đẩy kinh tế biển và kinh tế của cả nước. Nâng tổng công suất cảng biển nước ta từ 35 tr.T, hiện nay lên 80 tr.T năm 2000 và 235-250 tr.T năm 2010 (sau năm 2010 có thể đạt trên 500 tr.T). Chú trọng xây dựng một số cảng nước sâu và cảng trung chuyển quốc tế ở các vùng kinh tế trọng điểm, tạo các cửa mở lớn và làm đầu mối giao lưu quốc tế chính của cả nước, đồng thời có sức hấp dẫn các địa bàn khác của các nước lân cận. + Cụm cảng phía Bắc: Tổng công suất khoảng 24 r.T năm 2000 và 60-70 tr.T năm 2010. Trọng tâm là cụm cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân, cảng Nghi Sơn, cảng Vũng áng. + Cụm cảng phía Nam: Tổng công suất cảng trong khu vực năm 2000 dự báo từ 24 đến 25 tr.T và năm 2010 nâng lên 90-100 tr.T, trong đó trọng tâm là cụm cảng Sài Gòn, Vũng Tàu - Thị Vải, Bến Đình - Sao Mai. + Cụm cảng miền Trung: Tổng công suất năm 2000 khoảng 10-12 tr.T và năm 2010 từ 40-50 tr.T, trong đó các cảng quan trọng là: cụm cảng Đà Nẵng - Liên Chiểu, Chân Mây, Dung Quất và Quy Nhơn. - Phát triển đội tàu biển quốc gia mạnh và hiện đại, có cơ cấu phù hợp, đủ sức cạnh tranh với các đội tàu trong khu vực. Phấn đấu năm 2010 có đội tàu biển trọng tải khoảng 6 tr. DWT (trong đó tàu viễn dương chiếm 80%) đảm bảo vận chuyển 100% nhu cầu vận tải biển hàng nội địa và 50% lượng hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam, đồng thời tham gia tích cực vào thị trường thuê tàu thế giới. Trước mắt, tập trung trẻ hoá và hiện đại hoá đội tàu hiện có. Phát triển nhanh đội tàu chở côngtenơ, tàu chở dầu. - Tạo bước phát triển lớn trong ngành đóng tàu Việt Nam trên cơ sở kết hợp tự lực với hợp tác với bên ngoài. Hình thành 3 cụm cơ khí tàu biển mạnh ở 3 miền: phía Bắc (trung tâm là Hải Phòng, Quảng Ninh); phía Nam (trung tâm là Vũng Tàu) và miền Trung (trung tâm là Đà Nẵng) để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về đóng mới và sửa chữa tàu biển các loại phục vụ cho kinh tế và quốc phòng. - Phát triển toàn diện các dịch vụ hàng hải, bao gồm: hệ thống hậu cần và dịch vụ ở cảng, dịch vụ trên bờ, hệ thống rađa, đèn biển, phao tiêu, trục vớt, cứu hộ... đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và quốc phòng. * Ngành du lịch biển Phát triển du lịch biển vè ven biển thành ngành kinh tế mạnh, có tốc độ phát triển nhanh (từ 16- 18%/năm), góp phần tích cực đưa ngành du lịch Việt Nam thành mũi nhọn, sớm hội nhập với khu vực và thế giới. Hình thành các trung tâm du lịch - thể thao - giải trí lớn ven biển kết hợp với hội chợ, hội nghị, hội thảo quốc tế tại các khu vực trọng điểm như: Hạ Long - Cát Bà - Đồ Sơn; Huế - Đà Nẵng; Văn Phong - Nha Trang - Ninh Chữ; Long Hải - Vũng Tàu - Côn Đảo và Hà Tiên - Phú Quốc. Xây dựng 203 Móng Cái - Trà Cổ thành đầu mối thu hút khách du lịch khu vực Nam Trung Quốc. Phát triển các tuyến du lịch tổng hợp dọc ven biển, trên biển và ra các đảo. Mở rộng các loại hình du lịch đặc trưng và có ưu thế của biển và ven biển như du lịch sinh thái, thể thao - nghỉ dưỡng,... Phát triển đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng phục vụ du lịch cùng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành du lịch. Phấn đấu nâng mức thu từ khách du lịch quốc tế từ 50 USD/ngày hiện nay lên 100 USD/ngày vào năm 2000 và khoảng 150-200 USD/ngày vào năm 2010. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững vùng biển và ven biển Để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững vùng biển và ven biển, các vấn đề tài nguyên, môi trường phải được xem xét một cách toàn diện cả về kỹ thuật cũng như về chủ trương chính sách. Tiến hành đánh giá thực trạng về suy thoái và ô nhiễm vùng biển và ven biển để đề xuất những biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và ven biển trong quá trình lập và thực thi kế hoạch. Ban hành các chính sách cụ thể về bảo vệ môi trường như: chính sách thuế môi trường, các quy định về xử phạt, bồi thường,... Tổ chức kiểm tra, đánh giá tác động môi trường đối với tất cả các dự án phát triển. Xây dựng các lực lượng và phương tiện đủ mạnh để ngăn ngừa và ứng cứu kịp thời các sự cố môi trường trên biển. Thiết lập một hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên biển và ven biển. Đẩy mạnh công tác giáo dục môi trường trong toàn thể các cộng đồng dân cư ven biển. Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố an ninh quốc phòng Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố an ninh quốc phòng, tạo sức mạnh làm đối trọng chống lại sự uy hiêp, lấn lướt của các nước lớn, tạo thể và lực cho việc giải quyết hoà bình các tranh chấp trên biển. Đối với các ngành kinh tế biển: phải kết hợp chặt chẽ với quốc phòng an ninh ngay trong quy hoạch phát triển và bố trí trên từng địa bàn cụ thể, đảm bảo các vị trí chiến lược của quốc phòng để sẵn sàng cơ động trong mọi tình huống. Mọi hoạt động khai thác biển phải quán triệt và thể hiện đầy đủ các yêu cầu về bảo vệ chủ quyền quốc gia, lấy phát triển kinh tế làm nguồn lực cơ bản để tăng cường củng cố an ninh quốc phòng và làm chủ toàn diện các vùng biển - đảo. Đối với các lực lượng vũ trang: cần kết hợp tốt giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc phòng với tích cực tham gia phát triển kinh tế biển, làm chỗ dựa vững chắc cho các ngành khai thác biển có điều kiện tiến ra khơi xa. Xây dựng các doanh nghiệp quốc phòng mạnh mang tên dân sự tại các vùng biển trọng yếu (khu vực Trường Sa, vùng biển Đông Bắc và Tây Nam), để kết hợp khai thác biển với trực tiếp bảo vệ an ninh quốc phòng, khi cần thiết có thể chuyển nhanh sang chiến đấu. Khẩn trương xây dựng lực lượng Cảnh sát biển, trước mắt ở khu vực biển Tây Nam là khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp trong công tác quản lý và khai thác vùng biển, ven biển và các hải đảo.Trên đây là một số nội dung cơ bản của định hướng quy hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển đến năm 2010. Trong quá trình quản lý và phát triển các lĩnh vực về biển và ven biển, các ngành và địa phương có liên quan cần tiến hành quy hoạch chi tiết cho từng khu vực, đồng thời xây dựng các kế hoạch và dự án phát triển cụ thể, phù hợp với những định hướng chung của phương án quy hoạch tổng thể. 204 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Đức An Báo cáo tổng kết đề tài KT.03.12 "Đánh giá điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và kinh tế xã hội hệ thống đảo ven bờ Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội biển", Hà Nội, 1995. 2. Bảo tồn đa dạng sinh học vùng ven biển Việt Nam. Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội thảo về bảo tồn đa dạng sinh học vùng ven biển Việt Nam. Hà Nội. 4-6/11/1997. 3. Các công trình nghiên cứu vùng nước trồi mạnh Nam Trung Bộ, NXB KH&KT, Hà Nội, 1997. 4. Công ước về Luật biển 1982, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. 5. Phan Nguyên Hồng Rừng ngập mặn Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1999. 6. Nguyễn Chu Hồi Đánh giá môi trường nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam và đề xuất giải pháp quản lý (phần 2), Hà Nội 2004 7. Lê Như Lai. Biển Đông, T.1 - Khái quát về Biển Đông, NXBĐHQGHN, Hà Nội 2004 8. Vũ Trung Tạng. Các hệ sinh thái cửa sông, Hà Nội 1997 9. Lê Đức Tố. Quản lý biển (bài giảng), ĐHKHTN, Hà Nội 1998 10. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc Khí hậu Việt Nam, NXB KH&KT, Hà Nội 1993 11. Nguyễn Ngọc Thuỵ, Thuỷ triều Biển Đông, NXB KH&KT, Hà Nội 1990 12. Quản lý đới bờ, kinh nghiệm và thực tế ở Việt Nam. Cục bảo vệ môi trường, Hà Nội, 2003 13. Phú Quốc, Bản đồ hành chính thương mại - du lịch Phú Quốc, NXB Bản đồ , 2004 14. Wyrtki K. Phisical Oceanography of the Southeast Asian WWater by Klaus Wyrtki, NAGA Report, Vol. 2, 1961 15. The Encyclopedia of oceanography. Edited by Rhodes W. New York, 1966 16. A Global representative system of marine pretected areas. Vol III. G. Kelleher, C. Bleakley, 1995 17. Guideline for Establishing marine protected areas. A marine conservation and development report. Graeme Kelleher and Richard Kenchingo, 1991.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc.pdf
Tài liệu liên quan