Việc các doanh nghiệp Việt Nam dần nâng cao năng lực cạnh tranh là một dấu hiệu đáng mừng và cần phải phát huy. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng các doanh nghiệp của nước ta vẫn còn nhiều yếu kém và cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để có thể phát huy tối đa sức mạnh và ưu thế của mình.
49 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý có chất lượng, là quản lý toàn bộ quá trình sản xuất – kinh doanh.
- Tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm đối với phát triển kinh tế, đời sống của người dân và sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Với nền kinh tế quốc dân, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tiết kiệm được lao động xã hội do sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên, sức lao động, công cụ lao động, tiền vốn…Nâng cao chất lượng có ý nghĩa tương tự như tăng sản lượng mà lại tiết kiệm được lao động. Trên ý nghĩa đó nâng cao chất lượng cũng có ý nghĩa là tăng năng suất.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng tới tăng năng suất xã hội, thực hiện tiến bộ khoa học công nghệ, tiết kiệm.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là tư liệu tiêu dùng có quan hệ trực tiếp tới đời sống và sự tín nhiệm, lòng tin của khách hàng. Chất lượng sản phẩm xuất khẩu tác động mạnh mẽ tới hoàn thiện cơ cấu và tăng kim ngạch xuất khẩu, thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu.
+ Với người tiêu dùng, đảm bảo và nâng cao chất lượng sẽ thoả mãn được các yêu cầu của người tiêu dùng, sẽ tiết kiệm cho người tiêu dùng và góp phần cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sẽ tạo lòng tin và tạo ra sự ủng hộ của người tiêu dùng với người sản xuất do đó sẽ góp phần phát triển sản xuất – kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt. Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp được quyết định do các yếu tố sau:
- Cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp có phù hợp với yêu cầu của thị trường hay không?
- Chất lượng sản phẩm dịch vụ như thế nào?
- Giá cả của sản phẩm dịch vụ cao hay thấp?
- Thời gian giao hàng nhanh hay chậm?
Khi đời sống của người dân được nâng lên và sức mua của họ được nâng cao, tiến bộ khoa học – công nghệ được tăng cường thì chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh.
Sản phẩm có khả năng cạnh tranh mới bán được, doanh nghiệp mới có lợi nhuận và mới tiếp tục sản xuất kinh doanh.
Do vậy, chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Tầm quan trọng của quản lý chất lượng ngày càng được nâng lên, do đó phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý chất lượng và đổi mới không ngừng công tác quản lý chất lượng. Nó là trách nhiệm của các cấp quản lý, trước hết là của doanh nghiệp, mà người chịu trách nhiệm chính là giám đốc doanh nghiệp.
3.Các nguyên tắc trong quản lý chất lượng sản phẩm
Để cho việc quản lý chất lượng có hiệu quả và có phương pháp quản lý chất lượng tối ưu thì cần phải nghiên cứu và tuân theo các nguyên tắc trong quản lý chất lượng sản phẩm.
Theo cách phân tích của tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000:2000 các nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm bao gồm nội dung sau Trích trong tài liệu giới thiệu chung Quản lý chất lượng theo ISO 9000 của Trung tâm đào tạo thuộc tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng trang 9-10.
:
Nguyên tắc 1: Định hướng bởi khách hàng.
Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình vì vậy cần hiểu các nhu cầu hiện tại cũng như tương lai của khách hàng để không chỉ đáp ứng mà còn phấn đấu vượt cao hơn sự mong đợi của họ.
Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo.
Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối của doanh nghiệp. Lãnh đạo cần duy trì môi trường nội bộ trong doanh nghiệp để lôi cuốn mọi người làm việc đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người.
Con người là nguồn lực quan trọng của một doanh nghiệp và sự tham gia đầy đủ với những hiểu biết, kinh nghiệm của họ rất có ích cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc 4: Quan điểm quá trình.
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách có hiệu quả khi các nguồn và các hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình.
Nguyên tắc 5: Tính hệ thống.
Nguyên tắc này cho biết việc xác định, hiểu biết và quản lý chất lượng sản phẩm các quá trình có liên quan tới nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc 6: Tính cải tiến liên tục.
Cải tiến liên tục là mốc tiến liên tục, là mục tiêu, đồng thời cũng là phương pháp của mọi doanh nghiệp. Muốn có được khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng sản phẩm cao nhất doanh nghiệp phải liên tục cải tiến.
Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện.
Mọi quyết định và hoạt động của hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả khi được xây dựng dựa trên việc phân tích dữ liệu và thông tin.
Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng.
Doanh nghiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ tương hỗ cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
4. Các phương pháp quản lý chất lượng
Một số phương pháp sau đây được áp dụng trong quản lý chất lượng .
4.1 Phương pháp kiểm tra chất lượng
Một phương pháp đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với quy định là kiểm tra các sản phẩm và chi tiết bộ phận nhằm sàng lọc và loại ra bất cứ bộ phận chi tiết nào không đảm bảo tiêu chuẩn hay quy cách kỹ thuật. Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ nhất mở đầu vào những năm cuối thế kỷ XVII, các chức năng kiểm tra và sản xuất đã được tách riêng, các nhân viên kiểm tra được đào tạo và thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo chất lượng sản phẩm xuất xưởng phù hợp với quy định. Như vậy, kiểm tra chất lượng là hình thức quản lý chất lượng sớm nhất.
Sau khi hệ thống Taylor và hệ thống Ford được áp dụng vào đầu thế kỷ XX và việc sản xuất với khối lượng lớn đã trở nên phát triển rộng rãi, khách hàng bắt đầu yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và sự cạnh tranh giữa các cơ sở sản xuất về chất lượng càng ngày càng gay gắt thì các nhà công nghiệp dần dần nhận ra rằng kiểm tra 100% không phải là cách đảm bảo chất lượng tốt nhất, kiểm tra chất lượng là hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm, định cỡ một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính. Như vậy, kiểm tra chỉ là một sự phân loại sản phẩm đã được chế tạo, đây là cách sử lý chuyện đã rồi. Điều đó có nghĩa là chất lượng không được tạo dựng nên qua kiểm tra. Ngoài ra, để đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp quy định một cách có hiệu quả bằng cách kiểm tra sàng lọc 100% sản phẩm, cần phải thoả mãn những điều kiện sau:
+ Công việc kiểm tra cần được tiến hành một cách đáng tin cậy và không có sai sót.
+ Chi phí cho sự kiểm tra phải ít hơn phí tổn do sản phẩm khuyết tật và những thiệt hại do ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng.
+ Quá trình kiểm tra không được ảnh hưởng đến chất lượng.
Những điều kiện trên không phải thực hiện dễ dàng ngay cả với công nghiệp hiện đại. Ngoài ra, sản phẩm phù hợp quy định cũng chưa chắc đã thoả mãn nhu cầu thị trường, nếu như các quy định không phản ánh đúng nhu cầu.
Vì những lý do này, vào những năm 1920 người ta đã bắt đầu chú trọng đến việc đảm bảo ổn định chất lượng trong những quá trình trước đó, hơn là đợi đến khâu cuối cùng mới tiến hành sàng lọc 100% sản phẩm. Khi đó khái niệm kiểm soát chất lượng (Quality Control – QC) đã ra đời.
4.2 Kiểm soát chất lượng và kiểm soát chất lượng toàn diện
Walter A.Shewhart, một kỹ sư thuộc phòng thí nghiệm Bell Telephone tại Princeton, Newjersey (Mỹ) là người đầu tiên đề xuất việc sử dụng các biểu đồ kiểm soát vào việc quản lý các quá trình công nghiệp và được coi là mốc ra đời của hệ thống kiểm soát chất lượng hiện đại.
Kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng.
Để kiểm soát chất lượng, công ty phải kiểm soát được mọi yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình tạo ra chất lượng. Việc kiểm soát này nhằm ngăn ngừa sản xuất ra sản phẩm khuyết tật. Nói chung kiểm soát chất lượng là kiểm soát các yếu tố sau đây:
- Kiểm soát con người.
- phương pháp và quá trình.
- Đầu vào.
- Thiết bị.
- Môi trường.
Quality Control ra đời tại Mỹ, các phương pháp này được áp dụng mạnh mẽ trong lĩnh vực quân sự và không được các công ty Mỹ phát huy sau chiến tranh. Trái lại, chính tại Nhật Bản, việc kiểm soát chất lượng mới được áp dụng và phát triển. Trong thập kỷ áp dụng đầu tiên vào cuối những năm 1940 tại Nhật Bản, các kỹ thuật kiểm soát chất lượng thống kê (SQC) chỉ được áp dụng rất hạn chế trong một số khu vực sản xuất và kiểm nghiệm. Để đạt được mục tiêu chính của quản lý chất lượng là thoả mãn người tiêu dùng, thì đó chưa phải là điều kiện đủ, nó đòi hỏi không chỉ áp dụng các phương pháp này vào các quá trình xảy ra trước quá trình sản xuất và kiểm tra, như khảo sát thị trường, nghiên cứu, lập kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng mà còn phải áp dụng cho các quá trình xảy ra sau đó như đóng gói, lưu kho, vận chuyển, phân phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng. Từ đó khái niệm quản lý chất lượng toàn diện ra đời.
Thuật ngữ kiểm soát chất lượng toàn diện do Feigenbum đưa ra trong lần xuất bản cuốn sách Total Quality Control (TQC) của ông năm 1951. Trong lần tái bản lần thứ ba năm 1983, Feigenbaum định nghĩa TQC như sau: Kiểm soát chất lượng toàn diện là một hệ thống có hiệu quả để nhất thể hoá các nỗ lực phát triển và cải tiến chất lượng của các nhóm khác nhau vào trong một tổ chức sao cho các hoạt động Marketing, kỹ thuật và dịch vụ có thể tiến hành một cách kinh tế nhất, cho phép thoả mãn hoàn toàn khách hàng.
Kiểm soát chất lượng toàn diện huy động nỗ lực của mọi đơn vị trong công ty vào các quá trình có liên quan tới duy trì và cải tiến chất lượng. Điều này sẽ giúp tiết kiệm tối đa trong sản xuất, dịch vụ, đồng thời thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Như vậy, giữa kiểm tra và kiểm soát chất lượng có khác nhau. Kiểm tra là sự so sánh, đối chiếu giữa chất lượng thực tế của sản phẩm với những yêu cầu kỹ thuật, từ đó loại bỏ các phế phẩm. Kiểm soát là hoạt động bao quát hơn, toàn diện hơn. Nó bao gồm toàn bộ các hoạt động Marketing, thiết kế, sản xuất, so sánh, đánh giá chất lượng và dịch vụ sau bán hàng, tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
4.3 Đảm bảo chất lượng
Chất lượng phải hướng tới sự thoả mãn khách hàng. Tuy nhiên cũng phải đến sau Chiến tranh thế giới thứ II do tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt, vị trí của khách hàng mới được quan tâm. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa khách hàng và nhà cung ứng được đẩy mạnh.
Nói chung khách hàng đến với nhà cung cấp để xây dựng các hợp đồng mua bán là dựa trên hai yếu tố, giá cả (bao gồm cả giá mua, chi phí sử dụng, giá bán lại sau khi sử dụng…) và sự tín nhiệm đối với người cung cấp.
Làm thế nào để có được sự tín nhiệm của khách hàng về mặt chất lượng, thậm chí khi khách hàng chưa nhận được sản phẩm. Trong một thời kỳ dài trong nửa đầu thế kỷ XX người mua hàng sau khi ký kết hợp đồng xong chỉ còn cách phó mặc cho nhà sản xuất tự lo liệu, cho tới khi nhận hàng. Họ không thể biết được những gì sẽ diễn biến ra tại cơ sở của người cung cấp. Điều đó diễn ra cho tới chiến tranh thế giới II, khi đòi hỏi có độ tin cậy cao trong cung cấp vũ khí và sau này đối với một số sản phẩm khác có độ nguy hiểm cao thì vấn đề này mới thực sự được quan tâm.
Khách hàng cũng đã có một số giải pháp như cử giám định viên đến cơ sở sản xuất để kiểm tra một số khâu quan trọng trong quá trình sản xuất. Nhưng điều đó vẫn không đủ, vì còn yếu tố khác ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Khái niệm đảm bảo chất lượng ra đời. Đảm bảo chất lượng là mọi hoạt động có kế hoạch, có hệ thống và được khẳng định nếu cần để đem lại lòng tin thoả đáng sản phẩm thoả mãn cãc yêu cầu đã định đối với chất lượng.
Để có thể đảm bảo chất lượng theo nghĩa trên, người cung cấp phải xây dựng một hệ thống đảm bảo chất lượng có hiệu lực và hiệu quả, đồng thời làm thế nào để chứng tỏ cho khách hàng biết được điều đó. Đó chính là nội dung cơ bản của hoạt động đảm bảo chất lượng.
Quan điểm đảm bảo chất lượng được áp dụng đầu tiên trong những ngành công nghiệp đòi hỏi có độ tin cậy cao, sau đó phát triển rộng sang ngành sản xuất bình thường và ngày nay bao gồm cả lĩnh vực cung cấp dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bệnh viện…
4.4 Quản lý chất lượng toàn diện
Trong những năm gần đây, sự ra đời của nhiều kỹ thuật quản lý mới, góp phần nâng cao hoạt động quản lý chất lượng, như hệ thống “vừa đúng lúc” (Just in time) đã là cơ sở cho lý thuyết quản lý chất lượng toàn diện TQM. Quản lý chất lượng toàn diện được nảy sinh từ các nước phương Tây với tên tuổi của Deming, Crosby và Juran.
Mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thoả mãn khách hàng ở mức tốt nhất cho phép. Đặc điểm nổi bật nhất của TQM so với phương pháp quản lý chất lượng trước đây là nó cung cấp một hệ thống toàn diện cho công tác quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia của mọi bộ phận và mọi cá nhân để đạt được mục tiêu chất lượng đã đề ra.
Các đặc điểm của TQM trong quá trình triển khai thực tế hiện nay tại các công ty có thể được tóm tắt như sau:
- Chất lượng định hướng bởi khách hàng.
- Vai trò lãnh đạo trong công ty.
- Cải tiến chất lượng liên tục.
- Tính nhất thể và tính hệ thống.
- Sự tham gia của mọi cấp, mọi bộ phận, mọi nhân viên.
- Coi trọng con người.
- Sử dụng các phương pháp tư duy khoa học như kỹ thuật thống kê.
ISO 9000 là bộ phận tiêu chuẩn quốc tế được tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Organization for Standarddization – ISO) ban hành năm 1987.
Quản lý chất lượng theo ISO 9000 là coi trọng việc xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn (quốc tế, quốc gia, ngành, cơ sở…) nhằm đảm bảo, nâng cao chất lượng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc áp dụng ISO 9000, nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã phấn đấu để đạt được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000.
ISO 9000 là một bộ phận hợp thành của TQM. ISO 9000 và TQM là hai hệ thống quản lý chất lượng về thực chất cùng áp dụng phương pháp quản lý chất lượng toàn diện. Một doanh nghiệp có thể áp dụng hoặc ISO 9000 hoặc TQM hoặc cả hai hệ thống tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Một công ty nếu không có áp lực của sự sống còn là phải áp dụng ISO 9000 thì họ có thể không cần áp dụng. Nhưng TQM thì lại khác, đó là phương pháp quản trị hàng ngày để không ngừng cải tiến chất lượng mà bất kỳ công ty nào cũng cần và có thể áp dụng. Nếu doanh nghiệp đã được chứng nhận ISO 9000 rồi thì lại càng thuận lợi cho việc áp dụng TQM.
5. Công tác quản lý chất lượng sản phẩm
5.1 Xây dựng chính sách chất lượng
Nhà lãnh đạo cao cấp sẽ phải thiết lập chính sách chất lượng của doanh nghiệp mình, vì chính sách chất lượng cần thiết cho các hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp. Chính sách chất lượng là bằng chứng về đường lối định hướng phát triển của doanh nghiệp và việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm trong toàn doanh nghiệp. Chính sách chất lượng cũng thể hiện sự cam kết của lãnh đạo trong việc cải tiến hệ thống quản lý chất lượng để sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng phù hợp hơn với thị hiếu người tiêu dùng. Vì vậy, xây dựng chính sách chất lượng cần căn cứ vào định hướng phát triển doanh nghiệp. Chính sách chất lượng còn là cơ sở cho mục tiêu chất lượng.
5.2 Xây dựng mục tiêu chất lượng
Dựa vào chính sách chất lượng của doanh nghiệp mình để xác định mục tiêu chất lượng . Mục tiêu chất lượng bao gồm mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn. Mục tiêu dài hạn là các mục tiêu định hướng cho hành động của mọi thành viên trong doanh nghiệp, nó mang tính bao quát. Mục tiêu ngắn hạn thường được lập và xem xét hàng năm dựa vào các kết quả hoạt động kiểm soát: quá trình, thiết bị, việc quản lý các nguồn lực, nhu cầu của khách hàng. Mục tiêu ngắn hạn thường là các mục tiêu rõ ràng có thể đo lường được.
5.3 Quản lý chất lượng trong đào tạo.
Quản lý chất lượng trong khâu này bao gồm việc nâng cao nhận thức của người lao động trong toàn doanh nghiệp về việc thực hiện một hệ thống quản lý chất lượng nào đó. Mục đích là để mọi thành viên trong doanh nghiệp cùng tham gia vào công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Thực tế cho thấy chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm chỉ thực sự có hiệu quả cao khi có sự tham gia của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Sự tham gia này cũng tạo ra một bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ nhau trong doanh nghiệp, nó tạo ra động lực lao động, sáng tạo của mọi người.
Quản lý chất lượng trong đào tạo còn là công tác nâng cao trình độ tay nghề cho mọi thành viên trong doanh nghiệp. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn, ngắn hạn cụ thể cho từng thời kỳ, từng lĩnh vực. Doanh nghiệp phải xác định nhu cầu về nguồn nhân lực trong tương lai của mình, năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động hiện có của doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng cần có chiến lược tuyển dụng lao động hợp lý phục vụ cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình. Chiến lược tuyển dụng lao động hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp thu hút được những lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề giỏi.
5.4 Quá trình quản lý chất lượng sản phẩm
Quá trình quản lý chất lượng được thực hiện cụ thể trong từng khâu của quá trình sản xuất: từ thiết kế sản phẩm đến khi sản phẩm được đưa ra thị trường.
Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế:
Thiết kế sản phẩm là quá trình sáng tạo ra sản phẩm dựa trên những kiến thức chuyên môn và phân tích nhu cầu của thị trường nói chung và nhu cầu của người tiêu dùng, của doanh nghiệp nói riêng. Nó bao gồm các nội dung sau Dựa vào tài liệu tham khảo:
ISO 9000:2000 NXB: KH-KT tác giả: Phó Đức Trù - Phạm Hồng, trang 163-168.
Tiêu chuẩn ISO 9001:2000 (song ngữ Việt Anh) của Công ty tư vấn Đức Anh; trang 14-16
:
- Phân tích, chuyển nhu cầu thị trường thành quy định chất lượng sản phẩm .
- Tạo ra hình thái sơ bộ gồm các tổ hợp và bộ phận chính của sản phẩm.
- Xem xét thiết kế lần đầu và sản xuất thử sản phẩm mẫu.
- Đánh giá sản phẩm mẫu.
- Xem xét thiết kế lần hai. Thay đổi thiết kế ( nếu cần), sản xuất thử nghiệm.
- Hoàn chỉnh tài liệu thiết kế và xây dựng các quy định cho sản phẩm bao gồm cả phương pháp thử và chuẩn mực phù hợp. Sau đó sản xuất thử.
- Thử nghiệm và xem xét thiết kế lần cuối.
- Điều chỉnh thiết kế cho sản xuất hàng loạt.
Các bộ phận chức năng phối hợp trong quản lý chất lượng sản phẩm ở khâu thiết kế:
- Phòng nghiên cứu thị trường: cung cấp thông tin về nhu cầu của khách hàng (thị trường) thông qua nghiên cứu thị trường và thông tin phản hồi của khách hàng đang sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.
- Phòng cung ứng: cung ứng nguyên vật liệu cần thiết (số lượng, chất lượng, chủng loại) để sản xuất thử.
- Phòng công nghệ: đưa ra tính chất của vật liệu, báo cáo thử nghiệm, độ tin cậy của các bộ phận chi tiết.
- Phòng sản xuất: khả năng sản xuất (máy móc hiện có, dung sai nên quy định, chi tiết, bộ phận nào có thể chế tạo thử được, dung sai hợp lý)
- Quản lý chất lượng: Các vấn đề chất lượng hiện có, thông số nào có thể kiểm tra tại các giai đoạn thích hợp của sản phẩm.
- Phòng dịch vụ/ bảo trì: các vấn đề về bảo quản, vận chuyển, điều kiện môi trường.
- Thoả thuận với nhà cung ứng về phương pháp kiểm tra xác minh chất lượng nguyên vật liệu mà họ cung cấp, phương án giao nhận hàng. Phương án giải quyết trả lại nguyên vật liệu, vi phạm hợp đồng mua bán giữa hai bên.
- Thực hiện chiến lược marketing đối với nhà cung ứng nếu cần, tạo cho mình một số nhà cung cấp truyền thống để đảm bảo nguồn cung cấp cần thiết cho sản xuất.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần xác định chính xác số lượng nguyên vật liệu mà doanh nghiệp mình cần để sản xuất trong kỳ. Có thể sử dụng mô hình sau Dựa vào tài liệu của Khoa: khoa học quản lý, giáo trình Khoa học quản lý tập II, TS. Đoàn Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền, trang 295-332.
:
Q = 2RS/I. Trong đó: Q : số lượng nguyên vật liệu cần mua.
R : tổng số yêu cầu hàng năm
S : chi phí sản xuất
I : chi phí lưu kho
Quản lý chất lượng trong khâu sản xuất .
Quá trình sản xuất là khâu biến chất lượng sản phẩm trên thiết kế thành chất lượng sản phẩm thực tế. Một thiết kế dù hoàn hảo đến đâu nếu sản xuất làm không đúng thì chất lượng sản phẩm cũng không đạt yêu cầu đặt ra. Mục đích của quản lý chất lượng sản phẩm ở khâu này là khai thác và huy động có hiệu quả các quá trình công nghệ thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm phù hợp với thiết kế. Các công việc cần tiến hành trong quản lý chất lượng sản phẩm ở khâu này là:
cung cấp kịp thời đầy đủ nguyên vật liệu đúng, đủ về chất lượng, số lượng và đúng nơi cần.
Kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất .
- Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn quy trình, thủ tục mô tả việc thực hiện từng công việc.
Thực hiện kiểm tra chất lượng các chi tiết, bộ phận, bán thành phẩm của từng công đoạn. Phát hiện sai sót ở mỗi giai đoạn, tìm ra nguyên nhân, khắc phục và loại bỏ các sai sót.
Thường xuyên tiến hành kiểm tra, hiệu chỉnh các công cụ kiểm tra đo lường chất lượng sản phẩm.
Kiểm tra, bảo dưỡng dây chuyền công nghệ sản xuất, kiểm tra tình hình kỹ thuật công nghệ và trình độ tay nghề của người lao động.
Kiểm tra 100% chất lượng sản phẩm đã hoàn chỉnh.
Ngoài ra quản lý chất lượng trong khâu này cũng cần quan tâm tới một số chỉ tiêu sau:
Thông số kỹ thuật của chi tiết, bộ phận bán thành phẩm.
Các chỉ tiêu về công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
Các chỉ tiêu và tổn thất do sai lầm, vi phạm kỷ luật lao động, quy trình công nghệ.
Các chỉ tiêu tỷ lệ sai hỏng sản phẩm, phẩm cấp bình quân.
Quản lý chất lượng sản phẩm trong và sau bán hàng.
Trong và sau bán hàng là một khâu quan trọng tạo cầu nối giữa sản phẩm của doanh nghiệp với người tiêu dùng, khách hàng sẽ ấn tượng đầu tiên với doanh nghiệp là do khâu này tạo ra. Nếu quản lý chất lượng thực hiện khâu này tốt thì sản phẩm sẽ có sức hút với khách hàng hơn.
Thực tế hiện nay các doanh nghiệp ngoài cạnh tranh thông qua chất lượng sản phẩm, chi phí thấp mà còn cạnh tranh với nhau thông qua dịch vụ bán hàng. Các sản phẩm cùng loại, có cùng chất lượng hoặc hơn kém nhau không đáng kể thì sản phẩm nào có dịch vụ sau bán hàng hấp dẫn và làm tốt thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng mua hơn.
Nhiệm vụ chính của quản lý chất lượng sản phẩm ở khâu này là:
Tạo danh mục sản phẩm hợp lý.
Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi nhanh chóng
Hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính, điều kiện quy trình sử dụng sản phẩm.
Nghiên cứu đề xuất những phương án bao gói, vận chuyển bốc dỡ sản phẩm. Mục đích là làm giảm chi phí phát sinh cho doanh nghiệp.
Tổ chức bảo quản sản phẩm, khuyến mãi sản phẩm, thực hiện chiết khấu thanh toán, chiết khấu thương mại…
Thực hiện dịch vụ tư vấn chăm sóc khách hàng có hiệu quả.
6. Giới thiệu sơ lược về hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000:2000 Dựa vào tài liệu:
Hướng dẫn chung quản lý chất lượng theo ISO 9000 của trung tâm đào tạo thuộc tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, trang 17-23 (mục 5.1, 5.2).
Tài liệu Training for the 21st century ISO 9001:2000 An overview for Senior Management; Nigel Bauer & associates (UNIDO/ Việt Nam/ Mgt Seminar-01), trang 3-13.
6.1 Kết cấu của bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000
- Các yêu cầu của hệ thống đảm bảo chất lượng .
+ ISO 9001 – 1994: Hệ thống chất lượng – Mô hình để đảm bảo chất lượng trong thiết kế, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
+ ISO 9002 – 1994: Hệ thống chất lượng – Mô hình để đảm bảo chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
+ ISO 9003 – 1994: Hệ thống chất lượng – Mô hình để đảm bảo chất lượng trong kiểm tra và thiết kế cuối cùng.
- Các hướng dẫn chung về chất lượng .
+ ISO 9000-1: 1994: Quản lý chất lượng và các tiêu chuẩn và các tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng - Phần 1: Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng.
+ ISO 9000-2: 1997: Quản lý chất lượng và các tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng - Phần 2: Hướng dẫn chung việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 9002, ISO 9003.
+ ISO 9000-3: 1997: Quản lý chất lượng và các tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng - Phần 3: Hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001 trong việc phát triển, cung cấp và duy trì phần mềm.
+ ISO 9000-4: 1997: Quản lý chất lượng và các tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng - Phần 4: Hướng dẫn quản lý chương trình về độ tin cậy.
- Hướng dẫn chung về quản lý chất lượng .
+ ISO 9004-1: 1994: Quản lý chất lượng và các yếu tố của hệ thống chất lượng - Phần 1: Hướng dẫn.
+ ISO 9004-2 :1994: Quản lý chất lượng và các yếu tố của hệ thống chất lượng - Phần 2: Hướng dẫn cho dịch vụ.
+ ISO 9004-3: 1993: Quản lý chất lượng và các yếu tố của hệ thống chất lượng - Phần 3: Hướng dẫn cho vật liệu chế biến.
+ ISO 9004-4: 1993: Quản lý chất lượng và các yếu tố của hệ thống chất lượng - Phần 4: Hướng dẫn cải tiến chất lượng.
Ngoài ra còn có các tài liệu liên quan hướng dẫn áp dụng cụ thể của quản lý chất lượng : thuật ngữ ISO 8402:1994, đánh giá chất lượng ISO 10011-1:1990, ISO 10011-1:1991, ISO 10011-3:1991
6.2 Kết cấu của bộ tiêu chuẩn ISO 9000 năm 2000
ISO 9001/2/3- 1994 nhập thành ISO 9001:2000.
ISO 9000-2000 thay thế cho ISO 9402 và ISO 9000-1.
ISO 9040-2000 thay thế cho ISO 9004-1.
ISO 10011 thay thế cho ISO 10011-1/2/3.
Toàn bộ ISO 9000 sẽ rút lại còn từ 4 đến 6 tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn khác trong toàn bộ ISO 9000 hiện nay sẽ được chuyển thành báo cáo kỹ thuật hay huỷ bỏ tuỳ theo nội dung của tiêu chuẩn.
6.3 Lợi ích của việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
- Đối với công ty:
+ Sản phẩm có chất lượng ổn định hơn, giảm phế phẩm trong sản xuất .
+ Tiết kiệm chi phí, do giảm chi phí hỏng hóc nội bộ và ở bên ngoài.
+ Đảm bảo tiến độ sản xuất, do không bị động trong việc xử lý sản phẩm và bán thành phẩm không phù hợp.
+ Cải tiến chất lượng nguyên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm.
+ Có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu vì được khách hàng tin tưởng.
+ Có vị thế trên thị trường, vì có thể sử dụng ISO 9000 trong Marketing.
+ Thường xuyên nâng cao hiệu quả, cải tiến liên tục hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm phù hợp với tình hình mới.
+ Tạo bầu không khí vui vẻ, hăng say lao động trong nhân viên Công ty, từ đó tạo ra năng suất lao động cao hơn và ổn định.
- Đối với nhân viên của công ty:
+ Hiểu biết rõ hơn vai trò trách nhiệm của mình trong công ty.
+ Biết rõ mục tiêu, yêu cầu công việc của mình nên chủ động hơn.
+ Biết rõ mục tiêu và kế hoạch của công ty, từ đó ý thức được trách nhiệm của mình đối với việc hoàn thành mục tiêu và kế hoạch chung của công ty.
+ Xây dựng một nề nếp, không khí làm việc tốt, một nền “ văn hoá chất lượng”, giảm trách cứ, đổ lỗi cho nhau về việc gây ra sai lầm.
+ Nhân viên mới có điều kiện đào tạo, huấn luyện tốt hơn, vì kỹ năng đã trở thành tài sản chung, chi tiết hoá trong các tài liệu.
7. Một số công cụ để quản lý chất lượng sản phẩm
- Biểu đồ đặc tính chất lượng sản phẩm.
Mô hình Ishikawa Dựa vào tài liệu:
Hướng dẫn chung quản lý chất lượng theo ISO 9000 của trung tâm đào tạo thuộc tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, trang 17-23 (mục 5.1, 5.2).
Tài liệu Training for the 21st century ISO 9001:2000 An overview for Senior Management; Nigel Bauer & associates (UNIDO/ Việt Nam/ Mgt Seminar-01), trang 3-13.
(hay mô hình xương cá):
Con người Máy móc Đo lường
Trình độ Mức độ Phương pháp
Hoạt động lấy mẫu
Kỹ năng Bảo dưỡng Phương pháp đo
thiết bị đo
phế phẩm
Qui trình Lắp ghép
Chất lượng Thời gian Công nghệ
sử dụng Phương pháp
Sản xuất Bố trí sản xuất
Nguyên vật liệu Phương pháp
Nhìn vào mô hình này để xem xét các nguyên nhân gây ra phế phẩm trong sản xuất. Người ta có thể hoán vị, cố định các nhân tố nghi ngờ, chỉ thay đổi điều kiện một nhân tố nào đó để đánh giá mức độ tác động của nhân tố này. Dựa vào mô hình này nhà quản lý doanh nghiệp xây dựng các phương án phòng ngừa có hiệu quả.
- Luật số lớn và nguyên lý khách quan, khoa học: Dựa vào tài liệu:
- Khoa: Khoa học quản lý: giáo trình Khoa học quản lý t ập II, TS. Đoàn Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền, trang 443-445.
Công cụ luật số lớn đòi hỏi việc xem xét tìm ra nguyên nhân gây nên chất lượng sản phẩm xấu phải được nghiên cứu, quan sát với số lượng đủ lớn các hiện tượng để tìm ra nguyên nhân căn bản của hiện tượng. Còn nguyên lý khách quan, khoa học đòi hỏi sự truy tìm phải tuân theo quy luật khách quan không dựa vào ý nghĩ chủ quan của người quản lý. Xuất phát từ những nguyên nhân gây ra phế phẩm để đưa ra giải pháp thực hiện phòng ngừa trong toàn doanh nghiệp trong kỳ tiếp theo.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO DOANH NGHIỆP
I- Thực trạng vấn đề quản lý chất lượng ở Việt Nam hiện nay
1. Vấn đề năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Lợi thế cạnh tranh có hai dạng, ngắn hạn và dài hạn. Về ngắn hạn, hầu hết các ngành của Việt Nam vẫn còn một số lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ, về vật tư, nguyên vật liệu đầu vào phong phú, tại chỗ. Nhưng về dài hạn, yếu tố quyết định lại là công nghệ sản xuất, quản lý và đây cũng là điểm yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện yếu kém một phần do chính sách vĩ mô chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Quan trọng hơn, nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức thị trường yếu. Đa phần các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động trong tình trạng kém hiệu quả kinh tế và có tư tưởng trông chờ và sự bảo hộ của Nhà nước. Điểm yếu chung của các doanh nghiệp hiện nay là thiếu thông tin nghiêm trọng về thông tin thị trường trong và ngoài nước, về đối thủ cạnh tranh, kinh nghiệm marketing, tiếp thị và xây dựng thương hiệu…
Về năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ: Sức cạnh tranh của hàng hoá thể hiện ở chất lượng, giá cả, sự phong phú về mẫu mã, đa dạng về bao bì, đáp ứng tốt từng nhu cầu nhỏ nhất của người tiêu dùng.
Khi tham gia toàn cầu hoá, đặc biệt là gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam gặp phải một khó khăn lớn, đó là sản phẩm của khu vực “ kinh tế cũ” ( khu vực kinh tế mang tính bao cấp, thiếu tính thị trường và tự do cạnh tranh ) có hàm lượng công nghệ thấp, sức cạnh tranh rất kém. Khi gặp sức cạnh tranh của hàng hoá ngoại nhập, nhất là khi hàng rào thuế quan hạ thấp, thông thường các sản phẩm này không tiêu thụ được nữa, dẫn đến các doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản. Do vậy, một trong những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam là nhiều ngành, nhiều sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam sức cạnh tranh yếu kém, chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, bao bì kém, không có tên tuổi, thương hiệu và uy tín trên thị trường quốc tế.
2.Tình hình quản lý chất lượng của nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam, trong bước đầu tiếp cận với nền kinh tế thị trường, chúng ta đã nhận rõ tầm quan trọng của những vấn đề liên quan đến chất lượng, nhất là sau khi chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
Chất lượng là yếu tố quan trọng, song để có thể kiểm soát được nó lại là một vấn đề không đơn giản. Nó đòi hỏi phải có một quan niệm và một chủ trương chính sách đúng đắn của các nhà quản lý và một sự quan tâm của toàn xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ ràng trách nhiệm cao nhất đối với chất lượng chính là vai trò của các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ.
Vì vậy, song song với những chính sách chung, trong lĩnh vực quản lý chất lượng, Nhà nước đã xác định tầm quan trọng của công tác này và đã vạch ra những chính sách chất lượng với những mục tiêu ngắn và dài hạn, đã công bố Giải thưởng quốc gia về chất lượng và nhiều chương trình hỗ trợ các tổ chức “ làm chất lượng”.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, những chương trình giáo dục, phổ biến khoa học kỹ thuật thường xuyên đề cập, phổ biến những kiến thức về quản lý chất lượng. Đã có những câu lạc bộ chất lượng, câu lạc bộ ISO…ra đời nhằm đẩy mạnh hơn nữa những hoạt động quản lý chất lượng theo những mô hình, các tiêu chuẩn quốc tế.
Trong quản lý vĩ mô, đã có nhiều thay đổi đối với cơ chế quản lý của nhà nước về tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng. Với sự ra đời của Pháp lệnh về chất lượng hàng hoá và Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, hoạt động tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng được chuyển giao về cho các tổ chức, các doanh nghiệp. Họ được quyền tự quyết định về chất lượng sản phẩm của mình, tự quyết về việc lựa chọn các hệ thống quản lý để áp dụng, phù hợp với những yêu cầu của khách hàng, phù hợp với pháp luật, sau đó là tự công bố về chất lượng sản phẩm, về hệ thống quản lý của mình. Đây chính là cơ sở pháp lý để quản lý hoạt động tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng ở nước ta trong thời kỳ mới.
Trong các doanh nghiệp, để nâng cao chất lượng sản phẩm nhiều doanh nghiệp đã có những thay đổi căn bản như: đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, liên doanh, liên kết, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng. Mặc dù kinh nghiệm và trình độ sản xuất của ta còn nhiều hạn chế, nhưng một số sản phẩm nhãn hiệu Việt Nam đã thay thế dần hàng ngoại, một số khác đã có thị trường ổn định ở nhiều nước trên thế giới.
Một trong những yếu tố thành công của các tổ chức đó, có thể nói là do họ đã có nhiều cố gắng thay đổi một cách cơ bản hệ thống quản lý chất lượng cổ điển, thay đổi phương pháp quản lý chất lượng bằng kiểm tra chất lượng sản phẩm ( KCS), bằng các mô hình quản lý theo những tiêu chuẩn quốc tế như: tiêu chuẩn HACCP, GMP, ISO 9000, ISO 14000, nhất là tiêu chuẩn ISO 9000 – Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng.
Việc triển khai áp dụng ISO 9000 trong các tổ chức Việt Nam không còn là một vấn đề khó khăn hoặc mới mẻ nhưng cho đến nay, đã có gần 2000 tổ chức Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế chứng nhận có các hệ thống quản lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế đã nêu ở trên. Tuy là bước đầu, nhưng những hệ thống đó đã làm thay đổi nhiều về nhận thức, quan niệm và phương pháp quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp của chúng ta.
Tuy nhiên, so với con số hàng vạn doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu trên toàn quốc, con số 2000 doanh nghiệp trên thực sự vẫn còn khá khiêm tốn. Đây là một trong những cản trở đối với các tổ chức Việt Nam trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của “ Luật chơi” trong kinh tế thị trường. Nguyên nhân của tình trạng này có thể nói là nhiều người, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của chất lượng, chưa có một cái nhìn hệ thống về bản chất công tác quản lý chất lượng trong điều kiện cạnh tranh hiện nay.
Quan tâm đến chất lượng, thiết lập được một hệ thống quản lý chất lượng hữu hiệu, chính là một trong những phương thức tiếp cận và tìm cách đạt được những thắng lợi trong sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp
3.Thực trạng quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Nhìn chung, chất lượng sản phẩm do các doanh nghiệp Việt Nam (Không kể sản phẩm do các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) sản xuất trong những năm gần đây đã được nâng cao. Một số loại sản phẩm đạt chất lượng tương đối tốt, ổn định, giá cả hợp lý nên được người tiêu dùng tin cậy, chiếm lĩnh được thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu.... Ví dụ như các loại quạt điện, dây và cáp điện, xe đạp, xi măng, vật liệu xây dựng, các sản phẩm nhựa, hàng dệt may, giày, dép....
Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhiều doanh nghiệp đã triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. Có thể nói, việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO ở Việt Nam đã được quan tâm và đang phát triển nhanh. Từ 02 doanh nghiệp được chứng nhận năm 1996, đến nay, cả nước có hơn 2000 doanh nghiệp được chứng nhận có hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, một số được chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO 14000 và các hệ thống quản lý chất lượng khác.
Tuy nhiên, nếu so với hàng nghìn loại sản phẩm và hàng nghìn doanh nghiệp thì những sản phẩm có chất lượng tốt và doanh nghiệp có hệ thống quản lý chất lượng tốt của chúng ta vẫn còn rất hạn chế. Đây có thể xem là một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm, hàng hoá của Việt Nam kém sức cạnh tranh, một nguy cơ tụt hậu trong quá trình hội nhập, nếu chúng ta không có những động thái tích cực để cải thiện tình trạng này.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra được tự do cạnh tranh trên thị trường với chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thị trường vẫn tồn tại sản phẩm kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái và rất khó kiểm soát. Vì vậy, để nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp hàng hoá Việt Nam cạnh tranh tốt ở cả thị trường trong nước và quốc tế, rất cần có sự can thiệp tích cực của Nhà nước.
Hệ thống quản lý chất lượng của Việt Nam những năm gần đây đã được đổi mới, xây dựng ngày càng hoàn thiện theo yêu cầu quản lý nhà nước và phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá được Uỷ ban Thường vụ quốc hội thông qua, Chủ tịch nước công bố ban hành và có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2000 là văn bản qui phạm pháp luật cao nhất đã quy định những nội dung, cơ chế quản lý chung và là căn cứ để Chính phủ, các Bộ ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh. Tuy nhiên, đến thời điểm này, Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh vẫn chưa được ban hành, vì vậy, một số văn bản cấp Bộ cũng chưa thể ban hành được. Tình hình này làm cho việc triển khai một số cơ chế quản lý chất lượng được quy định tại Pháp lệnh chậm được thực hiện, như việc công bố danh mục hàng hoá phải kiểm tra nhà nước về chất lượng, danh mục hàng hoá phải áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam, bắt buộc chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn...
Một khía cạnh khác là vấn đề phối hợp quản lý giữa các bộ, ngành, các cơ quan chức năng cũng chưa thật tốt. Việc kiểm tra xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm các văn bản qui phạm pháp luật về chất lượng chưa làm được thường xuyên, liên tục, trong một số trường hợp, mức phạt chưa đủ răn đe những người cố tình vi phạm phát luật vì lợi ích bất chính.
II- Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
1. Đối với doanh nghiệp.
1.1 Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ lao động.
Hiện nay, việc các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO hay TQM là khó khăn do những yêu cầu của hệ thống tiêu chuẩn này mang tính chung chung và rất khó hiểu vì nó được viết để mọi tổ chức có thể áp dụng. Do đó, các Công ty và doanh nghiệp cần dựa vào điều kiện thực tế của mình để chuyển các yêu cầu đó thành các văn bản, tài liệu quy định và hướng dẫn dễ hiểu, phù hợp áp dụng trong doanh nghiệp mình. Để mọi thành viên trong doanh nghiệp, từ người điều hành, quản lý quá trình thực hiện đến người lao động trực tiếp có trình độ thấp có thể hiểu được và thực hiện.
Trước hết, phải xuất phát từ lãnh đạo Công ty cần thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong quản lý chất lượng sản phẩm như cam kết và cần quan tâm nhiều tới công tác đào tạo bồi dưỡng về cán bộ quản lý( trong đó có cán bộ quản lý chất lượng sản phẩm ). Tiếp đó là nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp để từ người quản lý đến người thực hiện việc sản xuất đều có ý thức về việc tạo ra một sản phẩm có chất lượng đảm bảo.
Để thực hiện tốt quản lý chất lượng sản phẩm nói chung trong toàn doanh nghiệp thì ban lãnh đạo có thể thực hiện giải pháp sau trong việc khuyến khích tinh thần của người lao động. Đó là:
- Luôn luôn học hỏi các lý thuyết mới, tất cả kể từ lãnh đạo cao nhất tới mỗi cá nhân của doanh nghiệp. Tổ chức các lớp bồi dưỡng để truyền thụ các phương pháp hiện đại không chỉ về sản xuất mà cả về cách thức quản lý.
- Cần xoá bỏ sự ỷ lại đối với việc kiểm tra số lượng lớn, hạn chế đến mức thấp nhất số lượng phế phẩm trong sản xuất. Tránh việc dựa vào kinh nghiệm để phát hiện ra sản phẩm kém chất lượng.
- Cần động viên người lao động trong sản xuất để tạo ra sản phẩm tốt nhất. Tạo ra không khí hăng say làm việc, sáng tạo và dám đưa ra nhiều phương án mới về sản xuất sản phẩm để tìm ra một quy trình sản xuất, kiểm tra chất lượng phù hợp nhất và tiết kiệm nhất.
Việc làm này cần phải làm thường xuyên liên tục, làm thực sự. Tránh hiện tượng chỉ nói mà không làm hay chỉ làm tốt lúc đầu, chỉ thực hiện về hình thức. Nếu thực hiện tốt có thể sẽ phát huy động lực của mọi thành viên trong doanh nghiệp đối với công tác quản lý chất lượng sản phẩm, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.2. Nâng cao công tác quản lý chất lượng.
Để quản lý chất lượng sản phẩm được tốt, các doanh nghiệp có thể tiến hành thực hiện quản lý chất lượng theo phương pháp quản lý theo quy trình.
Mô hình quản lý theo quá trình như sau Dựa theo tài liệu của khoa khoa học quản lý, Giáo trình Khoa học quản lý tập I; TS. Đoàn Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền trang 26.
:
Mô hình: Chu trình quản lý theo quá trình hoạt động.
Lập
KH
kiểm
tra
T ổ
chức
Lãnh đạo
-Lập kế hoạch: dựa vào kế hoạch của toàn doanh nghiệp, Giám đốc các Xí nghiệp sẽ lập kế hoạch và thể chế kế hoạch cụ thể cho xí nghiệp mình phụ trách ( kế hoạch tác nghiệp).
Để lập kế hoạch sản xuất có hiệu quả cần cân nhắc xem xét ba nhân tố Dựa vào tài liệu Tổ chức và quản lý sản xuất, Lê Anh Cường, Bùi Minh Nguyệt; năm 2004, trang 202-203.
:
1. Lượng nhu cầu của khách hàng ( lượng hàng của khách hàng đặt cho xí nghiệp mình có thể thực hiện mà Giám đốc Công ty đã phê chuẩn chấp thuận): D
2. Năng suất ( máy móc, con người trong xí nghiệp): P
3. Lượng tồn kho cuối kỳ của xí nghiệp mình: I
Lượng tồn kho cuối kỳ có thể xác định theo công thức sau:
I = i + å P - å D (i tồn kho đầu kỳ)
Ngoài kế hoạch sản xuất còn lập cả kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu để việc cung cấp nguyên vật liệu được kịp thời, đầy đủ cho sản xuất.
- Tổ chức: Giám đốc xí nghiệp căn cứ vào đội ngũ công nhân viên hiện có trong xí nghiệp mình để bố trí việc thực hiện kế hoạch sản xuất và phối hợp giữa các bộ phận với nhau.
- Lãnh đạo: Giám đốc xí nghiệp điều hành sản xuất, dẫn dắt hành vi của người lao động, phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong xí nghiệp của mình với nhau.
- Kiểm tra: Giám đốc xí nghiệp, Trung tâm chất lượng, KCS xí nghiệp tiến hành giám sát, đo lường, đánh giá tiêu chuẩn và thực hiện điều chỉnh. Có những kiến nghị kịp thời đối với lãnh đạo Công ty để đổi mới hoạt động và lập kế hoạch giai đoạn sản xuất tiếp theo có hiệu quả hơn.
2. Kiến nghị đối với Nhà Nước.
2.1 Đối với chính sách thuế.
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, Nhà nước cần có những chính sách về thuế quan hợp lý. Một vài kiến nghị về chính sách thuế mà Nhà nước có thể thực hiện:
- Nhà nước có thể giảm thuế nhập khẩu đối với những nguyên vật liệu thiết yếu của các ngành công nghiệp mà hiện nay trong nước chưa sản xuất được hoặc đã có sản xuất nhưng chất lượng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn.
- Nhà nước có thể có các chính sách về thuế để ưu đãi cho các ngành, lĩnh vực mà hiện nay đang ưu tiên phát triển hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Có các biện pháp để hoàn trả thuế giá trị gia tăng nhanh chóng để các công ty, doanh nghiệp có vốn phục vụ kịp thời cho sản xuất.
- Tránh sự nhũng nhiễu của cơ quan thuế. Các thông tin liên quan đến việc thực hiện, hướng dẫn thực hiện thuế cần cung cấp công khai để các đơn vị kinh doanh có thể tiếp cận một cách dễ dàng.
2.2 Đối với chính sách về quản lý chất lượng sản phẩm.
Có biện pháp xử lý nghiêm minh trong việc tổ chức, cá nhân sản xuất – kinh doanh hàng giả, hàng nhái kém chất lượng, cũng như công tác ngăn chặn hàng buôn lậu.
Việc tiếp nhận các tiêu chuẩn nước ngoài của doanh nghiệp thường rất khó khăn, vì vậy Nhà nước có thể trở thành khâu trung gian trong việc cung cấp các thông tin liên quan đến vấn đề tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của các nước cho doanh nghiệp trong nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp muốn tiếp cận với các thông tin về cách thức quản lý chất lượng của nước ngoài. Nhà nước cũng nên là người tiên phong trong việc nghiên cứu, phổ biến các tiêu chuẩn, cách thức quản lý phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đầu tư thích đáng cho các phòng thí nghiệm về đo lường phương tiện, nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới để phục vụ tốt những yêu cầu về nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp.
Thành lập các trung tâm tư vấn về quản lý chất lượng sản phẩm. Cũng như có biện pháp quản lý hiệu quả để các trung tâm tư vấn về thực hiện quản lý chất lượng hiện nay thực sự là các trung tâm có chất lượng và đảm bảo. Quản lý chất lượng của các trung tâm, tổ chức đăng ký kinh doanh về lĩnh vực đánh giá doanh nghiệp thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO. Cần thiết có thể là nhà cung cấp thông tin về các trung tâm, tổ chức đánh giá, tư vấn về hệ thống quản lý có chất lượng hiện nay trên thị trường cho doanh nghiệp có thể dễ dàng lựa chọn nhà tư vấn cũng như tổ chức đánh giá mình.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần phải có hệ thống tuyên truyền, khen thưởng cho những doanh nghiệp thực hiện tốt việc quản lý chất lượng sản phẩm và có vị thế lớn trên thị trường. Như việc tổ chức các chương trình nhằm tìm kiếm những thương hiệu Việt có chất lượng cao được người tiêu dùng bình chọn hay biểu dương các doanh nghiệp có nhiều đóng góp đi đầu trong việc lấy chất lượng sản phẩm làm tiêu chí hàng đầu trong việc kinh doanh của mình và đã có nhiều kết quả to lớn…
2.3 Chính sách về phát triển nguồn nhân lực.
Hiện nay vấn đề đào tạo nhân lực ở nước ta chưa thật hiệu quả. Đó là đào tạo quá nhiều về lý thuyết trong khi đó thực tế lại quá ít. Chương trình đào tạo quá xa rời thực tiễn, nhiều khi những kiến thức đó học xong không biết áp dụng vào đâu hoặc không thể áp dụng được nữa khi mà nó đã lỗi thời không còn sử dụng nữa. Mặt khác việc đào tạo không xuất phát từ thực tế mà nền kinh tế đòi hỏi nên dẫn tới tình trạng vừa thừa vừa thiếu.
Tình trạng này không những gây lãng phí cho xã hội mà còn ảnh hưởng tới cả doanh nghiệp trong việc tuyển chọn nhân viên. Nhà nước cần tiến hành các nghiên cứu về cầu thị trường lao từ đó có định hướng chọn nghề cho người lao động. Cần có sự kết hợp giữa trường và doanh nghiệp để đào tạo ra cái mà doanh nghiệp cần. Điều này cũng có nghĩa là việc đào tạo cũng cần phải xác định khách hàng cho mình để xem cần đào tạo ngành gì?, Thực hiện đào tạo như thế nào? Đào tạo với số lượng bao nhiêu là đủ?...
Nhà nước cũng cần có biện pháp hỗ trợ kinh phí cho việc đào tạo nhân lực của các doanh nghiệp, tổ chức các hội trợ việc làm để người lao động và doanh nghiệp gặp nhau trao đổi thông tin về nhu cầu lao động có trình độ như thế nào. Đồng thời thành lập trung tâm nghiên cứu dự báo về nhu cầu lao động trong dài hạn, trung tâm này thành lập đường dây nóng để có thể giải đáp mọi thắc mắc của người lao động hoặc tư vấn chọn nghề. Có thể lập trang web để mọi người có thể truy cập được rộng rãi, và trang web này có thể cho phép các doanh nghiệp đưa thông tin về kế hoạch tuyển lao động.
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là hội nhập kinh tế ngày càng mạnh mẽ, để không bị tụt hậu và nằm ngoài quỹ đạo này đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực hơn nữa trong công tác đổi mới và cải tiến. Đổi mới và cải tiến về thực chất là nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh cũng như cách thức ( phương pháp ) quản lý.
Những năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã dần tạo được uy tín, hình ảnh của mình trên thế giới. Năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát huy những điểm mạnh và lợi thế của mình nhằm mang lại vị thế cao hơn. Tuy nhiên để làm được điều này thì đòi hỏi bản thân các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và nâng cao công tác quản lý chất lượng, quản lý sản xuất tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao.
Việc các doanh nghiệp Việt Nam dần nâng cao năng lực cạnh tranh là một dấu hiệu đáng mừng và cần phải phát huy. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng các doanh nghiệp của nước ta vẫn còn nhiều yếu kém và cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để có thể phát huy tối đa sức mạnh và ưu thế của mình.
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu này em rất hi vọng sẽ đóng góp được phần nào về việc nghiên cứu một khía cạnh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới của nước ta hiện nay. Nhưng do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế có hạn nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự thông cảm và góp ý của thầy cô và các bạn quan tâm đến đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khoa: Khoa học quản lý; Giáo trình Khoa học quản lý tập I, II; TS. Đoàn Thị Thu Hà, TS.Nguyễn Thị Ngọc Huyền; NXB: Khoa học - Kỹ thuật, 2002.
2. Khoa: Khoa học quản lý; Giáo trình Quản lý kinh tế tập I, II; GS. Đỗ Hoàng Toàn, TS Mai Văn Bưu; NXB: Khoa học - Kỹ thuật, 2002.
3. Khoa: Khoa học quản lý; Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội; TS. Đoàn Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền; NXB: Khoa học - Kỹ thuật, 1999.
4. Lê Anh Cường, Bùi Minh Nguyệt, sách Tổ chức và quản lý sản xuất, NXB: Lao động – Xã hội, 2004.
5. John S.Oakland, sách quản lý chất lượng đồng bộ, NXB: Thống kê, 1994.
6. GS.TS Nguyễn Đình Phan, Giáo trình quản lý chất lượng trong các tổ chức, NXB: Giáo dục, 2002.
7. Phó Đức Trù - Phạm Hồng, sách Tài liệu ISO 9000:2000, NXB: Khoa học và kỹ thuật.
8. TS. Nguyễn Kim Định, sách Quản trị chất lượng, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
9. Trần Sửu, sách Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hoá, NXB: Lao động, 2006.
10. Harold Koontz, Cryil O’Donnell, Heinz Weihrich; sách Những vấn đề cốt yếu của quản lý (essential of Management ), NXB: Khoa học và kỹ thuật.
11. Mục nghiên cứu – Trao đổi, Cơ hội và thách thức của Việt Nam về tiêu chuẩn chất lượng khi gia nhập WTO, Tạp chí tiêu chuẩn đo lường chất lượng, số 7+8, 9+10/2005.
12. Các tài liệu liên quan về hệ thống quản lý chất lượng ISO, tài liệu về quản lý chất lượng tại hội thảo cán bộ quản lý lần 2 tại Hà Nội 3,4/2006.
13. Chuyên đề mô hình quản lý chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2004.
14. Trang web: www.mof.gov.vn
www.TCVN.net
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E0025.doc