Đề tài Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường

Tăng cường thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường trong điều kiện của cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay là hết sức cấp bách. Kiểm tra, kiểm soát thị trường là một chức năng quan trọng của Quản lý thị trường, góp phần thực hiện chức năng kiểm tra kiểm soát của quản lý Nhà nước về kinh tế. Để bảo đảm thực thi chức năng này, trong từng thời kỳ, từng thời gian tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu cụ thể cần xác định những nhiệm vụ kiểm tra - kiểm soát thị trường cho phù hợp. Trong khuôn khổ có hạn, luận văn đã đề xuất các giải pháp trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm về hoàn thiện pháp luật, về xây dựng lực lượng và trang bị phương tiện cho lực lượng kiểm tra, kiểm soát, đổi mới phương thức hoạt động của lực lượng này. Đó chỉ là những giải pháp cơ bản, cần được cụ thể hoá và triển khai thực hiện chặt chẽ.

doc45 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 977 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngừng và nhiều khi rất quyết liệt nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, lợi ích và cuộc sống bình yên, an toàn của người tiêu dùng, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính. Bên cạnh hàng giả, còn các loại hàng kém chất lượng, quá hạn sử dụng, không bảo đảm tiêu chuẩn bắt buộc về chất lượng theo quy định của Nhà nước hoặc không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm Tuy không thuộc “phạm trù hàng giả”, nhưng hành vi lưu thông, buôn bán các hàng hoá này có thể được xếp chung vào nhóm đối tượng “buôn bán hàng giả” để tổ chức công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các vi phạm theo các quy định pháp luật có liên quan, vì các vi phạm thuộc loại này gây nguy hại trực tiếp tới lợi ích, sức khoẻ người tiêu dùng không kém gì hàng rởm, hàng giả. Ngoài ra, các loại tem, vé, văn bằng, hoá đơn tài chính hoặc các giấy tờ có giá khác được làm giả và mua - bán như hàng hoá thì đều bị coi là hàng giả, và cần xử lý nghiêm các hành vi buôn bán này. Việc thực hiện dán tem đối với một số sản phẩm sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu vừa có tác dụng chống hàng nhập lậu, vừa có tác dụng chống hàng giả. Tuy nhiên, nếu việc tổ chức dán tem hoặc quản lý tem không chặt chẽ thì chính tem (có thể là tem thật bị lọt ra ngoài vòng kiểm soát, tem thật quay vòng tái sử dụng hoặc là tem giả) lại tạo ra nơi ẩn náu mới cho hàng lậu, hàng giả, vừa gây khó khăn cho việc kiểm tra, kiểm soát, vừa gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng. Bốn: Gian lận thương mại. Gian lận thương mại là một trong những đối tượng của kiểm tra, kiểm soát thị trường.Trong hoạt động thương mại thường gặp các hành vi gian lận sau: + Gian lận đối với khách hàng và người tiêu dùng, như: gian dối khi cân, đo, đong, đếm, cố ý tính sai, đánh tráo chủng loại, phẩm cấp hàng hoá gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người tiêu dùng. + Gian lận đối với cơ quan quản lý nhà nước, như: buôn bán nhiều, kê khai ít để trốn lậu thuế; buôn bán chủng loại hàng hoá này kê khai chủng loại khác có thuế suất thấp hơn hoặc kê khai loại hàng này nhưng giao nhận, vận chuyển, lưu thông loại hàng khác, thậm chí cả hàng lậu, hàng cấm nhằm trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng và trốn lậu thuế. Gian lận thương mại là hiện tượng thường gặp nên cần được kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích chung và lợi ích người tiêu dùng, bảo đảm trật tự kỷ cương và văn minh trong hoạt động thương mại. Năm: Các hành vi vi phạm pháp luật khác trong thương mại. Hoạt động trao đổi, mua bán, lưu thông hàng hoá trên thị trường ngoài việc phải tuân thủ các quy phạm pháp luật chung của Nhà nước, còn phải theo các quy định hoặc hướng dẫn của các cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền, nhất là đối với các loại hàng hoá có tính đặc thù, như: + Quy định về chất lượng hàng hoá được phép mua bán, lưu thông trên thị trường; + Quy định về hàng hoá và điều kiện kinh doanh các loại hàng có tính đặc thù, như: thuốc phòng chữa bệnh cho người, vệ sinh thực phẩm, thuốc thú y, thuốc trừ sâu, văn hoá phẩm Ngoài ra, hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường cũng không bỏ qua các vi phạm pháp luật về các lĩnh vực khác, như: quy định về sản xuất, về tài chính, tiền tệ, thanh toán, giá cả, thuế khoáđược bộc lộ thông qua mua bán trên thị trường. Để kiểm tra, kiểm soát chống các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên, lực lượng quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường chuyên nghiệp cần phối hợp với các lực lượng kiểm tra kiểm soát khác, nhất là các lực lượng thanh tra chuyên ngành, nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cương chung trên thương trường, không loại trừ bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào xâm phạm lợi ích kinh tế chung và lợi ích người tiêu dùng. 1.2.2. Lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường. Thực thi chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường là lực lượng kiểm tra kiểm soát chuyên nghiệp trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, còn gọi là Quản lý thị trường. Việc thành lập lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường chuyên nghiệp là hết sức cần thiết, bởi: 1, thị trường là một lĩnh vực hoạt động sôi động và phức tạp, bao gồm nhiều loại hoạt động, nhiều mối quan hệ kinh tế - xã hội đan xen, cả hợp pháp và phi pháp, do hàng triệu cá nhân và tổ chức thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia, kể cả tổ chức sản xuất, kinh doanh của nước ngoài, diễn ra trên khắp mọi miền của đất nước, có liên hệ ngày càng nhiều với thị trường nước ngoài 2, để bảo đảm thực thi các chính sách và pháp luật của Nhà nước về thương mại, dịch vụ, một lĩnh vực hoạt động có tính chuyên ngành; bảo đảm duy trì trật tự kỷ cương đối với các hoạt động trên thị trường. ở nước ta hiện nay hoạt động thị trường còn lộn xộn, chưa vào khuôn khổ, chưa có nề nếp, trật tự kỷ cương, chính sách, pháp luật về thương mại, dịch vụ, quản lý thị trường chưa ổn định, chưa đồng bộ và hoàn chỉnh thì việc tổ chức lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường chuyên nghiệp là hết sức cần thiết. Ngoài lực lượng chuyên nghiệp của cơ quan quản lý thị trường có một số cơ quan nhà nước trong thực thi chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của mình có khả năng và điều kiện kết hợp, phối hợp kiểm tra và phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoạt động thương mại, buôn bán hàng hoá trên một địa bàn nhất định. Đó là các cơ quan, tổ chức sau: - Lực lượng Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, là lực lượng hoạt động tại các cửa khẩu, biên giới, vùng biển nên có điều kiện và khả năng kiểm tra kiểm soát chống kinh doanh, buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, chống buôn lậu - Lực lượng Cảnh sát kinh tế (và trong một số trường hợp kể cả cảnh sát giao thông) trong hoạt động của mình có điều kiện theo dõi, kiểm tra phát hiện hoặc điều tra kết luận các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, thương mại, nhất là các hành vi vi phạm lớn có tính hình sự, phá hoại an ninh kinh tế và an ninh quốc gia. - Lực lượng thuế vụ, trong quá trình kiểm tra bảo đảm thực thi nghĩa vụ nộp thuế của thương nhân có thể phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thương mại, như kinh doanh trái phép... - Các lực lượng thanh tra chuyên ngành, nhất là đối với các ngành hàng có nhiều đặc thù và do đó có những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và điều kiện sản xuất kinh doanh, như: thực phẩm, thuốc chữa và phòng bệnh cho ngưngười, thuốc thú y, thuốc trừ sâu bệnh thực vật, văn hoá phẩm Như vậy, trong công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngoài lực lượng chuyên nghiệp, cần có sự phối hợp hoạt động giữa lực lượng chuyên nghiệp có tính thường trực này với các lực lượng khác có liên quan. Đó là một nhu cầu cần thiết khách quan. 1.2.3.Vai trò của chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường. - Thông qua kiểm tra, kiểm soát thị trường góp phần truyền bá, giải thích, hướng dẫn, nhắc nhở các chủ thể tham gia thị trường thực hiện các quy phạm pháp luật, các định hướng, cơ chế chính sách của Nhà nước, uốn nắn những lệch lạc, thiếu sót... giúp đỡ họ tự giác thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước; qua đó có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn những sai phạm có thể xảy ra. Trên cơ sở theo dõi, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động thực tiễn trên thương trường mới có thể phát hiện kịp thời các xu hướng phát triển của hoạt động thị trường; những lệch lạc, sai phạm, những hành vi trái pháp luật, những vụ buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, trốn lậu thuế, gian lận thương mại để có biện pháp xử lý phù hợp. Từ đó có tác dụng trực tiếp duy trì trật tự kỷ cương đối với các hoạt động trên thị trường, góp phần lành mạnh hoá hoạt động thị trường; mặt khác, còn có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội phạm, góp phần phát triển thị trường ổn định, có hiệu quả và lành mạnh; vừa bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước và xã hội, vừa bảo vệ lợi ích của các chủ thể kinh doanh chân chính, tôn trọng và làm đúng pháp luật. - Thông qua kiểm tra, kiểm soát thị trường, hàng ngày hàng giờ tiếp cận với hoạt động thực tiễn của các chủ thể tham gia thị trường, đồng thời qua quá trình xử lý vi phạm, phát hiện những bất hợp lý, những sơ hở của hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách để có những kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà nước nói chung và nhất là trong lĩnh vực quản lý thị trường. - Đồng thời, thông qua các hoạt động nêu trên, bản thân tổ chức và lực lượng Quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát thị trường được rèn luyện và đào tạo, tích luỹ được kinh nghiệm, trên cơ sở đó ngày càng có những hình thức, phương pháp, biện pháp, công cụ sắc bén hơn nhằm phát huy tác dụng của công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, góp phần đưa hoạt động thị trường ngày càng vào nề nếp, trật tự kỷ cương, ổn định, có hiệu quả, theo định hướng và pháp luật của Nhà nước. Những tác dụng nêu trên khẳng định vai trò quan trọng của công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm thực thi một chức năng không thể thiếu của quản lý nhà nước về kinh tế cũng như quản lý thị trường. Vai trò kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động thị trường càng trở nên bức thiết, khi thị trường còn trong giai đoạn sơ khai, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia thị trường còn thấp, hoạt động trên thị trường ngày càng phát triển nhộn nhịp cùng với các mối quan hệ rất phức tạp và còn nhiều lộn xộn 1.3 Cở sở pháp luật của quản lý nhà nước đối với thị trường và chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường. Pháp luật về thị trường và về quản lý nhà nước đối với thị trường là cơ sở của quản lý nhà nước đối với thị trường, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường. Với quan niệm như vậy, pháp luật về thị trường và quản lý nhà nước đối với thị trường được phân thành các bộ phận quy phạm sau: - Bộ phận quy phạm quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu bộ máy của cơ quan nhà nước có chức năng quản lý thị trường. - Bộ phận quy phạm quy định các chuẩn mực buộc các đối tượng khi thực hiện các hành vi thương mại phải tuân thủ. - Bộ phận quy phạm quy định chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thị trường và quản lý thị trường. Nếu căn cứ vào thứ bậc hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật có thể phân chia cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước đối với thị trường như sau: - Các quy phạm ở cấp độ Hiến pháp, bao gồm các quy định cao nhất, có tính nguyên tắc, như khẳng định đường lối kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; quy định các thành phần kinh tế tồn tại lâu dài, cá nhân, tổ chức thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều bình đẳng trước pháp luật; quy định vốn và tài sản hợp pháp của các cá nhân và tổ chức được nhà nước bảo hộ, không quốc hữu hoá; quy định quyền tự do kinh doanh. Các quy phạm Hiến pháp cũng quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh phải chấp hành Hiến pháp và pháp luật, nhà nước thực hành pháp chế, nghiêm trị mọi hành động vi phạm Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, trong đó có các quyền lao động, học tập, quyền của người tiêu dùng. - ở cấp độ lập pháp, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành một loạt các văn bản quan trọng, đáng chú ý là các văn bản sau: + Các Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp; những nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp (1, ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp; 2, tổ chức đăng ký kinh doanh; hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội; 3, tổ chức thực hiện và quản lý đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp; 4, thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng và mục tiêu của nhà nước, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; 5, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp; giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ và báo cáo khác ). Luật doanh nghiệp cũng quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ củ cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có cơ quan quản lý thị trường đối với doanh nghiệp. Một bộ phận quan trọng là các luật, pháp lệnh quy định các chuẩn mực pháp lý cho quản lý nhà nước đối với thị trường. Không kể Bộ Luật dân sự, có các văn bản trực tiếp quy định đầy đủ vấn đề này: Luật thương mại, Luật bảo hiểm, Luật khoa học công nghệ, Pháp lệnh về tín phiếu, Pháp lệnh về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở cấp văn bản lập quy của Chính phủ, các Bộ, Ngành, trực tiếp là Bộ Thương mại có rất nhiều văn bản quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện luật, pháp lệnh, đáng chú ý là các văn bản: quy định về xử lý vi phạm hành chính về trật tự quản lý thị trường, về quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh theo các ngành, nghề, hàng hoá cụ thể (vàng bạc, giết mổ) Trong các văn bản trên, đáng chú ý là Nghị định 140/HĐBT 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định việc kiểm tra, xử lý sản xuất, buôn bán hàng giả; Nghị định số 02/NĐ-CP của Chính phủ ngày o5/01/1995 quy định về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh thương mại và hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thương mại có điều kiện ở thị trường trong nước Việc xử lý vi phạm phát hiện được qua công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường dựa trên cơ sở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính sửa đổi ngày 16/ 7/ 2002, và tại Nghị định 01/CP ngày 03/01/1996 của Chính phủ, được sửa đổi bổ sung một số điều theo Nghị định số 01/2002/NĐ-CP ngày 03/01/2002 về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Những văn bản này là cơ sở pháp lý để xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động thương mại, dịch vụ thời gian qua. Ngoài ra những hành vi vi phạm chế độ quản lý nhà nước về thị trường nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì được xử lý theo các quy định của Bộ luật hình sự. Về tổ chức bộ máy cơ quan quản lý thị trường, Chính phủ đã ra Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ thương mại, trong đó có quản lý nhà nước lĩnh vực thương mại trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp thương mại có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật. Về tổ chức bộ máy quản lý bộ máy chuyên trách quản lý thị trường có Nghị định số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ. Nghị định này quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của quản lý thị trường. Điều 1 của Nghị định xác định: Quản lý thị trường là lực lượng chuyên trách được tổ chức từ trung ương đến huyện, có chức năng kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại ở thị trường trong nước. Hệ thống tổ chức quản lý thị trường gồm có: + ở trung ương thành lập Cục quản lý thị trường trực thuộc Bộ Thương mại + ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập chi cục quản lý thị trường trực thuộc Sở Thương mại + ở quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh theo yêu cầu cụ thể trên từng địa bàn Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định việc thành lập các đội quản lý thị trường trực thuộc Chi cục hoạt động trên địa bàn huyện hoặc liên huyện. Nghị định trên cũng quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Cục quản lý thị trường, Chi cục quản lý thị trường, đội quản lý thị trường. Điều 5 của Nghị định quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các chi cục quản lý thị trường như sau: 1. Kiểm tra, việc tuân theo pháp luật các hoạt động thương mại của các tổ chức cá nhân trên địa bàn tỉnh. Đề xuất với Sở Thương mại và Uỷ ban nhân dân tỉnh kế hoạch, biện pháp về tổ chức thị trường, bảo đảm lưu thông hàng hoá theo pháp luật, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh. 2. Xây dựng và trực tiếp chỉ đạo các Đội quản lý thị trường thực hiện các kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thị trường, xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại. 3. Quản lý công chức, biên chế, kinh phí, trang bị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và xây dựng cơ sở vật chất cho lực lượng quản lý thị trường ở địa phương. 4. Thường trực giúp Giám đốc Sở Thương mại chủ trì, tổ chức sự phối hợp hoạt động giữa các ngành, các cấp ở địa phương có chức năng quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của công chức kiểm soát thị trường; biên chế, kinh phí và chế độ trang bị của quản lý thị trường, cấp hiệu, thẻ kiểm tra thị trường, phù hiệu, biển hiệu của quản lý thị trường. Cụ thể hoá Nghị định 10/CP, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ra quyết định số 217/TM/TCCB ngày 22/3/1995 về tổ chức bộ máy của Cục quản lý thị trường. Chương 2: Thực trạng và giải pháp tăng cường thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường ở Việt Nam hiện nay. 2.1. Thực trạng thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan nhà nước có chức năng quản lý thị trường (1997-2002). 2.1.1. Diễn biến vi phạm pháp luật quản lý thị trường. Trong những năm qua, thực hiện các quan điểm, mục tiêu và các chủ trương, biện pháp lớn của Đảng và Nhà nước (Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03-01-1996 của Bộ Chính trị và các Nghị định của Chính phủ), với sự hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát của các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và thị trường, các hoạt động thị trường đã có những bước phát triển mới, tích cực, thể hiện trên nhiều mặt: thị trường thống nhất cả nước hoạt động thông suốt và phát triển; kênh lưu thông nhiều mặt hàng được định hình và củng cố với sự tham gia của nhiều chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế; quan hệ giữa sản xuất và thương mại được củng cố và phát triển theo hướng liên kết ngày càng chặt chẽ hơn; hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú, đa dạng, dồi dào và được mua bán tự do theo giá cả tương đối ổn định, hình thành theo các quy luật thị trường và có sự điều tiết của Nhà nước khi cần thiết; chất lượng hàng hoá ngày càng được nâng cao, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và đời sống. Bên cạnh những mặt tích cực, trên thị trường còn diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, các hành vi vi phạm pháp luật, như buôn lậu, sản xuất - buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép, gian lận thương mại có nơi, có lúc những hành vi thuộc các loại đối tượng này ở mức rất nghiêm trọng, diễn biến phức tạp về phương thức hoạt động, thủ đoạn đối phó cũng như cách thức trốn tránh pháp luật, trốn tránh lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường: - Về buôn lậu. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, cùng với việc mở rộng hoạt động thị trường trong nước và hoạt động giao lưu kinh tế, buôn bán đối ngoại thì hoạt động buôn lậu cũng hồi sinh và có lúc diễn ra khá sôi động trên các tuyến biên giới, kể cả tuyến đường biển. Hàng hoá buôn lậu qua biên giới bao gồm cả hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu, nhưng chủ yếu là hàng nhập khẩu. Hàng nhập lậu thường được lưu chuyển, mua bán trên thị trường nội địa, có nhiều loại còn được mua bán công khai trên thị trường. Hàng nhập lậu qua từng thời gian có khác nhau, nhưng nhìn chung chủ yếu là những hàng cấm, hàng có thuế suất nhập khẩu cao, nhất là vào thời điểm mặt hàng có biến động lớn về quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường nội địa. Hàng xuất lậu có thể là gỗ quý, động vật hoang dã, hải sản, có thời điểm xuất lậu gạo, đồ cổ, kim đá quý, ngoại tệ Hàng nhập lậu nếu lọt qua các tuyến đường hàng không, đường bộ, biên giới, biển, bưu điện đều được vận chuyển (bằng mọi phương tiện có thể và phù hợp: xe máy, ô tô, đường sắt, ghe thuyền...) tập trung về các điểm tập kết ở tuyến sau để tổ chức tiêu thụ trên thị trường nội địa. Để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát và phát hiện của các lực lượng kiểm tra chống buôn lậu trong quá trình tập kết, vận chuyển, tiêu thụ hàng nhập lậu, bọn buôn lậu thường sử dụng nhà ở làm nơi tập kết, cất giấu hàng, thậm chí còn là nơi bán và giao nhận hàng; xếp lẫn hàng lậu với hàng hợp pháp trong khi vận chuyển hoặc bán hàng; sử dụng “hoá đơn, chứng từ hoặc tem quay vòng” để hợp thức hoá cho hàng lậu - Về sản xuất, buôn bán hàng giả. Sản xuất và buôn bán hàng giả trong những năm gần đây ở Việt Nam, cũng giống như ở nhiều nước khác, có xu hướng phát triển ngày càng tăng, với quy mô ngày càng lớn và với diện mặt hàng ngày càng rộng. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy tham gia hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả có đủ loại tổ chức và cá nhân thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, phần đông và phổ biến hơn quả là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ kinh doanh cá thể. Có những tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán hàng giả gần như mang tính chuyên nghiệp. Việc tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất lượng, chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, vì ở những nơi này trình độ dân trí thấp, kém hiểu biết, lại có tâm lý thích hàng ngoại, giá rẻ nên dễ lừa gạt; hơn nữa ở đây sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng thường chưa chặt chẽ, có nhiều sơ hở nên dễ trốn tránh. Hàng giả không chỉ được sản xuất ở trong nước, mà còn được móc nối tổ chức sản xuất ở nước ngoài sau đó tìm cách đưa vào Việt Nam để tiêu thụ, hoặc thậm chí được sản xuất ở trong nước rồi đưa qua biên giới để sau đó tìm cách nhập trở lại vào nước ta với nhãn mác hàng ngoại dễ lừa gạt người tiêu dùng. - Về kinh doanh trái phép. Hoạt động kinh doanh trái với các quy định của pháp luật, cụ thể là kinh doanh không có đăng ký hoặc không đúng nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không đúng hoặc không đủ các điều kiện quy định đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện; không có hoặc không đúng nội dung giấy phép trong trường hợp quy định phải có giấy phép riêng... những năm qua tuy không nổi cộm như hoạt động buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả, không nổi lên thành vấn đề lớn, thành những điểm nóng gây bức xúc, nhức nhối trong xã hội nhưng không phải vì thế mà ít nghiêm trọng hơn. Theo điều tra của Bộ Thương mại và Tổng cục Thống kê cho thấy: + Chỉ có 35,8% số hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh (508.414 trong số 1.419.277 hộ). + 26,5% số doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã và tổ hợp tác không có chứng nhận hành nghề theo quy định; đồng thời có đến 73,2% số hộ kinh doanh cá thể thuộc loại này. + Trong số hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh thì hơn 6% vi phạm nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tổng hợp số liệu thống kê cho thấy số vụ vi phạm bị phát hiện và xử lý về lĩnh vực này thường chiếm trên 50% tổng số vụ vi phạm do lực lượng Quản lý thị trường cả nước kiểm tra, phát hiện và xử lý. Tuy quy mô từng vụ việc kinh doanh trái phép thường không lớn, nhưng lại diễn ra khá phổ biến và ở diện rộng trong phạm vi cả nước, nên có thể gây thất thu lớn về thuế cho Nhà nước; mặt khác, đây là vấn đề trật tự kỷ cương, phép nước trong kinh doanh, đồng thời cũng thể hiện văn minh thương mại, nên không thể bỏ qua hoặc xem nhẹ những hành vi vi phạm này. Cần phải kết hợp việc thu thuế với việc kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm; đồng thời, định kỳ hoặc đột xuất tiến hành kiểm tra có chọn lọc về ngành hàng, địa bàn... để đánh giá đúng thực trạng của tình hình và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. - Về gian lận thương mại và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Những hành vi gian lận thương mại trên thị trường Việt Nam những năm qua là: + Trong kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ kế toán, chế độ hoá đơn, chứng từ, như: không mở sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ phản ánh không đúng thực tế hoạt động kinh doanh đã phát sinh (sai giá, sai mặt hàng, không đúng số lượng...), sử dụng hoá đơn, chứng từ không đúng loại Nhà nước quy định. + Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định về hoá đơn, chứng từ hàng hoá lưu thông trên đường vận chuyển. Quay vòng hoá đơn, chứng từ để hợp thức hoá hàng lậu. + Vi phạm các quy định về gửi, nhận hàng hoá qua đường bưu điện. + Các vi phạm về ghi nhãn hàng hoá, dán tem hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu (đối với những mặt hàng quy định phải dán tem). + Vi phạm về bảo hành hàng hoá, dịch vụ thương mại: không thực hiện bảo hành hàng hoá đối với những sản phẩm phải bảo hành hoặc đã tự công bố bảo hành mà không thực hiện. + Vi phạm về khuyến mại, quảng cáo, viết đặt biển hiệu công ty, cửa hàng, cửa hiệu... + Vi phạm các quy định về mở và hoạt động văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân Việt Nam cũng như của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. + Vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý giá cả: kinh doanh không niêm yết giá hoặc thực hiện mua bán không theo mức giá quy định đối với những mặt hàng do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định giá. Ngoài ra, còn có các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, hành vi đầu cơ, tích trữ hàng hoá gây hỗn loạn, mất ổn định thị trường để nâng giá thu lợi bất chính; hoặc các hành vi của các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ trái pháp luật Việt Nam... 2.1.2. Kết quả tồn tại, nguyên nhân hạn chế việc thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường. Thứ nhất: Về kết quả. Từ năm 1995 đến nay (sau khi Nghị định 10/CP ngày 23-01-1995 được ban hành), lực lượng Quản lý thị trường trong cả nước đã được tổ chức lại và hoạt động theo những yêu cầu mới: “Quản lý thị trường là lực lượng chuyên trách, được tổ chức từ Trung ương đến huyện, có chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại ở thị trường trong nước”; đồng thời phấn đấu theo hướng đã được xác định tại Nghị quyết 12-NQ/TW ngày 03-01-1996 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó ghi rõ: “Xây dựng lực lượng Quản lý thị trường theo yêu cầu chính quy, tổ chức chặt chẽ”. Những năm qua, trong bối cảnh công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường còn có nhiều khó khăn, hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ còn có nhiều lộn xộn, trật tự kỷ cương trong hoạt động thị trường chưa được tốt; hoạt động buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả, gian lận thương mại còn diễn biến khá phức tạp song lực lượng Quản lý thị trường đã làm được nhiều việc quan trọng, có ý nghĩa thiết thực. Từ năm 1995 đến 2001, lực lượng Quản lý thị trường trong cả nước đã phát hiện và xử lý 640.000 vụ vi phạm pháp luật, thu 1069 tỷ đồng tiền phạt vi phạm hành chính, tiền bán hàng tịch thu và truy thu thuế. Thứ hai: Về tồn tại. - Chưa khắc phục triệt để tình trạng hàng nhập lậu bày bán công khai và tràn lan trên thị trường. Tuy số lượng từng loại hàng bày bán không nhiều nhưng rất khó xử lý mối quan hệ giữa ổn định thị trường và chống buôn bán hàng nhập lậu. - Thực trạng "quay vòng" hoá đơn chứng từ là khá phổ biến ở nhiều địa phương, nhiều tuyến đường vận chuyển chưa được khắc phục. Nhiều đối tượng đã lợi dụng các quy định chưa đồng bộ của Nhà nước để hợp pháp hoá việc vận chuyển nhiều lần hàng nhập lậu bằng chứng từ bán hàng tịch thu. Vì vậy, các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong việc làm rõ số hàng đang vận chuyển có nằm trong lô hàng bán đấu giá hay không. - Hiện tượng hợp pháp hoá hàng nhập lậu bằng tờ khai hàng miễn thuế theo tiêu chuẩn, hàng quà biếu, hành lý xách tay, hàng từ cửa hàng miễn thuế đang có chiều hướng gia tăng. - Tình trạng kinh doanh không đăng ký, không đủ điều kiện kinh doanh (đối với những mặt hàng kinh doanh có điều kiện) vẫn còn tồn tại. Hiện tượng sang chiết gas trái phép, kinh doanh xăng pha thêm dầu hoả hoặc các loại xăng khác có chỉ số ốc tan thấp hơn để kiếm lời vẫn còn, nhưng khó phát hiện và xử lý do phải giám định hàng hoá mà phí giám định lại cao. - Tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng quá hạn sử dụng, hàng kém chất lượng vẫn còn tiếp diễn nhưng khó kiểm soát. - Việc xử lý hàng tịch thu còn chậm, lúng túng. Hàng giả, hàng độc hại chưa được tiêu huỷ kịp thời do thiếu kinh phí. Thứ ba: Về nguyên nhân. - Nguyên nhân khách quan, là do: + Việt Nam có địa hình tương đối thuận lợi cho hoạt động buôn bán và vận chuyển hàng lậu, đồng thời cũng là trở ngại khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của các lực lượng chống buôn lậu nói chung và của lực lượng Quản lý thị trường nói riêng... + Môi trường khu vực: Việt Nam nằm trong khu vực kinh tế năng động, là khu vực khủng hoảng thừa về hàng hoá. Do khả năng cạnh tranh còn hạn chế, trong điều kiện thực hiện cơ chế mở và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm thừa từ các quốc gia này. + Thị trường Việt Nam: Với gần 80 triệu người, Việt Nam có sức tiêu thụ lớn về hàng hoá, dễ chấp nhận hàng giá rẻ, “sính” hàng ngoại mà không cần quan tâm đến nguồn gốc hàng nhập lậu hay hàng gian lận thương mại, đặc biệt là không cần hoá đơn chứng từ khi mua bán hàng tiêu dùng. + Hàng hoá của Việt Nam những năm qua tuy có phát triển nhưng nhìn chung chưa thể cạnh tranh được về mẫu mã, chủng loại, chất lượng và giá cả so với hàng ngoại, dẫn đến tình trạng nhiều mặt hàng nhập lậu lấn át chiếm lĩnh thị trường trong nước. + Kinh phí và phương tiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường chưa đáp ứng so với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ; chính sách, chế độ đãi ngộ đối với công chức Quản lý thị trường chưa tương xứng và phù hợp với hoạt động của ngành, cụ thể: lực lượng Quản lý thị trường chưa có thang bảng lương riêng, cơ chế thưởng chưa có tác dụng khuyến khích, động viên các lực lượng chống buôn lậu. + Nạn tham nhũng và tình trạng thiếu việc làm ở nước ta cũng là những nhân tố nuôi dưỡng và hỗ trợ buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép và trốn thuế... + Ngoài ra phải kể đến cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật có liên quan đến phòng chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, đặc biệt những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ ở nước ta đến nay chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ. Các cơ quan quản lý của Nhà nước nhìn chung còn thụ động so với diễn biến của tình hình thực tế. - Nguyên nhân chủ quan, là do: + ý thức trách nhiệm trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện chống buôn lậu, chống sản xuất và buôn bán hàng giả của một số địa phương và Bộ, ngành chức năng chưa được đề cao đúng mức. + Công tác chỉ đạo chưa thật toàn diện, chưa theo sát diễn biến tình hình, chưa tạo được hành lang pháp lý cho việc kiểm tra và xử lý vi phạm. + Công tác điều tra, trinh sát, gây dựng mạng lưới nhân mối, cung cấp thông tin chưa đạt yêu cầu; + Công tác tuyên truyền pháp luật, phổ biến chính sách, cơ chế và vận động chấp hành pháp luật trong hoạt động thương mại, chưa thực hiện được thường xuyên và rộng rãi đến từng hộ kinh doanh. + Việc phân công địa bàn kiểm tra, kiểm soát chưa rõ ràng, còn nhiều chồng chéo. + Còn có những kiểm soát viên thị trường chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm chưa cao, hoạt động độc lập còn yếu, ngại khó khăn, va chạm. 2.2. Giải pháp tăng cường chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường ở Việt Nam hiện nay. 2.2.1. Đổi mới tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý nhà nước về thị trường. Sau khi miền Bắc được giải phóng, ngày 03/7/1957 Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 290/TTg về thành lập Ban Quản lý thị trường trung ương và các Ban Quản lý thị trường ở các tỉnh, thành phố, khu tự trị. Trải qua 45 năm tổ chức và hoạt động, qua từng thời kỳ khác nhau, đến nay lực lượng Quản lý thị trường đã được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến địa phương. ở trung ương là Cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Thương mại; tại 61 tỉnh, thành phố trong cả nước là 61 Chi cục Quản lý thị trường trực thuộc Sở Thương mại (Sở Thương mại và Du lịch) với gần 500 Đội Quản lý thị trường trực thuộc Chi cục Quản lý thị trường. Nhìn chung, tổ chức và hoạt động lực lượng Quản lý thị trường mặc dù đã theo những quy định pháp luật nhưng chưa được tổ chức thành hệ thống nên chưa đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ Quản lý thị trường, nhất là những vấn đề mới phát sinh trong cơ chế thị trường. Các Chi cục Quản lý thị trường tổ chức theo nguyên tắc song trùng lãnh đạo nên sự chỉ đạo và thực hiện có lúc có nơi không đồng bộ, thống nhất. Một bộ phận lực lượng Quản lý thị trường có trình độ văn hoá và nghiệp vụ chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kiểm soát viên thị trường. Từ thực trạng trên, việc đổi mới tổ chức bộ máy quản lý thị trường trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi: Một: Phải quán triệt các quan điểm sau: - Đổi mới tổ chức Quản lý thị trường nhằm xác định rõ hơn địa vị pháp lý của Quản lý thị trường (vị trí, vai trò, tính chất, phạm vi hoạt động của Quản lý thị trường) trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát chấp hành pháp luật thương mại. Trên cơ sở đó, tăng cường vai trò quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh thương mại trên thị trường, bảo đảm nền kinh tế thị trưởng ở nước ta không ngừng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang tiếp tục cải cách kinh tế và mở cửa, thực tiễn hoạt động luôn nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi tổ chức Quản lý thị trường cũng phải đổi mới, thích ứng và không ngừng hoàn thiện. - Đổi mới tổ chức Quản lý thị trường nhằm thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. - Đổi mới tổ chức Quản lý thị trường nhằm xây dựng bộ máy tổ chức Quản lý thị trường từ trung ương đến địa phương hợp lý, tinh gọn, hoạt động có hiệu quả và thể hiện sự uy nghiêm của cơ quan công quyền; cơ cấu cán bộ, công chức không ngừng được đổi mới, chất lượng đội ngũ không ngừng được nâng cao; điều kiện làm việc không ngừng được cải thiện theo hướng hiện đại hoá, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 12/NQ-TW ngày 03-01-1996 của Bộ chính trị “xây dựng lực lượng Quản lý thị trường theo yêu cầu chính qui, tổ chức chặt chẽ”. - Đổi mới tổ chức Quản lý thị trường phải dựa trên cơ sở chính sách, pháp luật, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính của Nhà nước; đảm bảo tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và phát huy ưu điểm, khắc phục những bất cập và tồn tại; từng bước hoàn thiện bộ máy tổ chức; nâng cao địa vị pháp lý của Quản lý thị trường; ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực của Kiểm soát viên thị trường trong điều kiện hoạt động luôn luôn tiếp xúc với mặt trái của nền kinh tế thị trường. - Trên cơ sở đổi mới tổ chức Quản lý thị trường, cần tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm từ thực tiễn về hoạt động của ngành để bổ sung cơ chế chính sách, luật pháp và hệ thống hoá những vấn đề quản lý hoạt động của ngành thành lý luận phục vụ cho việc giảng dạy, tập huấn bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, công chức trong ngành. Hai: Đổi mới mô hình tổ chức Quản lý thị trường các cấp phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động và chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao theo hai hình thức sau: - Mô hình tổ chức theo hệ thống dọc: Theo mô hình này, lực lượng kiểm soát thị trường tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương như các ngành Thuế, Hải Quan... Ưu điểm của mô hình này là việc chỉ đạo hoạt động đối với toàn lực lượng kiểm soát thị trường được thống nhất, tập trung, thông suốt và nhất quán từ trung ương đến địa phương. Khắc phục được những vấn đề tồn tại nảy sinh trước đây do phân cấp : như tính cục bộ, bản vị, vì lợi ích của địa phương (để giải quyết công việc làm, nguồn thu cho ngân sách ...) mà xem nhẹ lợi ích toàn cục, lợi ích chung của cả nước, nới tay, thậm chí làm ngơ cho hoạt động buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Tổ chức theo mô hình này có thuận lợi là hoạt động kiểm tra, kiểm soát được tập trung vào một đầu mối, chỉ đạo tập trung, thông suốt, cơ chế kiểm tra, kiểm soát thực thi thống nhất trong cả nước. Nhờ vậy việc tạo dựng môi trường pháp lý thông thoáng cho các hoạt động kinh doanh trên thị trường sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. - Mô hình phân cấp quản lý cho địa phương. Mô hình phân cấp quản lý cho địa phương (hiện nay đang áp dụng) được hình thành từ quan điểm: nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại là trách nhiệm chung của các ngành các cấp. Mô hình này còn xuất phát từ yêu cầu nâng cao vị thế của Sở Thương mại ( Sở Thương mại- Du lịch) tại địa phương. Theo mô hình này thì Uỷ ban nhân dân (mà trực tiếp là Sở Thương mại) quản lý toàn diện hoạt động của Chi cục Quản lý thị trường: trực tiếp chỉ đạo hoạt động kiểm tra, kiểm soát; bố trí tổ chức, biên chế; thực hiện chế độ chính sách. Ba: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thị trường. Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thị trường được qui định tại Nghị định số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ và Văn bản số 696/CP-KTTH ngày 02 tháng 8 năm 2000 của Văn phòng Chính phủ. Nội dung các văn bản này đã được trình bày ở chương 1. Trong điều kiện hiện nay vấn đề trên đòi hỏi cần xác định rõ cụ thể theo hướng kiểm tra, kiểm soát hoạt động lưu thông hàng hoá như hiện nay, hoặc mở rộng theo hướng bao quát các hành vi thương mại. Thực tiễn nước ngoài cũng qui định chức năng, nhiệm vụ của tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, thực hiện kiểm tra việc chấp hành pháp luật thương mại, và như thế rộng hơn so với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Quản lý thị trường nước ta đang đảm nhận. Bốn: Phát huy năng lực đội ngũ cán bộ, công chức kiểm soát thị trường. Cho đến nay lực lượng Quản lý thị trường mới chỉ có 27,3% cán bộ, công chức tốt nghiệp hoặc đang theo học tại các trường đại học, 44,5% tốt nghiệp hoặc đang học các trường cao đẳng, trung học. Số còn lại chưa qua đào tạo tỷ lệ vẫn còn khá cao: 28,2%. Năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ hạn chế là cản trở không nhỏ và giảm hiệu quả hoạt động của Quản lý thị trường. Thực trạng trên đòi hỏi phải có qui hoạch đào tạo bồi dưỡng, bố trí thời gian cho cán bộ, công chức vừa đảm bảo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, vừa có thời gian theo học các trường đại học, cao đẳng. Phấn đấu từ nay đến 2010 ít nhất phải có 60- 70% số cán bộ, công chức có trình độ đại học. Song song với đào tạo cần sửa đổi chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ, công chức sẽ góp phần ngăn chặn, hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong ngành. Năm: Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của Kiểm soát viên. Hoạt động của Kiểm soát viên thị trường có đặc điểm là thường xuyên tiếp xúc với mặt trái của kinh tế thị trường, nếu không vững vàng thì dễ bị bọn đầu lâu lôi kéo, mua chuộc. Do vậy, cần tăng cường quản lý, tăng cường thanh tra kiểm tra nội bộ, thường xuyên giám sát hoạt động của Kiểm soát viên thị trường. Để công tác kiểm tra nội bộ đi vào nề nếp, nhất là sau khi Viện kiểm sát nhân dân không còn chức năng kiểm sát chung, trong thời gian tới, việc kiểm tra nội bộ cần xây dựng thành qui chế, trong đó qui định rõ nội dung, phương thức kiểm tra, thẩm quyền xử lý giữa ngành và cấp trong điều kiện phân cấp song trùng lãnh đạo như hiện nay; trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Quản lý thị trường cần hình thành một tổ chức kiểm tra chuyên trách giúp việc cho lãnh đạo; cần tiếp tục duy trì đường dây nóng nhằm phát hiện nhanh các hiện tượng tiêu cực của Kiểm soát viên; bên cạnh việc tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, kỷ luật công tác thì việc xử lý phải công minh, khách quan, kịp thời và nghiêm khắc để có tác dụng răn đe vi phạm là hết sức quan trọng. 2.2.2. Giải pháp đổi mới công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường. Giải pháp trên đòi hỏi: Một là: Hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, kiểm soát thị trường và xử lý vi phạm. Pháp luật về kiểm tra, xử lý những vi phạm về thương mại bao gồm hệ thống các quy định pháp lý của Nhà nước về công tác kiểm tra, xử lý, trong đó bao gồm các quy định về đối tượng và phạm vi chịu sự kiểm tra, xử lý (cụ thể là chủ thể thực hiện các hành vi vi phạm về mua bán, lưu thông hàng hoá, dịch vụ thương mại có liên quan); các hành vi mà chủ thể vi phạm và những chế tài áp dụng xử lý; quy trình kiểm tra, xử lý (bao gồm tổ chức và cá nhân có thẩm quyền kiểm tra, xử lý, trình tự, thủ tục tiến hành kiểm tra, xử lý) và các quy định khác có liên quan đến thực thi công tác kiểm tra, xử lý những vi phạm trong hoạt động thương mại. Cho đến nay nước ta chưa có Bộ luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý. Về lâu dài phải xây dựng thành bộ luật. Trước mắt, từ nay đến 2005 cần tập trung sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến kiểm tra, xử lý trong lĩnh vực thương mại như sau: - Sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại, trong đó nội dung về thanh tra chuyên ngành thương mại cần sửa đổi theo hướng: về nội dung hoạt động kiểm tra thương mại, bao gồm kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thương mại (các hành vi về buôn lậu, buôn bán, vận chuyển hàng cấm, sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng và các hành vi gian lận thương mại khác); phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về thương mại; kiến nghị các biện pháp bảo đảm việc thi hành pháp luật về thương mại và hoàn thiện pháp luật về thương mại. Về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan kiểm tra hoạt động thương mại sẽ do Chính phủ quy định. - Xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh, dự kiến trình Quốc hội thông qua vào năm 2003. Đây là đạo luật mới nhằm đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập. Những quan hệ thương mại phát sinh về cạnh tranh không hợp pháp sẽ được Luật Cạnh tranh điều chỉnh và là cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm tra, xử lý những hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. - Sửa đổi, ban hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính nhằm xác lập những nguyên tắc về xử lý vi phạm hành chính, cụ thể về hình thức xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, các biện pháp ngăn chặn vi phạm và bảo đảm việc xử lý vi phạm, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính... Trên cơ sở Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi mới được ban hành ngày 16/7/2002, cần có Nghị định mới của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, trong đó đáng chú ý nhất là việc xác định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại. Việc sửa đổi Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại dự kiến thông qua trong năm 2003. Trong công tác đấu tranh chống buôn lậu từ nay đến 2003 cần tập trung làm tốt một số vấn đề sau: - Sửa đổi, bổ sung các quy định về hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường nhằm bảo đảm không có kẽ hở bị lợi dụng quay vòng bộ hoá đơn chứng từ hàng hoá (bao gồm: bộ chứng từ nhập khẩu, bộ chứng từ bán hàng đấu giá, hoá đơn bán hàng...) để hợp pháp hoá cho hàng lậu. - Sửa đổi, bổ sung hệ thống ấn chỉ sử dụng trong kiểm tra, xử lý của lực lượng Quản lý thị trường. - Xem xét bổ sung quy trình về kiểm tra, xử lý. - Sửa đổi quy chế tổ chức và hoạt động của các trạm kiểm soát liên hợp. Hai là: Đổi mới phương thức kiểm tra, kiểm soát thị trường hiện nay. - Tổ chức tốt công tác thông tin về dấu hiệu vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại như buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả và các hành vi gian lận thương mại khác... Đây là cơ sở để các lực lượng chức năng thực hiện kiểm tra, kiểm soát và xử lý. Vì vậy, cần làm tốt một số nội dung sau: + Ngoài việc duy trì nguồn tin cung cấp qua biện pháp mua tin của các nhân mối, cần chú trọng phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, lực lượng như Công an, Quốc phòng, Biên phòng, Hải quan... để có thông tin. + Chủ động phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với các đoàn thể chính trị xã hội, như vận động mọi người tự giác chấp hành các quy định của pháp luật, tố cáo những hành vi vi phạm với các lực lượng kiểm tra, kiểm soát... + Tổ chức tốt công tác dự báo tình hình. Cục quản lý thị trường sớm tổ chức và đầu tư nghiên cứu để chủ động có những thông tin chỉ đạo hoạt động kiểm tra, kiểm soát. + ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác kiểm tra, kiểm soát. + Đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, kiểm soát. Phát triển thương mại trong quá trình hội nhập làm xuất hiện thêm những vấn đề mới về đối tượng kiểm tra và phương thức hoạt động mới trong quan hệ thương mại. Trong giao dịch thương mại phát sinh nhiều quan hệ chưa được pháp luật điều chỉnh, như cạnh tranh không lành mạnh (phá giá, độc quyền...). Bên cạnh đó, sự xuất hiện của thương mại điện tử ngày càng chiếm ưu thế trong quan hệ thương mại, dịch vụ. Vì vậy, đòi hỏi hình thức và phương pháp tổ chức kiểm tra phải được đổi mới. Đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường nội địa cần rà soát lại những quy định hiện hành về quản lý, như chế độ đăng ký kinh doanh của thương nhân, chế độ quản lý thu thuế doanh nghiệp, chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông, chế độ quản lý giá, sổ sách kế toán của doanh nghiệp... Công tác kiểm tra, kiểm soát, bên cạnh phương pháp trực tiếp như khám xét (chủ yếu áp dụng đối với hộ buôn chuyến và vận chuyển hàng hoá thường xuyên từ biên giới vào nội địa), cần tổ chức hình thức kiểm tra, kiểm soát trên cơ sở dự báo tổng hợp phân tích khoa học và áp dụng biện pháp khoa học kỹ thuật văn minh để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những vi phạm đối với các doanh nghiệp. 2.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất và điều kiện làm việc cho lực lượng Quản lý thị trường. Việc tăng cơ sở vật chất và điều kiện làm việc cho lực lượng Quản lý thị trường cần tuân thủ nguyên tắc: Trang bị theo hướng chính qui, thể hiện sự uy nghiêm của cơ quan công quyền trong việc thực thi pháp luật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới, nhưng không làm “quân sự hoá đội ngũ công chức thương mại ”, phù hợp với chủ trương mở rộng hội nhập Quốc tế và khu vực của Đảng và Nhà nước. Trên tinh thần ấy, cần thực hiện những việc sau: - Về trụ sở làm việc của Chi cục, Đội Quản lý thị trường cần được xây dựng khang trang, diện tích làm việc theo tiêu chuẩn qui định chung nhưng cần có các công trình bổ trợ phù hợp với đặc thù của Quản lý thị trường như: phòng tiếp dân, kho chứa hàng hoá thông thường, kho chứa hàng độc hại, sân tập kết hàng hoá để kiểm tra, chỗ nghỉ của anh em kiểm soát viên khi làm nhiệm vụ trực ban... - Trang phục đồng phục thể hiện sự nghiêm túc của người thi hành công vụ; ấn chỉ phải phản ánh đầy đủ thẩm quyền của Quản lý thị trường theo qui định của pháp luật và gây được lòng tin đối với người bị kiểm tra; trang bị phương tiện và công cụ hỗ trợ cần thiết đảm bảo tính cơ động trong hoạt động kiểm tra và đủ sức để đối phó trước sự chống đối của bọn buôn lậu, làm hàng giả có tổ chức và có trang bị tốt. - Thực hiện tin học hoá theo chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước của Đảng; xây dựng mạng thông tin quản lý thị trường. Kết luận Tăng cường thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường trong điều kiện của cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay là hết sức cấp bách. Kiểm tra, kiểm soát thị trường là một chức năng quan trọng của Quản lý thị trường, góp phần thực hiện chức năng kiểm tra kiểm soát của quản lý Nhà nước về kinh tế. Để bảo đảm thực thi chức năng này, trong từng thời kỳ, từng thời gian tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu cụ thể cần xác định những nhiệm vụ kiểm tra - kiểm soát thị trường cho phù hợp. Trong khuôn khổ có hạn, luận văn đã đề xuất các giải pháp trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm về hoàn thiện pháp luật, về xây dựng lực lượng và trang bị phương tiện cho lực lượng kiểm tra, kiểm soát, đổi mới phương thức hoạt động của lực lượng này. Đó chỉ là những giải pháp cơ bản, cần được cụ thể hoá và triển khai thực hiện chặt chẽ. Kiểm tra, kiểm soát thị trường là một trong những chức năng quan trọng nhất của quản lý nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện của một nền kinh tế còn đầy biến động, lại chịu sức ép mạnh mẽ của thị trường quốc tế, tệ nạn hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại, kinh doanh trái pháp luật ở nước ta sẽ còn xu hướng gia tăng, gây hậu quả nghiêm trọng thì vấn đề tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường luôn luôn là vấn đề thời sự, phải được nhà nước và toàn xã hội quan tâm, không ngừng được đổi mới. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Các Mác – Ph. Ănghen : Toàn tập, tập 21, NXB Sự Thật, Hà Nội,1993. 2.VI. Lênin : Toàn tập, tập 36, NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va,1977 3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987. 4.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. 5. Hiến pháp năm 1992. 6. Nghị quyết số 51/2001- QH10 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. 7. Bộ Luật dân sự. 8. Luật Thương mại. 9. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và nghị định quy định cụ thể xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực quản lý thị trường. 10. Nghị định số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính Phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Quản lý thị trường. 11. Nghị định số 02/CP ngày 05/01/1995 của Chính phủ quy định về hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thương mại có điều kiện ở thị trường trong nước. 12. Giáo trình Luật kinh tế, Đại học Luật Hà Nội. 13. Một số tài liệu khoa học liên quan đến đề tài. Mục lục Trang Mở đầu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 2 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 2 4. ý nghĩa của luận văn 3 5. Kết cấu của luận văn 3 Chương 1 : Cơ sở lý luận về quản lý và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường. 4 1.1.Quản lý và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường. 4 1.2. Chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường. 14 1.3 Cở sở pháp luật của quản lý nhà nước đối với thị trường và chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường. 22 Chương 2: Thực trạng và giải pháp tăng cường thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường ở Việt Nam hiện nay. 27 2.1. Thực trạng thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan nhà nước có chức năng quản lý thị trường (1997-2002). 27 2.2. Giải pháp tăng cường chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường ở Việt Nam hiện nay. 34 Kết luận 42 Phụ Lục Danh mục Tài liệu tham khảo 43

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9514.doc
Tài liệu liên quan