Tức là công ty tiến hành các công tác như dự đoán biến động của lãi suất; phân tích độ nhạy cảm lãi suất của các tài sản bằng các kỹ thuật phân tích khoảng cách và khoản thời gian tồn tại; tiến hành các biện pháp khác nhau để loại trừ rủi ro lãi suất .
Kỹ thuật phân tích độ nhạy cảm của lãi suất gồm các bước:
Phân tích độ nhạy cảm lãi suất của từng loại tài sản ở bên tài sản và bên nguồn vốn.
Sử dụng các phương pháp khác để đánh giá ảnh hưởng của những thay đổi lãi suất ứng với các tương quan giữa bên tài sản và bên nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất.
Đề suất các điều chỉnh cần thiết để hạn chế rủi ro lãi suất.
55 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 884 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý tài chính tại công ty tài chính cao su - Tổng cao ty cao su Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho vay của doanh nghiệp qua các năm
Đơn vị tính:Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Chênh lệch 2003 so 2002
Chênh lệch 2004 so 2003
Mức
%
Mức
%
Cho vay các TCKT, cá nhân trong nước
300,685
432,815
254,831
132,130
43.94%
-177,984
-41.12%
Nguồn: Bảng cân đối kế toán
Qua số liệu phân tích trên ta thấy nhìn chung tình hình cho vay của công ty trong giai đoạn ba năm đã phát triển rất tốt và khả năng cho vay của công ty ngày càng được phát huy mạnh mẽ.
Cụ thể như, nếu trong năm 2002 công ty chỉ có thể cho vay với tổng giá trị đạt 300.685 tỷ đồngthì bước qua năm 2003 công ty đã nâng con số này lên đạt 432.815tỷ đồng. Và trong năm vừa qua, với việc mở rộng hoạt động và nâng cao chất lượng các khoản cho vay, công ty đã thực hiện cho vay cho đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước đạt tổng mức là 254.831.207.005 VNĐ. Con số này nếu so với mức cho vay trong năm 2003 đã giảm 41.12%, tuy nhiên thực tế không phải như vậy vì do công ty đã thay đổi phướng thức hạch toán kế toán trên bảng cân đối kế toán. Kết quả là dự nợ tài sản giảm nhiều do chuyển phần cho vay từ nguồn vốn uỷ thác AFD 261,457,121,900 đ ra tài khoản ngoài bảng. Vì vậy, nếu cộng khoản cho vay nguồn vốn uỷ thác AFD vào khoản cho vay từ nguồn vốn của công ty thì dư nợ cho vay của công ty trong năm vừa qua tăng.
Có thể nói thêm rằng trong năm 2003, ngoài cho các đơn vị trong ngành vay, công ty đã có thêm 150 khách hàng, trong đó có 36 doanh nghiệp, còn lại là các hộ kinh doanh cá nhân. Hiện nay,có trên 500 khách hàng, trong đó cho vay ngoài ngành tăng trưởng nhanh, đảm bảo được kế hoạch tăng trưởng chung, mặc dù nhu cầu vay của các doanh nghiệp trong ngành giảm ( năm qua ngành cao su hoạt động đạt hiệu quả cao, tài chính dồi dào dẫn đến nhu cầu vay vốn giảm mạnh).
Ngoài ra, thời gian vừa qua công ty đã mở thêm một phòng giao dịch, 3 tổ tín dụng ; ngoài cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã mở rộng thêm các loại hình : cho vay vốn làm kinh tế hộ gia đình, cho vay hỗ trợ nhu cầu nhà ở, sinh hoạt tiêu dùng, cho vay CBCNV không có tài sản đảm bảo thông qua sự giới thiệu và hỗ trợ của cơ quan
Như vậy, nhìn chung hoạt động tín dụng của công ty trong thời gian qua hoạt động rất tốt vì:
Thứ nhất, công ty luôn cẩn trọng trong việc tiến hành thu nhập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng vay tiền, thực hiện việc giám sát quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng một cách chặt chẽ và liên tục nhằm tìm ra những người vay có triển vọng tốt , loại trừ những người vay vốn quá mạo hiểm, đảm bảo sử dụng tiền vay đúng mục đích, giải quyết rõ ràng vấn đề lựa chọn đối nghịch giữa lợi nhuận và rủi ro đạo đức và kết cục là công ty đã giảm xác suất mất vốn mà tăng xác suất đạt mục tiêu thu nhập đối với tiền cho vay.
Thứ hai, công ty không ngừng sửa đổi, bổ sung đưa ra các nguyên tắc nhất định mà khách hàng phải tuân theo khi thực hiện hành động xin vay vốn tại công ty. Mặt khác công ty cũng không ngừng tăng cường tính chuyên môn hoá trong bộ máy cho vay của mình . Hơn nữa, công ty cũng đã ưu tiên thiết lập và duy trì sự ưu tiên trong cho vay ở mức độ nào đó có thể đối với những khách hàng có mối quan hệ ổn định, lâu dài với công ty.
Cuối cùng là sự đa dạng hoá các khoản cho vay luôn được công ty đặt lên hàng đầu trong hoạt động cho vay, không tập trung cho vay đối với một ngành công nghiệp hoặc một vài khách hàng riêng biệt mà thay vào đó là công ty biết phân tán vốn cho vay một cách thích hợp cho nhiều khách hàng thuộc nhiều ngành, nhiều loại cho vay, nhiều kỳ hạn Nói chung điều tốt nhất là không bao giờ bỏ tất cả các trứng vào cùng một rổ, vì thật là tai hại nếu bạn thực hiện điều đó! Chính vì sự đa dạng hoá hoạt động cho vay đã đem lại nhiều lợi ích cho công ty , nó cho phép công ty giảm thiểu được các rủi ro đặc thù, rủi ro do tập trung cho vay cũng như các rủi ro về thanh khoản và tương ứng là sự cải thiện được thu nhập đối với toàn bộ danh mục cho vay.
2.2 Tình hình dư nợ quá hạn tại công ty
Là một trung gian tài chính nên rủi ro trong hoạt động tín dụng của công ty là điều không tránh khỏi. Đặc biệt, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì rủi ro trong cho vay ngày càng cao. Ta biết rằng, trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài nguồn vốn tự có của mình các doanh nghiệp phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài, đó là nguồn vốn vay của các định chế tài chính. Đây là nhu cầu vay vốn rất cần thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh một cách bình thường. Tuỳ đặc điểm và tính chất hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp mà việc sử dụng vốn vay cũng có sự khác nhau. Thông thường các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại – dịch vụ sử dụng vốn vay nhiều hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất. Về phía công ty, đây là nghiệp vụ kinh doanh theo nguyên tắc đi vay để cho vay. Như vậy, việc phát sinh nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và vấn đề cho vay vốn của công ty đối với các doanh nghiệp là một tất yếu khách quan diễn ra thường xuyên trong quá trình thực hiện mọi hoạt động kinh doanh cả về phía doanh nghiệp và công ty. Doanh nghiệp vay vốn và công ty cho doanh nghiệp vay vốn được thực hiện bằng những cam kết thoả thuận theo những nội dung đã ấn định phù hợp với các nguyên tắc tín dụng. Về nguyên tắc, trong phạm vi thời hạn nợ quy định khi đến hạn trả nợ, doanh nghiệp vay vốn phải có trách nhiệm hoàn trả nợ gốc và lãi cho công ty. Thực hiện đúng nguyên tắc này, nhìn chung là rất tốt cho doanh nghiệp, cho công ty và cho cả nền kinh tế. Nhưng thực tế, lại không diễn ra như vậy, có nhiều doanh nghiệp không trả được nợ và lãi cho công ty khi nợ đã đến hạn trả. Trong trường hợp này, công ty không thu hồi được vốn và lãi. Đây người ta gọi là nợ quá hạn.
Nợ quá hạn hiện nay ở công ty nói riêng và ở các ngân hàng nói chung đang là một vấn đề đáng quan tâm. Làm thế nào để giải quyết dứt điểm nợ quá hạn, nhằm góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính của các doanh nghiệp vay vốn và tạo điều kiện cho công ty thực hiện tốt nghiệp vụ kinh doanh của mình trong lĩnh vực tín dụng, nhằm từng bước hội nhập quốc tế về lĩnh vực ngân hàng đạt kết quả.
Chúng ta có thể xem tình hình dư nợ và phần trăm dư nợ quá hạn của công ty trong thời gian gần đây
Khoản mục
Năm 2002
Năm 2003
Năm2004
1. Tổng dư nợ của công ty (VNĐ)
300,685,476,402
432,215,690,860
254,471,207,005
2. Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng DN
1.00%
1.70%
2.08%
Từ số liệu của bảng trên ta có nhận xét tổng quát như sau:
Tổng dư nợ của năm sau nhìn chung là cao hơn so với năm trước, điều này biểu hiện sự tăng trưởng về tín dụng của công ty.( Riêng năm 2004, do khoản cho vay từ vốn uỷ thác AFD được hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán)
Tỷ lệ phần trăm dư nợ quá hạn có xu hướng tăng, đây là những khoản nợ quá hạn tương đối cao đối với công ty. Nếu số nợ này trở thành nợ khó đòi, nợ xấu thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty và hoạt dộng kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên nếu so với tỷ lệ phần trăm dư nợ quá hạn hiện nay của một số ngân hàng thương mại nhìn cục bộ, có phần trăm nợ quá hạn cao, được biết đây là số nợ tồn đọng kéo dài chưa hoặc không giải quyết được.
Tình hình doanh nghiệp nợ và phần trăm nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian gần đây 1999-2003
Khoản mục
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
1. Tổng dư nợ (tỉ VNĐ) toàn bộ nền kinh tế
139,180
184,936
225,704
286,614
365,300
2. Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng DN
13.20%
10.75%
8.80%
8.15%
8.02%
Từ cái nhìn tổng quan ta nhận thấy rằng, mặc dù là phần trăm nợ quá hạn của công ty có xu hướng tăng, nhưng so với tổng ngành thì tỷ lệ này của công ty là tương đối an toàn. Ơû các nước trên thế giới hoặc trong khu vực, phần trăm nợ quá hạn của ngân hàng thương mại phải đạt tỷ lệ là dưới 5% - đây cũng là mục tiêu đề ra cho các NHTM Việt Nam. Như vậy, đánh giá chung về hoạt động tín dụng của công ty là khá tốt. Trong xu hướng hội nhập,công ty nên cố gắng phấn đấu duy trì mức tỷ lệ này hoặc hạ thấp nếu có thể để lành hoá tình hình tài chính của chính mình thông qua việc thực hiện các khoản tín dụng cá chất lượng tốt.
3. Tình Hình Đầu Tư Tại Công Ty
Mặc dù cho vay là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính cho công ty, nhưng ngoài các nghiệp vụ chính thì công ty luôn hướng đến những hoạt động khác . Một trong những hoạt động đó là đầu tư.
Trong bối cảnh của sự phát triển của nền kinh tế, sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam, và đặc biệt là sự sôi động trở lại của nó sau một thời gian dài vốn đã rất èo ọt và ế ẩm. Trong giai đoạn hiện nay, khi các DNNN ra sức cổ phần hóa theo quy định của nhà nước, cùng với sự xuất hiện của thị trường chứng khoán là các công ty chứng khoán của các ngân hàng và các sàn giao dịch lần lượt được khai sinh và hoạt động sôi nổi thì hoạt động đầu tư mà đặc biệt là đầu tư chứng khoán của công ty có xu hướng phát triển đi lên gắn liền với xu hướng nới lỏng quản lý của chính phủ và xu hướng đa dạng hoá hoạt động của công ty. Đây là một khoản mục tài sản quan trọng thứ hai sau các khoản mục cho vay.
Thực tế đầu tư qua các năm tại công ty
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Chênh lệch 2003 so 2002
Chênh lệch 2004 so 2003
Mức
%
Mức
%
1. Các khoản đầu tư
7,205
17,689
18,700
10,484
145.51%
1,011
5.72%
+ Đầu tư chứng khoán
805
1,289
2,300
484
60.12%
1,011
78.43%
+ Góp vốn liên doanh, mua cổ phần
6,400
16,400
16,400
10,000
156.25%
0
0.00%
2. Thu lãi góp vốn
272
570
921
298
109.56%
351
61.58%
3. Thu lãi kinh doanh chứng khoán
75
281
293
206
274.67%
12
4.27%
Là một định chế tài chính phi ngân hàng luôn tuân thủ những quy định của nhà nước, công ty đã tiến hành hoạt động kinh doanh đầu tư chứng khoán và tham gia trên thị trường tiền tệ theo khuôn khổ của pháp luật. Trong ba năm qua, 2002-2004, cùng với bước đi sôi động của thị trường, công ty đã nhanh chóng hoà mình và dòng chảy ấy nhằm mục đích mở rộng xu hướng hoạt động của công ty .
Và khi tham gia vào thị trường tài chính tiền tệ, công ty đầu tư chủ yếu vào các loại chứng khoán – thường là chứng khoán nợ sau: Trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngắn hạn, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu công ty, cổ phiếu và nhìn chung tình hình đầu tư chứng khoán của công ty trong ba năm qua đã tăng trưởng nhanh chóng.
Nếu trong năm 2002 với mức Vốn Điều lệ là 50.135tỷ đồng , công ty đã trích ra trong số đó một phần để đầu tư vào chứng khoán , đạt tổng mức đầu tư là 805.600.000 đ và trong năm 2003 thì bên cạnh việc nâng mức vốn điều lệ lên 60tỷ đồng, công ty cũng mở rộng hoạt động đầu tư chứng khoán của mình lên đạt 1.289 tỷ đồng, tăng 486.460.000 đ tương ứng tăng 61.58% so với năm 2002. Và riêng trong năm 2004 – một năm mà hoạt động đầu tư sôi nổi nhất của công ty với tổng mức đầu tư đạt là: 2.300 tỷ đồng hay tăng 1.011 tỷ đồng tương ứng tăng 78.43%, và tiền lãi thu về cho công ty từ hoạt động này là 121.223.501 đ đã vượt so với kế hoạch là 120.000.000 đ. Đồng thời công ty cũng thu ngoài lãi về kinh doanh chứng khoán đạt 293.592.000 đ tăng so với kế hoạch đặt ra là 278.673.000 đ .Tình hình này được đánh giá là rất tốt. Tuy nhiên, số tiền thu từ lãi của hoạt động đầu tư có vẻ khiêm tốn hơn so với hoạt động cho vay (121.223.501 Đ so với 21.239.621.509 Đ) nhưng nó đã đánh dấu xu hướng mở rộng hoạt động của công ty trên thị trường tài chính và dự báo trong năm nay , hoạt động đầu tư chứng khoán sẽ còn diễn ra mãnh mẽ hơn và lợi nhuận đem về cho công ty sẽ cao hơn trước.
Bên cạnh hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị trường OTC với các cổ phiếu BBT, Vinamilk, SSC, SFC bước đầu mang lại hiệu quả như trên, công ty còn thực hiện góp vốn liên doanh, mua cổ phần của các doanh nghiệp khác như góp vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư của công ty là 16.4 tỷ đồng vào Công ty Cổ Phần Chế biến gỗ Thuận An lợi nhuận 15%/năm; công ty cổ phần mía đường La Ngà lợi nhuận 6.2%/năm; công ty cổ phần đầu tư và xây dựng cao su lợi nhuận 6.5% ..
Như vậy, qua việc phân tích số liệu trên ta thấy hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động quan trọng thứ hai sau hoạt động cho vay của công ty. Mặc dù nó chiếm một tỷ lệ nhỏ từ 20-30% trong tài sản của công ty nhưng lợi ích mà nó đem lại cho cả công ty không phải là nhỏ. Ta nhận thấy nếu các khoản cho vay được hình thành trong sự thoả thuận trực tiếp giữa công ty và người đi vay, còn các khoản đầu tư vào chứng khoán lại được hình thành thông qua các giao dịch đầu tư vốn của chính công ty trên thị trường tài chính và công ty phải chấp nhận giá chứng khoán do thị trường chào bán. Vì thế các khoản thu nhập từ các chứng khoán đem lại cho công ty thường mang tính giới hạn hơn so với các khoản cho vay. Tuy nhiên chứng khoán là một công cụ hữu ích để công ty quản lý thu nhập chịu thuế vì các chứng khoán thường khác nhau về mức chịu thuế thu nhập và thuế lên giá và xuống giá chứng khoán. Trong danh mục chứng khoán thường bao gồm nhiều loại chứng khoán được miễn thuế thu nhập. Mặt khác thu nhập lên giá chứng khoán làm tăng thu nhập chịu thuế còn lỗ xuống giá chứng khoán làm giảm thu nhập chịu thuế.
Không những thế hoạt động đầu tư chứng khoán còn đem lại lợi ích cho công ty là công ty có thể thực hiện ngay lập tức các khoản đầu tư quy mô lớn mà không phải từng bước tích lũy những khoản đầu tư vào các công cụ dựa trên cơ sở khách hàng như trong cho vay đối với khách hàng của mình. Thêm vào đó, khi thực hiện các khoản đầu tư chứng khoán thì nhìn chung các khoản đầu tư chứng khoán của công ty có tính thanh khoản cao hơn các khoản cho vay nhưng lại thấp hơn các khoản dự trữ tiền mặt. Công ty có thể chấm dứt việc đầu tư vốn vào các chứng khoán của mình một cách nhanh chóng và nhờ đó cho phép công ty thực hiện những điều chỉnh nhanh chóng Bảng cân đối tài sản của mình nhằm khắc phục những rủi ro do chênh lệch thái quá về kỳ hạn hay do biến động về lãi suất Chính vì những lợi ích đem lại từ hoạt động đầu tư chứng khoán mà trong suốt ba năm qua công ty đã từng bước gia tăng hoạt động đầu tư của mình.
4. Tình Hình Phân Phối Lợi Nhuận
Báo cáo kết quả phân phối lợi nhuận năm 2004
Đơn vị tính: đồng
Chỉ Tiêu
Thực Hiện
Số Tiền
% Ln Ròng
Tổng thu nhập năm
28,083,902,453
Tổng chi phí năm
23,277,729,610
Tổng lợi nhuận trước thuế
1,806,172,843
Thuế thu nhập doanh nghiệp
227,666,864
Lợi nhuận ròng
1,578,505,979
1. Qũy dự trữ bổ sung VĐL
78,925,298
5.00%
2. Tiền phạt do vi phạm pháp luật
100,000
0.01%
3. Quỹ dự phòng tài chính
23,948,068
1.52%
4. Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ
119,740,340
7.59%
5. Quỹ khen thưởng
265,318,903
16.81%
6. Quỹ phúc lợi
265,318,903
16.81%
7. Thu sử dụng vốn bổ sung Ngân sách Nhà nước
825,154,467
52.27%
Theo báo cáo kết quả phân phối lợi nhuận năm qua, ta thấy đây không phải là công ty cổ phần và do đó không có chia lãi góp vốn. Toàn bộ lợi nhuận ròng sẽ được phân bổ cho các quỹ. Trước hết là công ty sẽ trích lập một tỷ lệ nhất định tuỳ thuộc vào lợi nhuận ròng của mỗi năm để bổ sung vốn điều lệ. Trong năm qua công ty đã trích 5% lợi nhuận ròng đạt được là 1.578.505.979 Đ để bổ sung vốn điều lệ, tức bổ sung thêm 78.925.298 Đ nâng mức vốn điều lệ của công ty tính đến năm 2004 là 70.000.000.000 Đ. Như vậy, lợi nhuận được tạo ra trong các thời kỳ hoạt động là nguồn tạo ra vốn tài chính mới và điều này có ảnh hưởng quyết định đến việc mở rộng phạm vi cung cấp và cải tiến dịch vụ của công ty. Do đó công ty không ngừng trích quỹ bổ sung vốn điều lệ để ngày càng tăng cao vốn điều lệ để đáp ứng nhu cầu mở rộng phạm vi cung ứng cũng như để cải tiến dịch vụ , đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh Mặt khác việc công ty bổ sung vốn điều lệ còn nhằm mục đích mở rộng nguồn vốn để đầu tư tài chính. Vì theo luật thì công ty chỉ được phép sử dụng vốn điều lệ chứ không được sử dụng vốn vay và vốn huy động để thực hiện các khoản đầu tư sinh lời và do muốn mở rộng hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính tiền tệ thì buột công ty phải gia tăng vốn điều lệ. Mặt khác một khi vốn điều lệ của công ty tăng lên cũng đồng nghĩa với quy mô hoạt động của công ty được mở rộng.
Sau khi trích lập qũy bổ sung vốn điều lệ, công ty tiến hành lập qũy dự phòng tài chính với tổng giá trị đạt 23.948.068 Đ chiếm 1.52% lợi nhuận ròng. Bởi lẽ, lợi nhuận công ty có được sau một năm hoạt động kinh doanh luôn là nguồn dự trữ cho những khoản chi tiêu bất ngờ và bù đắp thiệt hại phát sinh trong quá trình hoạt động . Mặt khác công ty hoạt động trong môi trường tài chính với rủi ro tiềm ẩn cao, nhu cầu đáp ứng, nhu cầu chi tiêu bất ngờ và bù đắp thiệt hại do gặp rủi ro luôn là những thách thức lớn đối với công ty. Sự tích luỹ thiệt hại do không đáp ứng được những nhu cầu chi tiêu bất ngờ, hoặc do không kiểm soát được rủi ro ở mức thích hợp làm xói mòn vốn của công ty, thậm chí dẫn tới hậu quả phá sản, những thiệt hại này là khó tránh khỏi, khó có thể loại trừ tuyệt đối. Vì thế việc sử dụng một phần từ lợi nhuận ròng để trích lâp quỹ dự phòng tài chính là giải pháp thích hợp.
Song song với việc lập quỹ dự phòng tài chính, là lập quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ đạt 119.740.340 Đ chiếm 7.59% lợi nhuận ròng. Cùng với sự phát triển của các loại hình dịch vụ và sự đa dạng hoá các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh của các định chế tài chính bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, công ty đã và đang từng bước mở rộng các loại hình dịch vụ tài chính để thu hút khách hàng, tăng doanh số hoạt động. Cụ thể như trong thời gian qua, công ty đã bước đầu thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tỏ ra rất phát triển và đạt hiệu quả cao.
Cuối cùng, công ty tiến hành trích lập qũy khen thưởng, qũy phúc lợi đạt 500.637.806 Đ , chiếm 16.81% lợi nhuận ròng. Lợi nhuận công ty được tạo ra trong quá trình hoạt động là nguồn để khuyến khích, kích thích nhân viên làm việc, cố gắng tăng năng suất lao động và để hoàn thành nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước. Sự khuyến khích bằng lợi ích vật chất luôn được xem là một biện pháp trọng yếu mà công ty sử dụng để kích thích cán bộ, nhân viên tăng năng suất lao động. Nếu không đạt được lợi nhuận thì công ty không thể gia tăng quỹ tiền lương cũng như quỹ tiền thưởng hoặc các quỹ trợ cấp, các qũy cho việc cải thiện điều kiện làm việc cho nhân viên.
5. Tính Toán Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Quản Trị Tài Chính
Tương tự như những doanh nghiệp kinh doanh sản xuất bình thường – doanh nghiệp phi tài chính , công ty cũng là một doanh nghiệp nhưng là một doanh nghiệp đặc biệt – một định chế tài chính phi ngân hàng, để tối đa hoá giá trị đầu tư của chủ sở hữu, nhiệm vụ trước hết của các nhà quản lý là phải dựa trên các báo cáo tài chính để tiến hành đánh giá tình hình hoạt động của công ty sau một niên độ. Từ đó làm căn cứ để lập, triển khai các kế hoạch và kiểm soát chúng nhằm tìm kiếm mức lợi nhuận cao hơn cho kỳ sau. Chính vì công ty cũng là một doanh nghiệp nên khi phân tích các chỉ tiêu đánh giá hoạt động, chúng ta cũng dựa trên những kiến thúc cơ bản của tài chính doanh nghiệp hiện đại, và vận dụng chúng một cách thích hợp với hoạt động đặc thù của công ty.
Sau đây là bảng các đại lượng được trích ra từ bảng Cân đối kế toán và bảng Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh và kết quả tính toán các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận và rủi ro cơ bản về hoạt động của công ty trong 3 năm qua 2002-2003-2004.
Bảng 1: Giá trị các đại lượng(Đvt:Vnđ)
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Thu nhập lãi
6,177,147,883
12,531,990,636
22,665,030,758
Chi phí lãi
3,118,237,903
7,589,598,332
13,934,815,589
Tài sản sinh lời
307,891,076,402
449,904,750,860
273,171,322,005
Thu nhập ròng
335,898,463
736,455,301
1,806,172,843
Doanh thu
6,491,607,708
13,613,308,768
25,083,902,453
Tổng tài sản
323,078,256,858
468,393,713,517
304,650,582,521
Vốn tự có
51,084,838,757
61,627,719,880
73,164,485,453
Chứng khoán ngắn hạn
7,205,600,000
17,689,060,000
18,700,115,000
Tổng tiền gửi
9,835,049,017
8,300,814,278
14,999,376,774
Tài sản có nhạy cảm với lãi suất
310,893,964,935
457,233,724,449
278,469,758,264
Tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất
271,993,418,101
406,764,993,637
231,486,097,068
Cho vay chất lượng trung bình
300,685,476,402
432,215,690,860
254,471,207,005
Tổng tài sản
323,078,256,858
468,393,713,517
304,650,582,521
Vốn tự có
51,084,838,757
61,627,719,880
73,164,485,453
Bảng 2: Kết quả tính toán các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận và rủi ro cơ bản của công ty.
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Cậân biên lãi suất
0.99%
1.10%
3.20%
Cận biên lãi suất ròng
5.17%
5.41%
7.20%
Hệ số sử dụng tài sản
2.01%
2.91%
8.23%
Lợi nhuận trên tài sản (ROA)
0.10%
0.16%
0.59%
Hệ số đòn bẩy(Số nhân đòn bẩy)
6.3
7.6
4.1
Lợi nhuận trên vốn tự có (ROE)
0.66%
1.20%
2.47%
Rủi ro thanh khoản
73.26%
213.10%
124.67%
Rủi ro lãi suất
1.14
1.12
1.2
Rủi ro tín dụng
93.07%
92.28%
83.53%
Rủi ro vốn
15.81%
13.16%
24.02%
Nhận xét:
Cận biên lãi suất: trong các năm từ 2002 đến 2004, cận biên lãi suất của công ty có sự gia tăng theo thời gian. Cụ thể, năm 2002 cận biên lãi suất là 0.99% thì sang năm 2003 đạt 1.10% và đặc biệt trong năm vừa qua tỷ lệ này đã tăng đạt 3.20%. Tình hình này được đánh giá là rất tốt. Đạt được kết quả này là do công ty đã tích cực hoạt động nhằm mục đích tăng thu nhập lãi và dần hạ thấp chi phí lãi, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
Cận biên lãi suất ròng: Giá trị này được tính bằng thu nhập ròng chia cho doanh thu, nó biểu thị phần trăm còn lại của một đồng doanh thu sau khi đã khấu trừ hết các chi phí. Trong năm 2003, chỉ tiêu này được nâng cao hơn so với năm trước ( tuy không đáng kể), thì bước sang năm 2004, công ty đã nâng hệ số này lên đạt 7.20%. Con số này chịu sự tác động của cận biên lãi suất.
Có thể nói, đạt được tình hình này là do công ty đã nổ lực trong việc thực hiện ba nguồn sau: (1) tiết kiệm chi phí nguồn vốn; (2) gia tăng thu nhập lãi nhờ lựa chọn hợp lý những tài sản sinh lời để đầu tư các nguồn vốn huy động được; (3) việc hoàn chuyển các kỳ hạn thích hợp giữa tài sản nợ và tài sản có.
Điều này có nghĩa to lớn, cụ thể như công ty đã chủ động trong việc lựa chọn phương án đầu tư thích hợp, có nghĩa là một phương án thu nhập nguồn vốn với chi phí thấp cũng góp phần mang lại lợi nhuận tương tự như việc lựa chọn phương án cho vay với mức sinh lời cao hay việc có được chênh lệch lãi suất do cho vay thời hạn dài hơn thời hạn đi vay. Có thể minh họa điều này như là một phương án với trình tự huy động tiền gửi với chi phí thấp thay vì vay vốn bằng cách vay vốn trên thị trường tài chính với cùng thời hạn, vốn huy động được đem cho vay với lãi suất ít nhiều cao hơn lãi suất của các chứng khoán cùng thời hạn trên thị trường và thời hạn cho vay này lại dài hơn thời hạn nguồn vốn tiền gửi mà công ty đã huy động. Như vậy, việc thực hiện những phương án trên thì quả là rất tốt cho công ty trên phương diện lợi nhuận.
Hệ số sử dụng tài sản: Được tính bằng tổng doanh thu chia cho tổng tài sản. Đại lượng này trong năm qua đã tăng gấp 3 lần so với năm 2003. Cụ thể là đã đạt 8.23% trong khi đó, năm trước chỉ đạt 2.91% ( có sự tăng nhẹ trong năm 2003 so với năm 2002). Hệ số này cho thấy mức độ hiệu quả trong quản lý tài sản là rất tốt và việc đầu tư vốn thích hợp vào tài sản sinh lời. Đây là điểm mạnh mà công ty cần phải phát huy trong những năm tới.
Lợi nhuận trên tài sản ROA: Đại lượng này được đo lường bằng thu nhập ròng trên tổng tài sản. Theo thời gian từ năm 2002 đến năm 2004, chỉ số ROA đã tăng nhanh. Cụ thể, nếu trong năm 2002, ROA= 0.10% thì bước sang năm 2003 chỉ tiêu này đã tăng nhẹ đạt 0.16% và năm vừa qua con số này đã tăng lên gấp 3 lần so với năm trước, đạt 0.59%. Tình hình này được đánh giá là rất tốt,nó phản ánh khả năng của ban điều hành công ty trong việc tận dụng các nguồn vốn để tạo ra thu nhập.
Hệ số đòn bẩy hay còn gọi là số nhân đòn bẩy: Nó được tính bằng cách lấy tổng tài sản chia cho vốn tự có. Nhìn chung hệ số này giảm trong năm 2004. Tình hình này là do tổng tài sản của công ty giảm và trong năm qua vốn tài trợ uỷ thác đầu tư được hạch toán ngoài bảng. Tuy nhiên với số vốn hiện hữu, công ty đã đẩy mạnh hoạt động chính cũng như những hoạt động khác nhằm tăng doanh thu và trong năm qua công ty đạt doanh thu là 25.083.902.453 Đ.
Lợi nhuận trên vốn tự có ROE: Được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng sau thuế chia cho vốn tự có. Hệ số này cho chúng ta biết công ty đã sản sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trên mỗi đồng vốn tự có. So với năm trước, hệ số lợi nhuận trên vốn tự có đã tăng gấp đôi và đạt 2.47% trong năm qua. Có thể nói hệ số ROE được xem là một thước đo gần như chuẩn mực nhất, phản ánh trình độ của ban điều hành công ty trong việc tối đa hoá tài sản của chủ sở hữu là rất tốt, đồng thời qua đó cho thấy khả nămg tạo thu nhập và hiệu quả hoạt động của công ty qua ba năm là tốt và đòn bẩy tài chính, kế hoạch thuế nói chung là an toàn. Công ty phải phát huy tình hình này.
Song song với việc đánh giá sơ bộ về tình hình tài chính của công ty qua sáu chỉ tiêu trên, chúng ta không thể không quan tâm đến các chỉ số rủi ro, mà cụ thể phân tích ở đây là bốn loại rủi ro sau:
Rủi ro thanh khoản: Chúng ta tính toán rủi ro này một cách đơn giản bằng cách so sánh nhu cầu thanh khoản ước tính với nguồn thanh khoản ước tính dưới dạng chứng khoán ngắn hạn. Ta thấy trong ba năm qua, hệ số thanh khoản của công ty đạt khá cao , tuy có phần giảm nhưng không đáng kể. Tình hình này cho thấy khả năng đương đầu với rủi ro của công ty càng ít hơn, song cũng có nghĩa là lợi nhuận sẽ thấp hơn vì giữa rủi ro và lợi nhuận có mối tương qua tỷ lệ thuận. Thực tế công ty cũng đã chú trọng đầu tư vào các chứng khoán nhằm dễ dàng chuyển đổi khi cần thiết để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Rủi ro về lãi suất: Tỷ lệ này được xác định sơ bộ bằng cách tính tỷ lệ giữa tài sản có nhạy cảm với lãi suất và tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất. Thực tế vì khó có thể dự báo được biến động của lãi suất nên có thể công ty đã cố gắng duy trì được tỷ lệ nhạy cảm với lãi suất luôn dao động quanh mức 1.0 là tương đối an toàn.
Rủi ro tín dụng: Chúng ta ước tính rủi ro này dựa trên tỷ trọng tài sản dưới dạng các khoản cho vay chất lượng trung bình. Trong ba năm qua, hệ số này tương đối cao, song như vậy thì lợi nhuận của công ty cũng sẽ cao hơn. Cụ thể là trong năm qua công ty đã thu về từ lãi cho vay là 21.239.621.509 Đ.
Rủi ro vốn: Nhìn chung công ty đã duy trì hệ số rủi ro này với tỷ lệ như trên là tương đối an toàn và công ty phải cố gắng thực thiện tốt trong những năm tiếp theo.
Qua các chỉ số tài chính cho thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của công ty trong giai đoạn so sánh ba năm. Nhìn chung tình hình hoạt động của công ty có sự phát triển rõ rệt , điều này là do công tác quản trị tài chính ở công ty luôn được đặt lên là nhiệm vụ hàng đầu. Trong bối cảnh hiện nay, công ty cần phải nổ lực hơn nữa để không những duy trì được mức doanh số như vậy mà cần phải nâng nó lên cao hơn nữa. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn tồn đọng không ít các khó khăn mà công ty cần phải khắc phục trên các phương diện như về vốn, về hoạt động đầu tư một số các giải pháp mang tính định hướng được đưa ra để công ty có thể cải thiện được tình hình hoạt động một cách tốt hơn được trình bày ở phần sau.
PHẦN BA:
CÁC GIẢI PHÁPPHẦN 3:
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY
Trên cơ sở đánh giá kết quả tình hình tài chính của công ty trong thời gian qua, tôi xin đề xuất một số giải pháp đóng góp cho việc phát triển của công ty như sau:
1. Giải pháp vốn
Tính toán hệ số vốn và quỹ trên tổng tiền gửi qua các năm (phần trăm của vốn và các quỹ trên tổng tiền gửi)
Năm 2004 = x 100% = x 100%
Năm 2003 = x 100% = x 100%
Năm 2002 = x 100% = x 100%
Ta thấy rằng hệ số vốn trên tổng tiền gửi qua các năm đều tăng và đạt 1/1.63 trong năm 2004. Hệ số này cho thấy công ty chỉ có thể huy động tiền gửi ở mức gấp 1.6 lần so với vốn tự có và con số này tỏ ra không mấy khả quan cho công ty khi mức quy định tối đa cho các định chế tài chính ở nước ta là 1/20, nghĩa là các định chế tài chính có thể huy động tiền gửi tới mức gấp 20 lần so với vốn tự có (Ở Mỹ qui định là 1/10).
Mặc dù trong năm 2004 công ty đã tăng mức huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên (vì đây là tổ chức tín dụng phi ngân hàng) của các tổ chức, cá nhân theo quy định của ngân hàng nhà nước, và phát hành giấy tờ có giá khác để tăng khả năng huy động vốn của công ty. Cụ thể là nếu trong năm 2002, 2003 công ty không huy động thêm vốn từ việc phát hành giấy tờ có giá, thì trong năm 2004 công ty đã tiến hành nâng khả năng huy động vốn của mình thông qua việc phát hành giấy tờ có giá đạt 50.000.000.000 Đ ( tình hình này được đánh giá là rất tốt và công ty nên tiếp tục phát huy khả năng huy động vốn từ nguồn này và đặc biệt là nhằm tạo thề chủ động cho chính bản thân công ty). Trong bối cảnh hiện nay, khi các tổ chức tín dụng ra sức cạnh tranh dưới mọi hình thức để có thể huy động được các loại nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức để mở rộng thực hiện các nghiệp vụ chính cũng như các hoạt động khác của mình thì công ty cũng phải hoà mình vào cuộc chạy đua đó thông qua việc lựa chọn các phương thức thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn.
Sau đây là hai hướng cơ bản để từ đó công ty xây dựng phướng án cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn:
Thứ nhất, gia tăng vốn từ bên ngoài, tức là công ty nâng cao thực hiện các giải pháp nhằm thu hút vốn như thông qua các hình thức: tăng cường quảng cáo, tuyên truyền các tiện ích của công ty, thực hiện khuyến mãi, chiêu thị, tiết kiệm có thưởng để khích lệ dân cư và các tổ chức gửi các khoản tiền nhàn rỗi đến công ty. Thực tế cũng cho thấy trong năm 2004 công ty đã chi ra 347.387.633 Đ cho công tác quảng cáo, xuất bản tài liệu, khuyến mãi nhằm mục đích đưa tên tuổi cũng như là uy tín của công ty đến với quần chúng dân cư và các tổ chức kinh tế.
Thứ hai, gia tăng vốn từ bên trong, tức là công ty thực hiện các giải pháp nhằm phát triển vốn từ chính các hoạt đông hiện thời của mình. Chẳng hạn như, thực hiện các giải pháp trực tiếp làm tăng lợi nhuận. Trên cơ sở đó thực hiện chính sách phân chia lợi nhuận nghiêng theo gia tăng các quỹ vốn của công ty. Giải pháp làm tăng lợi nhuận có thể được đưa ra như nâng cao trình độ của các cán bộ tín dụng để nâng cao khả năng thẩm định, đánh giá chất lượng các khoản cho vay một cách chính xác nhằm hạn chế rủi ro tín dụng do thu hồi nợ quá chậm gây ứ đọng vốn hoặc có thể không thu hồi chuyển thành những khoản nợ khó đòi gây thất thoát vốn cho công ty và từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty.
Xét tình hình thực tế, với điều kiện còn nhiều hạn chế như vốn điều lệ thấp, bị bó hẹp bởi các kỳ hạn huy động vốn, về cho vay trung và dài hạn thì hoạt động huy động vốn và cho vay của công ty dường như sẽ yếu thế hơn so với các ngân hàng thương mại. Trong bối cảnh đó, việc phát triển dịch vụ tài chính tiền tệ phải được xem là nhiệm vụ chiến lược về trước mắt và lâu dài.
Trước hết công ty cần khẳng định lại lợi thế của mình: nó là định chế tài chính của tổng công ty, thuộc một ngành sản xuất kinh doanh dịch vụ trực tiếp; do đó, nó chịu sự chi phối, được sự hậu thuẫn đặc biệt của đơn vị chủ quản, có lợi thế hiểu biết rõ về ngành, được biết về thông tin, mối quan hệ công việc, về định hướng và chiến lược phát triển của ngành. Công ty phải xác định mục tiêu trở thành tổ chức tài chính thoả mãn tốt nhất các nhu cầu về tài chính tiền tệ của ngành. Nhưng công ty không thể coi sản phẩm truyền thống của ngân hàng thương mại là hướng phát triển của mình. Công ty phải có những sản phẩm mới, những dịch vụ tài chính tiền tệ. Ngoài các nhóm dịch vụ tài chính tiền tệ mà công ty đã và đang triển khai là: tư vấn dự án, tư vấn đầu tư (nhóm dịch vụ tư vấn tài chính); nhóm dịch vụ thu xếp vốn và dàn xếp tài chính; nhóm dịch vụ uỷ thác và đại lý; các dịch vụ tài chính tiền tệ khác công ty cần có các giải pháp nhằm phát triển nhóm dịch vụ này.
Một số giải pháp chính:
Công ty ngay từ lúc này phải xây dựng một chiến lược phát triển dịch vụ tài chính tiền tệ nằm trong chiến lược phát triển kinh doanh tổng thể: xác định rõ tình hình, thực trạng phát triển dịch vụ tài chính tiền tệ của công ty mình; có định hướng, lộ trình và giải pháp triển khai cho từng thời kỳ và từng giai đoạn.
Có phương án lựa chọn dịch vụ phù hợp với đặc thù hoạt động của công ty, của ngành; phù hợp địa bàn kinh doanh của công ty; từ đó phát triển thành những dịch vụ riêng có, có tầm cỡ, quy mô và uy tín trong tổng công ty và trên thị trường tài chính; tận dụng lợi thế là định chế của ngành để triển khai một số dịch vụ như quản lý vận hành hệ thống tiền tệ tập trung của tổng công ty, đại lý phát hành trái phiếu cho tổng công ty và các đơn vị thành viên.
Hình thành một bộ phận nghiên cứu thị trường, tìm tòi và sáng kiến ra những sản phẩm dịch vụ mới, trong đó có dịch vụ phi tín dụng như môi giới tiền tệ; xây dựng chính sách khách hàng, kế hoạch marketing cụ thể phù hợp với từng đối tượng khách hàng; có chính sách giá và phí dịch vụ hợp lý.
Không ngừng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ tài chính và tiền tệ; nghiên cứu và tiếp tục truển khai một số dịch vụ mà các tổ chức tín dụng khác đã thực hiện tốt như đại lý bảo hiểm, kiều hối, kinh doanh vàng, bảo quản hiện vật quý, cho thêu két, cầm đồ
2. Giải pháp đầu tư
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng các khoản tín dụng thì công ty cũng phải tiến hành mở rộng các hình thức đầu tư, đặc biệt là đầu tư chứng khoán để đầu tư chứng khoán thực sự phát huy hết tác dụng của nó đối với hoạt động của công ty. Trước hết công ty phải xem việc nắm giữ các loại chứng khoán như là một hướng đầu tư thu lợi nhuận, nhưng vẫn có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản bằng cách bán các chứng khoán có tính thanh khoản cao khi cần thiết với một chi phí không đáng kể. Để thực hiện tốt các khoản đầu tư thì công ty nên thực hiện các giải pháp sau:
Đa dạng hóa danh mục tài sản của công ty:
Bởi trong trường hợp vốn huy động được của công ty không thể tập trung hoàn toàn vào việc cho vay, làm cho lợi nhuận công ty có thể bị hạn chế do giảm doanh số cho vay hoặc do rủi ro cho vay cao thì việc đầu tư chứng khoán rõ ràng là một giải pháp tích cực để khắc phục mâu thuẫn đó. Bởi nhờ đưa chứng khoán vào danh mục tài sản của công ty cũng đồng thời làm tăng tính đa dạng của danh mục chứng khoán nói chung và nhờ đó có tác dụng hạ thấp tỷ lệ rủi ro và tăng tỷ lệ thu nhập tổng thể của cả danh mục tài sản.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán:
Công ty không nên quá chú trọng đến việc tập trung đầu tư vào một loại chứng khoán mà phải biết phân bổ cho nhiều loại, tức là không nên bỏ tất cả vào một rổ. Thực hiện việc đa dạng hóa, thứ nhất cho phép công ty có thể giảm thiểu được rủi ro và gia tăng thu nhập của tổng danh mục đầu tư chứng khoán mà không đòi hỏi quá cao về kỹ năng chuyên môn của nhà quản lý. Thứ hai, việc thực hiện các chiến lược đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán được thực hiện khá dễ dàng, thuận lợi. Bởi khi đầu tư vào chứng khoán thì công ty có thể thực hiện ngay lập tức các khoản đầu tư chứng khoán qui mô lớn mà không phải từng bước tích lũy những khoản đầu tư vào những công cụ dựa trên cơ sở khách hàng như trong cho vay đối với khách hàng. Đây có thể là giải pháp đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư. Tuy vậy cũng cần nhớ rằng công ty chỉ có thể gia tăng thu nhập và giảm thiểu rủi ro của danh mục đầu tư chứng khoán thì một mặt: Công ty cần nắm giữ nhiều loại chứng khoán có đặc điểm biến động về thu nhập và rủi ro không liên quan với nhau hoặc biến động ngược chiều với nhau. Mặt khác, công ty cũng cần phải có đủ lượng vốn cần thiết để phục vụ nhu cầu đa dạng hóa ( trình bày trong giải pháp vốn) và phải nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ của công ty trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán . Hay nói cách khác là cán bộ nhân viên phải am hiểu một cách tường tận về luật lệ và qui chế. Bởi lẽ những qui định cụ thể về hoạt động đầu tư chứng khoán của công ty sẽ được thiết lập trên nền tảng quan điểm chung về sự tham gia của các định chế tài chính vào lĩnh vực đầu tư chứng khoán. Luật và qui chế về chứng khoán và hoạt động chứng khoán cũng chi phối hoạt động của công ty. Bên cạnh đó là các luật và qui chế cơ bản khác nhau như Luật DN, luật NH, luật thuế Luật và qui chế về hoạt động chứng khoán đưa ra những qui định cụ thể đối với các định chế tài chính, gồm các qui định về tổ chức bộ máy hoạt động, về kế toán thống kê, về điều kiện hành nghề của cán bộ nhân viên, về vốn và giới hạn đầu tư vốn, về chủng loại chứng khoán được phép đầu tư, về quản lý vốn khả dụng, về tuân thủ các yêu cầu về thiết định giá và thuế phải nộp hoạt động của công ty nói chung sẽ không thể hoạt động có hiệu quả nếu như không am hiểu về các qui định này.
3. Giải Pháp Nguồn Tài Trợ
Trong bối cảnh hiện nay, khi các ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng quốc doanh đều ra sức tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn trong dân cư nhằm mục đích kinh doanh trên nguồn tiền ấy, thì công ty cũng phải đẩy mạnh khả năng huy động vốn của mình dưới mọi hình thức có thể có để mở rộng các nguồn tài trợ. Và theo đó công ty phải biết cân đối giữa chi phí huy động và lợi ích nhận được.
Như chúng ta đã biết thành phần cơ bản của chi phí huy động vốn của công ty thể hiện ở khoản chi trả lãi suất cho tiền gửi và tiền vay, cùng với khoản chi phí không dưới dạng lãi mà công ty đã bỏ ra để huy động vốn. Hoạt động của công ty được đánh giá là tốt khi công ty kiếm được nguồn vốn có chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trong khi vẫn thoả mãn các yêu cầu tương xứng giữa huy động và sử dụng về các phương diện quy mô, thời hạn, tính ổn định
Ở đây công ty không phải là ngân hàng và do đó khả năng huy động vốn của nó bị giới hạn ở một số điểm, chẳng hạn như : Theo điều 45 chương III, Luật các tổ chức tín dụng thì ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn , tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác; trong khi đó vì công ty là tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên chỉ nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức cá nhân theo qui định của ngân hàng nhà nước. Như vậy, về tầm vĩ mô thì công ty không được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và đây là một rào cản cho công ty trong thời buổi cạnh tranh gây gắt như hiện nay. Bởi lẽ, nguồn tiền gửi không kỳ hạn thường thì lãi suất rẻ nhất so với các nguồn tiền gửi khác. Chính vì vậy, công ty đã mất đi cơ hội để có được nguồn vốn rẻ cho mình. Song, công ty đã từng bước vượt qua rào cản đó và tập trung huy động vốn từ các nguồn tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Để có thể mở rộng khả năng tạo nguồn cho mình thì công ty nên thực hiện một số giải pháp sau:
Giảm thiểu chi phí huy động vốn nhằm làm tăng lợi nhuận.
Thông thường việc giảm thiểu chi phí nguồn vốn vẫn luôn là một nhu cầu thường xuyên, song trong điều kiện cạnh tranh tăng lên vốn trở nên đắt đỏ, những cơ hội đầu tư vốn thuận lợi được mở rộng thì mục tiêu đầu tư vốn và giảm thiểu rủi ro vể vốn sẽ trở nên bức xúc. Trong hoàn cảnh các định chế tài chính đều tăng lãi suất huy động thì công ty không thể không tăng lãi suất mà vẫn có thể huy động tốt nguồn vốn được. Như vậy, chi phí trả lãi vẫn tăng. Tuy nhiên công ty có thể giảm chi phí huy động vốn nói chung bằng cách giảm những khoản chi phí không dưới dạng tiền phải trả, gồm nhiều thứ, trong đó chủ yếu là chi phí tiền lương cán bộ quản lý và nhân viên, chi phí cho nhà cửa và thiết bị, chi phí quảng cáo, chi phí ẩn do phải duy trì dự trữ bắt buột và dự trữ cần thiết khác tính trên số tiền gửi huy động. Như trong năm qua, nếu như kế hoạch đặt ra công ty phải chi 7.000.000 về nghiệp vụ hoạt động nhưng khi thực hiện thì chi phí này lại lên tới 355.251.495 tăng 50.75%. Dó đó mục tiêu đầu tiên để giảm chi phí huy động vốn là giảm những khoản chi phí không dưới dạng tiền lãi phải trả.
Như vậy, việc kiểm soát nhằm hạ thấp chi phí vốn đến mức tối thiểu luôn là một vấn đề khó khăn đối với công ty như khi công ty tìm cách tăng tối đa thu nhập từ tài sản. Bởi điều đó lệ thuộc quá nhiều biến số mà nhiều biến số trong đó không thể giải quyết được. Thông thường để kiểm soát chi phí công ty có thể kiểm soát được một số yếu tố như: Sắp xếp, bố trí và đào tạo nâng cao trình độ cán bộ; tăng cường trang bị vật chất; kiểm soát chi phí tiền lương; hoàn thiện các hệ thống và các chính sách nội bộ; tăng cường các năng lực và kỷ năng tiếp thị Đây là những yếu tố thuộc về bản năng của công ty và công ty phải tăng cường hạ thấp những chi phí có thể có để giảm bớt chi phí huy động vốn nói chung.Tuy nhiên có nhiều yếu tố khác mà công ty chỉ có thể kiểm soát rất hạn chế hoặc không kiểm soát được như: các qui định pháp lý về bảo hiểm tiền gửi; qui định về dự trữ bắt buộc; qui định về mở chi nhánh; các diễn biến của môi trường kinh tế vĩ mô; các yếu tố về tâm lý tập quán
Bên cạnh giải pháp kiểm soát chi phí làm giảm chi phí huy động vốn, công ty nên thực hiện giải pháp làm giảm thiểu rủi ro mang tính định hướng sau:
Làm tăng tính ổn định của nguồn vốn
Công ty có thể làm tăng tính ổn định của nguồn vốn bằng cách mở rộng thời hạn của các công cụ huy động vốn; mở rộng tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn; hay tăng tỷ trọng vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá. Tuy nhiên, sử dụng hình thức này thì chi phí cho việc huy động thường rất cao, mặt khác công ty có huy động được các nguồn vốn này hay không còn lệ thuộc vào khả năng sẵn có về vốn trong nền kinh tế, lòng tin của dân chúng vào công ty. Và đây chỉ là một trong số những giải pháp nằm trong số những chiến lược huy động vốn nhằm có được vốn và giảm rủi ro thanh khoản.
Bảo hiểm tiền gửi
Tức là công ty thiết lập những khoản bảo hiểm đối với các khoản tiền của khách hàng gửi. Thực hiện điều này, công ty có thể làm giảm mối lo sợ của người gưiû tiền rằng công ty có thể sẽ bị mất khả năng thanh toán. Các áp lực về rủi ro do rút tiền hàng loạt hay sức ép tâm lý làm tăng giá huy động vốn cũng giảm. Đồng thời qua việc thực hiện biện pháp này, bản thân công ty cũng có nhiều khản năng hơn trong việc chống đỡ rủi ro nhờ có sự chia sẽ của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Mặt khác, do có sự hậu thuẫn bởi bảo hiểm , công ty có thể giảm tỷ lệ các khoản dự trữ không sinh lợi và mở rộng tỷ trọng tài sản sinh lời để cải thiện thu nhập và lợi nhuận. Tuy nhiên thực hiện bảo hiểm tiển gửi thì ngoài tác dụng của nó, vẫn còn điểm không thuận lợi là, thứ nhất: giá tiền gửi trở nên đắt hơn do công ty phải chịu thêm phí bảo hiểm, thứ hai là: Phí bảo hiểm thu được thường rất ít và điều này làm hạn chế đi tác dụng của bảo hiểm tiền gửi.
Kiểm soát rủi ro lãi suất
Tức là công ty tiến hành các công tác như dự đoán biến động của lãi suất; phân tích độ nhạy cảm lãi suất của các tài sản bằng các kỹ thuật phân tích khoảng cách và khoản thời gian tồn tại; tiến hành các biện pháp khác nhau để loại trừ rủi ro lãi suất .
Kỹ thuật phân tích độ nhạy cảm của lãi suất gồm các bước:
Phân tích độ nhạy cảm lãi suất của từng loại tài sản ở bên tài sản và bên nguồn vốn.
Sử dụng các phương pháp khác để đánh giá ảnh hưởng của những thay đổi lãi suất ứng với các tương quan giữa bên tài sản và bên nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất.
Đề suất các điều chỉnh cần thiết để hạn chế rủi ro lãi suất.
. Hết .