Đề tài Quản trị chất lượng –Nhân tố nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi tham gia AFTA-WTO

Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra trên thế giới đòi hỏi Việt Nam phải có những bước đi đúng đắn trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới để có thể tận dụng được các cơ hội và hạn chế được các nguy cơ, thách thức, bất lợi. Việc tự do hoá thương mại trong các tổ chức hợp tác khu vực mà Việt Nam tham gia như:APEC, ASEAN, ASEM sẽ xoá đi rào cản trước hết về thuế quan sau đó là phi thuế quan. Điều này sẽ đặt hàng hoá của chúng ta

doc63 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị chất lượng –Nhân tố nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi tham gia AFTA-WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, dầu thực vật, nhựa … Ngành chế biến thức ăn gia súc hàng năm cung ứng ra thị trường 56% tổng nhu cầu mặt hàng này so với mặt hàng khác thay thế. Ngành có tỷ suất lợi nhuận trên vốn khá cao 12% và chiến 2,13%giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành . Tuy phát triển tốt nhưng khi tham gia AFTA ngành này sẽ phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh. Vì lợi thế so sánh của ngành chế biến thức ăn gia súc Việt Nam kém hơn hẳn so với 4 nước : Thái lan,malayxia, Philippin, Indonexia. Ngành giầy dép Việt Nam trong thập kỷ vừa qua cũng đã đạt được nhiều thành tựu như xuất khẩu giày dép tăng trưởng khá nhanh, nhịp độ tăng trưởng so với năm trước ở mức 38,5% đến 156,4%nhưng đến cuối thập kỷ 90 nhịp độ tăng trưởng giảm sút , năm1998còn 3,7% do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và năm 1999 ngành phục hồi đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,3 tỷ USD . Thực tế thực hiện quý một lại giảm 2,3%, 6 tháng đầu năm giảm 2,74%và 7 tháng đạt 899,6triệu USD giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước bằng 52,9% kế hoạch năm ( năm 2001, kế hoạch kim ngạch xuất khẩu ngành này là 1,7 tỷ USD tăng 16% so với năm 2000) Đánh giá lợi thế so sánh của ngành này so với những doanh nghiệp khác trong khu vực các chuyên gia cho răng ở Việt Nam nhân công rẻ hơn nhiều sản phẩm so với các nước , chi phí điện nước vẫn chưa được tính đủ, bản thân cũng đẫ tự thân vận động để tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm phải thêm vào đó là hàng giầy dép xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đi khắp thị trường không phải ràng buộc hạn ngạch . Nhưng dường như các doanh nghiệp của nước ngoài vẫn thiếu một sức cạnh tranh nào đó mà nguy cơ mới nhất hiện nay của ngành đó là khi chúng ta gia nhập vào WTO ( Đầu quý một năm 2002) khó khăn đó trước hết ở thị trường lớn và hấp dẫn với ngành giầy dép là Nhật, Mỹ bởi Trung Quốc sẽ được hướng quy chế thương mại bình thường của hai nước này.Khó khăn tiếp theo sẽ là ở thị trường EU không khống chế hạn ngạch xuất khẩu giầy dép của Trung Quốc. Đó là những khó khăn khách quan làm giảm lợi thế so sánh cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành giầy dép Việt Nam . Nhưng trong đó khó khăn chủ quan của ngành vẫn là yếu tố quyết định đến lợi thế so sánh của các doanh nghiệp như : -Nhiều năm nay ngành dày dép Việt Nam vẫn chưa xây dựng được chiến lược của ngành.Vấn đề nguyên vật liệu đầu vào chưa có sự hoạch định về đầu tư da.Nguyên liệu chiếm rất lớn trong giá thành nhưng hầu hết vẫn phải nhập khẩu.Các doanh nghiệp trong nước không đáp ứng được nhu cầu và bản thân thiếu nguyên liệu trong nước vì ngành công nghiệp không đáp ứng kịp thời. -Tổng công ty da giầy Việt Nam vẫn chưa chứng tỏ được là xương sống cho ngành dệt may Việt Nam,các doanh nghiệp quốc doanh của tổng công ty dệt dám đi đầu và vượt xa các doanh nghiệp khác về chuyển sang hình thức làm hàng FOB. Họ đã thiết lập được viện mẫu thời trang,họ nâng uy tín của mình và thu hút khách hàng nước ngoài - Hiệp hội da giày chưa gắn kết được với các doanh nghiệp,các thành phần lại với nhau,các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,doanh nghiệp nước ngoài,và ngay cả một số doanh nghiệp quốc doanh chưa thấy được sự cần thiết,hấp dẫn tham gia hoạt động cùng hiệp hội. Ngành dệt may Việt Nam đang ngày càng trở thành ngành có vị trí quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.Trong những năm gần đây với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 20 –25%.Nhưng hiện nay trong tiến trình hội nhập ngành dệt may đang đứng trước những thách thức cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong khu vực khi mà theo lộ trình ra nhập AFTA,thuế xuất-nhập khẩu hàng dệt may từ các nước ASEAN ở mức bảo hộ cao như trước đây(sợi 20%,vải 40%,may mặc 50%) sẽ giảm xuống còn 5% vào năm 2006.Tiến trình này bắt đầu từ 1-1-2000 với mức thuế nhập khẩu cho sợi còn 15%,vải 30% và may mặc còn 35%. Như vậy hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh với các nước ASEAN ngay tại thị trường trong nước với mức bảo hộ giảm dần cho đến lúc xoá bỏ hoàn toàn hàng rào bảo hộ vào ngày 1-1-2006. Nếu không có những biện nâng cao sức cạnh tranh chúng ta có thể bị thua ngay trên sân nhà. Theo hiệp định về hàng dệt may ATC,các nước phát triển như Mỹ,Canada,Tây Âu sẽ bỏ dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo lộ trình đã được vạch sẵn. Lộ trình các thành viên WTO bỏ dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may Giai đoạn 1995-1997 bỏ 16%hạn ngạch so với năm 1990 Giai đoạn 1998-2001 bỏ 17% hạn ngạch so với năm 1990 Giai đoạn 2002-2004 bỏ 18% hạn ngạch so với năm 1990 Đến ngày 31-12-2004 bỏ hết số hạn ngạch còn lại. Và khi điều này xảy ra hầu hết các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu dệt may lớn của Việt Nam sẽ được cởi trói dần hạn ngạch nhập khẩu cho đén lúc miễn hoàn toàn vào ngày 3-12-2004 và sẽ có nhiều lợi thế hơn Việt Nam. So với các nước trong khu vực dệt may Việt Nam còn kém về năng lực sản xuất,trình độ công nghệ,khói lượng chủng loại,mẫu mã hàng hoá còn nghèo nàn và năng suất thấp đến giá thành cao hơn các nước như Trung Quốc,Srilanka,Bangladesh có khi tới 15-20%.Sản xuất hàng may còn ở dạng gia công là chính do vậy giá trị gia tăng trên sản phẩm thấp,theo đánh giá của Vinatex cả lĩnh vực dệt và may đều còn nhiều vấn đề cần giải quyết.Đối với lĩnh vực sản xuất nguyên,phụ liệu cung cấp cho ngành may xuất khẩu (bao gồm cả bông,xơ sợi tổng hợp,vải và phụ liệu may) hiện nay chỉ đáp ứng được 10-15% nhu cầu.đối với hàng may mặc,giá thành sản phẩm còn cao,mẫu mã hàng hoá còn nghèo nàn,thương hiệu và khả năng thương mại còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn rất kém. Theo các chuyên gia trong ngành dệt may cho rằng đẻ ngành này cạnh tranh được trên thị trường quốc tế cần phải có sự nỗ lực từ hai phía Nhà nước và doanh nghiệp.Các doanh nghiệp phải tự mình nâng cao sức cạnh tranh trên bốn yếu tố:chất lượng ,giá cả,tiếp thị và uy tín thương hiệu hiện nay thiết bị của ngành đã đổi mới được từ khoảng 40-45%,trình độ tự động hoá chỉ đạt mức trung bình khiến cho chất lượng sản phẩm không ổn định.Trình độ ngành dệt may còn lạc hậu so với các nước tiên tiến trong khu vực khoảng từ 10-15 năm.Ngành may đã đổi mới được khoảng 90-95% số thiết bị,nhưng khả năng tự động hoá quá trình sản xuất chỉ ở mức trung bình,công nghệ cắt và may còn lạc hậu.So với các nước tiên tiến khoảng 5 năm.Giá cả cũng là một yếu tố hạn chế tính cạnh tranh.So với các nước trong khu vực,giá gia công ở Việt Nam cao hơn khoảng 10-15% và so với Trung Quốc là 20%,năng suất lao động cũng rất thấp mới chỉ đạt khoảng 50-70% so với năng suất lao động của các nước trong khu vực.Mặt khác do mới tham gia thị trường thế giới nên công tác bán hàng-thị trường còn nhiều bất cập. Rất nhiều doanh nghiệp dệt may chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin ,hệ thống phân phối trong cả nước,đại diện thương mại khu vực và các nước .Hạn chế này đã ảnh hưởng dến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ,đến khả năng phản ứng nhanh.khả năng xoay chuyển tình thế .Trong trường hợp các doanh nghiệp chưa tự thân xây dựng được đội ngũ bán hàng riêng,theo Vinatex cần hợp lực một số doanh nghiệp lại với nhau để có mặt thường trực tại các thị trường tiêu thụ tiềm năng. Ngành thuỷ-hải sản Việt Nam: Với chiều dài bờ biển 3260 km,112 con sông lạch, vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2,với 4000 đảo lớn nhỏ tạo lên nhiều eo,vũng,vịnh đầm phá và nhiều ngư trường ,với hệ thống sông ngòi chằng chịt,nước ta được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng mặt nước cho nuôi trồng thuỷ -hải sản vào loại lớn trên thế giới.Năm 1998 tổng sản lượng thuỷ hải sản của Việt Nam đạt 1668530 tấn,kim ngạch xuất khẩu đạt 856,6 triệu USD và được xếp thứ 19 trên thế giới về sản lượng thuỷ sản. Riêng về sản lượng tôm xếp hàng thứ 5 Việt Nam đã xuất khẩu thuỷ hải sản đến 50 nước trên thế giới và được xếp vào một trong các nước xuất khẩu thuỷ sản sang EU một cách trực tiếp.Năm 1999 tổng sản lượng thuỷ sản đạt 2 triieụ tấn.kim nhạch xuất khẩu dạt 950 triệu USD.Bên cạnh những thành tựu nêu trên trong lĩnh ực sản xuất,xuất khẩu thuỷ sản còn gặp những khó khăn,tồn tại như nguồn nguyên liệu đang suy giảm do nguồn lợi ven bờ đã cạn kiệt ,việc nuôi trồng thuỷ sản phát triển chậm không đáp ứng kịp thời nhu cầu,công nghệ sau thu hoạch yếu kém đã làm giảm giá trị thuỷ sản Việt Nam,giảm đi bình quân 25-30% ,công nghiệp chế biến chưa phát triển .chất lượng sản phẩm chưa cao ,chúng ta chủ yếu xuất khẩu sản phẩm sơ chế,giá trị thấp,sản phẩm giá trị cao mới chỉ chiếm 25-30% tổng kim ngạch xuất khẩu.Để đạt được mục tiêu “đưa kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh đạt 1,2 tỷ USD vào năm 2000 và 2 tỷ USD vào năm 2005,đưa ngành thuỷ sản phát triển thành ngành mũi nhọn của đất nước” cần: Nuôi trồng thuỷ sản có tính chất quyết định đến việc tăng sản lượng,phương hướng lâu ài là phải sản xuất thâm canh.Do đó Nhà nước hỗ trợ dịch vụ cung ứng vốn giống,cơ sở vật chất kỹ thuật nuôi trồng,tiêu thụ sản phẩm là yếu tố có tính quyết định để tăng nhanh sản lượng và chất lượng thuỷ sản xây dựng cơ cấu mặt hàng thuỷ sản hợp lý và đạt hiệu quả kinh tế cao,xây dựng cơ cấu đầu tư nhằm phát huy các lợi thế so sánh của từng địa phương và vùng lãnh thổ.Tuy vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cần chú ý phát triển các loại thuỷ sản có giá trị và chất lượng cao. Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ có ý nghĩa to lớn về kinh tế và quốc phòng.Để thực hiện tốt chương trình này cần phải huy động tối đa các nguồn vốn trong nước ,vốn ODA và các nguồn vốn khác để phát triển các đội tầu lớn có khả năng ra khơi dài ngày,đánh bắt xa bờ,có phương tiện chế biến tại chỗ.xây dựng và phát triển hệ thống cảng cá chợ cá phù hợp với sản lượng thuỷ sản của từng địa phương. Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá thị trường ,đa dạng hoá bạn hàng,giam dần tỷ trọng các thị trường trung gian ,tăng nhanh tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp,có nhu cầu thuỷ sản lớn,Một mặt duy trì củng cố các thị trường truyền thống,mặt khác tích cực tìm các giải pháp để xuất khẩu sang các thị trường tiêu thụ trực tiếp có nhu cầu lớn như EU,Hoa Kỳ và Nhật Bản. Để thực hiện tốt mục tiêu nêu trên các bộ ,ngành cần phối hợp chặt chẽ để tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến thương mại,tăng cường công tác thông tin thị trường,nâng cao chất lượng sản phẩm,đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm,tích cực tham gia các hội chợ triển lãm,mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài.Mặt khác cần nâng cao năng lực hoạt động của hội nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam,hội nghề cá Việt Nam,hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tạo cho họ cơ hội giúp đỡ nhau về công nghệ,vốn kinh doanh,thông tin kinh tế- thương mại,kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sức cạnh tranh của ngành thuỷ sản Việt Nam. 3.3Những vấn đề cần làm để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá các doanh nghiệp Việt Nam Trong xu thế toàn câù hoá,khu vực hoá kinh tế nói chung để tăng cường năng lực cạnh tranh,chủ động trong hội nhập nền kinh tế và thương mại với quốc tế nhằm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế ,thương mại .nhưng hiện nay còn một số vấn đề bức xúc nhất đối với các doanh nghiệp đó là: -Không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm,đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu ngày càng phát triển và nâng cao của xã hội,đổi mới đầu tư trang thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm nâng cao năng suất lao động ,hạ giá thành. -Bằng mọi cách phấn đáu cắt giảm mọi chi phí để hạ giá thành và bán hàng ra với giá cạnh tranh. -Làm tốt công tác tiếp thị để đảm bảo cho mình thị trường ổn định,lâu đài và ngày càng mở rộng. -Nâng cao trình độ,năng lực,kinh doanh ,quản lý ,điều hành doanh nghiệp nhất là nâng cao trình độ và kinh nghiệm kinh doanh,điều hành của giám đốc doanh nghiệp. -Doanh nghiệp nhất thiết phải có chiến lược phát triển ổn định lâu dài và chiến lược đó phải được điều chỉnh ,bổ sung và hoàn chỉnh cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh và các môi trường khác,có sách lược hữu hiệu đối phó với các đối thủ cạnh tranh, II.Quản lý chất lượng và thách thức của hàng hoá Việt Nam trong quá trình chuẩn bị tham gia AFTA và WTO 1.Chất lượng-một nhân tố cho sự hội nhập về kinh tế Cũng như các nước khác ,Việt Nam không thể nằm ngoài vòng xoáy của tiến trình hội nhập.Thời gian qua,chung ta đã thực sự tham gia vào tiến trình hội nhập vào kinh tế thế giới bằng những hoạt động như:đã trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các nước Đông Nam á(ASEAN) thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dương(APEC),ký kết hiệp định thương mại với liên minh châu Âu (EU) ,hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ và đang trong quá trình đàm phán để ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Bên cạnh rất nhiều cơ hội mà Việt Nam có thể nhờ vào sự tăng cường hội nhập như: duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, có điều kiện tiếp thu những kiến thức và kỹ năng quản lý mới,công nghệ mới ,học hỏi kinh nghiệm xây dựng và phát triển kinh tế của các nước và nhanh chóng đưa đất nước tiến lên thì cũng có không ít những khó khăn,thách thức khi tham gia tiến trình này.Một trong những thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực và thế giới.Năng lực cạnh tranh được thể hiện thông qua các khía cạnh năng suất ,sản lượng cao ,chi phí thấp ,giá thành hạ.giao hàng nhanh ,đúng hạn và đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Mặc dù trong thời gian qua các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu chú trọng đến chất lượng ,năng suất và một số sản phẩm hàng hoá Việt Nam đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước và có mức tăng trưởng xuất khẩu ngày càng cao,song nhìn tổng thể thì chất lượng và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá sản xuất tại các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu kém theo đánh giá của diễn đàn kinh tế thế giới năm 1999 năng lực cạnh tranh của Việt Nam được xếp thứ 48 trong số 59 nước được xếp hạng.Những thách thức lớn trong việc nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam xuất phát từ những nguyên nhân chính sau: -Thứ nhất, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực tài chính yếu,khả năng đổi mới công nghệ hạn chế.Đại bộ phận doanh nghiệp chỉ sản xuất kinh doanh một vài loại sản phẩm theo chu trình khép kín từ khâu thiết kế đến sản phẩm cuối cùng.Các tổng công ty 90,91 tuy có quy mô lớn nhưng chỉ là sự lắp ghép của các công ty thành viên chưa có đổi mới đáng kể về tổ chức sản xuất kinh doanh .Tình hình này làm hạn chế khả năng cạnh tranh và hạn chế khả năng doanh nghiệp vươn lên áp dụng ngay các phương pháp kỹ thuật và công nghệ quản lý mới để tạo ra sản phẩm-hàng hoá- dịch vụ có chất lượng cao. -Thứ hai trìnhđộ máy móc,trang thiết bị quá cũ và lạc hậu.Theo số liệu thống kê trên 75% thiết bị máy móc của các doanh nghiệp Việt Nam thuộc thế hẹ những năm 60,trong đó 70%đã kháu hao hết và gần 50%máy cũ đã được tân trang lại.Trình độ công nghệ của ta lạc hậu so với các nước công nghệ phát triển khoảng gần một thế kỷ.Bên cạnh đó,việc bố trí mặt bằng nhà xưởng bất hợp lý và lãng phí ,môi trường công nghiệp lạc hậu là đặc điểm phổ biến của các doanh nghiệp Việt Nam .Tình hình này khiến chúng ta khó lòng có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao và khó có khả năng cạnh tranh thắng lợi ngay trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài. -Thứ ba,nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp ứng được sự phát triển hiện tại và tương lai.Trình độ và cơ cấu lao động của các doanh nghiệp Việt Nam chưa phù hợp ,mặc dù là một nước nguồn lao động dồi dào với khoảng gần 40 triệu lao động nhưng đó chưa thực sự là nguồn lao động có sức mạnh.Chúng ta mới chỉ có khoảng 17,8% lao động được qua đào tạo,chỉ có khoảng 4000 công nhân bậc cao trong số 2,5 triệu,36%công nhân kỹ thuật được đào tạo theo hệ chuẩn quốc gia,39,4% được đào tạo theo chương trình ngắn hạn,24,7% chưa qua đào tạo.Mặt khác những công nhân có khả năng điều hành ,đứng máy trong các dây chuyền rất khan hiếm .Trong khi đó phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước có số cán bộ dôi dư lớn nên thường không mạnh dạn thay đổi cơ cấu doanh nghiệp,còn theo mô hình phòng ban cũ do vậy không tạo ra được sự chuyển biến đồng bộ và tác phong mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự đồng bộ trong việc giải quyết các vấn đề chất lượng. -Thứ tư,nhận thức và trình độ quản lý trong các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn là vấn đề nan giải và chưa rõ ràng,nhận thức và tác động của cơ chế thị trường còn phiếm diện,nặng về tác động tiêu cực,từ đó tìm các đối phó bằng các biện pháp không cơ bản như móc nối để mua bán không trung thực, “chựt giật” để có lợi nhuận trước mắt mà chưa thấy được yếu tố cơ bản của sự cạnh tranh là uy tín và chất lượng.Điều đó làm lu mờ mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp,hạn chế hoạt động cải tiến chất lượng. Ngoài ra còn một số vấn đề khác liên quan đến các yếu tố thuộc tầm vĩ mô như : vấn đề quan hệ sở hữu trong khu vực Nhà nước chưa được giải quyết triệt để,cơ chế quản lý vĩ mô còn hạn chế chưa bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp,tổ chức còn phức tạp cồng kềnh.Đây thực sự là những trở lực cho việc phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh,hạn chế khả năng tạo ra và cung cấp những sản phẩm – hàng hoá -dịch vụ có chất lượng thoả mãn khách hàng và tạo lợi thế cạnh tranh. Để các doanh nghiệp Việt Nam thực sự có sức cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh khốc kiệt hiện nay cần phải tiến hành một bước đổi mới triệt để cả về quan điểm nhận thức lẫn phương thức điều hành quản lý.Các doanh nghiệp Việt Nam phải từng bước chuyển dần từ mô hình quản lý cũ sang mô hình quản lý mới mà ở đó có sự phát triển cao về nguồn nhân lực,có môi trường để thúc đẩy khả năng sáng tạo trong lao động,có điều kiện áp dụng các công nghệ tiên tiến mà trước hết cơ sở nền tảng của nó phải dựa trên triết lý về chiến lược kinh doanh đúng đắn là mọi nỗ lực tập trung vào việc không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng để tạo lợi thế cạnh tranh và sự phát triển bền vững trong tương lai. 2.Những nguyên tắc cơ bản của ASEAN-AFTA,APEC và WTO tác động đến các sản phẩm-hàng hoá - dịch vụ của Việt Nam Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một hình thức liên kết thương mại của hiệp hội các quốc gia Đông Nam á.Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN năm 1992 đã thống nhất ký hiệp định thực hiện chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT).Khu vực mậu dich tự do ASEAN ra đời hướng vào các mục đích sau : - Mở rộng và tăng cường buôn bán giữa các nước ASEAN. -Thúc đẩy hợp tác đầu tư trong nội bộ khu vực và thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN -Xây dựng ASEAN thành một khu vực sản xuất có sức cạnh tranh mạnh hướng vào thị trường toàn cầu. Mục tiêu của CEPT mà các bộ trưởng các nước ASEAN ký vào năm 1992 là giảm thuế thương mại nội bộ ASEAN xuống 0-5% đồng thời lọai bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và hàng rào phi thuế quan khác (xem bảng thống kê). Đối với các sản phẩm được cho là nhạy cảm như hàng nông sản chưa qua chế biến,hàng dệt may cũng lần lượt được đưa vào danh mục cắt giảm thuế quan. Nước thành viên Danh mục cắt giảm ngay Danh mục cắt giảm tạm thời Danh mục nhạy cảm Danh mục loại trừ hoàn toàn Tổng số Brunay 6276 - 202 14 6492 Indonexia 7158 21 69 4 7252 Lào 1247 2126 90 88 3551 Malayxia 9092 - 63 73 9228 Mianma 2356 2987 108 21 5472 Philippin 5571 35 27 62 5695 Xingapo 5739 - 120 - 5859 Thái lan 9103 - - 7 9100 Việt Nam 3573 984 219 51 4827 Campuchia 3114 3523 134 50 6821 ASEAN–6(6 nước thành viên đầu) 42939 56 481 160 43636 % trên tổng của ASEAN-6 98,3 0,13 1,1 0,37 100 ASEAN-4(4 thành viên mới) 10290 9620 551 210 20671 %trêntổng của ASEAN– 4 49,78 46,54 2,66 1,02 100 Với APEC được cam kết trong chương trình hành động quốc gia (IAP) và WTO là biểu nhân nhượng thuế quan theo điều 2 của hiệp định thương mại và thuế quan. Loại bỏ các hạn chế định lượng và hàng rào thuế quan đối với các sản phẩm đưa vào danh mục cắt giảm thuế quan được quy định trong các văn bản giữa các bên. Tăng cường cạnh tranh công bằng cho mọi sản phẩm hàng hoá khi xâm nhập vào bất cứ quốc gia nào của WTO.Với nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT),các nguyên tắc chống phá giá và trợ cấp,các hàng rào được quy định trong các hiệp định của WTO có thể đảm bảo hoạt động thương mại được bình đẳng giữa các thành viên. Giành ưu tiên cho các thành viên chậm phát triển hơn.Quy định của ASEAN –AFTA kéo dài thời gian thực hiện cho các nước gia nhập sau (ASEAN-5 kết thúc vào năm 2003,Việt Nam 2006) APEC quy định đối với các thành viên phát triển là 2020.WTO khuyến khích các nước phát triển giúp đỡ các nước đang phát triển bằng các hạn chế sử dụng các hàng rào phi thuế quan với các sản phẩm có lợi cho xuất khẩu của các nước đang phát triển mà không đòi hỏi một sự đãi ngộ đối đẳng nào từ các nước đang phát triển,phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong việc giúp đỡ các nước đang phát triển giải quyết cân bằng cán cân thanh toán trong tình trạng nghiêm trọng. Thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá cả các lĩnh vực dịch vụ,đầu tư và các khía cạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ .Được quy định trong các chương trình thương mại hoá ,các nguyên tắc tối huệ quốc ,đãi ngộ quốc gia và các hiệp định riêng biệt cho các lĩnh vực trên của WTO. 3.Thực trạng chất lượng hàng hoá Việt Nam Trong nền kinh tế hội nhập một sản phẩm muốn có chỗ đứng trên thị trường đỏi hỏi phải có sức cạnh tranh quốc tế.Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới tự do thương mại đã làm cho cuộc chạy đua về kinh tế giữa các nước các tập đoàn xuyên quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt.Hiện nay ở Việt Nam trước mắt mục tiêu chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp là thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và tiến tới đủ sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước trong khu vực và thế giới. Đây chính là thách thức đối với các doanh nghiệp nước ta :hoặc sẽ là phát triển,thị trường được mở rộng hoặc thị trường bị thu hẹp ,sản xuất chậm phát triển.Thực tế khả năng cạnh tranh của một số doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp đó bán ra.Sản phẩm ,dịch vụ có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định lựa chọn mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp,chất lượng tạo ra sự hấp dẫn thu hút người mua.Các doanh nghiệp nước ta hiên nay đều nhận thức rằng muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường đều phải đặc biệt coi trọng chất lượng và quản lý chất lượng. Một số doanh nghiệp đã tiếp cận với một số khái niệm và phương pháp quản lý chất lượng hiện đại trên thế giới bước đàu áp dụng ISO 9000,TQM trong quản lý chất lượng.Cho đến nay cả nước có khoảng gần 500 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận ISO 9000(trong đó có doanh nghiệp chuyển sang phiên bản ISO 9000:2000) trong đó có 62%doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài,6% doanh nghiệp tư nhân ,32% doanh nghiệp Nhà nước.Trong các doanh nghiệp Nhà nước được cấp giấy chứng nhận ISO 9000 thì ngành điện- điện tử chiếm tỷ lệ cao nhất (36%) số còn lại(64%)là các ngành hoá chất,may mặc,cơ khí,dịch vụ… Trong những năm đổi mới vừa qua để tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới về mặt chất lượng sản phẩm các doanh nghiệp Việt Nam đã có một số tiến bộ nhất định.Để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế,các doanh nghiệp Việt Nam phải lựa chọn mặt hàng với chất lượng thích hợp để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu trong 10 năm qua (1986-1996) tăng trung bình 24,8%,sản phẩm chưa đủ để tạo khả năng cạnh tranh về mặt chất lượng với các hàng hoá dịch vụ của các nước khác do : -Hàng hoá Việt Nam cho đến nay vẫn đựơc sản xuất trên cơ sở một trang bị kỹ thuật ,công nghệ lạc hậu khá xa so với trình độ kỹ thuật trung bình của khu vực và thế giới.Theo kết quả điều tra công bố cho biết hiện nay có đến 80% máy móc thiết bị và công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước được xếp vào loại lạc hậu trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tình hình cũng không có gì khả quan hơn bởi lẽ phần lớn các doanh nghiệp và quốc doanh trong những năm qua chỉ hoạt dộng trong các lĩnh vực buôn bán,dịch vụ .Số doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất rất ít và do vốn có hạn nên cũng không đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại.Thiết bị và công nghệ lạc hậu tất yếu dẫn đến năng suất lao động không cao. Chất lượng thấp,giá thành cao. - Các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu hiện nay loại trừ chế biến nông sản, lâm sản, hải sản phần lớn đang phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài .Do đó giảm giá nguyên liệu , vật liệu để giảm giá thành và đang là vấn đề nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp . -Những quy định về chất lượng và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm việc đăng ký tiêu chuẩn chất lượng đăng ký nhãn hiệu sản phẩm, kiểm tra giám sát sản phẩm xuất khẩu tiến hành thiếu nghiêm túc. Chưa có chính sách quy định chất lượng sản phẩm xuất khẩu đối với từng mặt hàng , từng thị trường . Điều này ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới. Do mức độ cạnh tranh ngày càng cao tốc độ đổi mới công nghệ của của các nước nhanh chóng đã gây ra tình trạng tụt hậu và kém chất lượng tương đối của sản phẩm Việt Nam so với các nước trong khu vực và thế giới làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp chưa đổi mới căn bản nội dung và phương pháp quản lý chất lượng,chưa thấy được vai trò của quản lý chất lượng coi quản lý chất lượng là công tác của bộ phận KCS (Kiểm tra chất lượng sản phẩm).Họ đồng nhất quan niệm quản lý chất lượng với kiểm tra chất lượng,do đó đã không huy động được mọi người,mọi tổ chức tham gia vào việc đảm bảo và nâng cao chất lượng ,không chú trọng đến vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng trong quá trình thiết kế,sản xuất kiểm tra đến sử dụng.điều này đã làm giảm đáng kể hiệu quả công tác cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường . 4. Hàng hoá xuất- nhập khẩu của Việt Nam-kết quả thời kỳ 1991- 2000.Triển vọng Quy mô và tốc độ xuất nhập khẩu liên tục được mở rộng và gia tăng bình quân 18%/năm(xuất khẩu tăng 18,4%)so với mức tăng trưởng GDP bình quân 7,4%,kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 1999 đạt 150 USD tăng 5 lần so với năm 1991 .Cán cân thương mại quốc tế từ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu là 53,6% năm 1996 thu hẹp còn 0,7% so với năm 99 .Cơ cấu nhóm mặt hàng xuất khẩu được cải thiện nhất định nhờ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỷ trọng nhóm hàng qua chế biến tăng dần:hàng nguyên liệu thô năm 1991 chiếm đến 90% kim ngạch xuất khẩu,nhóm nông-lâm-thuỷ sản chiếm 53% và hàng tiểu thủ công nghiệp chiếm 47%,tổng kim ngạch, năm 1999 các chỉ tiêu trên là 60%;36,5% và 63,5%.Có 16 nhóm hàng,mặt hàng mới và 20 nhóm hàng lần đầu thâm nhập vào một số thị trường so với thời kỳ trước năm 1991.Năm 1991 có 4 mặt hàng chủ lực(dầu thô,gạo,thuỷ sản,dệt may) với kim ngạch xuất khẩu mỗi loại từ 100 triệu USD trở lên thì đến năm 1999 có thêm 8 mặt hàng chủ lực là cà phê,cao su,giày dép,hàng điện tử,than đá,thủ công mỹ nghệ,hạt điều,rau quả.Bốn mặt hàng đạt kim ngạch từ 1-1,3 tỷ USD là gạo,giày dép,dệt may,dầu thô và 3 mặt hàng đạt xấp xỉ 500-1tỷ USD là cà phê,hàng điện tử,thuỷ sản.Chất lượng các mặt hàng đã đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cơ cấu thị trường xuất khẩu có sự chuyển biến cơ bản,đến tháng 4-2000 đã có hiệp định thương mại với 52 nước và có thoả thuận tối huệ quốc với 72 nước và vùng lãnh thổ,quan hệ thương mại với trên 100 quốc gia .nước ta là thành viên ASEAN (1995),ASEM(1996),APEC(1998) và đang đàm phán ra nhập WTO. Thị trường Liên Xô và Đông Âu năm 1985 chiếm tới 57% kim ngạch xuất- nhập khẩu nhưng đến năm 1991 còn 11,1% và từ năm 1998 chỉ còn 2%.Tiềm năng xuất khẩu vào khu vực này còn lớn,thị trường Châu á trước đây chỉ chiếm với tỷ lệ nhỏ nhưng nay lại là thị trường xuất khẩu chính,năm 1991 tăng vọt 77% và năm 1999 ở mức 57,7%,do ta mở rộng thêm các thị trường ở Châu Âu và Bắc Mỹ.thị trường EU nói riêng và Châu Âu nói chung tăng khá đều;xuất khẩu vào EU năm 1991 chỉ chiếm 5,7% năm 1999 lên tới 21,7% nâng tỷ trọng xuất khẩu vào Châu Âu lên gần 28%.Bước đột biến trong quan hệ thương mại voí EU đánh dấu bằng hiệp định khung về buôn bán hàng dệt may năm 1992 làm tăng kim ngạch xuất khẩu vào EU từ 147 triieụ USD lên 2499 triệu USD năm 1999 . Quan hệ thương mại với Bắc Mỹ chủ yếu là Hoa Kỳ có bước phát triển nhanh từ năm 1995 kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ từ 3,1 % lên tới 4,4% năm 1999 và luôn xuất siêu.Xuất khẩu vào Châu Đại Dương chủ yếu là Austria tăng từ 0,2 lên 5,3% trong thời kỳ 1991-1999.thị trường Châu Phi và Nam Mỹ chưa có chuyển biến đến nay vẫn chưa đạt được 1% tổng kim ngạch của cả nước. Cơ cấu hàng nhập khẩu và thị trường có chuyển dịch tích cực trong thời kỳ 1991 –1999 nhập khẩu máy móc thiết bị tăng từ 21,8% lên 28% tổng kim ngạch của cả nước.Nguyên-nhiên-vật liệu luôn chiếm ở mức cao trên 60%, hàng tiêu dùng giảm từ 13,9% xuống còn 5,2% .thị trường nhập khẩu chủ yếu là khu vực Châu á chiếm 80% trong đó 30% từ các nước ASEAN. Định hướng cơ bản của công tác xuất-xuất khẩu trong 10 năm tới: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất –nhập khẩu,chuyển dịch cơ cấu xuất-nhập khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo,sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ,về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất,nhất là công nghệ tiên tiến,đảm bảo cán cân thương mại ở mức hợp lý mở rộng và đa dạng hoá thị trường phương thức kinh doanh hội nhập và rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước với các nước trong khu vực và thế giới.Thúc đẩy khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 5.Nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam.Đòi hỏi khách quan và cấp bách. 5.1Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam. Trong công cuộc công nghiệp hoá,hiện đại hoá Việt Nam đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.Vì vậy hàng hoá xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng của chính sách kinh tế đối ngoại,vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của nó trên thị trường quốc tế là sự thể hiện của sự phát triển.Trong giai đoạn hiện nay thúc đẩy xuất khẩu cần đặt trong mối quan hệ với việc thay thế nhập khẩu và phát triển sản xuất trong nước.Khi Việt Nam ra nhập AFTA,APEC và WTO đòi hỏi phải đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các chính sách và quy định pháp lý liên quan đến hoạt động xuất-nhập khẩu. Mặc dù tốc độ tăng xuất khẩu hàng năm 20% nhưng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém do một số nguyên nhân chính: - Công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu Việt Nam chủ yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung không thích hợp với nền kinh tế thị trường. Các xí nghiệp ,kho tàng,máy móc thiết bị… lạc hậu và cồng kềnh nhưng công xuất lại thấp nên hoạt động kém hiệu quả vì phải chịu khấu khao lớn,các định mức tiêu hao nguyên-nhiên vật liệu thường nâng cao mà sản phẩm sản xuất ra chất lượng lại thấp. Mấy năm gần đây một số doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện nhưng không đồng bộ do thiếu vốn. -Tuy đã có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu ảnh hưởng đén ngành chế biến,nhưng nhìn chung tổng thể thì hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng thô và nguyên liệu được thu gom ở nhiều vùng khác nhau nên chất lượng không đồng đều,chưa chú trọng quy vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ. Các mặt hàng may mặc,giày dép tuy đạt giá trị kim ngạch cao nhưng phần lớn là hàng gia công theo đơn đặt hàng cho nước ngoài. - Các doanh nghiệp Việt Nam vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong khi quá trình hội nhập và cạnh tranh diễn ra một cách mạnh mẽ,các doanh nghiệp Việt Nam đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoàn,công ty đa quốc gia .Công tác tổ chức thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với các doanh nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời đồng bộ và chất lượng chưa cao.Các cơ quan Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất,tạo nguồn hàng hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu.Trình độ tổ chức quản lý,điều hành xuất nhập khẩu ,trình độ tiếp thị của các doanh nghiệp còn non yếu. - Hiện nay có quá nhiều doanh nghiệp của Trung ương và địa phương của nhiều ngành quản lý trên một vùng lãnh thổ cùng tham gia sản xuất kinh doanh xuất-nhập khẩu một ngành hàng,mặt hàng chưa căn cứ vào thế mạnh của từng vùng.Do thiếu sự hướng dẫn,điều hành,phân công phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng mạnh ai người ấy làm,phân tán cục bộ,tranh mua,tranh bán…hậu quả là giá mua hàng xuất khẩu trong nước đẩy lên cao so với các mặt hàng cùng loại của đối thủ cạnh tranh và giá bán ở thị trường nước ngoài bị giảm. - Cơ chế quản lý nói chung và quản lý xuất –nhập khẩu nói riêng thay đổi thường xuyên làm cho các doanh nghiệp không kịp xoay sở bị động,lúng túng trong hoạt động kinh tế.Một số doanh nghiệp chưa thật sự yên tâm đầu tư vốn mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. 5.2Mục tiêu và chiến lược của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hội nhập một số sản phẩm muốn có chỗ đứng trên thị trường đòi hỏi phải có sức cạnh tranh quốc tế. Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, tự do thương mại đã làm cho cuộc chạy đua về kinh tế giữa các quốc gia trở lên quyết liệt. Trong bối cảnh đó, chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp phải coi cạnh tranh quốc tế là chuẩn mực sống còn cho sự phát triển. Do đó việc xây dựng chiến lược chất lượng là việc mang tính cấp bách đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Một sản phẩm có khả năng xuất khẩu là phải đáp ứng được những quy định nghiêm ngặt của nước nhập khẩu. Những quy định về tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao hơn và việc kiểm tra chất lượng cũng khắt khe hơn. Đối với nhiều ngành hàng, các nước nhập khẩu luôn luôn đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải thực hiện hệ thống quản lý chất lượng quốc tế phù hợp với ngành hàng đó(7509000,TQM...). Chẳng hạn như đối với ngành chế biến thuỷ sản yêu cầu đầu tiên đối với thị trường Mỹ là doanh nghiệp xuất khẩu phải có hồ sơ giới thiệu quy trình quản lý sản xuất của mình. Tuy nhiên, khách hàng Mỹ không chỉ đơn thuần căn cứ vào hồ sơ giấy tờ mà còn trực tiếp kiểm tra kỹ lưỡng tại nơi sản xuất, chế biến. Trong xu thế tự do hoá thương mại, chính sự bành trướng và cạnh tranh quyết liệt giữa các tập đoàn, các quốc gia luôn làm cho người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn. Họ sẽ chỉ tiêu dùng những sản phẩm mà họ tin cậy, phù hợp trong sử dụng, có dịch vụ tốt. Như vậy, chất lượng của sản phẩm phải đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng. Do đó, việc hình thành các phương án chiến lược có thể xuất phát từ rất nhiều vấn đề như: kết quả nghiên cứu khách hàng, nghiên cứu sản phẩm, thị trường mục tiêu, công nghệ, ý tưởng chủ quan của doanh gia, các mối quan tân đến cộng đồng và nội bộ doanh nghiệp. Từ thực trạng của các doanh nghiệp hiện nay, trước đòi hỏi của quá trình hội nhập-cạnh tranh, doanh nghiệp tập trung vào các vấn đề chiến lược chất lượng như: Chiến lược chất lượng kỹ thuật: Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược kỹ thuật này coi trọng việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp công nghệ mới để áp dụng vào sản phẩm của mình đôi khi bất chấp các nghiên cứu thị trường thông thường vì theo họ các phát ninh kỹ thuật sẽ cho phép xuất hiện các sản phẩm, dịch vụ mới hoàn toàn và họ trở thành người dẫn đầu thị trường, định hướng thị trường, hình thành nên các nhu cầu mới cho thị trường. Chiến lược chất lượng Marketing: Chiến lược này coi trọng chất lượng là sự chấp nhận của khách hàng và thuần tuý tìm kiếp các giải pháp Marketing cho chiến lược chất lượng. ở đây chiến lược chất lượng thông qua các giải pháp Marketing để thuyết phục người tiêu dùng về tính năng, công dụng của sản phẩm mà khi họ mua và tiêu dùng. Chiến lược chất lượng kỹ thuật marketing: Là chiến lược đan xen các tiến bộ kỹ thuật với tính chất của các cải tiến nhỏ bên cạnh các nỗ lực marketing. Chiến lược chất lượng dịch vụ: Một số công ty, hãng nâng cao chất lượng bằng hệ thống phục vụ tốt. Điều này đã cho phép khắc phục đáng kể những khiếm diện còn có đối với sản phẩm, dịch vụ của họ. Trên thị trường người tiêu dùng và khách hàng chấp nhận mua sản phẩm có các thông số kỹ thuật có thể ở một mức nào đó nhưng thêm vào đó họ nhận được dịch vụ sau bán hàng hoàn hảo. Đánh giá một cách tổng quát: quản lý chiến lược sản phẩm ở Việt Nam nói chung, chiến lược sản phẩm nói riêng còn ở trình độ thấp, chưa có vai trò, vị trí tương xứng trong hoạt động điều hành sản xuất kinh doanh để nâng cao tính cạnh tranh. Trong khi quá trình quản lý chiến lược chất lượng sản phẩm thế giới đã đạt đến trình độ cao tức là chiến lược chất lượng sản phẩm được toàn công ty quan tâm và áp dụng thì các doanh nghiệp của ta còn là vấn đề xa lạ của người lao động thậm chí là cả các cấp quản lý. Quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá trong xu thế hội nhập của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp đã trở thành một yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế. Do đó, vai trò của Nhà nước là quan trọng trong việc định hướng cho các doanh nghiệp trong sự phát triển và hội nhập nền kinh tế thế giới. Một trong những yếu tố nâng cao trình độ và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế đó là chất lượng và quản lý chất lượng, nó có một ý nghĩa quan trọng và rộng lớn cho nên trên thế giới hầu hết các nước đều có sự quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá dịch vụ. Quản lý Nhà nước về chất lượng không tác động trực tiếp đến các yếu tố hình thành và ảnh hưởng tới chất lượng mà chỉ tác động một cách gián tiếp nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động quản lý chất lượng. Quản lý Nhà nước về chất lượng nhằm bảo vệ lợi ích của các sn, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ góp phần phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước thực hiện việc quản lý chất lượng thông qua việc ban hành luật lệ, chính sách, tổ chức thực hiện và giám sát sự thi hành. Để thực hiện quản lý chất lượng, Nhà nước phải thiết lập cơ quan chức năng. Những cơ quan này giúp Nhà nước thống nhất quản lý chất lượng hàng hoá, dịch vụ. Chất lượng, dịch vụ là một lĩnh vực rộng, không chỉ bó hẹp trong biên giới quốc gia mà cần có sự hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế mới mới giải quyết được. Chất lượng hàng hoá, dịch vụ ảnh hưởng mạnh mẽ đến giao lưu hàng hoá, hợp tác kỹ thuậ. Vì vậy, các tổ chức khu vực, tổ chức quốc tế cần hợp tác với nhau trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hoá, dịch vụ. Vì thế ngày nay đã có nhiều cơ quan quản lý chất lượng khu vực và quốc tế ra đời, đã có những đóng góp to lớn trong việc nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển kinh tế - xã hội trên quy mô toàn cầu. Cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá là đại diện của Việt Nam tại các tổ chức khu vực và quốc tế về lĩnh vực tiêu chuẩn, chất lượng. Cơ quan này đóng góp vào hoạt động của các tổ chức khu vực và quốc tế về chất lượng, đồng thời cũng đem những thành tựu, những kinh nghiệm quốc tế áp dụng vào Việt Nam. Như vậy, quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá có chức năng thúc đẩy sự tiến bộ quản lý chất lượng trong quá trình hội nhập về kinh tế. Giải pháp tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Bước vào thế kỷ 21, nền kinh tế nước ta cũng bước vào hội nhập với các nước trên thế giới với những cơ hội và những thách thức gay gắt buộc chúng ta phải nhìn nhận một cách đúng đắn về mặt đường lối, chính sách. Một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay là: năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam và khả nănh cạnh tranh của nền kinh tế nói chung của ta còn rất yếu kém so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Tình trạng này được thể hiện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đó đáng lưu ý là do giá đầu vào của sản xuất nói chung cao, lại phải chịu rất nhiều loại thuế, phí dịch vụ và các loại phí bất hợp lý khác, máy móc, thiết bị cũ kỹ lạc hậu, hiểu biết về thị trường, kinh nghiệm về kinh doanh, quản lý, công tác tiếp thị, Marketing của các doanh nghiệp còn hạn chế. Nói chung hầu hết các doanh nghiệp chưa có chiến lược lâu dài. Mặt khác về phía các cơ quan quản lý Nhà nước còn một số chính sách thuế, quản lý thủ tục hành chính có nhiều điều chưa hợp lý góp phần làm tăng các loại phí mà các doanh nghiệp phải chịu,làm cho giá thành tăng hơn so với giá nhập khẩu từ các nwcs khác. Việc sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá một số bộ phận doanh nghiệp Nhà nước triển khai khá chậm chạp thêm vào đó tệ nạn quan liêu tham nhũng của một bộ phận quan chức, luôn gây nhiẽu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với hàng loạt các yếu tố nêu trêntác động đến vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam sẻ không chỉ là việc của Nhà nước hoặc doanh nghiệp mà phải có sự quyết tâm của cả hai phía. Thực hiện chủ trương mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực và thế giới đòi hỏi chúng ta phải từng bước mở cửa thị trường trong nước. Như vậy đề cập tới cạnh tranh và nâng cao cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm đến nâng cao năng lực cạnh tranh ở thị trường nội địa. Quyết định 46/2001/QĐ/-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001- 2005, trong đó quy định danh mục hàng và thời hạn áp dụng một số biện pháp nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Bên cạnh thuế nhập khẩu, Nhà nước sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, phí môi trường và các biện pháp chống chuyển giá đối với một số hàng hoá nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước, đảm bảo thương mại công bằng và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, từng ngành hàng, từng doanh nghiệp cần phải chủ động, có chiến lược và kế hoạch cụ thể về nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước chứ không thể cứ trông chờ vào hàng rào bảo hộ của Nhà nước. Hiện tại, phần lớn các mặt hàng không có sức cạnh tranh (hoặc có sức cạnh tranh thấp) là do yếu tố về giá cả- chất lượng và phương thức phục vụ chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. Do đó, các doanh nghiệp cần: Một là, tập trung đổi mới hệ thống thiết bị máy móc, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Nguồn vốn cần thiết cho việc đổi mới công nghệ và máy móc có thể lấy từ nguồn vốn tích luỹ của doanh nghiệp hoặc có thể dùng vốn đi vay từ Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, từ nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước kêu gọi liên doanh, liên kết. Khi nhập khẩu máy móc thiết bị, cần hết sức chú ý nhập được thiết bị và công nghệ nguồn từ các nước phát triển, tránh tình trạng do lợi ích trước mắt, buông lỏng quản lý để tiêu phí tiền vào nhập thiết bị lạc hậu, cũ nát biến nước ta thành “bãi rác công nghiệp”. Hai là, đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, cơ cấu lao động của nước ta rất bất hợp lý, trình độ của đội ngũ lao động thấp kém ảnh hưởng đến năng suất chất lượng của sản phẩm. Vì vậy, trong các doanh nghiệp cần chú trọng vào việc đào tạo lại lực lượng lao động phù hợp với yêu cầu, tính chất công việc, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân phát triển kỹ năng một cách thống nhất, phát huy hết khả năng của mỗi cá nhân. Đối với máy móc thiết bị phải tương thích với lực lượng lao động đủ khả năng sử dụng và vận hành khai thác những dây chuyền sản xuất hiện đại. Đào tạo, nâng cao trình độ nguồn nhân lực là công việc chung của cả doanh nghiệp và toàn thể xã hội để đạt đến sự phát triển bền vững. Ba là, Đổi mới nhận thức về vai trò của hệ thống quản lý đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm nói riêng và sự tồn tại lâu bền của doanh nghiệp nói chung, quản lý chính là nhân tố quyết định, phối hợp và phát huy tác dụng của tất cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất. Hiện nay, do các doanh nghiệp có nhu cầu tiềm tàng rất lớn đối với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 nên số lượng tổ chức tư vấn và chứng nhận ISO tăng nhanh, hiện tại ở mức trên 30 tổ chức. Nhưng chất lượng của chính những tổ chức này vẫn chưa được kiểm soát và quản lý chặt chẽ cộng với chi phí cấp chứng chỉ ISO9000 cho các doanh nghiệp là tương đối cao đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này trên quan điểm quản lý vĩ mô, Nhà nước cần phải có quy chế và hỗ trợ các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải trích tỷ lệ thích hợp dành cho đầu tư và phát triển nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như có chính sách khuyến khích sáng tạo, nghiên cứu đổi mới và cải tiến chất lượng sản phẩm trong nội bộ doanh nghiệp, áp dụng những kỹ thuật tiên tiến từ bên ngoài. Bốn là, đối với Việt Nam trước mắt và trong những năm tới đẩy mạnh việc xuất khẩu đặc biệt là những mặt hàng mũi nhọn như: gạo, chè, cà phê, hải sản... có ý nghĩa vô cùng quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, gia tăng tốc độ tăng trưởng. Từ trước đến nay chúng ta vẫn tiến hành xuất khẩu nông sản theo kiểu thừa thì đem bán nên chất lượng của sản phẩm xuất khẩu không cao và phải chịu thiệt thòi so với các nước khác. Do đó, muốn đẩy mạnh xuất khẩu không còn cách nào khác phải nâng cao, ổn định chất lượng sản phẩm hàng nông sản bằng cách quy hoạch lại toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nước, đầu tư phát triển hệ thống kho để bảo quản, lưu trữ hàng hoá. Năm là, Cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong điều kiện hội nhập đang đến gần không chỉ cần vai trò chủ độngcủa các doanh nghiệp mà vai trò hỗ trợ, đảm bảo điều kiện phát triển năng suất chất lượng của Nhà nước còn mang ý nghĩa quan trọng không kém. Đứng ở góc độ vĩ mô, Nhà nước cần thiết lập những cơ chế chính sách thích hợp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế như hỗ trợ về vốn thông qua ngân sách, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển để các doanh nghiệp có thể đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất, cải cách chính sách giáo dục và đào tạo cho phù hợp với nhu cầu thực tiến của đất nước, trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng và phát triển hệ thống trường trung cấp và cao đẳng kỹ thuật, dạy nghề. Nhà nước cũng cần phải tổ chức quản lý lại đối với các tổ chức tư vấn và cấp chứng chỉ ISO cho phù hợp với thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp. Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra trên thế giới đòi hỏi Việt Nam phải có những bước đi đúng đắn trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới để có thể tận dụng được các cơ hội và hạn chế được các nguy cơ, thách thức, bất lợi. Việc tự do hoá thương mại trong các tổ chức hợp tác khu vực mà Việt Nam tham gia như:APEC, ASEAN, ASEM sẽ xoá đi rào cản trước hết về thuế quan sau đó là phi thuế quan. Điều này sẽ đặt hàng hoá của chúng ta ***************************************************** ????????????????????????????? COPPY VàO vào tình trạng cạnh tranh hết sức khó khăn trong những năm sắp tới.Một khi các hình thức bảo hộ thuế quan và phi thuế quan giảm bớt và đi đến triệt tiêu thì biện pháp “tự vệ” cho hàng hoá Việt Nam không còn gì khác hơn ngoài chất lượng.Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp ngay từ bây giờ nếu không sẽ quá muộn phải có chính sách trước cuộc cạnh tranh chất lượng này bằng không sẽ bị đánh bật khỏi sân chơi thương trường, Tài liệu tham khảo 1.Tạp chí Đo lường chất lượng số 3,4,5,6(2001) 2.Tạp chí thương mại số :12(2000);17;19;24(2001) 3.Ngoại thương số 21-27/4/2000 4.Kinh tế và dự báo số 1,4,5(2000);4(2001) 5.Tạp chí phát triển kinh tế số 23(2000) 6.Tạp chí kinh tế phát triển số 10+11(2001) 7.Thời báo kinh tế Sài Gòn(9/8/2001) 8.Quản lý chất lượng sản phẩm(chuyên đề báo cáo)-Hoàng Mạnh Tuấn 9.Bản tin nội bộ câu lạc bộ chất lượng 10.Đổi mới chất lượng sản phẩm trong thời kỳ đổi mới-Hoàng Mạnh Tuấn 11.Chiến lược chất lượng và giá cả sản phẩm xuất khẩu của các loại doanh nghiệp ngành công nghiệp nhẹ-Hà Nội năm 2000 12.Bộ tài chính:Danh mục hàng hóa và thuế suất các mặt hàng Việt Nam thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiêu jlực chung(CEPT) của các nước ASEAN năm 2000,NXB TC –HN,tháng 6/2000,tr 9. 13.Bộ tài chính:Thời báo tài chính Việt Nam số 30(9/3/2001) 14.Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN tài liệu Bộ KH-ĐT mục lục Phần I:những lý luận chung về quản lý chất lượng.Sự cần thiết của quản lý chất lượng của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập cạnh tranh I.Quản lý chất lượng trong sự phát triển của nền kinh tế II.Quản lý chất lượng trong doanh nghiệp 1.Những khái niệm cơ bản về chất lượng và quản lý chất lượng 2.Quá trình hội nhập và cạnh tranh.Chiến lược của doanh nghiệp III.Quản lý chất lượng trong quá trình hội nhập và cạnh tranh của nền kinh tế. 1.Chiến lược chất lượng trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010 2.Chiến lược phát triển chất lượng hàng xuất khẩu. Phần II:Quản lý chất lượng và sức cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập-cạnh tranh I.Quá trình hội nhập-cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. 1.Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2.Hội nhập kinh tế quốc tế với việc điều chỉnh một số chính sách thương mại 3.Nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam II.Quản lý chất lượng và thách thức của hàng hoá Việt Nam trong quá trình chuẩn bị tham gia AFTA-WTO 1.Chất lượng- Một nhân tố cho sự hội nhập về kinh tế 2.Những nguyên tắc cơ bản của ASEAN-AFTA,APEC và WTO tác động đến các sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ của Việt Nam 3.Thực trạng chất lượng hàng hoá Việt Nam 4.Hàng hoá xuất- nhập khẩu của Việt Nam- Kết quả thời kỳ 1991-2000.Triển vọng 5.Nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam.Đòi hỏi khách quan và cấp bách. 6.Quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá trong xu thế hội nhập của nền kinh tế. Phần III: Những giải pháp nâng cao đổi mới chất lượng của các doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33744.doc
Tài liệu liên quan