Đề tài Quản trị rủi ro ngoại hối trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng

Ngoại hối là một bộ phận quan trọng và phát triển rất nhanh của các thị trường tài chính. Hoạt động ngoại hối mang tính chất quốc tế cao, sử dụng nhiều đồng tièn khác nhau và bao gồm việc mua bán trao đổi với tốc độ nhanh các khoản ngoại tệ khổng lồ. Hoạt động nhằm bảo vệ các giao dịch tránh được rủi ro hối đoái là một trong những hoạt động ngoại hối quan trọng nhất. Trên thế giới, các công cụ quản lý rủi ro hối đoái đã phát triển từ lâu và không ngừng được cải thiện. Đối với Việt nam chúng ta, khi mà hoạt động tài chính ngày càng phát triển các kỹ thuật phòng chống rủi ro hối đoái tuy vẫn là một vấn đề mới mẻ nhưng đang thu hút được sự quan tâm ngày càng nhiều của các nhà quản lý vốn. Đáp ứng nhu cầu này đã có nhiều bài viết và chuyên đề khoa học đề cập đến vấn đề quản trị rủi ro ngoại hối. Tuy vậy, những công trình này chỉ mới chỉ dừng lại ở việc khai thác những mảng kiến thức chung từ tư liệu của nước ngoài mà chưa có những đánh giá mang tính thực tiễn và cụ thể đối với mảng thị trường còn non trẻ như Việt nam. Xuất phát từ nhận định này, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu sâu thêm những vấn đề liên quan tới quản trị rủi ro trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, chủ đề được coi là trọng điểm quan tâm của các nhà quản trị. Nhìn một cách khái quát luận văn với đề tài “Quản trị rủi ro ngoại hối trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” có những điểm đáng chú ý sau: 1. Hệ thống hoá một cách khoa học các loại rủi ro mà các ngân hàng Việt nam phải đối mặt trong hoạt động kinh doanh. Đã có sự đánh giá đối từng loại rủi ro và tiến hành so sánh tầm quan trọng của từng loại. 2. Chỉ ra được xu hướng chủ đạo trong nền tài chính quốc tế, từ đó nêu rõ ảnh hưởng của nó tới hoạt động phòng chống rủi ro ngoại hối. 3. Nêu ra được các giải pháp cụ thể trên cả hai bình diện: vĩ mô và vi mô. Hệ thống giải pháp vĩ mô là các kiến nghị về mặt chính sách cho qui mô quản lý nhà nước và hệ thống giải pháp vi mô là các kỹ thuật cụ thể mang tính thực hành cao áp dụng cho cấp độ các ngân hàng thương mại. 4. Đưa ra được các kiến nghị cụ thể cho một thị trường hối đoái tương lai của Việt nam. Đề xuất các bước chuẩn bị cần thiết để tăng cường hiệu quả, tối thiểu hoá rủi ro trong một môi trường mới.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị rủi ro ngoại hối trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hả nổi tự do. Thả nổi thự do có thể không thực tế, với các nước đang phát triển do tỷ giá biến động quá nhiều trong khi thiếu các thị trường tài chính phát triển. Rủi ro tỷ giá trong hai hệ thống tỷ giá là ngang nhau, mặc dù tỷ giá cố định có thể được duy trì trong một thời gian dài. Tuy nhiên, việc quản lý rủi ro tỷ giá sẽ có thêm nhiều công cụ của thị trường nếu biến động tỷ giá là do quy luật của thị trường quyết định. Ngoài ra, kinh doanh ngoại hối sẽ được đảm bảo công bằng hơn trong một chế độ tỷ giá linh hoạt. 2. Cần có các chính sách tài chính – tiền tệ thích hợp góp phần ổn định tỷ giá. Các chính sách tài chính, tiền tệ thích hợp, là cần thiết để tránh những biến động quá mức của tỷ giá và đảm bảo sự ổn định vĩ mô dưới bất kỳ một chế độ tỷ giá nào. Các chính sách tài chính, tiền tệ tác động đến nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới tỷ giá như lạm phát, lãi suất, thu nhập quốc dân, thất nghiệp cán cân thanh toán… Chỉ cần một thay đổi nhỏ đối với các nhân tố này cũng có thể làm tỷ giá biến động đáng kể. Chính sách tài chính là công cụ quản lý các nguồn vốn trong nền kinh tế, chủ yếu thông qua việc xử lý thuế và chi tiêu chính phủ. Điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tổng cầu và chi tiêu, qua đó ảnh hưởng đến lạm phát cán cân thanh toán và thất nghiệp, những nhân tố có liên quan chặt chẽ đến tỷ giá. Ví dụ: các cơ quan có thẩm quyền về tài chính có thể áp dụng nhiều biện pháp quản lý thuế như tăng thú trực thu cá nhân và Công ty, tăng thuế gián thu… Tăng thuế thu nhập làm giảm tiêu dùng của cá nhân, tăng thuế Công ty tương tự làm Công ty ít có lợi nhuận để trả tiền lãi cổ phần và đầu tư. Điều này có thể dẫn đến giảm cầu ngoại tệ chi dùng cho nhập khẩu làm cho tỷ giá có xu hướng giảm. Chính sách tiền tệ là một công cụ vĩ mô liên quan đến việc điều hoà cung tiền tệ, tín dụng và lãi suất nhằm kiểm soát các nguồn tiền tệ trong nền kinh tế. Một số các biện pháp có thể được sử dụng là thay đổi lượng cung tiền, các biện pháp hỗ trợ được kiểm soát tín dụng, các hoạt động thị trường mở, thay đổi lãi suất… Ví dụ: một nước thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng nội địa dẫn đến lãi suất cao hơn sẽ thu hút nguồn ngoại tệ chảy vào làm thay đổi cung ngoại tệ, tỷ giá có xu hướng giảm. Hoặc một số nước có thể bằng cách phát hành trái phiếu làm giảm lượng cung tiền do đó nâng cao được giá trị của nội tệ, hạn chế tốc độ tăng trưởng của tỷ giá. Như vậy, việc sử dụng các chính sách tài chính, tiền tệ có thể giúp các nước đạt được mục tiêu kiểm soát tỷ giá qua việc tác động vào thị trường. Còn một số chính sách tác động đến tỷ giá hay còn gọi là các chính sách ngoại hối: * Chính sách chiết khấu: Khi tỷ giá lên cao quá mức mong muốn của chính phủ, Ngân hàng Trung ương sẽ tăng tỷ xuất chiết khấu đối với các ngân hàng thương mại lên. Lãi suất trên thị trường tăng do các ngân hàng thương mại muốn bù đắp chi phí do tỷ xuất chiết khấu tăng. Vốn ngắn hạn nước ngoài sẽ đổ vào trong nước để thu lãi suất cao, làm tăng cung ngoại tệ dẫn đến tỷ giá giảm. Đây là trường hợp nhà nước thực hiện chính sách chiết khấu cao khi nhà nước thực hiện chính sách chiết khấu thấp, lãi suất thị trường có xu hướng giảm, thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài làm thay đổi cung cầu ngoại tệ, gây sức ép tăng tỷ giá. Cần chú ý là ở đây, tỷ giá không chỉ phụ thuộc vào lãi suất mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế, chính trị xã hội khác nữa. Ví dụ: nâng lãi suất nhưng tình hình kinh tế chính trị không ổn định thì vốn cũng không đổ vào trong nước. * Chính sách phá giá tiền tệ: Phá giá đồng tiền là việc làm giảm sức mua của đồng tiên quốc gia so với một hoặc nhiều đồng tiền khác. Phá giá được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau: phá giá công khai được công bố rộng rãi; phá giá ngầm được che dấu bởi các biện pháp kín đáo như tăng thuế nhập khẩu, giảm thuế xuất khẩu, quy định nhiều tỷ giá cho xuất khẩu; phá giá tấn công để tăng khả năng cạnh tranh; phá giá phòng thủ để ứng phó với cạnh tranh hoặc phá giá của nước khác; phá giá nóng trong điều kiện mất cân bằng kinh tế; phá giá lạnh khi dự kiến có lạm phát ì… Khác với quan điểm trước đây cho rằng phá giá là biện pháp có hại, ngày nay các chuyên gia kinh tế cho rằng phá giá đúng lúc kịp thời khi xuất hiện mất cân đối cơ bản sẽ có lợi, giúp cho việc lấy lại cân bằng cho nền kinh tế. Tuy nhiên phá giá chỉ là biện pháp cuối cùng do có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá và các yếu tố khác của nền kinh tế. * Chính sách nâng giá tiền tệ: Chính sách này có tác động ngược lại so với chính sách phá giá. Chính phủ chính thức nâng cao đồng tiền của nước mình so với ngoại tệ hay thuyên bố hạ thấp tỷ giá hối đoái xuống. Mục đích của nâng giá tiền tệ có thể là, nâng cao sức mua của đồng tiền, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, đối phó với khủng hoảng tương đối do nền kinh tế phát triển quá nóng hoặc do sức ép của bạn hàng. Việc áp dụng chính sách tài chính tiền tệ, đặc biệt là việc lựa chọn chính sách ngoại hối thích hợp đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định tỷ giá phù hợp với các mục tiêu kinh tế đã đặt ra và đối phó được với những rủi ro gây ra biến động của tỷ giá. 3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật quản chế ngoại hối. Luật quản chế ngoại hối phải được coi là công cụ hàng đầu giúp chính phủ quản lý các hoạt động ngoại hối và hạn chế rủi ro hối đoái. Luật quản chế ngoại hối là toàn bộ các văn bản pháp luật và các văn bản dưới luật do chính phủ và thống đốc ngân hàng trung ương ban hành nhằm quản lý ngoại hối và các hoạt động ngoại hối. Có thể kể đến luật ngân hàng, các nghị định, quyết định của chính phủ về việc công bố tỷ giá, về các biện pháp quản lý ngoại tệ, về các hoạt động ngoại hối, các quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước về thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, quy định về trạng thái hối đoái, về dự trữ ngoại hối bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại … Các văn bản pháp quy này không chỉ quy định cụ thể các vấn đề quản lý ngoại hối mà còn đưa ra các hình thưc chế tài đối với các phạm vi quy định của nhà nước về quản lý ngoại hối. Quyền và nghĩa vụ của các thành viên tham gia thị trường hối đoái được quy định rõ ràng và cụ thể. Việc xây dựng và đưa vào áp dụng một hệ thống luật quản chế ngoại hối hoàn thiện có ý nghĩa quan trongj trong công tác quản lý rủi ro hối đoái. Lý do là trong hệ thống các công cụ vĩ mô thì công cụ pháp luật tỏ ra là có hiệu quả. Quản lý ngoại hối và các hoạt động ngoại hối bằng luật và tác dụng. - Thống nhất được quản lý ngoại hối trên toàn bộ thị trường bằng những quy định đã được thể chế hoá bằng pháp luật. - Việc các hoạt động ngoại hối đã được khái quát lên thành luật, được điều chỉnh bằng luật không chỉ giúp cho quản lý nhà nước đối với thị trường hối đoái được thuận tiện và toàn diện mà còn khiến cho việc tham gia vào thị trường ngoại hối được nhanh chóng, dễ dàng hơn do các hoạt động đều đã được tiêu chuẩn hoá một cách cụ thể. - Rủi ro hối đoái được hạn chế do lợi ích của các thành viên tham gia thị trường hối đoái được điều hoà lẫn nhau, các hành vi phá hoại thị trường, đầu cơ trái phép, tư lợi mà vi phạm các quy định chung đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. - Luật quản chế ngoại hối tạo một sân chơi công bằng cho mọi thành viên tham gia thị trường hối đoái, giúp nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế – tài chính đã đặt ra. Nếu như sử dụng các chính sách kinh tế – tài chính là biện pháp gián tiếp dùng bàn tay thị trường để can thiệp vào thị trường ngoại hối thì luật quản chế ngoại hối là biện pháp hành chính trực tiếp điều chỉnh các mối quan hệ trên thị trường ngoại hối. Để đảm bảo công bằng và ngăn ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối, luật quản chế ngoại hối cần quy định chi tiết và cụ thể về vấn đề có thể nảy sinh, nhưng cũng cần có sự lới lỏng cần thiết để các luật hoạt động ngoại hối được diễn ra tự do và công bằng trong khuôn khổ pháp luật. 4. Đẩy mạnh vai trò của ngân hàng trung ương trên thị trường hối đoái. Can thiệp của ngân hàng trung ương là một giải pháp mang tính chiến lược trong công tác quản lý rủi ro hối đoái. Vai trò của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối đã được bàn kỹ trong chương I (phần I, 4). Vấn đề đặt ra ở đây là khi nào cần đến can thiệp của ngân hàng trung ương và mức độ can thiệp như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định, ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường hối đoái thường xuyên với mức độ cao nhằm duy trì tỷ giá cố định. Trong hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý của nhà nước mà hiện nay nhiều nước đang theo đuổi, can thiệp của ngân hàng trung ương là biện pháp chủ yếu để thực hiện chính sách tiền tệ và quản lý nhà nước đối với thị trường hối đoái. Mức độ can thiệp tuỳ thuộc vào biến động của thị trường và mục tiêu của chính phủ. Nếu tỷ giá biến động mạnh, vượt quá mục tiêu của chính phủ, ngân hàng trung ương buộc phải dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ nhằm ổn định tỷ giá. Các biện pháp thường được sử dụng là hoạt động công khai trên thị trường ngoại hối và quản lý dự trữ ngoại hối. * Hoạt động công khai trên thị trường hối đoái. Ngân hàng trung ương trực tiếp mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối với những khối lượng rất lớn nhằm bình ổn tỷ giá. Biện pháp này có tác động trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ nên có ảnh hưởng mạnh đến tỷ giá hối đoái. Nếu mục đích của ngân hàng trung ương là đối phó với chiều hướng tăng mạnh của tỷ giá thì việc bán một khối lượng lớn ngoại tệ ra thị trường với tỷ giá nhất định sẽ làm tăng cung ngoại tệ giảm sức ép của cầu, tỷ giá có xu hướng ổn định hơn. Ngược lại việc tăng cường thu mua ngoại tệ, phát hành các phương tiện có giá bằng ngoại tệ … và các biện pháp nhằm giảm cung ngoại tệ sẽ làm tỷ giá có xu hướng tăng. Tuy nhiên, khối lượng ngoại tệ được mua bán trên thị trường là bao nhiêu còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu là khả năng của ngân hàng trung ương và mức độ can thiệp. Để đảm bảo chức năng điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương, cần tuân thủ những nguyên tắc sau: - Các giao dịch ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ được tiến hành với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng do khối lượng giao dịch vô cùng lớn, thời gian và phương thức tiến hành mang tính bắt buộc nhằm phục vụ mục tiêu của nhà nước. - Các giao dịch ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ và ổn định thị trường chứ không được vì mục tiêu lợi nhuận để đảm bảo công bằng cho kinh doanh ngoại hối, chống nạn móc ngoặc để đầu cơ phá hoại thị trường. - Việc mua bán ngoại tệ của ngân hàng trung ương với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nhất thiết phải được tiến hành qua chuyển khoản. Lý do là việc tung ra và thu vào một lượng ngoại tệ tiền mặt rất lớn sẽ làm rối loạn thị trường. - Việc can thiệp trực tiếp vào thị trường hối đoái phải tính đến các ảnh hưởng khác như ảnh hưởng lên cán cân thanh toán quan hệ thương mại quốc tế…Ví dụ: Ngân hàng trung ương Nhật Bản tung ngoại tệ ra thị trường để giữ giá đồng Yên ở một mức nào đó, hoặc quyết định không can thiệp mà thả nổi giá đồng Yên sẽ là vấn đề quan tâm không chỉ các nhà ngân hàng Nhật mà còn của Việt Nam hay Trung Quốc, những nước có vay nợ hay lượng lớn tài sản bằng đồng Yên. * Quản lý dự trữ ngoại hối: Việc quản lý dự trữ ngoại hối có liên quan đến tỷ giá ở chỗ quỹ dự trữ ngoại hối đảm bảo khả năng ổn định tỷ giá khi cần thiết và đồng thời thoả mãn các nhu cầu về thanh toán. Các giải pháp chung cho việc quản lý dự trữ ngoại hối vì mục đích phòng chống rủi ro tỷ giá : - Về cơ cấu dự trữ, ngân hàng trung ương cần giữ các đồng tiền cho phép có một loạt các công cụ thị trường tối ưu nhất. Trước hết, các đồng tiền đó phải đảm bảo khả năng can thiệp vào ngân hàng trung ương thị trường ngoại hối khi cần thiết. Sau đó, cần tính đến các nhân tố khác như những đồng tiền cần thiết cho thanh toán quốc tế và trả nợ nước ngoài. Tính đến cuối năm 1998, USD chiếm bình quân 70% dự trữ ngoại hối của tất cả các nước trên thế giới, chiếm 73% dự trữ ngoại hối của các quốc gia công nghiệp hoá và 61% của dự trữ các nước đang phát triển (tạp chí ngân hàng số …5/2000). Tuy nhiên, khi có những biến động lớn về tỷ giá đồng USD thì việc giữ lượng USD quá lớn có thể gặp rủi ro tỷ giá và có tổn thất lớn. - Về tỷ lệ dự trữ các đồng tiền, để đảm bảo khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường và tránh tổn thất lớn cho rủi ro tỷ giá, nên đưa ra khung giới hạn tỷ lệ dự trữ mục tiêu hơn là ấn định tỷ lệ phần trăm cứng nhắc. - Cần đảm bảo tính thanh toán khoản và khả năng sẵn sàng của quỹ dự trữ ngoại hối tức là đảm bảo một tỷ lệ tôi thiểu có thể quy đổi thành tiền để sẵn sàng phục vụ việc quản lý rủi ro tỷ giá trên thị trường mà không gây ra tổn thất lớn về vốn. - Sử dụng quỹ dự trữ vào đầu tư phải đáp ứng được 3 yêu cầu cơ bản: an toàn, tạo vốn khả dụng và làm tăng gí trị của quỹ dự trữ. Cần tuân thủ 3 bước: Đề ra chiến lược đầu tư thích hợp, an toàn và sinh lời. Lựa chọn đối tượng đầu tư: cần giới hạn rủi ro thanh toán và tín dụng. Có thể duy trì dự trữ ngoại hối ở các Ngân hàng trung ương khác để tránh rủi ro có thể xảy ra do gửi tiền và các ngân hàng thương mại. Đầu tư bằng các đồng tiền được lựa chọn với các công cụ thích hợp khác nhau phù hợp với chiến lược quản lý dự trữ. Mục tiêu cao nhất đối với Ngân hàng trung ương của bất kỳ nước nào cũng là đảm bảo sự ổn định của đồng tiền, qua đó hạn chế rủi ro tỷ giá cho các hoạt động ngoại hối. B. Nhóm giải pháp ở tầm vi mô cho hoạt động của các ngân hàng thương mại. 1. Quản lý rủi ro tỷ giá. Rủi ro tỷ giá có thể được ngăn ngừa và hạn chế bằng một số công cụ sau đây: 1.1. Hạn chế rủi ro tỷ giá bằng biện pháp cân bằng lưu chuyển vốn. Như ta đã biết, tỷ giá biến động có thể gây tổn thất cho các khoản vố của ngân hàng khi các lưu chuyển vốn tạo ra trạng thái hối đoái, hay các nguồn ra và vào không đươch bù đắp. Hàng ngày, các ngân hang thương mại luôn có luồng vốn luân chuyển vào và ra, do khối lượng tiền tệ có nguy cơ tổn thất do rủi ro tỷ giá là rất lớn. Ví dụ: một ngân hàng thương mại có những luân chuyển sau: Bảng 5: Theo dõi trạng thái trước khi cân bằng Ngày Giao dịch Đồng tiền GBP USD 30/6 * Nhận tiền gửi (3 tháng) * Cho vay (3 tháng) Trạng thái vốn cuối ngày + 1.000.000 + 1.000.000 - 2.400.000 - 2.400.000 30/9 * Trả tiền gửi đến hạn * Thu hồi các khoản cho vay * Trạng thái cuối ngày - 1.000.000 - Lãi - 1.000.000 - Lãi + 2.400.000 + Lãi + 2.400.000 + Lãi Bảng trạng thái trên cho thấy ngân hàng phải chịu rủi ro tỷ giá cho một khoản ngoại tệ lớn là 1.000.000 GBP và 2.400.000 USD vào cuối mỗi ngày giao dịch. Các ngân hàng thương mại phải lựa chọn công cụ nhằm cân bằng trạng thái hối đoái tạo ra các luồng luân chuyển vốn để tránh tình trạng rủi ro do biến động tỷ giá, do không đáp ứng được nguồn ra hoặc do vốn vào nhàn rỗi không sinh lời trong một thời gian nhất định. Có thể lựa chọn các giải pháp sau: * Hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá. Ngân hàng thương mại có thể chọn công cụ của thị trường tiền tệ để bù đắp rủi ro. Công cụ được sử dụng là lãi suất tín dụng hoặc lợi nhuận đầu tư vốn (chẳng hạn đầu tư vào trái phiếu). Nhờ đó, trạng thái hối đoái của mỗi loại ngoại tệ trong ngày được cân bằng, ngân hàng không phải chịu rủi ro tỷ giá cho bất kỳ khoản ngoại tệ nào trừ các khoản lãi. Hơn nữa, các nguồn vốn vào được sử dụng để sinh lời trong khi các nguồn vốn ra vẫn được đảm bảo. Trở lại ví dụ trên, ngân hàng thương mại này có thể điều chỉnh luân chuyển vốn tại ngân hàng bằng cách hoạt động trên thị trường tiền tệ như sau: Nguồn vốn vào GBP sẽ được đem đầu tư trên thị trường tiền tệ bằng GBP, nguồn vốn ra USD sẽ được đáp ứng bằng các khoản vay USD. Nhà quản lý vốn có thể cân bằng luân chuyển vốn theo ngày giá trị bằng cách khớp vốn vào và vốn ra cho từng đồng tiền. Điều kiện quan trọng cần tuân thủ là các hoạt động đối ứng nhau phải có ngày đến hạn cùng nhau. Ví dụ: Khoản đầu tư bằng GBP phải đến hạn vào ngày 30/9 khi khoản nhận gửi USD đến hạn. Các khoản luân chuyển vốn ăn khớp với nhau có thể loại trừ được rủi ro không đáp ứng được nguồn ra hoạc để nguông vào nhàn rỗi không sinh lời. Khả năng sinh lời của các giao dịch chính là chênh lệch lãi thu được từ các hoạt động đối ứng. Trong ví dụ trên, lãi suất cho vafy GBP là 13%, lãi suất đi vay USD là 10% thì bên cạnh mục tiêu loại trừ rủi ro tỷ giá, lãi tạo ra là +3%. Bảng 6: Theo dõi trạng thái hối đoái sau khi cân bằng trên thị trường tiền tệ. Ngày Giao dịch Đồng tiền GBP USD 30/6 Nhận tiền gửi (3 tháng) Đầu tư vốn (3 tháng) Cho vay (3 tháng) Đi vay (3 tháng) Trạng thái vốn cuối ngày + 1.000.000 - 1.000.000 0 - 2.400.000 + 2.400.000 0 30/9 Thanh toán tiền gửi đến hạn Thu hồi tiền đầu tư Thu hồi tiền cho vay Thanh toán các khoản vay Trạng thái vốn cuối ngày - 1.000.000 - Lãi + 1.000.000 + Lãi 0 (+- lãi) + 2.400.000 + Lãi - 2.400.000 - Lãi 0 (+- lãi) Trạng thái hối đoái (+- lãi) (+- lãi) Rõ ràng là cần phải tính toán chi phí của giao dịch đối ứng hay mức lãi xuất tín dụng được lợi nhuận đầu tư. Nếu chi phí này không có lợi thì nên tìm giải pháp khác. * Hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường ngoại hối nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá. Nếu giải pháp được lựa chọn là hoạt động trên thị trường ngoại hối thì giao dịch đối ứng nhằm cân bằng trạng thái vốn sẽ là mua hoặc mua hoặc bán ngoại tệ. Tiếp tục ví dụ trên, Ngân hàng thương mại có thể loại trừ rủi ro tỷ giá cho các khoản vốn ra và vào mỗi ngày như sau: Bảng 7 . Theo dõi trạng thái sau khi cân bằng trên thị trường ngoại hối (NCF = No Capital Floating hay không có lưu chuyển vốn). Ngày Giao dịch Đồng tiền GBP USD 30/6 Nhận tiền gửi (3 tháng) Cho vay (3 tháng) bánGBP bằng USD giao ngay Mua GBP bằng USD kỳ hạn 3 tháng Trạng thái vốn cuối ngày + 1.000.000 - 1.000.000 NCF 0 - 2.400.000 + 2.400.000 NCF 0 30/9 Thanh toán tiền gửi đến hạn Thu hồi vốn cho vay Hợp đồng kỳ hạn ngày 30/6 đến hạn Trạng thái vốn cuối ngày - 1.000.000 - Lãi “ước tính” + 1.000.000 “sai số ước tính” - lãi + 2.400.000 + lãi “ước tính” - 2.400.000 “sai số ước tính” + lãi Trạng thái hối đoái thực - lãi + lãi Bảng trên cho thấy ngân hàng không phải chịu rủi ro tỷ giá cho các khoản vốn vào và ra mỗi ngày trừ các khoản lãi. Tuy nhiên, mức độ loại trừ được rủi ro như thế nào còn phụ thuộc vào giao dịch kỳ hạn mới chỉ là ước tính. Cacs giao dịch được thực hiện như sau: - Ngày 30/6 có nguồn vốn vào bằng GBP, nguồn ra bằng USD. Để can bằng trạng thái vốn, Ngân hàng có thể bán giao ngay GBP (nguồn vào) lấy USD (nguồn vào) với ngày giá trị giao ngay là 30/6. - Việc lựa chọn công cụ thị trường tiền tệ (đầu tư vốn ) hay thị trường ngoại hối (mua bán ngoại tệ) là phụ thuộc vào việc tính toán tổn thất và chi phí trong từng trường hợp cụ thể. Có thể kết hợp cả hai giải pháp này để cân bằng lưu chuyển vốn đối ứng sao cho mức chênh lệch giữa lãi xuất (của hoạt động đầu tư ) và tỷ giá (của hoạt động mua bán ngoại tệ) có lợi cho chúng ta. 1.2. Ngăn ngừa rủi ro tỷ giá trên thị trường kỳ hạn. Tỷ giá trên thị trường kỳ hạn có thể biến đổi do 2 nguyên nhân sau: Do tỷ giá giao ngay biến động và do thay đổi lãi suất của đồng tiền có liên quan. Lý do là tỷ giá áp dụng trong các giao dịch có kỳ hạn (từ Forward, Swap, Options đến Futures) đều được tính trên cơ sở tỷ giá giao ngay và lãi suất của các đồng tiền hữu quan. Có 2 công cụ hữu hiệu để tránh rủi ro đột ngột của lãi suất là hợp đồng lãi suất có kỳ hạn và quyền chọn lãi suất. * Hợp đồng lãi suất có kỳ hạn – FRA (Future rate agreement). FRA là một hợp đồng ký kết theo thoả thuận, ấn định trước lãi suất cho một khoản tiền vay hoặc cho vay trong một ky hạn nhất định mặc dù nghiệp vụ đó chỉ sau đó mới được thực hiện. FRA không cam kết về khoản tiền gốc mà chỉ cam kết về lãi suất. Do đó, FRA không có sự chuyển tiền gốc mà một trong hai bên phải trả một khoản tiền phát sinh do chênh lệch giữa lãi suất ký kết và lãi suất trên thị trường trong cùng thời kỳ. Khoản tiền này được trả ngay khi thời gian vay hoặc cho vay bắt đầu nên thường được thực hiện bằng khấu trừ luôn vào khoản tiền được vay. Cách tính: M = Gốc x (IK - IT) x N 360 x 100 M = khoản tiền phát sinh phải trả theo FRA, IK - IT = chênh lệch giữa lãi suất ký kết và lãi suất thị trường, N = thời hạn cam kết. Ví dụ: gốc = 100triệu FRF, IK = 8,3%/năm, IT = 8,5%/năm, N = 3 tháng. Ta có: người bán FRA phải trả một khoản phát sinh là: M = 100.000.000x(8,5-8,3)x90(ngày) 360 x 100 = 50.000FRF Như vậy, mặc dù phải vay trên thị trường với lãi suất 8,5% nhưng người mua FRA vẫn chỉ phải thực trả là 8,3%. Ngược lại nếu lãi suất thị trường thấp hơn lãi suất ký kết thì người mua FRA phải trả cho người bán FRA số tiền chênh lệch như trên. Bán FRA là cam kết trả lại khoản tiền tương ứng khi lãi suất thị trường tăng so với lãi suất ký kết. Mua FRA là cam kết sẽ trả một khoản tiền khi lãi suất thị trường giảm so với lãi suất ký kết. Tác dụng ngăn ngừa rủi ro của FRA: Đối với những người sẽ vay, việc mua một hợp đồng FRA cho phép có sự đảm bảo lãi suất ấn định phòng khi lãi suất tăng. Đối với người sẽ vay, việc bán một hợp đồng FRA cho phép đảm bảo lãi suất ấn định phòng khi lãi suất thị trường giảm. * Quyền lựa chọn lãi suất (Option On Interest Rate Futures). Quyền lựa chọn lãi suất là một cam kết giữa người mua quyền chọn và người bán quyền chọn về việc lựa chọn một mức lãi suất ấn định trong một thời hạn nhất định. Có 2 loại quyền chọn lãi suất là quyền chọn mua – Call Option và quyền chọn bán – Put Option. Lãi suất thoả thuận của hợp đồng được gọi là lãi suất cơ sở hay lãi suất ước định – Strike Rate. Đối với hợp đồng quyền chọn mua, người mua quyền chọn có quyền chứ không phải nghĩa vụ được hưởng lãi suất cơ sở trong thời gian ấn định. Trong trường hợp quyền chọn bán thì người mua được quyền chức không phải nghĩa vụ trả lãi suất theo thoả thuận. Người mua quyền chọn phải trả cho người bán quyền chọn một khoản phí như là giá của quyền chọn (Premium). Giá của quyền được chọn lãi suất phụ thuộc vào nhiều yếu tố thị trường như chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất cơ sở, thời hạn của quyền chọn, biến động của lãi suất quốc tế (như Libor)… Ví dụ: chênh lệch lãi suất thị trường và cơ sở cao thì giá quyền chọn cao. Đối phó với xu hướng lãi xuất tăng, người ta ấn định một lãi suất tối đa bằng cách mua một quyền chọn lãi suất trần (CAP). Khi lãi suất có xu hướng giảm, có thể tránh rủi ro bằng cách ấn định trước một lãi suất tối thiểu hay mua một quyền chọn lãi suất sàn (Floor). Các lãi suất được ấn định trước này đã tính đến lợi nhuận tối thiểu để bù đắp rủi ro khi lãi suất biến động bất lợi, Việc kết hợp lãi suất trần với lãi suất sàn tạo nên một khung lãi suất được ấn định trước. Các thị trường đều quy định những tiêu chuẩn cụ thể cho các hợp đồng quyền chọn lãi suất. 1.3 Sử dụng các công cụ phái sinh: Ngày nay các công cụ phái sinh được sử dụng như những nên những công cụ mạnh để đảm bảo rủi ro ngoại hối và được áp dụng phổ biến trên các thị trường tài chính phát triển. Các công cụ hay được sử dụng là: Giao dịch kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Giao dịch quyền chọn và Giao dịch hoán đổi tiền tệ. a. Sử dụng giao dịch quyền chọn để đảm bảo rủi ro ngoại hối. Giao dịch quyền chọn đã được sử dụng làm công cụ cho các ngân hàng đảm bảo rủi ro lãi suất đối với trái phiếu, một khả năng tương tự mà ngân hàng có thể sử dụng các hợp đồng giao dịch quyền chọn để đảm bảo rủi ro ngoại hối. Để hiểu và sử dụng được các hợp đồng quyền chọn, nhằm đảm bảo rủi ro ngoại hối, chúng ta giả sử rằng thời điểm tháng 4/2002 một ngân hàng Mỹ mua 100 triệu bảng Anh tín phiếu kho bạc Anh có kỳ hạn 1 tháng, tức là đến hạn vào tháng 5/2002. Trong khi đó bên tài sản nợ của ngân hàng là USD do ngân hàng muốn đảm bảo rủi ro ngoại hối đối với trạng thái trường của bảng Anh. Giả sử nếu bảng Anh giảm từ mức giá hiện hành 1,540USD = 1GBP xuống thấp hơn mức 1,50USD = 1GBP, thì ngân hàng này bắt đầu bị lỗ ngoại hối do nắm giữ các tín phiếu kho bạc Anh. Giả sử bảng Anh giảm xuống mức 1,40 USD = 1GBP, tức là thấp hơn mức giá hoà vốn 1,50USD = 1GBP, có trị gía quy USD chỉ là 140 triệu USD tại thời điểm tín phiếu đến hạn, thấp hơn mức dự tính là 154,01 triệu USD. Nếu tỷ giá phải cuống một cách nghiêm trọng. Thì ngân hàng không còn khả năng chi trả USD bên tài sản nợ được sử dụng để mua tín phiếu kho bạc Anh. Để có thể bù đắp được rủi ro này ngân hàng tiến hành mua quyền chọn bán GBP thời hạn 1 tháng tại mức giá giao dịch quyền chọn là 1,50USD = 1GBP. Nếu giá trị GBP tăng, hoặc là không giảm xuống dưới mức 1,50USD = 1GBP, thì hợp đồng quyền chọn bán sẽ tự động hết hạn mà không cần thực hiện, thay vào đó ngân hàng sẽ bán 100 triệu GBP thu được tạm thời điểm tín phiếu đến hạn theo tỷ giá thị trường giao ngay cao hơn mức tỷ giá giao dịch quyền chọn (1,50USD = 1GBP). Kết quả bảo đảm rủi ro hối đoái bằng hợp đồng quyền chọn bán được mô tả như trên đồ thị sau: Đồ thị : bảo đảm rủi ro hối đoái bằng hợp đồng mua quyền chọn bán. Đường lợi nhuận (lỗ) quyền chọn bán GBP Giá trị tài sản GBP quy USD 140 X=1,50 1,5410 Tỷ giá USD/GBP Như chúng ta thấy, phí của một hợp đồng của quyền chọn bán tại thời điểm tháng 5/1993 cũng như tại thời điểm 19/4/1995 là 0,85 cent/1GBP. Mỗi hợp đồng có trị giá là 31.250GBP, do đó phí của mỗi hợp đồng tính bằng USD sẽ là 256,63USD. Nếu ngân hàng muốn đảm bảo toàn bộ tài sản 100 triệu GBP tín phiếu kho bạc Anh, thì số hợp đồng phải mua sẽ là: 100.000.000GBP/31.250GBP = 3.200 hợp đồng. Như vậy tổng chi phí để mua 3.200 hợp đồng sẽ là: 100.000.000 x 0,0085 = 850.000GBP Đây là chi phí để mua bảo hiểm rủi ro ngoại hối trên thị trường quyền chọn trong trường hợp giá trị của GBP giảm. Cũng như đối với trái phiếu, thay vì hình thức đảm bảo trực tiếp, ngân hàng có thể mua quyền chọn bán hàng bằng các hợp đồng giao dịch tiền tệ tương lai. Hợp đồng quyền chọn bán thông qua giao dịch tiền tệ tương lai đến hạn tại thời điểm tháng 5/1993 mới tỷ giá giao dịch quyền chọn là 1,50USD=1GBP có chi phí là 0,0068USD 1GBP tại thời điểm 19/4/1993 (lưu ý rằng chi phí được chỉ ra trên đồ thị 17.16 là 0,68 cent 1GBP). Nếu chúng ta bỏ qua vấn đề cơ bản (nghĩa là bỏ qua mối tương quan không hoàn hảo giữa tỷ giá USD/GBP giao ngay và giao tương lai), thì số hợp đồng quyền chọn tương lai tối ưu cần mua sẽ là: 100.000.000/62.500 = 1.600 hợp đồng Với tổng chi phí để mua số lượng hợp đồng này là 680.000USD. Cũng cần nhận thấy rằng có rất nhiều nguyên nhân làm cho chi phí giữa hai hình thức quyền chọn lên trên khác nhau là; tồn tại rủi ro cơ bản, thanh toán của thị trường, kỳ hạn của hợp đồng và bản chất của quyền chọn tuơng lai kiểu Mỹ là có thể thực hiện quyền chọn trước khi hợp đồng đến hạn, trong khi đó bản chất của hợp đồng quyền chọn kiểu Châu Âu chỉ có thể thực hiện ở thời điểm khi hợp đồng đến hạn. b. Giao dịch hoán đổi tiền tệ và bảo đảm rủi ro ngoại hối. Giao dịch hoán đổi cũng được các ngân hàng sử dụng để đảm bảo rủi ro ngoại hối. Sau đây chúng ta sẽ xem xét một ngân hàng sử dụng giao dịch hoán đổi tiền tệ để đảm bảo rủi ro ngoại hối trong trường hợp các tiền tệ trên bảng cân đối tài sản không cân xứng với nhau là như thế nào. 1. Giao dịch hoán đổi tiền tệ có lãi suất cố định/cố định FIXED-FIXEDCURRENCY SWAPS. Chúng ta hãy xem xét một ngân hàng Mỹ có: Tài sản cố định bằng USD với mức lãi suất cố định: Tài sản bao gồm trái phiếu bằng GBP, có trị giá là 50 triệu GBP, kỳ hạn bốn năm, lãi suất Coupon cố định là 10%/năm . Một ngân hàng Anh có: Tài sản có bằng GBP với mức lãi suất cố định: Tài sản bao gồm nợ trái phiếu USD, có trị giá 100triệu USD, kỳ hạn 4 năm, lãi suất Coupon cố định là 10%/năm. Với các giả định như trên, cả hai ngân hàng đều bộc lộ rõ rủi ro ngoại hối, nhưng ngược chiều nhau. Ngân hàng Mỹ bộc lộ rủi ro hối đoái trong trường hợp nếu trị giá của USD giảm so với GBP trong 4 năm tới , bởi vì chi phí được thanh toán số tiền gốc 50 triệu GBP sẽ tăng lên. Mặt khác đối với ngân hàng Anh cũng bộc lộ rủi ro hối đoái trong trường hợp nếu giá trị của USD tăng lên so với GBP trong 4 năm tới thì chí phí để thanh toán số tiền gốc 100 triệu USD và tiền lãi Coupon 10%/năm từ việc huy động trái phiếu bằng USD sẽ tăng lên. Một giải pháp bảo đảm rủi ro ngoại hối cho cả hai ngân hàng, đó là: Hai ngân hàng tiến hành giao dịch hoán đổi tiền tệ như sau. 1 Nhà hàng Anh sẽ thanh toán toàn bộ tiền gốc và lai Coupon hàng năm bằng GBP đối với các trái phiếu bằng GBP do ngân hàng Mỹ phát hành. 2. Đồng thời, ngân hàng Mỹ sẽ thanh toán toàn bộ số tiền gốc và lãi Coupon hàng năm bằng USD đối với các trái phiếu bằng USD do ngân hàng Anh phát hành. Chúng ta thấy rằng trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì thông thường phần gốc và phần lãi đều được bao gồm trong hợp đồng. Đối với giao dịch hoán đổi lãi suất thì chỉ càn thanh toán lãi suất là bao gồm trong trường hợp. Lý do giải thích là vì trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì cả phần gốc và phần lãi đều bộc lộ rủi ro ngoại hối. Với cách giao dịch như vậy, ngân hàng Anh đã chuyển phần tài sản nợ bằng USD có lãi suất cố định thành tài sản nợ bằng GBP cũng với lãi suất cố định và như vậy sẽ phù hợp với tính chất các luồng tiền tệ có lãi suất cố định thu được bằng GBP. Tương tự, ngân hàng Mỹ đã chuyển được phần tài sản nợ bằng GBP có lãi suất cố định thành tài sản nợ bằng USD cũng với lãi suất cố định và như vậy sẽ phù hợp với tính chất các luồng tiền có lãi suất cố định thu được bằng USD từ tài sản có. Trong khi giao dịch hoán đổi các đồng tiền, hai bên thoả thuận ngay từ khi ký hợp đồng một tỷ giá trao đổi cố định trong suốt thời gian của hợp đồng là 4 năm. Cũng như giao dịch hoán đổi lãi suất, nó phản ánh sự biến động của tỷ giá trong thời gian hiệu lực của hợp đồng. Trong ví dụ chúng ta đang xét, giả sử tỷ giá cố định mà hai ngân hàng thoả thuận là 1GBP = 2USD (tức là 100 triệu USD = 2 x 50 triệu GBP). Quá trình giao dịch giữa hai ngân hàng được mô tả như trên đồ thị 4 và các luồng tiền giao dịch được tóm lược như tại bảng 5 Đồ thị 4: giao dịch hoán đổi tiền tệ có lãi suất cố định/cố định – Fixe-Fixed Pound/dollar Curency Swap. Tài sản có bằng GBP với lãi suất cố định Tài sản nợ bằng USD với lãi suất cố định (50tr. USD,10% coupon USD GBP Tài sản có bằng USD với lãi suất cố định Tài sản nợ bằng GBP với lãi suất cố định (50tr. GBP,10% coupon Bảng 5: Các luồng tiền. Cuối năm Ngân hàng Mỹ thanh toán (Tr.USD) Ngân hàng Anh thanh toán (Tr.USD) Ngân hàng Anh thanh toán tương đương (Tr.USD) Luồng tiền ròng (Tr,USD) 1 2 3 4 10 10 10 110 5 5 5 55 10 10 10 110 0 0 0 0 Trong trường hợp lãi suất Coupon của trái phiếu GBP và USD không bằng nhau, ví dụ Coupon của trái phiếu GBP là 5% và của USD là 10% thì việc thanh toán của ngân hàng Mỹ là không thay đổi (như bảng 3.9); đối với ngân hàng Anh thì việc thanh toán hàng năm giảm đi 2,5 triệu GBP (tương đương 5 triệu USD). Chênh lệch thanh toán hàng năm giữa hai ngân hàng (5 triệu USD) có thể được xử lý theo hai cách: Cách thứ nhất, ngân hàng Anh thanh toán cho ngân hàng Mỹ một khoản tiền nhất định ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khoản tiền này phản ánh chênh lệch giá trị hiện thời của các luồng tiền mà hai ngân hàng thanh toán cho nhau. Cách thứ hai, thanh toán hàng năm căn cứ vào khoản chênh lệch thanh toán hàng năm giữa hai ngân hàng. Cũng cần lưu ý rằng, tỷ giá thị trường trong thời gian hợp đồng có hiệu lực có thể thay đổi so với tỷ giá được thoả thuiận cố định trong hợp đồng. Do đó, có thể một trong hai bên tham gia hợp đồng thấy rằng với tỷ giá thị trường hiện hành thì việc ký kinh tếết hợp đồng hoán đổi tiền tệ mới có nhiều lợi ích hơn so với việc duy trì hợp đồng cũ cho đến hết thời hạn. Ngược lại, bên đối tác thấy có lợi nếu duy trì hợp đồng đã ký cho đến khi hết hạn hợp đồng. Ví dụ, trong trường hợp chúng ta đang xét, nếu USD lên giá so với GBP trong thời hạn hợp đồng thì chi phí đối với ngân hàng Mỹ sẽ tăng lên, nếu nếu USD gảim giá thì chi phí đối với ngân hàng Anh sẽ tăng lên 2. Giao dịch hoán đổi tiền tệ có lãi suất cố định/ thả nổi FIXED-FLOATING CURRENCY SWAPS. Bằng cách phối hợp giao dịch hoán đổi tiền tệ với giao dịch hoán đổi lãi suất dưới dạng cố định/thả nổi như đã trình bày tại chương 2, chúng ta có thể tiến hành giao dịch hoán đổi tiền tệ có lãi suất cố định/thả nổi như sau. Giả sử ngân hàng Mỹ nắm giữ tài sản có của mình bằng USD và chủ yếu ở dạng ngắn hạn vơi lãi suất thả nổi. Để tài trợ cho tài sản có, Ngân hàng Mỹ đã huy động 50 triệu GBP trái phiếu kỳ hạn 4 năm với mức lãi suất Coupon là 10%/năm. Ngược lại ngân hàng Anh nắm giữ tài sản có của mình bằng GBP và chủ yếu ở dạng dài hạn với lãi suất cố định. Để tài trợ cho tài sản có ngân hàng Anh đã huy động 100 triệu USD bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi gắn hạn với lãi suất thả nổi, và được xác định bằng chỉ số (BBSW + 2%). Kết quả là, ngân hàng Mỹ phải đôi nặt với hai loại rủi ro, đó là: rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái. Đặc biệt, nếu lãi suất ngắn hạn của USD giảm thì đồng thời USD giảm giá so với GBP thì ngân hàng Mỹ phải chịu chi phí tăng lên do phải thanh toán tiền gốc và lãi đối với các trái phiếu huy động bằng GBP. Do đó, ngân hàng Mỹ mong muốn chuyển hoá tài sản nợ bằng các trái phiếu huy động GBP có lãi suất cố định sang tài sản nợ bằng USD có lãi suất thả nổi. Ngân hàng Anh cũng phải đối mặt với rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối. Nếu lãi suất của USD tăng và USD lên giá so với GBP, thì ngân hàng Anh phải chịu chi phí tăng lên do phải thanh toán tiền gốc và lãi đối với các chứng chỉ tiền gửi huy động bằng USD. Kết quả là, ngân hàng Anh mong muốn chuyển hoá tài sản nợ bằng các chứng chỉ tiền gửi huy động bằng USD có lãi suất thả nổi sang tài sản nợ bằng GBP có lãi suất cố định. Từng ngân hàng có thể đạt được mục đích của mình là chuyển hoá được tài sản nợ bằng cách tham gia giao dịch hoán đổi tiền tệ có lãi suất cố định/thả nổi. Hàng năm hai ngân này thanh toán cho nhau theo một tỷ giá đã được thoả thuận, ví dụ 1GBP = 2USD. Ngân hàng Anh chuyển khoản thanh toán cố định bằng GBP cho ngân hàng Mỹ để thanh toán tiền gốc và lãi của trái phiếu bằng GBP do ngân hàng Mỹ huy động. Trong khi đó ngân hàng Mỹ chuyển các khoản thanh toán thả nổi bằng USD cho ngân hàng Anh để thanh toán tiền gốc và lãi các chứng chỉ tiền gửi bằng USD do ngân hàng Anh huy động. Giả sử, mức lãi suất BBFW như được mô tả ở cột 2, các khoản thanh toán tương ứng giữa hai ngân hàng như được trình bày tại bảng 6. Từ bảng 6 thấy rằng kết quả ròng các luồng tiền được giao dịch giữa hai ngân hàng là 2 triệu USD do ngân hàng Mỹ thanh toán chon ngân hàng Anh trong thời gian hợp đồng hoán đổi có hiệu lực. Bảng 6: giao dịch hoán đổi tiền tệ có lãi suất cố định/ thả nổi. Đơn vị: triệu USD; (tỷ giá 1GBP = 2USD) Năm BBSW BBSW + 2% NH Mỹ thanh toán LS thả nổi (USD) NH Anh thanh toán LS cố định (GBP) NH Anh thanh toán quy (USD) NH Mỹ thanh toán ròng (USD) 1 2 3 4 9 7 8 10 11 9 10 12 11 9 10 112 5 5 5 55 1 0 1 0 10 110 + 1 - 1 0 + 2 Ròng +2 2. Quản lý các loại rủi ro khác 2.1 Rủi ro thanh toán và tín dụng Các ngân hàng quản lý rủi ro thanh toán và tín dụng bằng các biện pháp sau: * Lựa chọn kỹ bạn hàng: Khi chọn đối tác để giao dịch cần nghiên cứu khả năng thanh toán và uy tín tín dụng của đối phương. Điều này thể hiện qua việc thu nhập và phân tích các thông tin về tiềm lực tài chính, quy mô kinh doanh khả năng thanh toán trình độ kinh doanh, tình hình thực hiện các giao dịch trước đó… * Quy định hạn mức quy định giao dịch song phương: Hai bên sẽ dành cho nhau các khối lượng mua bán tối thiểu và tối đa là bao nhiêu. Quy định này nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh, không tập trung một khối lượng mua bán quà lớn và một đối tác. * Khắc phục chênh lệch không gian và thời gian: Hạn chế thời gian thực hiện giao dịch trong một số ngày nhất định, rut ngắn thời gian chuyển vốn, củng cố hệ thống thông tin liên lạc giữa các quốc gia, liên kết hệ thông thanh toán nhằm tiến tới nhất toán các giao dịch trong cùng một ngày. Điều này là nhằm khắc phục rủi ro khoảng cách về không gian và chênh lệch về thời gian làm một bên có thể bất lợi trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. * Quy định hạn mức giao dịch cho từng đối tác: thực hiện hạn mức trên tổng trị giá các hợp đồng hối đoái với mỗi bên đối ứng nhằm bù đắp rủi ro 20% do đối tác bỏ cuộc trước ngày giá trị. Thực hiện hạn mức bổ xung để bù đắp rủi ro 100% khi đối tác bỏ cuộc ngay ngày đến hạn. Tức là ngân hàng mở ra một lối thoát cho mình bằng các hợp đồng khác nếu không thực hiện được hợp đồng đã ký kết. 2.2 Rủi ro chủ quyền Rủi ro chủ quyền tuy ngay nay không còn xảy ra thường xuyên nhưng rất khó khắc do mức độ rủi ro thường xuyên lớn, có thể xảy ra tổn thất toàn bộ trong trường hợp quốc hữu hoá các nguồn tài sản từ nước ngoài thời điểm xảy ra rủi ro thường khó đoán trước và thường rủi ro này để lại phục vụ cho mục đích chính trị. Cách duy nhất là nghiên cứu kỹ các chính sách phát triển kinh tế và đường lối chính trị của nước ngoài để nắm bắt được thời điểm và lĩnh vực diễn ra rủi ro, kịp thời rút vốn khỏi nơi nguy hiểm. Hệ thống thông tin liên lạc, tin tức nội bộ và củng cố các mối quan hệ với quan chứa địa phương là lợi thế trong việc đề phòng rủi ro này. 2.3 Rủi ro kỹ thuật giao dịch Các biện pháp quản lý: * Cải thiện hệ thống trang thiết bị phục vụ kinh doanh : Như hệ thống máy tính, Money Dealing, các thiết bị thông tin liên lạc … nhằm hạn chế các sai sót, Nhầm lẫn do thiếu sót kỹ thuật. * Thống nhất ngôn ngữ và tập quán dùng trong kinh doanh ngoại hối để tránh hiểu nhầm đáng tiếc. * Nâng cao trình độ chuyên môn của nhân viên ngân hàng: Việc đào tạo và đạo tạo lại phải dựa trên cơ sở yêu cầu công việc. * Thực hiện các bước của giao dịch đầy đủ, chính xác, quản lý cẩn thận các chứng từ có liên quan. * Xác nhận giao dịch, chuyển vốn , nhận vốn chính xác về địa điểm, thời gian và đối tượng. Chống gian lận: Bằng việc sử dụng các thư xác nhận điện tử hoặc có đánh số và ký hiệu. Điều này giúp phòng kiểm tra dễ dàng phát hiện các hiện tượng gian lận trong mua bán nếu có. C. Quản lý rủi ro hối đoái khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chuyển thành thị trường hối đoái chính thức. 1. Triển vọng của việc hình thành thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam. Hiện nay, tại Việt nam chưa có một thị trường hối đoái hoàn chỉnh mà mới có thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với môi giới duy nhất trên thị trường là sở giao dịch ngân hàng nhà nước. Tính đến nay sau hơn tám năm thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể vào việc giải quyết mâu thuẫn cung – cầu ngoại tệ của nền kinh tế, góp phần ổn định tỷ giá hối đoái, mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, cải thiện tình trạng cán cân thanh toán, tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế… Đó chỉ là những kết quả ban đầu, khó tránh khỏi những khiếm khuyết về tổ chức và cơ chế hoạt động, biểu hiện ở việc chưa thu hút được nhiều chủ thể tham gia, khối lượng giao dịch ít, loại ngoại tệ giao dịch còn hạn chế, các công cụ vận hành còn đơn điệu và kém hiệu quả… Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vẫn khẳng định được một vị trí quan trọng của một chế định tài chính hoạt động tích cực trên thị trường tài chính Việt Nam. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ra đời là kết quả của nhu cầu khách quan và bức xúc cần có một thị trường hối đoái của nền kinh tế thị trường Việt Nam. Ngược lại việc thành lập và tổ chức vận hành tốt thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng là tiền đề, là nền tảng ban đầu cho việc thiết lập một thị trường hối đoái hoàn chỉnh. Thị trường hối đoái là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về ngoại tệ, nơi chuyên môn hoá các giao dịch ngoại tệ, thông qua nghiệp vụ chủ yếu là mua – bán và vay – cho vay, nhằm đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các chủ thể tham gia. Với quan điểm như trên, thị trường hối đoái ở Việt Nam phải đáp ứng được các yêu cầu sau: - Khơi thông các nguồn ngoại tệ và thu hút chúng vào các nguồn chu chuyển ngoại tệ trên một thị trường thống nhất, có tổ chức, đáp ứng được các nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. - Hạn chế các chu chuyển ngoại tệ từ phát hình thành giữa các chủ thể, song song với việc hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong quản lý ngoại hối và ổn định tiền tệ. - Tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng nhà nước, phát huy vai trò chủ động điều tiết, can thiệp trên thị trường, bình ổn tỷ giá, thực hiện các mục tiêu chiến lược của chính sách tiền tệ quốc gia. Thị trường hối đoái ở Việt nam đang dần được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở các điều kiện sau: - Điều kiện kinh tế xã hội: Việt nam tương đối ổn định về mặt chính trị, xã hội. Nền kinh tế Việt nam đang xây dựng là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành luân chuyển đổi linh hoạt. Lạm phát được kinh tếìm giữ ở mức thấp vừa phải, thâm hụt ngân sách ở mức độ cho phép, xuất khẩu được đẩy mạnh, nhờ đó cán cân thanh toán được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ổn định thuộc loại cao trong khu vực và tương đối phù hợp với thực trạng đất nước. Những đièu kiện đó đòi hỏi và cũng là một điều kiện cho một thị trường đồng bộ bao gồm từ thị trường hàng hoá, dịch vụ, đến các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường vốn và thị trường chứng khoán, trước mắt là thị trường ngoại hối. - Điều kiện về pháp lý: chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật đồng bộ, điều chỉnh các hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước. Pháp luật là công cụ chủ yếu và cũng là một đòi hỏi cấp thiết cho sự ra đời của thị trường vốn trong đó có thị trường ngoại hối. - Yếu tố kỹ thuật: về mặt hàng hoá, trên thị trường Việt nam có nhiều loại ngoại tệ được mua bán và trao đổi. Theo quy chế tổ chức và hoạt động, của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, quyết định 203 ngày 20/9/1994, các ngoại tệ được giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam là: USD, DEM, GBP, FRF, JPY, và HKD. Ngoại tệ được giao dịch chủ yếu là USD. Lượng ngoại tệ được mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng lên tới hàng trăm triệu USD hàng năm, riêng năm 2001 là 1220 triệu USD, mức giao dịch bình quân mỗi ngày khoảng 4,4-4,6 triệu USD. Ngoài ra trên thị trường tự do có hàng tỷ USD đang được mua bán tự phát giữa các chủ thể. Với một khối lượng hàng hoá như vậy, thị trường ngoại hối có đủ điều kiện phát triển để trở thành một chế định tài chính hoàn thiện điều tiết các mối quan hệ mua bán ngoại tệ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. - Nhân tố con người: hiện nay, Việt nam chúng ta có một đội ngũ cán bộ ngân hàng đông đảo, đã và đang được đào tạo về nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ. Các cán bộ quản lý đã qua đào tạo của các doanh nghiệp cũng có trình độ nhất định về quản lý vốn, đặc biệt là ngoại tệ. Tuy nhiên, công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ của chúng ta cũng cần được chú trọng trong thời gian trước mắt để phục vụ cho việc ra đời và hoạt động của thị trường hối đoái hoàn chỉnh, khi các hoạt động ngoại hối đã được chuyên nghiệp hoá cao độ. Xét trên các yêu cầu và điều kiện kể trên. Tương lai về một thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam là hoàn toàn có thể đạt được. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng, hoạt động ngày càng tích cực của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, việc đưa nhiều hình thức giao dịch mới vào thực hiện, tích cực cải thiện tình hình kinh tế vĩ mô … là những việc làm thiết thực nhằm tiến tới một thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam. 2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý rủi ro trên thị trường hối đoái Việt Nam trong tương lai: Trên thị trường hối đoái, các hoạt động ngoại hối diễn ra có tổ chức, vận hành theo cơ chế thị trường và các quy định của chính phủ. Khối lượng ngoại tệ được giao dịch trên thị trường hối đoái sẽ tăng lên rất nhiều so với thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các nghiệp vụ ngoại hối sẽ phong phú, phức tạp và tinh vi hơn. ở tầm vĩ mô, chúng ta cần nhận thức được rằng thị trường hối đoái sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp, nhanh chóng và mạnh mẽ hơn đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như tỷ lệ lạm phát, sức mua đối nội, đối ngoại của đồng tiền. Do đó việc tổ chức và vận hành một thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt nam có thể mang lại những thuận lợi cho nền kinh tế thị trường nhưng cũng là một thách thức cần phải đương đầu. Mặt khác thị trường hối đoái sẽ đem lại những công cụ mới, có hiệu quả hơn trong việc quản lý rủi ro. Sau đây là một số giải pháp cụ thể cho thị trường hối đoái ở Việt Nam: (1) Tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt, vận hành theo quy luật cung cầu của thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Tỷ giá hối đoái được xác nhận chủ yếu dựa trên cung cầu thực tế và ngoại tệ. Tuy nhiên, mục tiêu ổn định tỷ giá phải đặt lên hàng đầu. Để ổn định được tỷ giá cần đánh giá khách quan các biến động của thị trường, từ đó tìm ra những biện pháp cụ thể thích hợp với từng giai đoạn, tránh những xáo trộn không cần thiết cho nền kinh tế. (2) Bên cạnh đó cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường ngoại hối và điều tiết tỷ giá thông qua các mệnh lệnh hành chính. Có nghĩa là chính phủ thông qua các chỉ thị, quyết định hành chính khống chế các chỉ tiêu kinh tế ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối như quy định của các tổ chức kinh doanh phải mở một tài khoản ngoại tệ để nhà nước quản lý các nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường. (3) Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt cần xây dựng luật quản chế ngoại hối một cách đầy đủ và đồng bộ bên cạnh bộ luật ngân hàng. (4) Chống hiện tượng đầu cơ, phá hoại thị trường. Các biện pháp: cấm mua bán ngoại tệ tự do buộc các nhà xuất nhập khẩu bán các nguồn thu ngoại tệ cho ngân hàng nhà nước chỉ trừ các khoản chi tiêu hợp lý, ngăn chặn tệ buôn lậu, nghiêm trị các hành vi đầu cơ … chú ý các thực hiện linh hoạt biện pháp này để không gây khó khăn căng thẳng cho hoạt động kinh doanh. (5) Điều chỉnh mức lãi suất nội tệ và ngoại tệ một cách thích hợp. Cần kiết hợp giữa kinh nghiệm và tình hình thực tế. Ví dụ: năm 1992-2000 lãi suất tiền gửi VND luôn cao hơn ngoại tệ. Điều này làm nguồn tiết kiệm bằng ngoại tệ giảm bằng nội tệ tăng dẫn đến sự lên giá của đồng Việt Nam. (6) Đưa thêm các thị trường mới của thị trường hối đoái vào hoạt động như nghiệp vụ quyền chọn (Options), hợp đồng lựa chọn lãi suất (FRA)… nhằm tạo thêm công cụ phòng chống và bù đắp rủi ro cho các ngân hàng và doanh nghiệp. (7) Các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp cần tuân thủ và vận dụng linh hoạt với các công cụ mới của thị trường hối đoái như cacs quy định, chỉ thị của chính phủ, các nghiệp vụ mới được đưa vào hoạt động tiếp cận với phương pháp dự đoán tỷ giá mới. Liên tục đổi mới, hiện đại hoá cơ sở kỹ thuật và tích cực đoà tạo nhân tố con người. (8) Cần hạch toán hợp lý một khoản phí bảo hiểm vốn (Risk Premium). Để bù đắp rủi ro, đề nghị Bộ tài chính cho phép các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp được trích lập quỹ rủi ro trước khi nộp thuế để bù đắp các tổn thất trong kinh doanh, giúp đơn vị tự chủ tài chính. (9) Tăng cường các hoạt động thanh tra ngân hàng, kiểm tra, kế toán trong nội bộ và bên ngoài kịp thời phát hiện và xử lý rủi ro.  Kết kuận Ngoại hối là một bộ phận quan trọng và phát triển rất nhanh của các thị trường tài chính. Hoạt động ngoại hối mang tính chất quốc tế cao, sử dụng nhiều đồng tièn khác nhau và bao gồm việc mua bán trao đổi với tốc độ nhanh các khoản ngoại tệ khổng lồ. Hoạt động nhằm bảo vệ các giao dịch tránh được rủi ro hối đoái là một trong những hoạt động ngoại hối quan trọng nhất. Trên thế giới, các công cụ quản lý rủi ro hối đoái đã phát triển từ lâu và không ngừng được cải thiện. Đối với Việt nam chúng ta, khi mà hoạt động tài chính ngày càng phát triển các kỹ thuật phòng chống rủi ro hối đoái tuy vẫn là một vấn đề mới mẻ nhưng đang thu hút được sự quan tâm ngày càng nhiều của các nhà quản lý vốn. Đáp ứng nhu cầu này đã có nhiều bài viết và chuyên đề khoa học đề cập đến vấn đề quản trị rủi ro ngoại hối. Tuy vậy, những công trình này chỉ mới chỉ dừng lại ở việc khai thác những mảng kiến thức chung từ tư liệu của nước ngoài mà chưa có những đánh giá mang tính thực tiễn và cụ thể đối với mảng thị trường còn non trẻ như Việt nam. Xuất phát từ nhận định này, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu sâu thêm những vấn đề liên quan tới quản trị rủi ro trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, chủ đề được coi là trọng điểm quan tâm của các nhà quản trị. Nhìn một cách khái quát luận văn với đề tài “Quản trị rủi ro ngoại hối trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” có những điểm đáng chú ý sau: Hệ thống hoá một cách khoa học các loại rủi ro mà các ngân hàng Việt nam phải đối mặt trong hoạt động kinh doanh. Đã có sự đánh giá đối từng loại rủi ro và tiến hành so sánh tầm quan trọng của từng loại. Chỉ ra được xu hướng chủ đạo trong nền tài chính quốc tế, từ đó nêu rõ ảnh hưởng của nó tới hoạt động phòng chống rủi ro ngoại hối. Nêu ra được các giải pháp cụ thể trên cả hai bình diện: vĩ mô và vi mô. Hệ thống giải pháp vĩ mô là các kiến nghị về mặt chính sách cho qui mô quản lý nhà nước và hệ thống giải pháp vi mô là các kỹ thuật cụ thể mang tính thực hành cao áp dụng cho cấp độ các ngân hàng thương mại. Đưa ra được các kiến nghị cụ thể cho một thị trường hối đoái tương lai của Việt nam. Đề xuất các bước chuẩn bị cần thiết để tăng cường hiệu quả, tối thiểu hoá rủi ro trong một môi trường mới. Người viết hy vọng giúp được các nhà kinh doanh hối đoái, các nhà quản lý vốn và những ai quan tâm đến vấn đề ngoại hối một số kiến thức về ngoại hối và rủi ro. Do thời gian và lượng kiến thức có hạn, rất mong được sự góp ý, phê bình của các cô và các bạn. Mục Lục Danh mục tài liệu tham khảo EUN/RESNICK, Internationl Financial Management, Irwin McGraw-Hill TS Nguyễn Duệ, Quản Trị Ngân Hàng, NXB Thống Kê, 2001 C N Rouse FCIB, Bankers’s Management Techniques, The Chartered Institute of Bankers Nghị định 63/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối. Luật các tổ chức tín dụng 12/12/1997 PTS Nguyễn Văn Tiến, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB thống kê, 1999. PGS Đinh Xuân Trình, Thanh toán Quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục, 2000 Tạp chí ngân hàng các số 9. 10/ 2001 và 7/2002 Trang web của ngân hàng Ngoại thương (www.vietcombank.com.vn) và các nguồn thông tin khác trên mạng Internet.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19331.doc
Tài liệu liên quan