Đề tài Quy chế về pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ

Trong nền kinh tế tự do hoá thương mại, sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào năng lực tài chính và khả năng kinh doanh của mình. Hơn nữa, ngành ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi nhưng mức độ rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay như thế nào lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và biện pháp khắc phục của mỗi ngân hàng. Một giải pháp hữu hiệu đặt ra trong trường hợp này là sử dụng bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên hiệu quả của đảm bảo lại phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay và cách thực hiện vận dụng các quy định đó vào thực tế như thế nào.

doc105 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy chế về pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưng về lâu dài nó mở rộng quy mô tín dụng của chi nhánh và tăng hiệu quả hoạt động do thu hút được nhiều khách hàng hơn. * Công tác tín dụng: mở rộng tín dụng trên cơ sở đảm bảo phù hợp với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đảm bảo chất lượng và an toàn hoạt động, cơ cấu vốn hợp lý theo chỉ đạo của NHNN & PTNT Việt Nam trong từng thời kỳ. Từng bước chuyển đổi cơ cấu đầu tư, tăng dần tỷ trọng cho vay các DNNQD, tổ chức dân cư; giảm tỷ trọng DNNN. Tăng trưởng tín dụng phải gắn liền với kiểm tra kiểm soát chặt chẽ đảm bảo có hiệu quả. * Công tác thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ: Tiếp tục phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ đồng thời phát triển nghiệp vụ thanh toán biên giới thông qua mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng sát khu vực biên giới như Trung Quốc, Lào, Campuchia... * Về nghiệp vụ kế toán ngân quỹ: không ngừng cải tiến phong cách giao dịch với khách hàng, làm tốt công tác tiếp thị tư vấn khách hàng thực hiện đẩy mạnh nối mạng thanh toán với các đơn vị lớn nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong ngày của các tổ chức kinh tế xã hội giúp tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của chi nhánh. * Về công tác tổ chức cán bộ và đào tạo: hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chức năng cụ thể của từng phòng ban, từng đơn vị trực thuộc để nâng cao khả năng tác nghiệp, tránh trồng chéo, phiền phức cho khách hàng khi đến mở quan hệ. Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ chi nhánh... Ngoài ra, chi nhánh cần phải thực hiện tốt công tác kiểm tra kiểm soát, công tác tiếp thị thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh tiến độ ứng dụng công nghệ trong các nghiệp vụ ngân hàng, xây dựng phong cách giao dịch hiện đại văn minh đối với giao dịch viên để tạo lòng tin và ấn tượng tốt với khách hàng. 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ: 3.2.1. Đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Để nâng cao hiệu quả của bảo đảm tiền vay có rất nhiều các giải pháp, trong phần này trình bày những giải pháp tập trung chủ yếu vào việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng của tài sản bảo đảm tại chi nhánh Láng Hạ: - Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng định giá tài sản bảo đảm. Bởi vì việc định giá tài sản bảo đảm là cơ sở để ngân hàng xác định mức cho vay tối đa và tính toán khả năng thu nợ vay trong trường hợp buộc phải xử lý tài sản bảo đảm. Chúng ta đã biết một trong những hạn chế của chi nhánh là việc định giá tài sản bảo đảm chủ yếu dựa vào sự đánh giá chủ quan của các cán bộ tín dụng, nên tính chính xác còn hạn chế, nếu gặp rủi ro thì giá trị thanh lý của tài sản bảo đảm có thể không đủ thu hồi nợ gốc và lãi. Do vậy, chi nhánh cần chú trọng nhiều đến việc định giá tài sản bảo đảm bằng việc: xây dựng một số tiêu thức định giá tài sản bảo đảm dựa trên những thông tin xác thực có căn cứ khoa học, lập ra hội đồng định giá tài sản bảo đảm để có quyết định chính xác hơn, công tác thu thập thông tin về tài sản bảo đảm phải nhanh và chính xác, phải dự tính được mức độ rủi ro để xác định giá trị của tài sản bảo đảm. - Thứ hai, chi nhánh cần đa dạng hoá các tài sản bảo đảm. Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, nhu cầu vốn của khách hàng là rất lớn nhưng thị trường vốn cũng rất sẵn để cho vay đối với những khách hàng đủ điều kiện. Do vậy, để khách hàng dễ tiếp cận với chi nhánh khi có nhu cầu vay vốn, trước hết danh mục tài sản bảo đảm của chi nhánh cần phong phú, phù hợp với khả năng của khách hàng trên cơ sở những quy định của pháp luật. - Thứ ba, chi nhánh phải thường xuyên đánh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm. Do giá trị tài sản bảo đảm chính là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng, nên sự biến động giá trị của tài sản bảo đảm có ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của khoản vay. Với sự phát triển bùng nổ của nền kinh tế như hiện nay, giá trị các tài sản có sự biến động rất lớn theo từng thời điểm, một số tài sản lại có sự hao mòn vô hình, khó xác định được mức khấu hao, gây khó khăn cho việc định giá. Do đó, chi nhánh phải thường xuyên đánh giá lại tài sản bảo đảm để xác định được giá trị thực tế của tài sản mà mình đang nắm giữ, để đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra. - Thứ tư, chi nhánh cần nâng cao hiệu quả công tác xử lý tài sản bảo đảm. Khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với TCTD thì tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý để thu hồi nợ. Tuy nhiên trên thực tế việc xử lý tài sản gặp rất nhiều khó khăn, liên quan đến nhiều tổ chức cũng như được sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật. Nhiều trường hợp công tác xử lý tài sản bảo đảm gặp khó khăn về thủ tục pháp lý, hoặc chủ tài sản không chịu giao tài sản cho ngân hàng xử lý như đã cam kết, ngân hàng không được sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng trong việc thu hồi tài sản bảo đảm… Bên cạnh đó việc phát mại tài sản có khi phải tốn rất nhiều chi phí, có khi không có thị trường tiêu thụ làm giảm giá trị tài sản bảo đảm, không đủ bù đắp giá trị khoản vay. Do đó chi nhánh cần phải thực hiện tốt khâu xử lý tài sản bảo đảm thì mới đạt mục đích của bảo đảm tiền vay. 3.2.2. Đối với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản hiện nay chiếm tỷ trọng rất lớn (trên 50%), đây là hình thức cấp tín dụng có tỷ lệ rủi ro cao. Do vậy để khoản vay cấp cho khách hàng trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản trở về với ngân hàng một cách an toàn, thì chi nhánh cần thực hiện các giải pháp sau: - Thứ nhất, chi nhánh lựa chọn khách hàng thích hợp để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Bất cứ ngân hàng nào khi quyết định cho khách hàng vay vốn không có bảo đảm bằng tài sản bằng tài sản cũng cân nhắc rất kỹ, vì nó tiềm ẩn rủi ro rất cao. Nhưng không phải với khách hàng nào ngân hàng cũng yêu cầu phải có tài sản bảo đảm thì mới cho vay, vì nếu áp dụng quá cứng nhắc nguyên tắc này có thể dẫn đến tình trạng đông cứng vốn của ngân hàng, và ngân hàng mất đi những khách hàng tiềm năng. Tại chi nhánh, tỷ lệ này chiếm phần lớn nhưng chủ yếu là cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước, cho vay theo chỉ định của Chính phủ, các thành phần khác hầu như không được áp dụng biện pháp này. Do vậy để phát triển bền vững trong dài hạn, chi nhánh cần có sự điều chỉnh giảm dần tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tăng dần tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có uy tín trên thị trường và kinh doanh có hiệu quả. Để thực hiện được điều này thì chi nhánh Láng Hạ cần phải xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá, phân loại khách hàng cụ thể, phù hợp với tính chất hoạt động của chi nhánh. Chi nhánh có thể tham khảo cuốn “sổ tay tín dụng NHNN & PTNT Việt Nam”, đây được coi là cẩm nang tín dụng hướng dẫn cho cán bộ tín dụng thực hiện các khâu trong quá trình cho khách hàng vay khá đầy đủ và chi tiết. Từ đó có thể quyết định xem loại khách hàng nào có thể được xem xét để áp dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. - Thứ hai, chi nhánh cần nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, bên bảo lãnh của cán bộ tín dụng. Theo quy trình bảo đảm tiền vay, thẩm định khách hàng là khâu đầu tiên. Để biết được thông tin mà khách hàng cung cấp có xác thực hay không, ngân hàng cần thiết phải thẩm định khách hàng. Thẩm định khách hàng đó là việc thu thập các thông tin về năng lực tài chính của khách hàng, năng lực dân sự, tư cách đạo đức, các mối quan hệ của khách hàng với đối tác, bạn hàng… để từ đó ngân hàng có thể phân loại được khách hàng chính xác hơn, ra quyết định hạn mức cho vay là bao nhiêu, nên áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay nào trên cơ sở đã dự tính mức rủi ro của tài sản bảo đảm…Để làm được điều này, chi nhánh cần có chính sách trọng dụng những cán bộ tín dụng đủ tài năng chuyên môn, có kinh nghiệm và có đạo đức để có thể xử lý thông tin một cách nhanh nhạy và chính xác. Bên cạnh đó chi nhánh cần phải thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng thêm nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng của chi nhánh. Đồng thời, trong gian đoạn hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, việc ứng dụng các công nghệ vào nghiệp vụ ngân hàng đã làm đơn giản đi rất nhiều các thủ tục rườm rà, phức tạp kết nối giữa khách hàng và ngân hàng một cách trực tiếp với chi phí thấp nhất. Việc đổi mới công nghệ ngân hàng không những nâng cao chất lượng quản lý nội bộ ngân hàng, chất lượng dịch vụ của ngân hàng mà còn giúp cho ngân hàng có thể kiểm tra, giám sát, rà soát, quản lý các loại tài sản bảo đảm, xác nhận thông tin khách hàng một cách nhanh chóng nhất. Như vậy, với sự giúp đỡ của công nghệ thông tin, việc cập nhật các phần mềm ứng dụng mới trong quản lý ngân hàng, triển khai áp dụng một cách đồng bộ, thống nhất, giúp toàn bộ hoạt động của chi nhánh được thông suốt, nhanh chóng và an toàn hiệu quả… II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ. 1. Kiến nghị với Nhà nước, các bộ ngành. Trên cơ sở tìm hiểu những mặt đã làm được và những tồn tại cần khắc phục trong hoạt động bảo đảm tiền vay của một chi nhánh trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước và các bộ ngành nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay như sau: Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, bảo đảm tính đầy đủ, thống nhất và nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Từ trước đến nay các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay luôn được xây dựng dựa trên cơ sở những quy định hiện hành của pháp luật dân sự như Bộ luật dân sự năm 1995, pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989… Các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay đã cụ thể hoá các quy định có liên quan của pháp luật dân sự để áp dụng vào hoạt động đặc thù của các TCTD. Hiện nay, Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của Chính phủ, Nghị định 85/2002/NĐ-CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN của Ngân hang Nhà nước hướng dẫn thực hiện một số quy định về bảo đảm tiền vay của các TCTD, Thông tư lien tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các TCTD. Nhìn chung, trong thời gian qua các văn bản pháp luật này đã phát huy tác dụng, tạo cơ sở pháp lý cho các TCTD mở rộng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản và bảo toàn được nguồn vốn cho vay. Tuy nhiên, sau 10 năm thực hiện, Bộ luật dân sự năm 1995 đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, gây khó khăn cho các chủ thể thực hiện. Theo đó, ngày 14/6/2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự để khắc phục những hạn chế, bất cập nói trên. Do vậy, nhiều quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay được xây dựng dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 không còn phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 nữa. Để các quy định về bảo đảm tiền vay trong Bộ luật Dân sự năm 2005 phát huy tác dụng, cần thiết phải có sự sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay đã được đề cập ở trên, đó là: * Chính phủ, các bộ ngành cần có những quy định mới về điều kiện của tài sản bảo đảm tiền vay. Theo quy định của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP và thông tư số 07/2003/TT-NHNN, thì tài sản mà khách hàng vay, bên bảo lãnh dùng để cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vay vốn tại TCTD phải thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay, bên bảo lãnh. Đây là những quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo đó, Nhà nước chỉ giao vốn và tài sản cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng chứ không giao quyền định đoạt, do đó doanh nghiệp Nhà nước không có quyền sở hữu đối với tài sản do Nhà nước giao. Mặt khác quyền của doanh nghiệp về thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng phát triển sản xuất kinh doanh cũng bị hạn chế, vì doanh nghiệp nhà nước chỉ được thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của mình theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Đối với tài sản là toàn bộ dây truyền công nghệ chính theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật, thì việc thế chấp, cầm cố tài sản này phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đó đồng ý bằng văn bản. Tuy nhiên cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định những tiêu chí xác định tài sản là dây truyền công nghệ chính và cũng chưa có văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục xin phép cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước khi thế chấp, cầm cố dây truyền công nghệ chính. Thực tế, trên cơ sở văn bản đồng ý của cơ quan chủ quản, ngân hàng mới nhận thế chấp, cầm cố tài sản đó để doanh nghiệp nhà nước vay vốn sử dụng vào mục đích phát triển sản xuất kinh doanh. Một số trường hợp, khi nhận hồ sơ xin phép thế chấp, cầm cố dây chuyền, thiết bị của doanh nghiệp nhà nước trực thuộc, cơ quan chủ quản đã cố tình kéo dài thời gian xem xét hoặc không trả lời bằng văn bản vì cho rằng chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này. Do đó, trong một thời gian dài nhiều doanh nghiệp nhà nước không thể hoàn thiện được thủ tục thế chấp, cầm cố dây chuyền, thiết bị để vay vốn ngân hàng. Chính vì thế mà trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp Nhà nước luôn ở trong tinh trạng thiếu vốn để mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh do không vay được vốn ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh kém hiệu quả hoặc thua lỗ kéo dài. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, thì tài sản thế chấp, cầm cố nhất thiết phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch. Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và Nghị định số 199 đã tạo điều kiện cho các công ty Nhà nước được quyền chủ động sử dụng vốn Nhà nước giao, các loại vốn khác, các quỹ do công ty Nhà nước quản lý vào hoạt động kinh doanh. Theo đó, tài sản của doanh nghiệp nhà nước bao gồm tài sản cố định, tài sản lưu động mà công ty Nhà nước có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật. Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995, thì Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 đã quy định rõ công ty Nhà nước có đủ cả 3 quyền năng đối với tài sản được Nhà nước giao: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Chiếu theo Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2005, thì quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt; do đó, công ty Nhà nước có quyền sở hữu đối với tài sản Nhà nước giao. Chính vì vậy, Nghị định số 178 và Thông tư số 07 cần sửa đổi quy định về điều kiện của tài sản thế chấp, cầm cố cho phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và Nghị định số 199/2004/NĐ-CP. * Sự cần thiết phải có những quy định mới liên quan đến việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã được quy định trong thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 (TTLT số 05). Đó là: - Theo quy định tại Nghị định 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm, thời hạn hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm có trị giá 5 năm kể từ ngày đăng ký, trừ trường hợp các bên có yêu cầu xoá đăng ký trước thời hạn hoặc có yêu cầu đăng ký gia hạn. Thời hạn hiệu lực của mỗi lần gia hạn đăng ký là 5 năm. Thực tế cho thấy, có những hợp đồng tín dụng có thời hạn vay vốn trên 5 năm, khi đó sẽ phát sinh các giao dịch bảo đảm với thời hạn hiệu lực trên 5 năm để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng. Sau 5 năm kể từ ngày giao dịch bảo đảm có hiệu lực, trong khi hợp đồng tín dụng vẫn còn hiệu lực thì giao dịch bảo đảm đã hết thời hạn hiệu lực, lúc đó các TCTD và khách hàng sẽ cần phải gia hạn thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên TTLT số 05 lại không hướng dẫn việc gia hạn thời hạn hiệu lực của các giao dịch bảo đảm liên quan đến thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Điều này làm cho cả TCTD và cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm không thể thực hiện việc gia hạn thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Thực tế đặt ra hai cách giải quyết vấn đề này đó là TCTD và khách hàng phải tiến hành giải chấp, ký kết hợp đồng bảo đảm mới và đăng ký giao dịch bảo đảm hay vẫn sử dụng hợp đồng bảo đảm cũ và tiến hành đăng ký mới. Trong cả hai trường hợp đều tốn thời gian công sức, thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp tài sản được bảo đảm cho nhiều TCTD cũng bị thay đổi bất lợi cho TCTD. - Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định một tài sản có thể được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn các nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 323). Giả sử khách hàng vay vốn tại một TCTD với thời hạn dưới 5 năm, nhưng thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm vẫn là 5 năm. Sau đó, khách hàng lại tiếp tục có nhu cầu vay thêm vốn hoặc khách hàng trả hết khoản nợ vay trước và vay lại, trong khi thời hạn hiệu lực của giao dịch bảo đảm trước vẫn còn, cả TCTD và khách hàng đều muốn tiếp tục sử dụng giao dịch bảo đảm này để bảo đảm cho các khoản vay lại. Tuy nhiên TTLT số 05 không quy định về việc bổ sung nghĩa vụ được bảo đảm. Khi đó, khách hàng và TCTD phải tiến hành thủ tục giải chấp, ký kết hợp đồng bảo đảm mới và đăng ký giao dịch bảo đảm mới. Do vậy gây mất thời gian công sức, chi phí của khách hàng vay, bên bảo lãnh và TCTD; đồng thời tăng thêm việc cho phòng công chứng, chứng thực và các phòng đăng ký quyền sử dụng đất. - Theo luật Đất đai năm 2003 (Điều 130) và TTLT số 05, TCTD và khách hàng phải tiến hành thủ tục đăng ký thế chấp trong thời hạn không quá 5 ngày kể từ ngày ký kết hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên TTLT số 05 lại không hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất hình thành trong tương lai, TCTD và khách hang chỉ có thể đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất khi quyền sử dụng đất đã được hình thành và có đầy đủ các giấy tờ theo quy định. Đến lúc đó, chắc chắn sẽ vi phạm quy định về thời hạn đăng ký thế chấp, bảo lãnh và sẽ bị phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Đồng thời TCTD cũng gặp rủi ro mất thứ tự ưu tiên thanh toán từ khi cho vay đến trước khi hoàn thành thủ tục nhận thế chấp, bảo lãnh và đăng ký thế chấp bảo lãnh nếu khách hàng dùng quyền sử dụng đất này đi thế chấp, bảo lãnh tại TCTD khác. - TTLT số 05 quy định trường hợp có sửa chữa sai sót về phần kê khai của người yêu cầu đăng ký thì giá trị pháp lý của việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh được tính từ thời điểm cơ quan đăng ký nhận hồ sơ yêu cầu sửa chữa sai sót hợp lệ. Nếu không có quy định cụ thể như thế nào là sai sót, mà chỉ vì lỗi sai do đánh máy sai lỗi chính tả…rất nhỏ mà giá trị pháp lý của việc đăng ký tài sản, bảo lãnh chậm có hiệu lực sẽ gây thiệt thòi cho người đăng ký và cả TCTD trong một số trường hợp cụ thể. - Tại mẫu số 07/BSTS theo TTLT số 05 hướng dẫn trang bổ sung về tài sản quy định chỉ có chữ ký của người yêu cầu đăng ký, điều này có thể dẫn đến rủi ro như thông tin kê khai chưa đầy đủ do lỗi của người yêu cầu đăng ký nhưng bên còn lại không thể kiểm tra được hoặc người yêu cầu đăng ký tự ý thay đổi thông tin không nằm trong sự kiểm soát của bên còn lại sẽ dẫn đến hậu quả bất lợi cho bên còn lại. Như vậy qua các khó khăn vướng mắc nêu trên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét, hoàn thiện các quy định về đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất cho phù hợp với thực tiễn các giao dịch bảo đảm hiện nay, góp phần đảm bảo các quyền của người sử dụng đất, có tài sản trên đất mà pháp luật đã thừa nhận. * Sự cần thiết phải sửa đổi bổ sung các mẫu hợp đồng bảo đảm tiền vay phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, thì mẫu hợp đồng bảo đảm tiền vay bao gồm các điều khoản chủ yếu sau: - Chủ thể tham gia hợp đồng bảo đảm, thể hiện nguyên tắc bình đẳng giữa mọi công dân khi tham gia giao dịch bảo đảm, không phân biệt là người mang quốc tịch Việt Nam hay người có quốc tịch nước ngoài. - Có sự phân biệt giữa cầm cố và thế chấp, bằng việc xây dựng tiêu chí đánh giá cơ bản đó là sự chuyển dịch tài sản bảo đảm. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 trường hợp cầm cố thì bên cầm cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố, còn thế chấp thì bên thế chấp sẽ giữ tài sản thế chấp. Sự phân biệt này sẽ làm đơn giản hơn khi cần thiết phải phân biệt giữa động sản và bất động sản, cũng như đơn giản hoá các quy định về cầm cố, thế chấp. Với quy định này các ngân hàng sẽ bỏ hẳn quy định về trường hợp ngân hàng giữ tài sản thế chấp và có thể quy định việc kiểm tra, giám sát, quản lý tài sản cầm cố trong khi bên vay vẫn phải chịu toàn bộ các chi phí cho việc quản lý và giữ gìn tài sản cầm cố đó. - Về phạt vi phạm, xét về bản chất phạt vi phạm không phải là một biện pháp bảo đảm, vì vậy Bộ luật Dân sự năm 2005 đã không quy định phạt vi phạm là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như Bộ luật Dân sự năm 1995, mà cho phép các bên có thể thoả thuận phạt vi phạm là một trong các nội dung của hợp đồng bảo đảm (khoản 7 điều 402), hoặc các bên có thể thoả thuận chỉ phạt vi phạm mà không bồi thường thiệt hại hoặc cả hai, tuy nhiên nếu không có thoả thuận trước thì được coi là phải bồi thường thiệt hại toàn bộ (Điều 422). Đây là những quy định mới căn cứ vào đó, các ngân hàng có thể quy định phạt vi phạm trong các hợp đồng bảo đảm thành một điều khoản riêng, độc lập với bồi thường thiệt hại. - Về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã khẳng định hơn nữa trách nhiệm, quyền tự chủ, quyền tự do cam kết cũng như tôn trọng sự thoả thuận của các bên; theo đó việc xử lý tài sản bảo đảm trước tiên theo phương thức các bên đã thoả thuận, nếu không được sẽ bán đấu giá. Đặc biệt trong hợp đồng cầm cố, cho phép ngân hàng nhận tài sản cầm cố được phép lựa chọn tài sản cầm cố để xử lý trước trong trường hợp có nhiều tài sản cầm cố. Đây chính là một quyền mới được pháp luật quy định, các ngân hàng nên bổ sung trong hợp đồng bảo đảm. - Về thứ tự ưu tiên thanh toán: thứ nhất, thanh toán theo thứ tự đã đăng ký giao dịch bảo đảm; thứ hai, ưu tiên cho các giao dịch bảo đảm đã đăng ký; nếu tất cả đều chưa đăng ký thì theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm (Điều 325). Như vậy, theo quy định này Bộ luật Dân sự năm 2005 đã nhấn mạnh các hợp đồng bảo đảm cần phải đăng ký giao dịch bảo đảm tại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đây không chỉ là quyền lợi của các bên mà còn là trách nhiệm của ngân hàng. - Về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã mở rộng không quy định hạn chế của phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm như Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo Bộ luật Dân sự năm 1995 các cơ quan công chứng, chứng thực thường yêu cầu các bên tham gia hợp đồng bảo đảm phải ghi cụ thể nghĩa vụ được bảo đảm vào trong hợp đồng, do đó đã gây không ít khó khăn cho ngân hàng. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các bên có quyền thoả thuận về biện pháp bảo đảm để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ kể cả nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Đây là một quy định mới bổ sung khái niệm về tài sản trong hợp đồng bảo đảm của các ngân hàng và là cơ sở pháp lý để các hợp đồng bảo đảm của các ngân hàng không bị các cơ quan chức năng từ chối. - Về quyền tài sản dùng để bảo đảm: Bộ luật Dân sự năm 1995 chỉ quy định quyền tài sản dùng để bảo đảm là các quyền tài sản trị giá được bằng tiền, không bị tranh chấp và được phép giao dịch và quyền sử dụng đất có thể được dùng để thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiêng bảo hiểm đối với vật bảo hiểm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã ghi nhận rõ các quyền tài sản là được dùng chứ không dùng thuật ngữ có thể được dùng như Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo đó danh mục tài sản bảo đảm trong hoạt động ngân hàng đã dược mở rộng hơn trước, do vậy các ngân hàng cần có sự điều chỉnh danh mục các tài sản được phép dùng để bảo đảm tiền vay cho phù hợp với quy định mới này của Bộ luật Dân sự năm 2005. - Về mối quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín dụng. Nếu hiểu hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ và hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính thì Bộ luật Dân sự năm 1995 không có quy định cụ thể và rõ ràng về mối quan hệ giữa hai hợp đồng chính và hợp đồng phụ này. Đến Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định về nguyên tắc khi hợp đồng phụ vô hiệu không đương nhiên làm mất hiệu lực của hợp đồng chính trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính (Điều 410). Với quy định mới này, thì hợp đồng bảo đảm tiền vay vẫn có thể ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng tín dụng nếu các bên có ghi trong hợp đồng. Như vậy, các ngân hàng cần sửa lại nội dung này cho phù hợp, bởi không nên để hiệu lực của hợp đồng bảo đảm lại có thể làm ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Như vậy theo những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, các ngân hàng nên sửa đổi bổ sung các điều khoản trong mẫu hợp đồng bảo đảm, điều này không chỉ thể hiện sự tuân thủ pháp luật mà còn bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các ngân hàng. * Cần có sự thống nhất cách định giá tài sản vay vốn ngân hàng. Nếu như trước đây, các ngân hàng thương mại khi giải quyết cho khách hàng vay vốn luôn đặt tính hiệu quả của dự án/phương án lên hàng đầu và xem đó là điều kiện tiên quyết để cán bộ tín dụng thẩm định trình duyệt cho vay vốn. Sau nhiều năm thực hiện việc lấy dự án/phương án làm căn cứ vay vốn đã bộc lộ những khó khăn nhất định, vì có một số ít doanh nghiệp và cá nhân khi xây dựng phương án đã không trung thực. Họ đưa ra những con số ảo làm ngân hàng rất khó tính toán, xác định cho vay vốn. Vì thế hiện nay các ngân hàng thương mại khi quyết định cho khách hàng vay vốn ngoài việc căn cứ vào đơn xin vay vốn, tính khả thi của dự án còn căn cứ vào tài sản bảo đảm. Đây là một biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tao cơ sở pháp lý để các ngân hàng thu hồi các khoản nợ và lãi vay của khách hàng một cách an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, việc áp dụng như thế nào để vừa đảm bảo cho vay được vốn nhưng không sai luật lại an toàn khi thu hồi là một vấn đề rất khó. Đặc biệt là những quy định về phương pháp xác định giá trị tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất hiện nay đang gây nhiều tranh cãi. Hiện nay một số ngân hàng thường xác định theo giá đất thực tế chuyển nhượng ở địa phương đó tại thời điểm định giá thế chấp với mức: mức tối đa bằng với mức giá đất thực tế chuyển nhượng trên thị trường nếu thấp hơn hoặc bằng với giá trị trong khung giá đất của UBND tỉnh, thành phố nơi có đất; hoặc mức tối đa không quá 70% giá đất thực tế chuyển nhượng trên thị trường nếu cao hơn giá trị trong khung giá đất của UBND tỉnh thành phố nơi có đất. Ngoài ra một số ngân hàng cho phép các chi nhánh tự xây dựng khung giá đất, đây có thể coi là biện pháp khả thi nhưng xem ra rất khó thực hiện vì không có dịch vụ nhà đất, không xác định được giá đất chuyển nhượng trên thị trường tại địa phương đó. Từ những quy định và thực tế trên, thiết nghĩ các ngân hàng cần có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Không quy định một cách chung chung để rồi các chủ thể thực hiện muốn hiểu như thế nào cũng được dẫn đến áp dụng không thống nhất, rất khó trong việc đưa ra kết quả đúng để đầu tư cho vay vốn. Và cũng không thể quy định cho phép các chi nhánh tự xây dựng khung giá đất để xác định giá trị tài sản bảo đảm làm căn cứ cho vay, vì như thế khác nào vừa đá bóng vừa thổi còi; hơn nữa các chi nhánh không phải là một pháp nhân, do đó không được phép tự đưa ra quyết định. Do đó cần có sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước nên tập hợp các ngân hàng thương mại lại để cùng nhau bàn bạc đưa ra cách giải quyết thống nhất trong việc xây dựng khung giá đất để làm căn cứ xác định mức cho vay. Trên đây chỉ là cách định giá một tài sản dùng làm bảo đảm tiền vay, còn đối với các tài sản bảo đảm khác để các ngân hàng và khách hàng thuận tiện trong giao kết hợp đồng, thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần nhanh chóng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chính quyền địa phương cách xác định giá trị tài sản bảo đảm. Đồng thời sở nhà đất và sở địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các hộ sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn có đủ điều kiện để thế chấp với TCTD. Bên cạnh đó, để việc định giá tài sản bảo đảm được chính xác, Nhà nước nên thành lập một ban riêng chuyên nghiên cứu thị trường để có thể xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu định giá tài sản một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác. * Cần đơn giản hoá các thủ tục cho vay có bảo đảm bằng tài sản, trong đó quan trọng nhất là việc công chứng, chứng thực các giấy tờ sở hữu tài sản. Mà việc xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm một cách khoa học là việc cần làm trước tiên. Muốn vậy, các quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan này và các cán bộ trong cơ quan phải được quy định một cách cụ thể rõ ràng. Thực tế rất nhiều trường hợp việc công chứng, chứng thực các giao dịch bảo đảm tốn rất nhiều thời gian, công sức của ngân hàng và khách hàng. Đây không chỉ là thiếu sót của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan chưa có văn bản hướng dẫn một cách cụ thể vấn đề này, mà còn do một nguyên nhân khác rất quan trọng đó là vấn đề đạo đức của một số cán bộ công chứng, chứng thực. Họ lợi dụng chức vụ, trục lợi cá nhân thiếu trung thực, khách quan trong công việc, gây sách nhiễu, phiền hà cho các chủ thể đến công chứng, chứng thực. Nhiều khi do sự thiếu trách nhiệm của một số cán bộ công chứng đã gây ra những thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng vì ngân hàng thường căn cứ vào sự công chứng của cơ quan Nhà nước để quyết định cho khách hàng vay khi có đủ điều kiện về tài sản bảo đảm. Mặt khác, các quy định về công chứng, chứng thực của Chính phủ và văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành chưa thống nhất về căn cứ xác định năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng, chứng thực và hồ sơ công chứng, chứng thực. Cụ thể theo quy định của pháp luật thì một số tài sản khi đem bán, chuyển nhượng phải có công chứng, chứng thực như nhà, quyền sử dụng đất. Theo Nghị định số 75/2000/NĐ-Chính phủ ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực thì khi công chứng, chứng thực, công chứng viên xác định năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng, chứng thực. Tuy nhiên mục VIII phần Bảo đảm, Thông tư 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC lại hướng dẫn rõ việc công chứng, chứng thực văn bản bán tài sản được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm, văn bản bán tài sản, bản án, quyết định của Toà án. Nguyên nhân này dẫn đến thực trạng áp dụng pháp luật không thống nhất. Một số cơ quan công chứng, chứng thực không thực hiện việc công chứng, chứng thực hợp đồng mua bán, chuyển nhượng tài sản do TCTD không phải là chủ sở hữu hoặc người được uỷ quyền. Một số cơ quan khác yêu cầu TCTD phải thực hiện việc uỷ quyền xử lý tài sản cho trung tâm đấu giá thì mới công chứng, chứng thực. Một số cơ quan công chứng, chứng thực lại căn cứ vào hợp đồng bảo đảm, coi hợp đồng này có giá trị pháp lý như một văn bản uỷ quyền của chủ sở hữu tài sản để thực hiện việc công chứng, chứng thực văn bản bán tài sản. * Cần tạo điều kiện để việc xử lý tài sản bảo đảm đơn giản hơn. Quan hệ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là một quan hệ được thiết lập trên cơ sở thoả thuận của các bên tham gia giao dịch bảo đảm. Thực hiện Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng cục địa chính đã thống nhất hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay bằng thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 (gọi tắt là TTLT số 03). Từ khi ra đời cho đến nay thông tư là cẩm nang, là cơ sở cho các TCTD thực hiện việc xử lý tài sản một cách thuận tiện và nhanh chóng; Thông tư quy định rõ trách nhiệm của các ban ngành liên quan trong quá trình xử lý, do đó đã tạo nhiều thuận lợi cho TCTD; đồng thời hướng dẫn từng phương thức, từng trường hợp rất phù hợp với các tình huống thực tế, đã không ngững tạo điều kiện cho ngân hàng xử lý nhanh mà còn làm rõ trách nhiệm đến cùng của khách hàng vau vốn khi có thế chấp tài sản. Nhưng cho đến thời điểm hiện nay, với sự ra đời của một số văn bản pháp luật mới TTLT số 03 đã bộc lộ một số nhược điểm cần sửa đổi bổ sung đó là: - Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003 thay thế cho nghị định số 17/1999/NĐ-CP, nhưng một số điều khoản quy định tại TTLT số 03 vẫn hướng dẫn thực hiện theo Nghị định số 17. - Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, luật Doanh nghiệp năm 2005 đã có sự thay đổi về Doanh nghiệp Nhà nước, do đó cũng cần có những quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm đối với doanh nghiệp Nhà nước mà thông tư số 03 chưa đề cập tới. Hiện nay, việc xử lý tài sản bảo đảm đối với doanh nghiệp Nhà nước còn lúng túng và có nhiều vướng mắc rất khó xử lý, các TCTD đang rất cần sự hướng dẫn kịp thời của các bộ ngành liên quan. - Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới được sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/1/2004, ngân hàng phải nộp thuế thu nhập chuyển quyền sử dụng đất khi bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, nhưng trong TTLT số 03 chưa đề cập đến, hơn nữa việc nộp thuế thu nhập này cũng có nhiều bất cập trong trường hợp ngân hàng bán tài sản chưa thu hết nợ vay nhưng vẫn phải nộp thuế. Do vậy, cần có sự hướng dẫn cụ thể để phù hợp với thực tế tạo điều kiện thuận lợi để ngân hàng thu hết nợ vay. - Trong việc bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, các bộ nên sửa đổi bổ sung vào TTLT số 03 cho phép tổ chức tín dụng được bán trực tiếp tài sản bảo đảm như hướng dẫn tại điểm 2, phần II của Thông tư liên tịch số 02/2002/TTLT-NHNN-BTP, ngày 5/2/2002 về xử lý tài sản bảo đảm nằm trong hệ thống của nợ tồn đọng. - TTLT số 03 quy định trường hợp TCTD trực tiếp bán tài sản bảo đảm, quy định này hướng dẫn rất khái quát, chưa cụ thể nên thực tế áp dụng rất khó, cần thiết phải sửa đổi. Như vậy, cùng với những kiến nghị trên, thì các bộ ngành, UBND các cấp có sự chỉ đạo cụ thể hơn để tạo được sự ủng hộ tích cực trong quá trình giúp ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm. Ví dụ có thể thành lập trung tâm bán đấu giá tại các tỉnh trong cả nước để giúp các ngân hàng thuận tiện trong xử lý tài sản bảo đảm. * Việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố của các doanh nghiệp Nhà nước đang là một thực trạng nổi cộm trong việc áp dụng pháp luật xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước, một số tài sản quan trọng hoặc dây truyền sản xuất chính khi cầm cố, thế chấp phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Khi TCTD xử lý tài sản bảo đảm của DNNN, cơ quan tài chính một số địa phương yêu cầu phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý tài chính tương tự như trường hợp DNNN thanh lý tài sản. Do vậy tạo ra tâm lý lo ngại khi ngân hàng cho DNNN vay, vì ảnh hưởng tới quyền xử lý tài sản bảo đảm hớp pháp của TCTD; đồng thời tạo ra sự bảo hộ bất bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và các chủ thể kinh doanh khác. * Trong quy chế về xử lý tài sản bảo đảm, Nhà nước nên giao quyền chủ động hơn cho các TCTD. Bởi vì tài sản bảo đảm thường bị xử lý khi khách hàng vi phạm điều khoản nghĩa vụ trong hợp đồng bảo đảm, việc xử lý tài sản bảo đảm là để bảo vệ quyền và lợi ích của TCTD. Nhà nước cần thành lập tổ chức phân tích và xếp hạng doanh nghiệp. Hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa có tổ chức phân tích và xếp hạng doanh nghiệp, điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích uy tín của khách hàng vay vốn. Đặc biệt tại chi nhánh Láng Hạ thì cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tức là cho vay bằng uy tín khách hàng chiếm một tỷ trọng rất cao (trên 50%). Trong khi uy tín là một yếu tố khó định lượng, nếu chỉ dựa vào các tiêu chí để xác định uy tín khách hàng như luôn trả nợ song phẳng, có quan hệ thường xuyên, lâu dài với ngân hàng, dự án kinh doanh có hiệu quả...nhưng khi khách hàng gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh thì họ cũng khó có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Do đó, Nhà nước nên thành lập một cơ quan có thẩm quyền chuyên môn để xác định được tính chính xác tương đối mức độ tín nhiệm của khách hàng làm tiêu chí tham khảo cho các ngân hàng, giúp ngân hàng giảm được rủi ro tổn thất khi thực hiện hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay. 2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và NHNN & PTNT Việt Nam. 2.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước. Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tố chức tín dụng đã đi vào cuộc sống được gần 10 năm, từ khi ra đời đến nay đã phát huy được nhiều tác dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên với sự ra đời của các văn bản pháp luật mới (như Bộ luật Dân sự năm 2005, luật doanh nghiệp năm 2005…), một số quy định của nó đã không còn phù hợp với thực tế, đặc biệt là các quy định về bảo đảm tiền vay. Vì bảo đảm tiền vay là biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở pháp lý cho TCTD xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ, đảm bảo cho sự an toàn và phát triển bền vững cho từng TCTD nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói chung. Do vậy ngân hàng Nhà nước cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định mới của pháp luật về bảo đảm tiền vay, nhanh chóng phổ biến tới các ngân hàng sự thay đổi, điều chỉnh để các ngân hàng chủ động trong hoạt động cho vay có tài sản bảo đảm và không có tài sản bảo đảm trong từng thời kỳ cụ thể. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Ngân hàng Nhà nước nên giao quyền tự chủ cho các ngân hàng nhiều hơn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng để các ngân hàng có thể tránh được một số rủi ro do có sự chủ động đối phó với những tình huống bất ngờ, đồng thời có thể tận dụng những cơ hội khi thời cơ đến. Hiện nay các quy định về chế độ hạch toán về cho vay có bảo đảm bằng tài sản do TCTD tự lựa chọn, cho vay theo chỉ định của Chính phủ chưa cụ thể, Ngân hàng Nhà nước nên có sự điều chỉnh cho hợp lý. Đặc biệt ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) để cho nó trở thành nơi cung cấp thông tin nhanh, chính xác kịp thời về khách hàng cho các TCTD. Mục tiêu hoạt động của CIC là giúp các TCTD phòng ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất những khả năng rủi ro trong kinh doanh, góp phần xây dựng một hệ thống ngân hàng bền vững. Muốn vậy CIC phải cập nhật được sự phân loại khách hàng theo từng khoản nợ, đánh giá theo từng khoản nợ của khách hàng. Yêu cầu đặt ra khá cao là bắt buộc là các TCTD phải chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo thông tin cho CIC. Nếu thông tin về khách hàng không được cập nhật thường xuyên, số liệu phản ánh không kịp thời thì tính pháp lý cũng như giá trị của thông tin do CIC cung cấp ra sẽ không đáp ứng được yêu cầu của sự đánh giá. Do vậy để đáp ứng yêu cầu xử lý thông tin do các TCTD báo cáo cũng như quá trình tổng hợp và quản trị kho dữ liệu, cung cấp thông tin, CIC cần phải chuẩn hoá các quy trình, nghiệp vụ, áp dụng chương trình tự động xử lý dữ liệu. Các cơ quan giám sát, đánh giá và các TCTD phải tham gia vào mạng của CIC và khai thác thông tin để đưa ra đánh giá nợ chính xác và kịp thời. Ngoài nghiệp vụ cung cấp tác nghiệp cho các TCTD, CIC phải được giao nhiệm vụ thực hiện hỗ trợ các tổ chức, đơn vị có chức năng và nhiệm vụ phân loại, đánh giá các khoản nợ của các khách hàng của các TCTD. CIC phải được quyền cung cấp kết quả đánh giá phân loại nợ của các TCTD, của đơn vị giám sát có chức năng đánh giá nợ cho các TCTD. Những thông tin do CIc cung cấp đòi hỏi phải phản ánh trung thực, khách quan và đặc biệt phải đảm bảo tính thời gian. Như vậy để CIC hoạt động thực sự có hiệu quả, cần tăng cường hơn nữa vai trò của CIC trong điều kiện hiện nay, tăng cường năng lực cho CIC cả về điều kiện vật chất kỹ thuật, cũng như con người. 2.2. Đối với NHNN & PTNT Việt Nam. NHNN & PTNT Việt Nam là cơ quan chủ quản cấp trên của chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, là một trong 5 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam hiện nay. Trong hoạt động ngân hàng của mình NHNN & PTNT Việt Nam đã thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về bảo đảm tiền vay. Đồng thời cùng với sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các bộ ngành có liên quan NHNN & PTNT Việt Nam đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể với các chi nhánh phụ thuộc của mình về bảo đảm tiền vay (như quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/3/2002 ban hành quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam; quyết định số 300/QĐ-HĐQT-TD ngày 24/9/2003 quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay…). Đây là những quy định về bảo đảm tiền vay rất cụ thể, là cẩm nang cho hoạt động bảo đảm tiền vay của các chi nhánh trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam thời gian qua. Tuy nhiên, hiện nay với sự ra đời cúa các văn bản pháp luật mới điển hình là Bộ luật Dân sự năm 2005 hay quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN về quy chế bảo lãnh ngân hàng … các quy định về bảo đảm tiền vay đã có sự thay đổi khá lớn, do vậy NHNN & PTNT Việt Nam cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để các chi nhánh trong hệ thống của mình thực hiện một cách thống nhất có hiệu quả các quy định của pháp luật. Đồng thời NHNN & PTNT Việt Nam cần theo dõi sự biến động lãi suất trên thị trường để có kế hoạch điều chỉnh lãi suất cho phù hợp cơ chế quản lý khách hàng của các chi nhánh hiệu quả. Đối với một số khách hàng của các chi nhánh tại các khu đô thị loại I có quan hệ nguồn vốn, tín dụng lâu dài và có uy tín, chi nhánh cần được áp dụng mức lãi suất huy động, lãi suất cho vay và tỷ lệ phí linh hoạt trên cơ sở an toàn vốn, tính toán hiệu quả tài chính đối với từng khách hang đem lại nhằm đảm bảo tính cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt nhất là trong những năm đầu hội nhập nền kinh tế. Việc đăng ký làm ngân hàng phục vụ giải ngân các dự án ODA của các chi nhánh NHNN & PTNT Việt Nam còn chồng chéo gây khó khăn trong việc triển khai hoạt động đối với các bộ ngành, cần có biện pháp khắc phục. NHNN & PTNT Việt Nam cũng nên tập trung làm đầu mối trong việc đi vay của các TCTD không nên để các chi nhánh tự đi vay như hiện nay. Bên cạnh đó về công nghệ thông tin, NHNN & PTNT Việt Nam cần bổ sung các MODUL nghiệp vụ liên quan đến công tác tín dụng, các phần mềm kiểm tra thông tin khách hàng, thông tin về tài sản bảo đảm khi khách hàng vay vốn… 3. Kiến nghị với chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ. Trên cơ sở khảo sát thực tế tại chi nhánh Láng Hạ, nhận thức được những thành tựu cũng như những tồn tại khó khăn tại chi nhánh trong hoạt động bảo đảm tiền vay, bên cạnh những giải pháp đã đề cập ở trên, em xin mạnh dạn kiến nghị một số vấn đề sau: - Trong công tác chỉ đạo điều hành của chi nhánh phải thường xuyên phổ biến các văn bản có liên quan đến hoạt động tín dụng, bảo đảm tiền vay, các văn bản của Ngân hàng Nhà nước, NHNN & PTNT Việt Nam, thường xuyên tổ chức họp phòng để nắm bắt kịp thời những khó khăn vướng mắc trong hoạt động tín dụng, bảo đảm tiền vay để từ đó có những điều chỉnh kịp thời. - Chi nhánh cần đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ nhằm trang bị kiến thức, tránh lạc hậu về chuyên môn, pháp luật, các thông lệ quốc tế trong giai đoạn đầu của tiến trình hội nhập quốc tế. - Chi nhánh nên định kỳ tổ chức gặp mặt khách hàng để lắng nghe những ý kiến đánh giá của khách hàng về những việc đã làm được, chưa làm được của chi nhánh, ghi nhận những đóng góp, những mong muốn của khách hàng. Trên cơ sở đó mà chi nhánh có thể có những chính sách điều chỉnh hợp lý đáp ứng tốt tâm tư nguyện vọng của khách hàng theo đúng quy định của pháp luật. - Chi nhánh cần tăng cường hơn nữa chiến lược thu hút khách hàng, tiếp tục củng cố tạo niềm tin với khách hàng truyền thống, tạo sức hút với những khách hàng mới. Trong chiến lược dài hạn chi nhánh cần nâng cao tỷ trọng đối tượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cá nhân dân cư. - Chi nhánh cần đúc rút các kinh nghiệm của các chi nhánh khác trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại khác trong nước và trên thế giới, để đề xuất những chính sách hợp lý, phù hợp hoạt động ngân hàng của mình. 4. Kiến nghị đối với khách hàng. Trong quy chế về bảo đảm tiền vay khách hàng là một chủ thể không thể thiếu. Bảo đảm tiền vay chỉ phát huy tác dụng khi có sự tham gia tích cực của khách hàng, vì khách hàng là một bên trong hợp đồng bảo đảm. Để việc sử dụng bảo đảm tiền vay có hiệu quả đó không chỉ là nghĩa vụ của các ngân hàng, mà các khách hàng cũng phải tham gia tích cực. Bởi vì khách hàng tìm đến với ngân hàng là lúc họ đang có nhu cầu cần vốn để thực hiện mục tiêu của mình. Nhưng không phải bất kỳ khi nào tìm đến với ngân hàng họ cũng được cấp vốn ngay. Do vậy các khách hàng cần có kiến thức, am hiếu về pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hoạt động của các ngân hàng. Trên cơ sở tìm hiểu thông tin về ngân hàng, về chính sách lãi suất, chính sách cho vay, các quy định về bảo đảm tiền vay… khách hàng căn cứ vào khả năng của mình để tiến hành vay vốn ngân hàng. Trong quá trình giao kết hợp đồng, khách hàng cần chủ động cung cấp các thông tin đầy đủ, trung thực cho ngân hàng. Và sau khi hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã được ký kết khách hàng cần nghiêm túc thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng. Có như vậy thì quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng luôn luôn tốt đẹp, thuận tiện cho các lần vay sau của khách hàng. Lời kết Trong nền kinh tế tự do hoá thương mại, sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào năng lực tài chính và khả năng kinh doanh của mình. Hơn nữa, ngành ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi nhưng mức độ rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay như thế nào lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và biện pháp khắc phục của mỗi ngân hàng. Một giải pháp hữu hiệu đặt ra trong trường hợp này là sử dụng bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên hiệu quả của đảm bảo lại phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay và cách thực hiện vận dụng các quy định đó vào thực tế như thế nào. Trên cơ sở nhận thức được các vấn đề trên và qua tìm hiểu thực tiễn về hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, em đã đi sâu nghiên cứu những quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay để tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động bảo đảm tiền vay của chi nhánh từ đó đề ra những giải pháp riêng cho chi nhánh trong hoạt động bảo đảm tiền vay. Đồng thời đưa ra kiến nghị đối với Nhà nước, các bộ ngành, Ngân hàng Nhà nước, NHNN & PTNT Việt Nam nhằm giúp hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung phát huy hiệu quả, bảo đảm an toàn và phát triển bền vững cho ngành ngân hàng. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt nhận thức và thời gian, chuyên đề này của em không tránh khỏi sự thiếu sót, hoàn chỉnh. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô hướng dẫn cùng toàn thể các cán bộ tín dụng trong chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ để nội dung nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo I. Các văn bản pháp luật 1. Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005. 2. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997. 3. Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997, và Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004. 4. Luật Đất đai năm 2003. 5. Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các Tổ chức tín dụng. 6. Nghị định số 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 178. 7. Thông tư số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. 8. Thông tư số 07/2003/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số quy định về bảo đảm tiền vay. 9. Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. 10. Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước về quy chế bảo lãnh ngân hàng. 11. Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về quy chế bảo lãnh ngân hàng (quy chế mới). 12. Nghị định số 165/1999/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. 13. Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm. 14. Thông tư số 06/2002/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 165 về giao dịch bảo đảm. 15. Quyết định số 300/QĐ-HĐQT-TD của Hội đồng quản trị NHNN & PTNT Việt Nam quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam. 16. Quyết định số 72/QĐ-HĐQT ngày 31/3/2002 của Chủ tịch HĐQT NHNN & PTNT Việt Nam ban hành quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp. 17. Quyết định số 100/QĐ-HĐQT-KHTH ngày 20/4/2005 của NHNN & PTNT Việt Nam về phân mức cho vay tối đa đối với một khách hàng. 18. Các văn bản pháp luật khác. II. Các sách, báo, tạp chí 1. “Quản trị ngân hàng thương mại”- NXB Thống kê 1999. 2. “Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ”- NXB Thống kê 2004. 3. “Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng"-TS. Lê Thị Thanh Thuỷ (Đại học quốc gia Hà Nội). 4. Lịch sử chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, xuất bản năm 2003. 5. Sổ tay tín dụng của NHNN & PTNT Việt Nam, xuất bản năm 2004. 6. Bài “quy trình của NHTM về an toàn cho vay” - Nguyễn Văn Lâm, tạp chí ngân hàng số 3/2005. 7. Bài “Bảo đảm tiền vay của Tổ chức tín dụng” – TS. Nguyễn Anh Sơn, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3/2002. 8. Bài “Cần sửa đổi những văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay cho phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2005” - Nguyễn Phương Linh, tạp chí ngân hàng số 3/2006. 9. Bài “Tín dụng có 4 nguyên tắc cơ bản hay chỉ có 3” – TS. Nguyễn Võ Ngạn, tạp chí ngân hàng số 18/2006. 10. Bài “Tìm hiểu quy định mới của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng" - Nguyễn Thành Nam, tạp chí ngân hàng số 17/2006. 11. Bài “Cần thống nhất cách định giá tài sản vay vốn ngân hàng" - Khắc Luyện, tạp chí ngân hàng số 22/2006. 12. Các trang web của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng. 13. Các tài liệu khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0232.doc
Tài liệu liên quan