Đề tài Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm - Cơ hội cho những nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bước vào nền kinh tế tri thức

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I. QUỸ ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 3 I- NỀN KINH TẾ TRI THỨC - SỰ PHÁT TRIỂN TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI VÀ YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3 1. Khái niệm nền kinh tế tri thức 3 2/ Nền kinh tế tri thức là sự phát triển tất yếu của thời đại , là yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. 5 II- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM 10 1/ Quỹ đầu tư - quỹ đầu tư mạo hiểm 10 2/ Lịch sử ra đời của quỹ đầu tư mạo hiểm 12 3/ Tổ chức, quy trình hình thành và quy trình đầu tư quỹ vốn mạo hiểm 14 3.1> Tổ chức của các công ty vốn mạo hiểm 14 3.2> Qui trình hình thành một quỹ vốn đầu tư mạo hiểm. 19 3.3> Qui trình đầu tư vốn mạo hiểm. 20 3.3.1 Giai đoạn hình thành 20 3.3.2 Giai đoạn gọi vốn 22 3.3.3 Giai đoạn đầu tư 22 3.3.4 Giai đoạn tăng cao giá trị. 22 3.3.5 Giai đoạn thoát tư. 23 III- TÍNH TẤT YẾU CỦA QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC 25 1. Vai trò của quỹ vốn mạo hiểm 25 2. Quỹ đầu tư mạo hiểm - Hành trang bước vào nền kinh tế tri thức. 26 2.1> Quỹ vốn đầu tư mạo hiểm --- nguồn vốn tối ưu đối với các doanh nghiệp khởi sự. 26 2.2> Quỹ đầu tư mạo hiểm --- nguồn lực thúc đẩy khoa học công nghệ tiên tiến phát triển. 31 3. Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 34 CHƯƠNG II 39 ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN 39 QUỸ DẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM 39 I - HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI 39 II- HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM TỪ 1991 CHO TỚI NAY. 44 1/ Quá trình hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam và những vấn đề còn tồn tại. 44 Bảng 1: Quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. 45 1.1/ Đặc điểm của quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam. 46 1.2/ Thực trạng hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam: 47 1.2.1. Danh mục đầu tư 47 1.2.2. Tham gia quản lý công ty thuộc danh mục 48 1.2.3. Chiến lược rút vốn 49 1.2.4. Nhận xét về chiến lược thu hồi vốn 49 1.2.5. Nhận xét chung về hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm 50 1.2.6. Mô hình quản lý 51 1.2.7. Hiệu quả tài chính 51 Gía trị tài sản đầu tư và mức giảm giá các quỹ (8-2000) 52 Nguồn: SG country fund , 2000 52 2/ Các nguyên nhân làm cho quỹ đầu tư mạo hiểm không phát huy được vai trò của nó ở Việt Nam trong giai đoạn qua. 53 III - MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG THU HÚT DÒNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TẠI VIỆT NAM 55 IV - ĐIỀU KIỆN, KHẢ NĂNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN CỦA QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TRONG TƯƠNG LAI 59 1/ Xu thế toàn cầu hoá kinh tế tri thức và cơ hội - thách thức mở ra đôí với Việt Nam. 59 2/ Doanh nghiệp Việt Nam trước thềm thế kỷ mới --- cơ hội và thách thức 64 3/ Tình hình thương mại hoá hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay 68 4/ Thị trường chứng khoán Việt Nam --- điều kiện hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm 74 5/ Sự cần thiết phải phát triển loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. 79 CHƯƠNG III 83 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TRONG TƯƠNG LAI 83 I- QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM - KHẢO CỨU KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á VÀ TRÊN THẾ GIỚI. 83 II- ĐỀ NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ HƯỚNG MỞ NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM PHÁT TRIỂN TẠI VIỆT NAM. 87 1/ Một số giải pháp nhằm phát triển những lĩnh vực có liên quan tới môi trường hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. 87 1.1/ Định hướng và các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. 87 1.2/ Con đường và các giài pháp tiến tới nền tri thức Việt Nam 91 1.3/ Phương hướng và giải pháp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ vào khoa học công nghệ mới. 93 1 4/ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy thương mại hoá hoạt động KH&CN ở Việt Nam hiện nay. 98 1 5/ Các giải pháp đối với Việt Nam để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 99 1.51. Cần phải xây dựng một môi trường đầu tư hấp đẫn hơn hiện nay. 99 1.5.2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư 100 1.5.3. Cần nghiên cứu để hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài 100 1.5.4. Tổ chức tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động FDI trên phạm vi cả nước. 101 2/ Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. 101 2.1/ Phương hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm 104 2.2/ Các giải pháp nhằm thức đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm 107 KẾT LUẬN 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO 110

doc116 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2190 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm - Cơ hội cho những nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bước vào nền kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UJI BANK đã đầu tư 54,7 triệu Yên (486000 USD) cho 14 công ty mới (chọn lựa từ 205 công ty yêu cầu cho vay). Ngân hàng còn tổ chức một ban điều hành với thành phần từ 20 tập đoàn để tư vấn cho những công ty mới này về các khía cạnh quản trị, marketing, tài chính và sản xuất. Có lẽ bước đột phá của hoạt động này là hồi tháng 6, Nasdaq Amex International và Sostbank Corp đưa ra tuyên bố về kế hoạch thiết lập vào cuối năm 2000 sở giao dịch chứng khoán Nasdaq Japan, một trung tâm trao đổi các loại công cụ tài chính trao tay được vi tính hoá (OTO), với mục đích giúp cho các công ty mới thành lập của Nhật Bản có thể rễ ràng hơn trong việc thu hút vốn (đặc biệt chú trọng đến những công ty hoạt động hướng vào việc phát triển các loại công nghệ mới). Sở giao dịch chứng khoán Tokyo từ trước đến nay vẫn chỉ là nơi có các công ty đủ tiêu chuẩn mới được niêm yêt giá cổ phiếu của mình, tuy nhiên người ta cũng đang dự định thành lập một thị trường riêng thuộc Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, dành cho các công ty mới thành lập có nhiều tiềm năng. Như vậy, các công ty mới thành lập sẽ có thể tiếp cận những nguồn vốn một cách tương đối thuận lợi hơn trong tương lai. Những công ty đầu tư tư nhân ở Đài Loan đặc biệt có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của những công ty mới thành lập của nước này. Một điểm đáng chú ý là những công ty đầu tư tư nhân này chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ ở Đài Loan. Hội đồng kế hoạch và phát triển kinh tế trực thuộc Chinh phủ cho biết nó đã đưa ra kế hoạch giúp cho công ty đầu tư tư nhân được huy động vốn từ công chúng trên thị trường Đài Bắc. Số lượng các công ty đầu tư ở Đài Loan được biết lớn hơn rất nhiều con số 120 công ty đã đăng ký với Chính phủ (các công ty đã đăng ký sẽ được ưu đãi về thuế cũng như một số ưu đãi khác). Không chỉ có các công ty của Đài Loan hoạt động trên thị trường đầy tiềm năng này. Đó là sự trở lại của Hambrecht & Quist của Mỹ vào những năm 1988 với hai quỹ đầu tư rủi ro là Hantech Venture Capital và Hanrong Venture Capital. Và chỉ trong năm ngoái, hãng này đã đầu tư khoảng 30 triệu USD vào 10 công ty, chủ yếu là sản xuất đĩa cứng đồ điện tử và điện tử viễn thông. Việc đòi hỏi các ngân hàng bổ xung vào danh mục đầu tư của mình một hình thức đầu tư mạo hiểm là điều tương đối khó khăn bởi trên thực tế ngân hàng đã phải đối mặt với không ít rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình (rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro lãi xuất, rủi ro hối đoái). Do vậy để tối ưu hoá nguồn vốn cho phát triển kinh tế mới, Chính phủ cần có sự hỗ trợ cho việc thành lập ra các tổ chức đầu tư mạo hiểm (về mặt thủ tục thành lập, điểu kiện mở rộng vốn). Một số quốc gia Châu Á đã nhận thức được tầm quan trọng về sự góp mặt của những quỹ đầu tư mạo hiểm, trong thị trường tài chính và bước đầu đã khích lệ sự đóng góp của các tổ chức này cho sự phát triển của khu vực kinh tế mới. Ở Việt Nam chúng ta hiện nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ đạo trên thị trường tài chính và do vậy, đã gánh chịu rất nhiều rủi ro trong khi một bộ phận không nhỏ vốn trong xã hội chẳng thể tiếp cận với những cơ hội kinh doanh đầy tiềm năng (tất yếu là rủi ro cũng cao). Nên chăng hình thức các tổ chức đầu tư mạo hiểm cần được quan tâm phát triển để thị trường tài chính Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng được yêu cầu về vốn cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn tới. Điều cần phải quan tâm ở đây là chúng ta phải xây dựng được một cơ chế kiểm soát và quản lý chặt chẽ làm giảm thiểu nguy cơ đổ vỡ dây truyền của các tổ chức nay. Đây chính là thực hiện trong chương trình cải cách cơ chế cũng như hoạt động của nền kinh tế (trong đó nổi bật là vấn đề cải tiến về thủ tục hành chính, việc cải tổ hệ thống ngân hàng, chương trình cổ phần hoá). II- ĐỀ NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ HƯỚNG MỞ NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM PHÁT TRIỂN TẠI VIỆT NAM. 1/ Một số giải pháp nhằm phát triển những lĩnh vực có liên quan tới môi trường hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. 1.1/ Định hướng và các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Định hướng xây dựng và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới là tiếp tục củng cố, ổn định, phát triển thị trường an toàn, vững chắc, từng bước mở rộng phạm vi thị trường, nâng cao năng lực và chất lượng, qui mô hoạt động của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán, khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nhỏ, đặc biệt chú trọng việc quản lý giám sát, kiểm tra hoạt động trên thị trường đảm bảo hoạt động của thị trường minh bạch, bình đẳng, an toàn và hiệu quả. Dựa trên đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại Hội Đảng IX thông qua, cũng là cơ hội cho thị trường chứng khoán phát triển đó là: " ... căn bản xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường; phát huy cao độ nội lực ; tranh thủ nguồn lực bên ngoài ... ; phát triển nhanh, bền vững thị trường vốn trung hạn và dài hạn . Tổ chức và vận hành an toàn , hiệu quả thị trường chứng khoán...". Trong gần hai năm hoạt động vừa qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã gặp một số hạn chế sau: Khối lượng hàng hoá niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán chưa nhiều, phạm vi hoạt động của thị trường còn hạn hẹp, mới chỉ có 17 loại cổ phiếu và 9 loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán, trong khi đó nhu cầu đầu tư cổ phiếu của công chúng lớn, tạo ra sự mất cân đối giữa cung và cầu. Mặc dù Ủy ban chứng khoán Nhà Nước cũng đã phối hợp với các bộ ngành liên quan và trực tiếp làm việc với một số doanh nghiệp để hướng dẫn tham gia niêm yết nhưng kết quả đến nay vẫn còn rất hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa muốn tham gia niêm yết vì thực tế họ chưa có nhu cầu về vốn (một số còn được ngân sách cấp hoặc được vay ưu đãi); tâm lý các doanh nghiệp còn ngại kiểm toán, công khai tài chính và công bố thông tin. Trái phiếu chính phủ tuy đã được đưa vào niêm yết nhưng số lượng giao dịch rất thấp, nguyên nhân chính là do lãi suất trái phiếu thấp hơn mặt bằng lãi suất hiện nay. Lãi suất hiện hành của ngân hàng là 7%/năm, có ngân hàng là 8%/năm trong khi đó lãi suất trái phiếu Chính Phủ chỉ có 6,5%/năm - 6,6%/năm nên không hấp dẫn người đầu tư. Trái phiếu Chính Phủ phát hành qua đấu thầu và bảo lãnh phát hành đều do các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm mua và nắm giữ. Các tổ chức này đang trong tình trạng thừa vốn nên họ nắm giữ Trái phiếu, không có nhu cầu bán lại và nếu có bán cũng phải sau một thời gian dài. Hệ thống giao dịch còn bán tự động, chưa đảm bảo việc giám sát tự động. Hệ thống giao dịch cần được đầu tư hoàn chỉnh, để đáp ứng với sự phát triển của thị trường và các yêu cầu về quản lý giám sát. Một số nhà đầu tư chưa hiểu biết nhiều về thị trường chứng khoán, chưa phân tích kỹ các yếu tố khi tham gia đầu tư nên có xu hướng tìm mua và găm giữ cổ phiếu. Điều này nhiều lúc tác động làm thị trường quá nóng. Hoạt động công bố thông tin và công tác giám sát thị trường tuy đã đạt được một số kết quả nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thị trường. Công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức cho công chúng có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo cho người đầu tư hiểu rõ nguyên tắc, cơ chế hoạt động của thị trường, hiểu được lợi ích cũng như rủi ro khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. Thời gian vừa qua, UBCKNN đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng phổ cập kiến thức cho công chúng, mở lớp học miễn phí nhưng việc này làm chưa được nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu của công chúng. Một số qui định trong Nghị định 48 còn chưa phù hợp và chuẩn xác. Chẳng hạn, Việc niêm yết và giao dịch trái phiếu chính phủ trên thị trường tập trung là không phù hợp. Các chứng khoán này thường được giao dịch trên thị trường giao dịch qua quầy (OTC) với sự tham gia của các trung gian tài chính đảm nhiệm vai trò nhà tạo thị trường. Thị trường trái phiếu Chính phủ gần như ở tình trạng đóng băng thời gian qua đã minh chứng cho sự không phù hợp này. Về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, nghị định 48 qui định, chỉ có công ty Chứng khoán có giấy phép hoạt động bảo lãnh mới được thực hiện nghiệp vụ này, đồng thời công ty chứng khoán không phải là người liên quan đến tổ chức phát hành. Qui định này hạn chế khả năng tham gia của các trung gian tài chính khác, đặc biệt là sự tham gia của các ngân hàng thương mại Nhà Nước và các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước, những trung gian tài chính lớn nhất, có tiềm năng trong việc thực hiện hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành như hiện nay. Từ định hướng của Đảng và Nhà Nước ta, từ những hạn chế của thị trường chứng khoán trong thời gian hoạt động vừa qua UBCKNN cần tập trung chỉ đạo và triển khai các công việc sau: Tăng nhanh khối lượng hàng hoá cho trung tâm giao dịch chứng khoán, việc này cần có các quyết dịnh của Chính Phủ và sự phối hợp tích cực giữa các bộ, nghành liên quan ,các địa phương và doanh nghiệp. Nếu khối lượng hàng hoá trên trung tâm giao dịch chứng khoán nhiều thì mới có nhiều sự lựa chọn của các nhà đầu tư, hấp dẫn nhà đầu tư hơn. Có tăng thêm lượng hàng hoá thì mới làm dịu bớt sự mất cân bằng giữa cung và cầu dẫn tới làm cho thị trường ổn định hơn. Mặt khác, tăng lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán là cho thị trường sôi động hơn, hoạt động có hiệu quả hơn. Và cuối cùng muốn trở thành một thị trường chứng khoán hoàn chỉnh, mang cấp độ quốc tế thì không thể chỉ dừng lại ở 17 loại cổ phiếu được niêm yêt mà phải tăng số cổ phiếu niêm yết lên nhiều lần so với hiện nay. Nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; tiếp tục mở các địa điểm giao dịch của công ty chứng khoán nhằm mở rộng phạm vi phục vụ các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Các công ty môi giới chứng khoán là cầu nối giữa nhà đầu tư với thị trường chứng khoán. Các công ty này vừa có vai trò môi giới vừa có vai trò tư vấn cho các nhà đầu tư vì vậy trình độ chuyên môn của các nhà môi giới chứng khoán phải cao thì mới có khả năng dẫn dắt nhà đầu tư kiếm được lợi nhuận đồng thời cũng không gây xáo trộn hoạt động của thị trường chứng khoán. Nếu các nhà tư vấn trình độ chuyên nghiệp kém sẽ làm cho các nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường chứng khoán do đó sẽ chuyển sang đầu tư vào môi trường khác an toàn hơn. Điều đó là một thiệt hại lớn cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Hơn nữa các nhà môi giới tư vấn chứng khoán là nhân tố không thể thiếu được trong hoạt động của thị trường chứng khoán, Vậy chúng ta tự hỏi rằng nếu: hoạt động của thị trường chứng khoán dựa trên những nhà tư vấn có trình độ chuyên môn hạn hẹp, năng lưc hạn chế thì liệu thị trường đó có tồn tại và phát triển được hay không. Câu trả lời chắc chắn là không. Xây dựng hệ thống giao dịch mới, hiện đại, đáp ứng được nhu cầu giao dịch, phù hợp với tốc độ phát triển của thị trường. Đưa trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động, tạo một trung tâm chứng khoán đồng bộ, thống nhất trong cả nước . Phải có thêm một trung tâm giao dịch chứng khoán ở Hà Nội là điều chắc chắn phải làm mà trung tâm đi vào hoạt động sớm ngày nào thì có lợi ngày đó. Trên cở thực tiễn của thị trường thường xuyên rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui cho hoạt động của thị trường chứng khoán, vừa tạo cho các đối tượng tham gia thị trường 1 hành lang pháp lý phù hợp để hoạt động hiệu quả,vừa nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của cơ quan quản lý thị trường . Thường xuyên thực hiện công tác giám sát, kiểm tra hoạt động thị trường theo pháp luật, bảo đảm hoạt động trên thị trường công bằng, lành mạnh và minh bạch. Từng bước nâng cao năng lực, việc tự chịu trách nhiệm trong điều hành, tổ chức giao dịch chứng khoán của trung tâm giao dịch chứng khoán; phối hợp chặt chẽ trong chỉ đạo; phản hồi thông tin thị trường giữa UBCKNN với trung tâm giao dịch chứng khoán. 1.2/ Con đường và các giài pháp tiến tới nền tri thức Việt Nam Việt Nam là một nước đang phát triển, một nước nghèo nền kinh tế còn lạc hậu, công nghiệp mới bước đầu phát triển, dấn số nông thôn chiếm 76,5% (1-4-1999). Theo thống kê của ngân hàng Thế giới, GDP đầu người của Việt Nam là 330 USD xếp thứ 140, HDI xếp thứ 110 trên 172 nước trên thế giới. Với thực trạng của nền kinh tế như trên, nên con đường đi đến nền kinh tế tri thức của Việt Nam không thề thực hiện phát triền tuần tự như các nước công nghiệp phát triển. Việt Nam phải nắm bắt những thuận lợi, đó là những tiến bộ khoa học công nghệ, tổ chức, quản lý, sản xuất kinh doanh của các nước phát triển trong bối cảnh thế giới đang tiến tới toàn cầu hoá, từ đó Việt Nam chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp đồng thời vừa phát triển sang nền kinh tế tri thức. Để tiến tới nền kinh tế tri thức, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau: Phải cải cách toàn diện nền giáo dục đào tạo, hay nói cách khác là phải làm một cuộc cách mạng trong lĩnh vực giáo dục đào tạo để đào tạo, nguồn nhân lực và nhân tài đáp ứng yêu cầu của sự phát triển Rèn luyện cho thế hệ trẻ về ý chí, lòng quyết tâm, phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu phục vụ cho sự nghiệp phát triển khoa học và phát triển nền kinh tế của đất nước. Nâng cao trình độ hiểu biết cho thế hệ trẻ về văn hoá đân tộc, tính nhân văn, biết phân tích, đánh giá đúng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, nền kinh tế Viết Nam từng thời kỳ, không tự ti, không tự cao, nhưng cần phải tự hào với truyền thống dân tộc; cần phải thấy rõ với sự nỗ lực của mình, Việt Nam có thể vươn lên ngang tầm với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, tạo điều kiện cho tất cả mọi người, có thể phát huy đầy đủ khả năng, trình độ, trí tuệ, bản lĩnh, tính sáng tạo phục vụ cho công cuộc phát triển của đất nước. Xây dựng một chiến lược đúng dắn về cơ cấu kinh tế phù hợp với từng thời kỳ phát triển. Chọn và phát triển các nghành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở thế mạnh của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới. Tăng ngân sách đầu tư cho nghành giáo dục đào tạo, cho khoa học công nghệ. Trên cơ sở đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Chính phủ cần có chính sách tối ưu cho việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế. Mở rồng hợp tác quốc tế và khoa học, công nghệ tạo điều kiện tăng cường cơ sở vầt chất kỹ thuật cho các cơ quan nghiên cứu khoa học, cho sự hòa nhập và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học, từ đó giúp cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn, sản xuất kinh doanh hoà nhập đựơc với tổ chức quản lý, kỹ thuật, công nghệ của các nước phát triển; công nghiệp hoá, hiện đại hoá kết hợp với phát triển nông thôn và tiến tới nền kinh tế tri thức. 1.3/ Phương hướng và giải pháp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ vào khoa học công nghệ mới. Để khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư cho phát triển KH_CN, Nhà Nước cần một số biện pháp tích cực như : Có cơ chế chính sách khuyến khích, thậm chí buộc các ngành địa phương, các doanh nghiệp công nghiệp đầu tư cho Khoa học công nghệ. Thực hiện rộng rãi chế độ khấu hao nhanh đối với trang thiết bị công nghệ then chốt với tỉ lệ là 13-15%/năm và để lại toàn bộ khoản khấu hao này cho doanh nghiệp tái đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Cần ưu đãi về thuế, tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp nhập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, đầu tư trang thiết bị hiện đại phát triển sản xuất Như vậy, việc huy động vốn từ các doanh nghiệp cho hoạt động KH_CN được tiến hành thông qua chính sách thuế, lợi nhuận, khấu hao, ... đối với các doanh nghiệp trên cơ sở đối chiếu với luật thuế hiện hành. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền như Bộ khoa học công nghệ và môi trường, Bộ tài chính cần phối hợp để nghiên cứu và ban hành những hướng dẫn cụ thể về luật thuế áp dụng trong lĩnh vực KH_CN. Muốn các doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ thông tin thì trước tiên cần phải tăng cường vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Hiện nay tại Việt Nam, nguồn vốn cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam còn khá hạn hẹp và phương thức cho vay vốn với tỉ lệ lãi suất tương đối là khó khăn cho doanh nghiệp, thủ tục thì rườm rà, phức tạp. Trong vấn đề này thì vai trò của Nhà nước và các tổ chức ngân hàng là rất quan trọng. Để tạo điều liện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển cần tạo ra hành lang pháp lý ổn định, một sự cạnh tranh lành mạnh để họ yân tâm mở rộng sản xuất. Phá bỏ rào chắn, ách tắc hiện có về mặt pháp lý, có những biện pháp hỗ trợ hữu hiệu về thị trường, đào tạo và môi trường thông tin là một việc làm cần thiết và cấp bách đối với Nhà Nước ta trong quá trình nâng cao chất lượng của doanh nghiệp. Trước tiên là việc thành lập các tổ chức hỗ trợ thị trường. Các tổ chức này giúp các thành viên tham gia thị trường, nắm bắt thông tin, thúc đẩy các giao dịch và thi hành luật lệ. Có các mô hình tổ chức đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của hệ thống các doanh nghiệp. Đầu tiên là các tổ chức tài chính. Nếu các ngân hàng không được cơ cấu lại một cách triệt để thì khó có thể cấp vốn cho vay cho các doanh nghiệp. Cơ chế vay theo kiểu nền kinh tế tập trung bao cấp đã khiến cho hệ thống ngân hàng thiếu kỹ năng để phân biệt dự án khả thi và không khả thi. Hơn nữa cơ cấu tổ chức nội bộ và các qui trình của ngân hàng cũng hướng vào chức năng kế toán hơn là vào chức năng trung gian tài chính thực thụ. Do đó, nhiệm vụ chuyển đổi các ngân hàng trong hẹ thống ngân hàng Việt Nam thành các ngân hàng hiện đại là một công việc hết sức khó khăn và lâu dài. Mặt khác ngân hàng còn rất hạn chế trong việc cho vay vốn vào các dự án khả thi, có triển vọng cao nhưng độ rủi ro lớn, vì thế vay vốn ngân hàng là một giải pháp khó thực hiện đối với các doanh nghiệp mới và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Cần phải có thêm nhiều loại hình các tổ chức tài chính để phục vụ hỗ trợ cho mọi doanh nghiệp ví dụ như: quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hỗ trợ tín dụng, quỹ đầu tư chứng khoán ...Các ngân hàng cũng phải nới lỏng khung lãi suất cho vay và hạn chế tối thiểu sự phức tạp trong quá trình vay vốn tránh làm lỡ mất cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp đẫn đến sử dụng vốn vay không hiệu quả Các hiệp hội kinh doanh. Vai trò của các hiệp hội kinh doanh ở các quốc gia trên thế giới là nguồn trợ giúp quan trọng cho các công ty tư nhân. Đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ bé như ở việt Nam hiện nay thì vai trò của các tổ chức này càng thể rõ nét hơn. Hầu hết các hiệp hội kinh doanh đều cung cấp 3 loại dịch vụ cơ bản cho thành viên của mình, đó là: Các thông tin đã được xử lý về tất cả mọi lĩnh vực trên thị trường trong nước và quốc tế. Một diễn đàn nơi các doanh nghiệp thành viên có thê học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Một diễn đàn nơi các thành viên có thể phản ánh lợi ích của họ đến chính phủ. Ngoài ra, ở các nước đang phát triển, các hiệp hội kinh doanh còn là các kênh để các nhà tài trợ và các đối tượng khác có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty nhỏ hơn. Đối với Việt Nam, các doanh nghiệp rất cần tất cả các dịch vụ này và họ có thể tiếp cận các loại dịch vụ hiệu quả hơn nếu họ được tự do thành lập các hiệp hội kinh doanh của riêng mình. Một nhân tố hết sức quan trọng trong thời gian tới là hiệp hội của các ngành, các phòng thương mại, học viện, các cơ quan và công đoàn lao động phải xác định lại vai trò của các tổ chức này như những người dẫn đầu của giới lãnh đạo kinh doanh. Việc xây dựng các chương trình và thủ tục để đào tạo, huấn luyện và động viên các nhà quản lý của khu vực tư nhân nhằm phát triển các chiến lược mang tính cạnh tranh cao hơn cần phải được ưu tiên. Những tổ chức này có vị trí đặc biệt trong việc khuyến khích đối thoại giữa Chính phủ với các tổ chức kinh doanh, và họ phải chủ động đưa ra sáng kiến mà không đợi Chính Phủ đưa ra yêu cầu. Đặc biệt, các hiệp hội của ngành và các phòng thương mại cần mở thêm nhiều chương trình đào tạo với nội dung không chỉ tập trung vào nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn phải hướng dẫn cho các chủ doanh nghiệp và các cán bộ của chính phủ nhận ra mọi khả năng của mình. Các tổ chức giáo dục. Để cạnh tranh được trên thị trường thế giới, Việt Nam cần hiện đại hoá các tổ chức giáo dục từ trên xuống. Trong giai đoạn ngắn hạn, công việc cần làm là tập trung và nâng cao chất lượng và tính phổ cập của nhiều khoá đào tạo kinh doanh ngắn hạn đã được thực hiện ở các thành phố chính. Muốn vậy, chúng ta cần phải có các biện pháp: Thứ nhất, cần chọn lựa và điều chỉnh tài liệu học cho phù hợp với điều kiện Việt Nam chứ không nên chỉ đơn thuần sử dụng tài liệu của nước ngoài. Thực tế, các nguyên tắc và kỹ năng kinh doanh hầu như giống nhau ở mọi nơi điều khác nhau chính là việc áp dụng ra sao. Thứ hai, tăng số giảng viên người Việt Nam có trình độ cao trong việc giảng dạy các khoá học kinh doanh và giảm số giáo viên người nước ngoài với mức tiền thuê đắt đỏ để bảo đảm tính bền vững về mặt tài chính của các khóa học. Thứ ba, là áp dụng rộng rãi các phương pháp đào tạo cán bộ theo cách tổ chức các khoá ngán hạn tập trung và nâng cao kỹ năng thực hành. Thứ tư, tiến hành đào tạo lại vì đào tạo lại giữ một vai trò rất quan trọng đối với nhiều người từ khu vực Nhà Nước sang khu vực tư nhân. Các tổ chức khác. Bên cạnh ba loại hình tổ chức trên còn cần đến nhiều loại tổ chức khác để hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Ví dụ, đối với các nhà xuất khẩu Châu Á, thay đổi chính sách, chiến lược, qui chế luật pháp là chìa khoá để tạo ra khuôn khổ cho hoạt động của họ nhưng nhân tố củng cố sự thành công cho họ lại chính là khả năng hoạt động có hiệu quả của các tổ chức hỗ trợ. Những tổ chức đó bao gồm các cơ quan quản lý chất lượng, các cơ quan Markrting, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống phân phối, các tổ chức đào tạo, các cơ quan hỗ trợ cho các mối quan hệ quốc tế và những tổ chức về thông tin. Tất cả những tổ chức ấy đều rất cần thiết đối với Việt Nam. Việc định hướng lại đối với các hoạt động của các tổ chức hỗ trợ để giúp chúng phục vụ được cả các doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi phải cắt giảm trợ cấp trên diện rộng và buộc các tổ chức này phải tăng hiệu qủa hoạt động, phải thực hiện nhiều biện pháp nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhiều tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp cũng cần được hợp lý hoá để chuyển đổi cơ cấu tổ chức theo hướng phù hợp với yêu cầu của thị trường. Bên cạnh đó cũng cần giới thiệu các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mơi. Cũng như củng cố kỹ năng của các nhân viên. Mở cửa các kênh thông tin. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ không bao giờ đạt được trình độ sản xuất hàng xuất khẩu, chiếm thị phần rộng rãi trên thế giới nếu họ không được tiếp cận rộng rãi với thông tin thương mại. Cho tới nay, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin ở mọi lĩnh vực. Họ phải dựa vào các trung gian thương mại để có được các thông tin về thị trường và phải trả phí dịch vụ thông tin rất cao. Để cải thiện tình hình này và để đấp ứng với yêu cầu của thời đại thông tin toàn cầu, cần mở rộng các kênh thông tin để doanh nghiệp có thể lấy được những thông tin cần thiết. Điều này cũng có nghĩa là mở của các kênh thông tin cho tất cả mọi đối tượng như nhau chứ không chỉ dành riêng cho một đối tượng nào hết Những biện pháp cụ thể nhằm cải thiện tình trạng cung cấp thông tin hiện hành gồm: Giảm đáng kể chi phí viễn thông nói chung và chi phí tiếp cận Internet nói riêng Thu nhập xử lý và truyền bá rộng rãi các thông tin kinh tế có chất lượng cáo, kịp thời về kinh tế và các xu hướng kinh doanh Tạo điều kiện cho việc tiếp cận và xuát bản các thông tin thương mại chất lượng cao thông qua tát cả các kênh thông tin đại chúng bao gồm báo chí, truyền hình và nhà xuất bản, trong đó có việc xuất bản và công bố những số liệu kinh tế do các cơ quan của chính phủ thu thập được. Tạo điều kiện cho tất cả các tổ chức giáo dục chủ chốt cung cấp các khoá đào tạo rộng rãi về sử dụng Internet Cho phép và khuyến khích các cơ chế khác nhau để qua đó giúp các doanh nghiệp có thể học hỏi, trao đổi, chia sẻ thông tin lẫn nhau. 1..4/ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy thương mại hoá hoạt động KH&CN ở Việt Nam hiện nay. Thương mại hoá hoạt động KH&CN là một cơ sở để thúc đẩy các doanh nghiệp mạnh dạn trong vấn đề đàu tư vào lĩnh vực KH&CN. Sau 20 năm tiến hành thương mại hoá hoạt động KH&CN chúng ta vẫn chưa đạt được thành công như mong đợi và bây giờ trong thời điểm hiện nay, vấn đề này không thể tiến hành một cách chậm trễ và không hiệu quả như trước đây. Với xu hướng tòan cầu hoá doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước thời cơ và thách thức to lớn. Để doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội và vượt lên những khó khăn do thị trường đem lại thì việc trước mắt là cần phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được các thành tựu khoa học công nghệ tiến tiến trên thế giới và tăng cường phát huy năng lực sáng tạo để có thể tự đứng vững trên đôi chân của chính mình, tự tạo cho mình một nền móng KH&CN vững chắc. Để thực hiện điều này chúng ta cần phải: Nỗ lực thúc đẩy thương mại hoá phải hướng vào những vấn đề thực tiễn đòi hỏi thay vì cho các khẩu hiệu mang tính chính trị hoặc những thảo luận mang tính nguyên tắc chung Đôỉ mới các chính sách về chủ thể của thị trường hoạt động KH&CN, hệ thống thông tin về thương mại KH&CN, tài chính cho KH&CN sở hữu công nghiệp buộc các cơ quan quản lý Nhà Nước phải năng động, bám sát thực tiễn và khắc phục sự trì trệ, thái độ chần chừ... Cần tích cực nhưng cũng không thể quá nóng vội trong việc giải quyết các vấn đề về trình độ KH&CN, trình độ kinh tế và yếu tố văn hoá; bởi nâng cao trình độ KH&CN, trình độ kinh tế và thay đổi văn hoá đòi hỏi có thời gian. Phân biệt rõ mạnh, yếu và hay, dở trong thương mại hóa (vốn rất phức tạp) sẽ cho phép khắc phục phần nào sự mò mẫm và tránh những thử nghiệm không cần thiết trong thời gian tới. Đây là điều có ý nghĩa như là rút bài học có kinh nghiệm đã qua để giúp cho việc tiến hành thương mại hoá hoạt động KH&CN có hiệu quả hơn. 1..5/ Các giải pháp đối với Việt Nam để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 1.51. Cần phải xây dựng một môi trường đầu tư hấp đẫn hơn hiện nay. Trên cơ sở luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 9-6-2000. Nghị định 24/2000/NĐ-CP, cần chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ban hành các qui định về quản lý Nhà Nước trên địa bàn đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài ở điạ phương các bộ, ngành ban hành qui định hướng dẫn về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý của mình, cần đề phòng các bộ, các UBND tỉnh trong khi ban hành thông tư hướng dẫn đưa những nội dung mà họ không nhất trí với luật sửa đổi các văn bản đó. Những trở ngại về thủ tục hành chính đang là một nhân tố cản trở quả trình thu hút FDI. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước chính là có cải cách được bộ máy Nhà Nước, giảm thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư... Do vậy chính Phủ cần dành nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công việc cải cách hành chính, cần có các hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với các cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại này. Những trở ngại về cơ sở hạ tầng yếu kém, những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm được khắc phục. Cơ sở hạ tầng "cứng" của Việt Nam như đường xá, cầu, bến cảng, sân bay, điện nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên đầu tư và có nhiều thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của Việt nam trong những năm qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn rất lạc hậu. Trong những năm tới cũng như lâu dài, đầu tư vào cơ sở hạ tầng vẫn phải được Nhà nước khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn như nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn ODA, nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp và cần phải thu hút nguồn vốn tư nhân trong nước góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện, hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.5.2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư Đối với thị trường đầu tư, cần có sự nghiên cứu phân tích một cách nghiêm túc các đối tác đầu tư lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU. Tại sao, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất Asean nhưng chỉ đầu tư vào Việt Nam hết sức khiêm tốn (đứng ở vị trí thứ tư trong các nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam)? Mỹ là nhà đầu tư lớn nhất thế giới nhưng đầu tư trực tiếp vào Asean chỉ chiếm có 5% trong tổng FDI giai đoạn: 1990- 1998; trong số đó tỉ lệ vào Việt Nam là hết sức nhỏ bé. Trong thời gian gần đây quan hệ giữa Việt nam - Mỹ đã có những diễn biến tích cực. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào tháng 7 /1995 và ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ vào tháng 7/2000. Hiện nay, Mỹ là một trong 10 nước bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và là nước đứng thứ 9 trong trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, nếu công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh ở Mỹ, ở Nhật và Châu Âu, Việt Nam sẽ thu hút sức mạnh của công ty xuyên quốc gia của các trung tâm kinh tế lớn này. Theo UNCTAD, nguồn vốn FDI trên thế giới hiện nay do hơn 100 công ty xuyên quốc gia chi phối. Các công ty này cũng chiếm hơn 25% tổng sản lượng thế giới. Hầu hết các tập đoàn lớn của Nhật như Mitsui, Mitsubishi, Sumitmoto, Nisho Iwai... đã mở văn phòng đại diện tại Việt Nam. Một số công ty Mỹ cũng đã đầu tư tại thị trường Việt Nam. 1.5.3. Cần nghiên cứu để hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng FDI cần tránh tình trạng sát nhập, tổ chức mới, giải thể khá tuỳ tiện, mà không tính đến hiệu quả của sự thay đổi với tâm lý của nhà đầu tư cũng như khả năng của việc quản lý Nhà nước đối với FDI. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy để tíên hành hoạt động kinh tế ra bên ngoài có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức: Bộ ngoại giao, Bộ công thương, Bộ tài chính. Bộ ngoại giao đóng vai trò như là người mở đường thiết lập các mối quan hệ với nước ngoài, đặt cơ sở nền tảng cho quan hệ kinh tế. Bộ công thương (bao gồm công nghiệp và thương mại) nghiên cứu chiến lược sau đó triển khai và thực hiện. Bộ tài chính có chức năng thẩm định và chuyển tiền. Tuy về hoạt động FDI ra bên ngoài là công việc của các công ty tư nhân nhưng vai trò của 3 bộ nghành là rất lớn, đóng vai trò như người chỉ đạo, hỗ trợ và tổ chức kiếm soát. Ở Việt Nam để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động FDI cần có phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các bộ nghành: Bộ ngoại giao, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ thượng mại, Bộ công nghiệp, các bộ ngành kinh tế và các bộ khác. 1.5.4. Tổ chức tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động FDI trên phạm vi cả nước. Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (tháng 12/1987) cho đến nay, hoạt động FDI đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, song bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ những vấn đề cần nghiên cứu. Các bộ các ngành cần tìm ra những mô hình tiêu biểu và bước đi thích hợp trong việc thu hút và sử dụng FDI. 2/ Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Việt Nam đang tăng tốc bước vào nền kinh tế toàn cầu, hội nhập thương mại quốc tế nhằm nâng cao vị trí Việt Nam trên vũ đài thế giới. Với tất cả những thời cơ và thách thức đối với giới doanh nghiệp Việt nam nói riêng và với nền kinh tế Việt nam nói chung, tôi thấy việc mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động cũng như hoàn thiện loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm là một việc làm rất cần thiết và quan trọng của các nhà hoạch định chiến lược trong lĩnh vực tài chính. Quỹ đầu tư mạo hiểm thật sự là một mô hình tài trợ vốn tối ưu không chỉ cho các doanh nghiệp trẻ mới khởi sự mà còn là nguồn lực phát triển đối với mọi doanh nghiệp có triển vọng nhưng thiếu vốn đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Quỹ đầu tư mạo hiểm còn là động cơ thúc đẩy khoa học công nghệ cao phát triển, mà nâng cao chất lượng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doang nhằm tạo ra các sản phẩm chứa đựng giá trị tri thức cao là mục tiêu mà Đảng và Nhà Nước ta đang hướng tới. Mặc dù Quỹ dầu tư mạo hiểm đã xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1991 nhưng trên thực tế, hoạt động của các quỹ này đã không hiệu quả, nguyên nhân làm cho các quỹ này hoạt động không có hiệu quả thì rất nhiều và như ở phần trên tôi đã nêu nhưng tựu chung lại có 3 vấn đề ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp tới hoạt động của loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm đó là: Các chính sách của Nhà nước chưa thông thoáng, chưa thu hút được vốn đầu tư nước ngòai. Các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy khó khăn trong môi trường đầu tư ở Việt nam vì tỉ lệ số cổ phần được nắm giữ đối với các nhà đầu tư nước ngoài chỉ tối đa là 30 %, con số này quá nhỏ để nhà đầu tư có thể nắm giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp. Hơn nữa nhà nước ta chưa có các chính sách về ưu đãi thuế đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp trong nước thì Nhà nước ta cũng chưa xây dựng những khung chính sách, pháp lý hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp. Sự liên kết giữa các bộ, các ngành không chặt chẽ, không có mối liên hệ bổ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện cac chính sách đường lối. Trong nội bộ các ngành còn tồn tại hiện tượng tắc trách. Các cơ quan có thẩm quyền chưa phối hợp nhịp nhàng vơí nhau như Bộ ngoại giao, bộ thương mại, bộ khoa học công nghệ và môi trường, bộ giáo dục và đào tạo... Hệ thống pháp luật Nước ta chưa đồng bộ, có hiện tượng chồng chéo về luật hơn nữa khá phức tạp, dài dòng. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, liên quan đến quyền lợi của nhà đầu tư, của bản thân doanh nghiệp thì nước ta chưa ban hành những bộ luật bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp như luật cạnh tranh; luật chống độc quyền; luật sở hữu trí tuệ ... Luật pháp nước ta còn có nhiều bất cập trong việc hướng dẫn, qui định và cho tồn tại các tổ chức trung gian tài chính, làm cho lượng các trung gian tài chính ở nước ta đã hoạt động với số lượng ít lại không đúng tiềm năng, dẫn tới giảm tính sôi động và hiệu quả của thị trường. Cụ thể là: Về công tác xây dựng luật, các qui định trong luạt mới chỉ là những định hướng, nguyên tắc. Để các văn bản pháp luật có hiệu lực cần có các văn bản hướng dẫn một cách cụ thể, thông qua các nghị định, quyết định, thông tư hướng dẫn của các cơ quan quản lý Nhà nước. Hoạt động của các trung gian tài chính là rất đa dạng và để soạn thảo các văn bản phát luật điều tiết các hoạt động này cần có sự kết hợp của nhiều ngành khác nhau, song hiện nay sự phối hợp này còn thiếu tính chặt chẽ và hiệu quả . Hơn nữa tiến độ xây dựng và ban hành các văn bản này còn chậm, không kịp thời và điều này đã gây khó khăn, lúng túng trong quá trình tổ chức thực hiện. Nhiều văn bản dưới luật bổ sung cho luật, hoặc phủ nhận luật và có quá nhiều văn bản dưới luật. Điều này sẽ gây tranh cãi trong quá trình thực hiện. Hầu hết các qui định liên quan tới hoạt động của các tổ chức tài chính đều được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm của các thị trường tài chính nước ngoài. Các qui định này có sự tách biệt giữa các nghành kinh doanh chứng khoán nghành ngân hàng, nghành bảo hiểm... Do đó Việt Nam cũng có các luật chuyên ngành như nghị định 48 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, luật các tổ chức tín dụng, luật kinh doanh bảo hiểm. Song các văn bản luật này thiếu hệ thống, trùng chéo, nhiều khi mâu thuẫn nhau. Do tính thiếu hệ thống trong các văn bản pháp luật đã cản trở không nhỏ sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian đặc biệt là của các quỹ đâù tư. Mặt khác, nhiều quan hệ về chứng khoán và giao dịch chứng khoán chưa có văn bản pháp luật nào điều tiết, chẳng hạn hoạt động đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài, hoạt động phân phối thứ cấp trái phiếu chính phủ của các tổ chức trúng thầu và bảo lãnh phát hành... Một số qui định về sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian nước ngoài cũng chưa phù hợp và có nhiều bất cập cần tháo gỡ. Quyền tham gia thị trường chứng khoán của các tổ chức nước ngoài và cá nhân nước ngoài được qui định trong nghị định 48/1998/NĐ-CP, quyết định số 288/QĐ- NHNN ngày 2/2/1993 của thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam... Tuy nhiên các văn bản này chưa có sự nhất quán về tỉ lệ được phép nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo điều 5 qui chế phát hành TPCP, ban hành kèm nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/1/2000 về việc nhà đầu tư nước ngoài sở hữu TPCP và tỉ lệ sở hữu, các tổ chức trung gian tài chính nước ngoài được mua TPCP trên thị trường sơ cấp với tỉ lệ không hạn chế. Tuy nhiên, trên thị trường tập trung, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được nắm giữ 40% trái phiếu đang lưu hành của một đợt phát hành, trong đó tổ chức nắm tối đa là 10%, cá nhân nắm tối đa là 5%. Các doanh nghiệp vẫn chưa tự khẳng định mình trong nền kinh tế hiện nay. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được lòng tin đối với các Nhà đầu tư nước ngoài. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới còn rất hạn chế do thiếu vốn, trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, các sản phẩm không mang tính cạnh tranh cao, chưa có sức thuyết phục trên thị trường thế giới. Sức bật của các doanh nghiệp Việt Nam không mạnh, các doanh nghiệp Việt Nam thực sự chưa tham gia vào cuộc chơi. Các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư tích cực trong việc nâng cao chất lượng lao động, cũng như đầu tư vào phát triẻn khoa học công nghệ. 2.1/ Phương hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm Từ những hạn chế trên chúng ta cần phải đưa ra một số phương hướng, chiến lược phát triển trong tương lai đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm. Định hướng của đất nước ta là hội nhập vào nền kinh tế thế giới, bắt kịp tốc độ phát triển khoa học công nghệ toàn cầu, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Trong năm năm tới cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, chúng ta cũng phải phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm. Tăng số lượng quỹ đồng thời với việc tăng danh mục đầu tư của từng quỹ cũng như tăng tỉ lệ vốn tài trợ cho mỗi doanh nghiệp. Cần khuyến khích các quỹ đầu tư nước ngoài gia nhập vào thị trường vốn của Việt Nam nhằm tận dụng được kinh nghiệm cũng như trình độ quản lý của các công ty quản lý quỹ. Bên cạnh khuyến khích các quỹ nước ngoài tham gia vào thị trường Vốn Việt Nam thì cũng phải tạo điều kiện, khuyến khích sự ra đời của quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam, do Việt Nam quản lý và chịu trách nhiệm điều hành. Bởi vì, các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam toàn là các quỹ của nước ngoài. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển khoa học công nghệ, trong thời đại ngày nay chỉ có khoa học công nghệ là nhân tố chủ lực trong sản xuất kinh doanh. Mục đích hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm là nhằm tài trợ cho các hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ nên quỹ đầu tư mạo hiểm cũng có thể coi là một nguồn lực trong việc phát triển tài năng trẻ. Các quỹ đàu tư không nên chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp mà cũng nên đầu tư vào các trường học, các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu nhằm tìm ra các phát minh có giá trị khả thi cao. Nên thành lập những phòng, ban có nhiệm vụ tương tự như quỹ đầu tư mạo hiểm ở trong các ngân hàng thương mại. Nên chuyển mô hình hoạt động quỹ hỗ trợ phát triển sang hoạt động theo mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà nước. Đây là một trong nhưng định hướng căn bản của Nhà Nước ta cần sớm được thực hiện góp phần hoàn thiện hệ thống các tổ chức tài chính và phát huy được triệt để các ưu điểm cua loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm. Có một số lý do sau mà cần phải cho ra đời loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà Nước: Thứ nhất, với tính chất của quỹ đầu tư hỗ trợ phát triển cũng gần giống với tính chất của quỹ đầu tư mạo hiểm, đều nhằm phát triển các lĩnh vựch kinh tế có triển vọng tăng trưởng cao. Song quỹ đầu tư mạo hiểm có phương thức đầu tư rộng hơn, bao gồm cả cho vay, đầu tư góp vốn cổ phần, mua trái phiếu. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể huy động vốn từ phía các nhà đầu tư có tổ chức và phát hành trái phiếu để huy động vốn nên có khả năng huy động vốn cao hơn . Quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nên không thể có hiện tượng bao cấp về vốn, dẫn tới hiệu quả hoạt động cao hơn. Việt Nam đang thực hiện hội nhập kinh tế, để thực hiện các cam kết quốc tế và tăng hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam, cần kiên quyết xoá bỏ các ưu đãi về tài chính, đặc biệt là hiện tượng bao cấp về vốn. Thứ hai, Quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các doanh nghiệp mới nên thuận lợi hơn các quỹ đầu tư chứng khoán, do thị trường chứng khoán Việt nam còn chưa phát triển, lượng hàng hoá còn chưa nhiều. Trên cơ sở đầu tư vào các doanh nghiệp mới và thu hồi vốn khi các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường tập trung sẽ góp phần làm tăng lượng hàng hoá cho thị trường. Thứ ba, Quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà Nước là một tổ chức tài chính do Chính Phủ thành lập, nguồn vốn từ ngân sách Nhà Nước và huy động vốn từ các trung gian tài chính thông qua phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu ra công chúng. Quỹ có mục đích đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển, quỹ có thể tham gia quản lý các doanh nghiệp tham gia góp vốn, qua đó có thể làm tăng cường sự giám sát và tăng hiệu quả của các doanh nghiệp này. Hơn nữa việc chuyển quỹ đầu tư phát triển thành quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà nước có huy động sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động của quỹ. Toàn bộ lợi nhuận từ nguồn vốn Ngân sách sẽ được giữ lại để tái đầu tư, tăng vốn điều lệ của quỹ. Thứ tư, Nếu chúng ta không phát triển mô hình đầu tư này thì sẽ có một điều tất yếu xảy ra trong tương lai không xa là tất cả các phát minh có giá trị, các ngành công nghệ cao, các khu vực tăng trưởng cao sẽ nằm trong tay các cá nhân và các tổ chưc nước ngoài, bởi vì hiện nay ở Việt Nam loại hình đầu tư mạo hiểm đều là của nước ngoài. Thêm nữa, Quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà Nước sẽ đặt mục tiêu phát triển lâu dài và mang tính chiến lược cao hơn các quỹ đầu tư mạo hiểm thông thường, các quỹ này sẽ không đặt nặng vấn đề lợi nhuận mà sẽ đề cao phát triển tri thức trong nước cả về nâng cao chất lượng khoa học công nghệ mà còn cả đầu tư vào vốn con người. Nếu loại hình này tồn tại thì sẽ có nhiều khoản đầu tư vào phát triển con người tri thức nhằm mục tiêu là phát triển toàn diện, nâng cao trình độ hiểu biết trong toàn dân dù cho khoản đầu tư này có thu được lợi nhuận hay không nhưng nó vẫn mang lại lợi ích cho toàn xã hội, điều này không thể có được đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài. 2.2/ Các giải pháp nhằm thức đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm Từ những phương hướng, mục tiêu và các hạn chế của hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn hiện nay và tương lai thì Nhà Nước ta và các cơ quan có chức năng cần phải thực hiện một số giải pháp và chiến lược nhằm kiện toàn hơn nữa cho hoạt động phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Các bộ và các cơ quan có chức năng nên phối hợp để ban hành qui chế cho các loại hình quỹ đầu tư hoạt động rõ ràng hơn. Đặc biệt đối với các quỹ đầu tư nước ngoài cần qui định tỉ lệ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp ở mức làm sao đảm bảo chi phí trên một đồng vốn ở mức hợp lý, nên qui định thuế vốn để các quỹ dự trù được chi phí. Một số qui chế cần được mở rộng hơn nữa để các quỹ đàu tư khai thác tối đa khả năng của mình chẳng hạn như qui định : “đầu tư vào chứng khoán tối thiều là 60% giá trị tài sản của quỹ" có thể là quá cứng nhắc. Chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu đãi như đầu tư trực tiếp. Đối với việc thành lập và phát triển các quỹ đầu tư trong nước chúng ta cần phải giải quyết hai vấn đề sau: Lựa chọn mô hình tổ chức. Việt Nam nên chọn mô hình tổ chức công ty cổ phần, một mặt phát huy được hiệu quả quản lý tối ưu, mặt khác, huy động được nguồn vốn của các tổ chưc tài chính tham gia (cổ đông ở đây là các tổ chức tín dụng, công ty mạo hiểm, công ty chứng khoán). Mức vốn của các tổ chức này nên chiếm ở mức tên 80% tổng vốn pháp định của quỹ. Việt Nam nên chọn loại hình quỹ đầu tư mở với mục đích tạo tính thanh khoản cao, hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên, để đảm bảo cho tính ổn định nguồn vốn của quỹ, trong thời gian đầu mới hình thành nên có qui định chỉ cho phép nhà đầu tư bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư sau một năm hoạt động. Mức vốn pháp định qui định đối với quỹ đầu tư hiện nay là 5 tỷ đồng là quá thấp. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, như Hàn Quốc có mức vốn trên 40 triệu$, Malayxia có mức vốn tối thiểu 5 triệu RM. Vì vậy quỹ đầu tư của Việt Nam nên ở mức 30 đến 40 tỷ đồng. Bên cạnh việc giải quyết các vấn đề về luật pháp trong lĩnh vực hỗ trợ hoạt động của các quỹ đầu tư trong và ngoài nước chúng ta cũng cần giải quyết các vấn đề có tác động tới môi trường hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm như : Giải quyết các vấn đề của thị trường chứng khoán, đưa ra các qui chế, chính sách phù hợp với sự hoạt động của chúng ta hiện nay hơn. Cần khuyến khích thúc đẩy hoạt động đầu tư nươc ngoài vào Việt Nam có thể thông qua các chính sách như ưu đãi về thuế, tạo môi trường, sân chơi bình đẳng cho đầu tư trong và ngoài nước. Tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư bằng việc ổn định chính trị cũng như ổn định trong các chính sách, luật pháp. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất sợ hệ thống pháp luạt của Việt Nam. Do đó, các cơ quan có chức năng, có thẩm quyền phải phối hợi với nhau để kiện toàn hệ thống pháp luật Việt Nam. Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Tạo ra sân chơi, khuyến khích các tài năng trẻ sáng tạo như chúng ta đã tổ chức các cuộc thi: Trí tuệ Việt Nam, Cuộc thi Robot... Để giải quyết các vấn đề còn tồn tại ở Việt Nam hiện nay thì chúng phải đề cập đến rất nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm đưa Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế tri thức. Nhưng trong phạm vi đề tài nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp Việt Nam trên con đường đưa Việt Nam bước vào nền kinh tế tri thức tôi chỉ xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu, mang tính cập nhật nhằm hoàn thiện hơn cho môi trường hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, thúc đẩy và phát triển hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, là yêu cầu của thời đại. Đối với các nước đang phát triển hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội thúc đẩy sự phát triển nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tiến lên nền kinh tế tri thức nên cũng không nằm ngoài qui luật của thị trường, trước mắt Việt Nam phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá hiện đại hoá ong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay , loại hình quỹ dầu tư mạo hiểm là một hình thức tài trợ tối ưu cho các daonh nghiệp Việt nam . Với phương thức tổ chức và hoạt động của mình quỹ đầu tư mạo hiểm hứa hẹn một tiềm nang công nghiệp mới . Đây là định chế tài chính trung gian gắn liền giưã cung và cầu vốn, giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam đang khát vốn cho những dự án công nghệ kỹ thuật .Sự phát triẻn quỹ đàu tư mạo hiểm trong thời gian này sẽ là một đường lối chủ trương đúng đắn cuả Nhà Nước ta. Cùng với sự hoàn thiện hoạt động của thị trường chứng khoán , các loại hình trung gian tài chính sẽ ra đời , đấnh dáu mốc cho sự phát triẻn mới của kinh tế Việt Nam . Với sự hỗ trợ của các quỹ đầu tư mạo hiểm , trong những năm tới doanh nghiệp và thị trường Việt nam sẽ có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế . Thị tường chứng khoán Việt Nam sẽ đa dạng hàng hoá hơn nhờ có nhiều công ty mới được niêm yết . Trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam sẽ tăng lên . Sẽ có nhiều dự án khả thi được thực hiện mang lại nguòn lạilớn cho phat triẻn kinh tế . Việt Nam có tiến lên nền kinh tế tri thức được không là phụ thộc vào đội ngũ doanh nghiệp trẻ , phụ thuộc vào đường lối, chủ trương, chiến lược của Đảng và Nhà Nước ta . Việc đề ra chiến lược phát triển đã khó , việc thực hiện chiến lược càng khó hơn , làm sao cho có sự thực hiện đồng bộ từ trên xuống dưới , từ cơ quan chức năng cấp cao nhất đến cơ quan chưc năng ở các địa phương . Điêù này hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực của các cơ quan , cac bộ các nghành và cac doanh nghiệp. Có thể nói rằng quỹ đầu tư mạo hiểm là một hình thức đầu tư cần được Đảng Và Nhà Nước ta xem xet và đề ra các chiến lược cụ thể để phát huy các tính năng , ưu điểm của nó , phục vụ cho sự nghiệp Việt nam hội nhập nền kinh tế thê giới và mở đầu cho giai đoạn bước vào nền kinh tế tri thức TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Huy Dương - Đầu tư vốn mạo hiểm ... trong nền kinh tế tri thức. Nghiên cứu kinh tế số 275 (4/2001) Nguyễn Văn Định - Hoạt động của quỹ đầu tư ... tại Việt nam Nghiên cứu kinh tế số 279 (8/2001) Th.S Trần Đăng Khâm - Cần thúc đẩy hoạt động... chứng khoán Thị Trường tài chính tiền tệ 1.2002 Nguyễn Thị Uyên - Quỹ đầu tư mạo hiểm ...doanh nghệp khởi sự Phát triển kinh tế 127 Th.S Bùi Viết Thuyên - Quỹ vốn mạo hiểm Phát triển kinh tế 128 Th.S Nguyễn Hương Giang - Vốn mạo hiểm ... công nghiệp mới Tạp chí ngân hàng số 1+2 / 2002 Lê Đăng Hà - Cơ hội để ...sáng tạo Tạp chí công nghiệp Việt Nam 1/3/ 2001 Thái Ngọc Hiền - Kinh nghiệm hoạt động ...Châu Á Tạp chí ngân hàng số 2/2001 Đinh Trọng Thắng - Những cách hiểu ...lựa chọn của Việt Nam Nghiên cứu kinh tế 283 Phan Thúc Huân - Nền kinh tế tri thức...Việt nam Nghiên cứu kinh tế số 278 Hoàng Quí Vương - Thực trạng....Tại Việt Nam Tạp chí ngân hàng số 11/2000 Vũ Minh Khương - Việt Nam ... nền kinh tế tri thức Nghiên cứu kinh tế số 279 Hải Phương - Quỹ đầu tư mạo hiểm... táo bạo Đầu tư chứng khoán , số 43(9/9/2000) TS. Nguyễn Sơn - Quỹ đầu tư chứng koán VN Tạp chí ngân hàng số 6/2000. TS. Nguyễn Xuân Thiên - Đầu tư trực tiếp nước ngoài ... Kinh tế Châu Á- TBD số 1-2001 Và cùng một số tác giả khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1025.doc
Tài liệu liên quan