Ở nước ta thế mạnh của khoa học kỹ thuật mới chỉ ở dạng tiềm năng, sự tham gia của nó vào quá trình sản xuất còn hạn chế. Đảng ta chủ trương với cơ chế quản lý kinh tế mới với sự mở rộng quyền tự chủ kinh tế của người sản xuất sẽ là tác nhân kích thích sự thâm nhập của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, chỉ co tính thực tế đó mới chinh phục được người sản xuất và do đó cũng là con đường ngắn nhất để khoa học kỹ thuật đi nhanh nhất vào cuộc sống và sản xuất. Ít ra cũng là giai đoạn này.
Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN, chúng ta chủ trương một nền kinh tế nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH.
Trong thực tế nền sản xuất đi lên sản xuất lớn XHCN trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển. Quá trình đó thực hiện không phải bằng sự tước đoạt, gò ép theo chủ nghĩa hình thức như trước đây mà thực hiện từng bước sự hổn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, CNTB nhà nước, để hình thành tập đoàn kinh doanh lớn, chúng ta không nên chú trọng gạt bỏ cái cũ để có cái mới mà thực sự chuyển hoá cái mới thành cái cũ
19 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1803 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy luật về phù hợp với quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức, vận dụng quy luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Triết học ra đời từ đời sống xã hội, những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp là những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận, triết học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên của xã hội và con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
Trong quá trình ra đời và phát triển, triết học đã đạt đến đỉnh cao bằng sự ra đời của triết học Mác - Lênin. Đó chính là bước phát triển tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng lịch sử phát triển triết học của nhân loại.
Triết học Mác - Lênin là một môn học hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo, không ngừng nâng cao chất từ khâu biên soạn giáo trình, giản dạy, học tập, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục của cả nước. Nó đã và đang được tuổi trẻ học đường, cán bộ đảng viên và toàn dân ta tiếp đón nhiệt tình và say mê học tập nghiên cứu nghiêm túc. Chính vì thế nghị quyết Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: "Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng cao trình độ lí luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động từ phong trào cách mạng quần chúng".
Nhận thức và vận dụng sáng tạo triết học Mác-Lênin đã góp phần mang lại những thành tựu ta lớn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước ta đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Những quy luật, những phạm trù triết học Mác-Lênin nghiên cứu hầu hết đều được Đảng và Nhà nước ta vận dụng linh hoạt trong đường lối lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh,...của đất nước.
Đặc biệt phải kể đến quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất một ảnh hưởng không nhỏ trong xã xu hướng phát triển kinh tế - chính trị nước ta hiện nay.
A.PHẦN LÝ LUẬN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Nó là quy luật bao trùm chi phối mọi hình thái kinh tế - xã hội. Nó còn là một trong những quy luật phổ biến cơ bản thuộc về xã hội, đến nay quy luật này vẫn còn giá trị trong sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "quy luật về phù hợp với quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức, vận dụng quy luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay " có ý nghĩa hết sức quan trọng đặc biệt là trong tình hình thực tế của nước ta hiện nay.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. KHÁI NIỆM PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT, LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN XUẤT
a.Phương thức sản xuất
Trong học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của Các Mác thì phương thức sản xuất vật là khái niệm biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn khác lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thờ đại kinh tế khác nhau. Nghĩa là mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất đặc trưng của nó. Dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng của mõi thời đại lịch sử, người ta hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế - xã hội nào. Đúng như C.Mác đã nói "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào của những tư liệu nào".
với tính cách là những thời đại kinh tế khác nhau; phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
b. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản xuất, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát tong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Lực lượng sản xuất háng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động.
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình. Lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra ”là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá" , nó "nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Ngoài ra , công cụ lao động, theo Ph.Ăngghen là: "khí quan của bộ óc con người " là "sức mạnh của tri thức đã được" "vật thể hoá" có tác dụng "nối dài bàn tay" và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người . Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hoá, được tự động hoá,...thì vai trò "khí quan vật chất" của nó trở nên hết sức kỳ diệu
- Trong mọi thời đại, nhờ yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, công cụ lao động biểu hiện năng lực thực tiễn của con người ngày một tăng thêm chính sự chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là nguyên nhân sâu sa của mọi cải biến xã hội. C,Mác viết: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất ,cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại x"
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất va lao động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày này, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành ”lực lượng sản xuất trực tiếp” trở thành “lực lượng sản xuất độc lập. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã vạch ra mục tiêu đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung, của nền khoa học nói riêng như sau: “từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá” khi đó, lực lượng sản xuất sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
c. Quan hệ sản xuất
Trong hệ thống những khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm quan hệ sản xuất được hiểu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra một cách bình thường chính là vì trong sự sản xuất đó mói quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Trong đó sản xuất , mói quan hệ giữa con người với giới tự nhiên .Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thể hiện thành những trình độ được xây dựng trong và thong qua những quan hệ khác nhau giữa người với người, tức là những quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản”, C.mác viết: “trong sản xuất người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có mối quan hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”. Như vậy, quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Song quan hệ sản xuất tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động
- Ba mặt quan hệ này trong quá trình sản xuất luôn gắn bó với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất biểu hiện thành chế độ sở hữu – là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ snr xuất của một nền kinh tế xã hội nhất định, quan hệ sở hữu có vai trò quyết định đối với các quan hệ xã hội khác. Quan hệ này là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của của các quan hệ sản xuất; là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo đại vị của họ đối với sản xuất xã hội; “Định nghĩa quyền sở hữu tư bản không phải là cái gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”.
- Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu co bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau.
- C.Mác và ăngghen đã chứng minh rằng chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là ình thức cuối cùng trong lịch sử loài người. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Hiện nay, nhờ ứng dụng được những thành tựu to lớn của khoa học quản lý hiện đại nên vai trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất ở tầm vĩ mô. Ngoài ra các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng như là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Nó là “chất xúc tác của các quá trình kinh tế - xã hội “. Nó có thể thúc đẩy hoặc làm hãm sản xuất phát triển
2. NỘI DUNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực quy luật là mối quan hệ bản chất tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật hiện tượng giữa các đối tượng, giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính của sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật, hiện tượng.
Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính biện chứng. Quan hệ này tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Sự biến đổi của sản xuất luôn luôn theo chiều hướng tiến bộ, và xét cho cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Đương nhiên , khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của nó cũng phát triển theo.
Trình độ của lực lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích ghi với giới tự nhiên nhắm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thong qua công cụ lao động
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự sản phẩm của sự kết hợp giữa các nhân tố :
- Trình độ của công cụ lao động
- Trình độ tổ chức lao động xã hội
- Trình độ ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
- Trình độ tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
- Trình độ phân công lao động
Những yếu tố này quyết định kiểu tổ chức sản xuất xã hội và quan hệ của những con người sản xuất. Nghĩa là chúng chi phối mối quan hệ của con người với những tư liệu sản xuất chủ yếu, với cách thức tổ chức, điều này được C.Mác khẳng định rõ trong “Sự khố cùng của triết học”. Những quan hệ sản xuất đều gắn mật thiết với lực lượng sản xuất. Do được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp.
Bên cạnh khái niệm của trình độ sản xuất, còn có khái niệm tính chất của lực lượng sản xuất. Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư liệu sản xuất và của lao động. Ứng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội được thể hiện thong qua sự phát triển của công cụ lao động, tính chất xã hội đôi khi trình độ phát triển biến đổi. Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người; khả năng này chưa đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển .Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ chuyển thành không phù hợp . Mẫu thuẫn càng trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độn của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều này sẽ dẫn đến sự diệt vong của phương thức sản xuất cũ và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Mác đã nhận định "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...Trong đó từ trước đến nay lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội". Đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.'
Như vậy, với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì nhân tố đóng vai trò quyết định với quan hệ sản xuất là lực lượng sản xuất song họ cũng chỉ rõ rằng bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất tác động đến khuynh hướng phát triển của khoa học, công nghệ. Trên cơ sở đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất; Trong đó trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất sẽ kìm h hãm lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã trở nên gay gắt, đòi hởi phải giải quyết một cách sai lầm ....Thì không thể phát triển được lực lượng , thậm chí còn phá hoại lực lượng sản xuất.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người từ xã hội công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản nhất trong quan hệ của quy luật xã hội
B.VẬN DỤNG: SỰ NHẬN THỨC -VẬN DỤNG QUY LUẬT TRÊN CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Nhận rõ được vai trò to lớn của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Đảng ta đã có những nhận thức đúng đắn, và rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn:
- Hiểu rõ sự vận động phát triển của xã hội một cách khoa học, quy luật này chỉ rõ nguồn gốc động lực của sự phát triển, chỉ rõ nguyên nhân nội tại của sự vận động trong phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
- Trong quá trình hoạt động thực tiễn phải luôn luôn tạo nên sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đưa xã hội phát triển tiến lên. Quan hệ sản xuất đi trước hoặc đi sau lực lượng sản xuất đều kìm hãm sự phát triển đi lên của xã hội.
- Trong hoạt động thực tiễn phải kiên quyết giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất để tạo ra quan hệ sản xuất mới phù hợp, chống tư tưởng chần chừ, thủ tiêu mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển đi lên xã hội.
Bằng những phương pháp luận đúng đắn và dựa vào tình hình cụ thể của nước ta mà Đảng ta đã có những vận dụng đúng đắn vào Việt Nam trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước:
- Tập trung phát triển lực lượng sản xuất là trọng tâm hàng đầu nhằm giải phóng tiềm năng của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Thực hiện đa dạng hoá các quan hệ sở hữu để tạo nên sự phù hợp với trình độ của các thành phần kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Đổi mới và hoàn thiện từng bước cơ chế quản lý thực hiện chính sách phân phối công bằng để kích tính tích cực của người lao động thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong thực tế đẩy mạnh việc phát triển sản xuất nhất thiết phải gắn liền với nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển, của lực lượng sản xuất. Đó là quy luật phổ biến hàn sâu vào trí thức của các nhà lãnh đạo. Tuy vậy không phải lúc nà người ta cũng nhận thức và vận dụng đúng quy luật đó. Theo phương châm: Chỉ có sự tinh tế nếu mình nhìn nhận được những việc đúng sai của mình. Sau đó ta hãy đi vào nghiên cứu quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam, phát triển hiện ra xem có những hành động đúng đắn hay sai lầm nào.
Ở thời kỳ đầu khi mà Miền Bắc nước ta bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhìn nhận trong thực tiễn sản xuất ở nước ta, lực lượng sản xuất bị quan hệ sản xuất kìm hãm làm cho lực lượng sản xuất kém phát triển. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, Đảng ta đã tiến hành cuộc cải cách ruộng đất nhằm thực hiện khẩu hiện "người cày có ruộng"; mặc dầu trong phương pháp thực hiện có nhiều sai lầm song về cơ bản đã xoá bỏ được chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến, thực hiện sở hữu ruộng đất chi nhân dân, cởi trói sức sản xuất ở nông thôn, người nông dân đã thực sự trở thành người chủ ruộng đất.
Ở các bước tiếp sau chúng ta lại tiếp tục mắc một số sai lầm nghiêm trọng. Do chưa nhận thức đúng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sực vận động, một số nơi gần như là cưỡng bức, nông dân đi vào hợp tác hoá khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất được chia. Có thể chúng chưa tuân thủ lời giáo huấn của Lênin:
Muốn sử dụng một phương pháp mau lẹ nào đó, một sắc lệnh, một tác động ngoài vào để cải tạo hệ cá thể ấy thì thật là một tư tưởng hoàn toàn phi lý. Đồng thời cùng với việc xây dựng hợp tác xã quy mô từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát triển các quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém. Mặt khác chúng ta tạo ra những quy mô lớn mà ngộ nhận là đã có quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một quan hệ sản xuất mới chúng ta đã nhầm lẫn trong khi nhấn mạnh quá sức để sở hữu tư liệu sản xuất theo khuynh hướng tập thể hoá, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới đều , bởi vậy đưa đến tình trạng tách rời, biệt người lao động với đối tượng lao động chủ yếu của họ. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó sai lầm. Sai lầm ở chỗ không phải chúng ta duy trì, quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất bị đảy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời trình độ còn thấp kém của lực lượng sản xuất. Do vậy việc xác lập quan hệ mới để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển là chưa xác đáng. Phải chăng "hợp tác hoá là cái quá rộng và quá sớm với tính chất và trình độ phát triển lúc bấy giờ" .Bởi vậy nhận định trong văn kiện đại hội VI của Đảng có căn cứ vào đã làm phong phú thêm lý luận về bản chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lự lượng bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất bị trong phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là điều thường xảy ra, ở đó chứng tỏ quan hệ sản xuất bị phá vỡ . Còn nếu có trường hợp "quan hệ sản xuất di ngược lực lượng sản xuất" tuyệt nhiên không thể coi là hình thức biểu hiện đặc thù của quy luật mà nó là dấu hiệu cho thấy sự đi lệch khỏi quy luật. Để biện chứng cho quan niệm "quan hệ sản xuất đi trước " hoặc nói cách khác để giải phóng mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiến lên với lực lượng sản xuất lạc hậu. Chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các xí nghiệp nông nghiệp mới hình thành con non yếu, nhằm xây dựng mô hình lâu dài công nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý tổ chức sử dụng của nông dân cũng như khả năng lãnh đạo của bản quản lý hợp tác xx.
Trong lực lượng sản xuất chung ta chỉ chú ý tư liệu sản xuất một cách thuần tuý mà thiếu sự cần thiết ở nhân tố con người cả về trình độ cả thái độ lao động. Bản thân con người là yếu tố quyết định là chủ thể quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Song sản xuất bị đặt trong vòng cương toả của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên con người lao động đã trở thành thực thế thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế và mất đi một cách tự nhiên. Tất cả những sai lầm đó đã dẫn đến sự "ngã gục" trng tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất và do đó phá vỡ luôn cả nhịp độ phát triển kinh tế xã hội.
Một sai lầm cơ bản củ chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản khi kinh tế XHCN của ta chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến lực lượng sản xuất và mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Cũng vậy, nếu ta xoá sách tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc quanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nổi vai trò "người nội trợ cho xã hội " thì sẽ gây ra nhiều khó khăn và ách tắc hàng hoá và không thể đps ứng được nhu cầu cần thiết cho nhân dân xoá bỏ một hình thức quan hệ snr xuất nào khi lực lượng sản xuất tương ứng với nó đang tồn tại và thúc đẩy sức sống.
vấp váp, những thất bại. Đảng ta vẫn còn rất nhiều sự nhìn nhận đúng đắn cũng như các biện pháp kịp thời để khắc phục và phát triển nền kinh tế. Qua quá trình lãnh đạo sản xuất lâu dài Đảng ta rút ra kinh nghiệm bổ ích và khẳng định rằng; một trong những nguyên nhân làm cho xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là: Không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó Đảng đã rút ra cái cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật lên hàng đầu. Đồng thời tổ chức lạo nền sản xuất xã hội để xác định đúng những hình thức và bước đi thích hợp. Đảng ta nhận thức rằng sự phù hợp giữa quan hệ mâu thuẫn, không trao đổi. Sự phù hợp này không bao giờ là sự phù hợp chung mà là sự tồn tại dưới nhiều hình thức cụ thể, thích ứng với nhiều đặc điểm cụ thể, thích ứng với đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất là cần xác lập quan hệ sản xuất như thế nào để thực sự là hình thức thích hợp nhất với yêu cầu của sự phát triển từng vùng. Bởi vậy vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất là hoàn toàn đúng, cải tạo quan hệ sản xuất ngày càng phát triển. Trong cải tạo quan hệ sản xuất mới đại hội Đảng lần VI đã nhấn mạnh là phải giải phóng đồng bộ cả ba mặt xây dựng chế độ sở hữu, quản lý và chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Chế độ sở hữu có tầm lý luận, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là mặt cơ bản nhất làm nền tảng cho quan hệ sản xuất khác trong lịch sử xã hội. Về mặt thực tiễn, tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất là mặt cơ bản nhất làm nền tảng cho quan hệ sản xuất mới cũng quy định cả tính chất quản lý và phân phối.Trong quan hệ sản xuất nếu xét về mặt sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản của nông nghiệp trước hết là ruộng đất thì ruộng đất giao khoán cho nông dân vẫn thuộc quyền sở hữu tập thể. Còn nếu xét quan hệ quản lý trong quan hệ sản xuất khoán sản phẩm là quá trình hạch toán kinh tế đến nhóm và từng gia đình đã tạo sự liên doanh liên kết tiến bộ. Một yếu tố cũng quan trọng của quan hệ sản xuất là phân phối. Ở quan hệ này thể hiện rất rõ trong mỗi quan hệ ba lợi ích. Sự đóng góp của nhân dân đối với phí dịch vụ sản xuất và đổi hàng hoá theo hướng không ngừng tăng lên. Vì thế nếu cải tạo XHCN là cải tạo quan hệ sản xuất cũ.
Nước ta đi lên XHCN từ những xuất phát điển hình về lực lượng sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật kém lùi sau trình độ của thế giới văn minh hàng trăm năm, cho nên việc lựa chọn và vận dụng những giải pháp thích hợp để đảm bảo sự phát triển của lực lượng sản xuất từ đó phát triển kinh tế xã hội là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn hàng đầu. Để xác định trật tự bước đi, lựa chọn những hình thức tối ưu nhằm phát triển lực lượng sản xuất một cách quy luật thì phải dựa trên điều kiện cụ thể của đất nước. Tuy nhiên chúng ta đang ở trong thời đại của đặc điểm lớn: cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, xu hướng hoà hoãn hợp tác và tồn tại hoà bình giữa các nước trên thế giới ngày càng tăng. Những đặc điểm khách quan cho phép chúng ta kết hợp hình thức phát triển tuần tự và nhảy vọt để nhằm vừa có thể đẩy mạnh và rút ngắn thời hạn lịch sử tạo nên bước nhảy vọt về chất và sự tăng trưởng mạnh nhanh chóng của lực lượng sản xuất.
Đảng đã nhận thấy, từ nước có nền sản xuất nhỏ như giai đoạn nhỏ như giai đoạn công nghiệp hoá. Trên thực tế chúng ta đã và đang tiến hành công nghiệp hoá đất nước. Song những lệch lạc về thời kỳ công nghiệp hoá theo kiểu cổ điển, không phù hợp nữa.
Đối với thế giới nền văn minh cơ khí hoá đang lùi vào lịch sử, nhưng với chúng ta, có thể từng bộ phận, từng ngành của nền văn minh ấy vẫn còn có giá trị và cần phải được xây dựng và hiện đại hoá. Để tạo điều kiện cho con người chủ động nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, điều chỉnh và hoàn thiện quan hệ sản xuất để thông qua đó phát triển lực lượng sản xuất. Muốn tạo ra những động lực tích cực, kích thích năng lực sáng tạo của người lao động thì đòi hỏi phải có chiến lược về con người nhằm tạo ra những biến đổi mới tích cực về cơ cấu và chiến lược phân công.
Việc cải cách giáo dục, bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật và năng lực quản lý việc ban hành và thực hiện chính sách phù hợp với yêu cầu của cuộc sống hiện đại và hướng lên của xã hội là những phương tiện đa dạng trong hệ thống để đi đến phát triển lực lượng sản xuất.
Ở nước ta thế mạnh của khoa học kỹ thuật mới chỉ ở dạng tiềm năng, sự tham gia của nó vào quá trình sản xuất còn hạn chế. Đảng ta chủ trương với cơ chế quản lý kinh tế mới với sự mở rộng quyền tự chủ kinh tế của người sản xuất sẽ là tác nhân kích thích sự thâm nhập của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, chỉ co tính thực tế đó mới chinh phục được người sản xuất và do đó cũng là con đường ngắn nhất để khoa học kỹ thuật đi nhanh nhất vào cuộc sống và sản xuất. Ít ra cũng là giai đoạn này.
Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN, chúng ta chủ trương một nền kinh tế nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH.
Trong thực tế nền sản xuất đi lên sản xuất lớn XHCN trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển. Quá trình đó thực hiện không phải bằng sự tước đoạt, gò ép theo chủ nghĩa hình thức như trước đây mà thực hiện từng bước sự hổn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, CNTB nhà nước, để hình thành tập đoàn kinh doanh lớn, chúng ta không nên chú trọng gạt bỏ cái cũ để có cái mới mà thực sự chuyển hoá cái mới thành cái cũ .
C. KẾT LUẬN.
Qua trên chúng ta đã phần nào hiểu được thế nào là quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất cũng như về nội dung quy luật về sự phù hợp với quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Quy luật này là biểu hiện của sự tác động lẫn nhau mang tính chất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, mặt khác sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Nếu đi sâu nghiên cứu đề tài này và vận dụng thành công nó sẽ có tác dụng to lớn quyết định đến sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần đưa nước ta vững bước đi lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã chọn.
NHỮNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bài tìm hiểu tư tưởng của Mác và Ph. Anghen về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất của Trương Hữu Hoàn. Tạp chí triết học
- Tuyển tập các Mác - Ph. Anghen tập I
- Giáo trình triết học Mác - Lênin tập II
- Tìm thông tin trên Internet
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20747.doc