. Điều này gây tốn kém về thời gian làm chậm các bước đi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh nói chung.
Tổng công ty DKVN kiến nghị với Chính phủ cho phép xây dựng một quy chế đấu thầu riêng cho ngành, không áp dụng chung cho các ngành khác để giúp cho TCT có thể thực hiện các dự án một cách dễ dàng. Hiện nay, TCT đang tham gia góp ý và xây dựng quy chế đấu thầu đặc thù cho ngành dầu khí trình Chính phủ.
Qua đây, ta thấy các văn bản pháp quy từ lý thuyết đến thực tế còn có những khoảng cách nhất định. Hơn nữa, các công ty cũng còn những vướng mắc trong thực hiện. Tổng công ty DKVN cũng không nằm ngoài điều đó và cần phải có những cải tiến, sửa đổi, bổ sung để hoạt động này thực sự đem lại lợi ích cho TCT.
106 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1108 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy trình đấu thầu mua sắm thiết bị ở Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hờ các tập đoàn lớn. Đây là mối liên kết chặt chẽ với các mắt xích bắt nguồn từ phía nhà thầu đến người cấp vốn rồi mới đến chủ đầu tư tạo thành chu trình khép kín mà chúng ta khó cưỡng lại được. Đấu thầu nhiều khi chỉ là vỏ bọc bên ngoài còn kết quả lại hoàn toàn khác. Chúng ta không phủ nhận sự giúp đỡ của các tập đoàn trong việc xúc tiến tạo nguồn vốn đầu tư song đây không phải là mối quan hệ có đi có lại lành mạnh và tiến bộ.
Đối với các công trình bằng vốn liên doanh theo luật đầu tư phải tiến hành tổ chức đấu thầu. Trong liên doanh, do tỷ trọng vốn của bên đầu tư nước ngoài thường chiếm 70% vốn đầu tư và họ thường là người đề xướng dự án liên doanh nên họ thường nắm vai trò lãnh đạo và các cuộc đấu thầu thường do họ quyết định. Bên nước ngoài chỉ đạo đấu thầu quốc tế hạn chế và chỉ mời các nhà thầu nước ngoài. Nếu có gọi các nhà thầu Việt Nam thì họ tìm cách loại bỏ các nhà thầu Việt Nam trong vòng sơ tuyển.
2.3- Quy trình đấu thầu còn nhiều tồn tại
2.3.1-Nhược điểm về thủ tục đấu thầu quốc tế vận dụng ở TCT- DKVN
Theo thông lệ quốc tế, khi chủ đầu tư đã xét thầu và ký kết hợp đồng giao thầu thì người trúng thầu chỉ có nhiệm vụ thực hiện hợp đồng. Nhưng tại TCT- DKVN, sau khi Hội đồng xét thầu quyết định người trúng thầu thì bộ hồ sơ của người trúng thầu vẫn cần thẩm định và yêu cầu bổ sung ở các cấp có liên quan. Thực chất của việc làm này đã tạo ra hai lần xét thầu. Nó tạo tâm lý không thoải mái cho người mua và người bán. Thủ tục như vậy là để đảm bảo cho công tác thẩm định thầu cũng như nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cấp. Song thực tế điều đó dễ gây phiền hà, mất thời gian và công sức và không khỏi đưa đến tình trạng tiêu cực. Với tiến trình cải cách thủ tục hành chính thì việc giảm bớt các cấp tham gia vào đấu thầu quốc tế là cần thiết, tạo nên sự thông thoáng trong việc vận dụng đấu thầu quốc tế.
Thực tế, do cơ chế chuẩn bị, đàm phán, ký kết hợp đồng còn phức tạp, qua nhiều khâu nên một số đề án bị kéo dài. Bên cạnh đó, nhiều đơn hàng bị chia nhỏ, ký làm nhiều lần, kéo dài thời gian cung cấp vật tư thiết bị và dịch vụ cho sản xuất vì phải làm các thủ tục.
2.3.2- Chỉ tiêu xét thầu
Các chỉ tiêu xét thầu có thể coi là yếu tố cốt lõi của việc xét thầu. Việc sử dụng các chỉ tiêu xét thầu nhằm đảm bảo mua được đúng các thiết bị, đúng nhà cung cấp, đúng thời gian. Đó là ba vấn đề cần được thực hiện chính xác nhất khi mua sắm thiết bị. Việc lập chỉ tiêu xét thầu ở Tổng công ty DKVN còn nhiều tồn tại.
Một là, việc thiết lập các chỉ tiêu: các chỉ tiêu được thiết lập bao gồm các chỉ tiêu về kỹ thuật, tài chính, thời gian. Trong mỗi chỉ tiêu lại gồm hàng loạt các chỉ tiêu khác. Trên thực tế, công tác tổng hợp các chỉ tiêu là khó và gây không ít lúng túng cho Văn phòng Thẩm định thầu. Khi đã định được các chỉ tiêu thì việc xét mức độ quan trọng để cho điểm gặp khó khăn. Văn phòng Thẩm định thầu cố gắng đưa mọi phương án bỏ thầu về cùng một mặt bằng tài chính, thương mại, kỹ thuật rồi so sánh trên cơ sở lãi suất đầu tư. Chủ đầu tư đưa ra yêu cầu mà mỗi nhà thầu có cách đáp ứng khác nhau nên
khó so sánh. Nhiều nhân tố không lượng hoá được như: độ tin cậy, khả năng thay thế nhiên liệu.. không thể điều chỉnh bằng bất cứ phương pháp áp giá nào. Phải chăng, TCT nên có hệ thống thang điểm làm thước đo cho những nhân tố không lượng hoá được. Và yêu cầu bộ tài liệu đấu thầu cũng nên cụ thể hoá ở mức cao nhất để hướng các nhà thầu vào con đường chúng ta mong muốn.
Hai là, tính thống nhất và đặc thù của các chỉ tiêu: việc mua sắm thiết bị cho TCT-DKVN cần đảm bảo tính thống nhất và đặc thù. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ đây là sự mua sắm thiết bị của ngành dầu khí do đó cần có hệ thống các chỉ tiêu riêng dành cho ngành cũng như chỉ tiêu dành cho từng nhóm thiết bị: thiết bị khoan, thiết bị chế biến, thiết bị cho dịch vụ...Tính thống nhất thể hiện ở chỗ các thiết bị mua sắm phải đảm bảo sự phù hợp với các thiết bị hiện có hay khả năng nâng cấp trong tương lai. Hiện nay, các chỉ tiêu xét thầu ở Tổng công ty DKVN còn chưa thể hiện rõ hai đặc tính này. Ngành còn chưa có một định hướng chung về việc mua sắm thiết bị cho thời gian dài để định lượng được tính thích hợp và hiện đại của thiết bị cũng như sự thống nhất giữa các chỉ tiêu đặc thù. Các chỉ tiêu lập ra vẫn chung chung.
Ba là, tính công khai và bí mật của các chỉ tiêu chưa được xem xét thoả đáng. Khi đưa ra các yêu cầu của mình, việc hé mở hệ thống cho điểm và xét thầu chưa bao giờ được tính dến (không phải vì thấy không cần thiết mà vì chưa đánh giá được tầm quan trọng của việc làm này đến việc mua đúng thiết bị cần thiết). Việc công khai các chỉ tiêu xét thầu sẽ loại bỏ được những nhà cung cấp tồi vì họ ý thức được là không có khả năng trúng thầu. Tuy nhiên tính bí mật cũng đảm bảo một số vấn đề về việc đánh giá của TCT chẳng hạn việc cho thêm điểm với các bạn hàng lâu năm, với các nhà cung cấp có uy tín.
2.3.3- Nhược điểm về việc bảo đảm tính thời gian
Trong các nội dung được đưa vào để thẩm định thì thời gian là một nội dung không phải quan trọng nhất song lại là yếu tố quyết định ở một số dự án vì nó liên quan tới tiến độ thực hiện dự án. Kể từ khi phương thức đấu
thầu được vận dụng ở TCT yếu tố thời gian vẫn bị coi nhẹ. TCT chưa thực hiện nghiêm túc về yếu tố thời gian như: thời gian mở thầu, lập Hội đồng xét thầu... Khoảng thời gian thực hiện vẫn bị vi phạm theo hướng tiêu cực (dài hơn quy định). Điều này ảnh hưởng tới lòng tin của các ứng thầu. Thực tế, trong quá trình đấu thầu nhiều gói thầu bị kéo dài thời gian dẫn tới nhiều hợp đồng quan trọng vẫn chưa được ký kết (chậm hơn so với kế hoạch từ 1- 2 năm) gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất- kinh doanh của TCT như hợp đồng xây dựng giàn BK-7, MSP-1 và gói thầu thuộc công trình khí. Nhiều đơn hàng bị chia nhỏ, ký làm nhiều lần, kéo dài thời gian cung cấp vật tư thiết bị và dịch vụ cho sản xuất vì phải làm các thủ tục.
2.4-Tồn tại vấn đề nhân sự
Đội ngũ cán bộ đấu thầu của ngành dầu khí còn non trẻ hạn chế tập trung ở ba khía cạnh là chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ thuật đấu thầu. Sự yếu kém về chuyên môn là một hiện thực khách quan. Các đơn vị ở Việt Nam chưa có chương trình đào tạo nâng cao hợp lý cho các cán bộ phụ trách đấu thầu để bắt kịp thời đại.
Chúng ta vẫn còn gặp không ít khó khăn trong khi tiến hành đấu thầu do thiếu thông tin về công nghệ và giá cả quốc tế, thiếu các cán bộ có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ. Nên các công ty tư vấn vẫn được sử dụng như cánh tay đắc lực khắc phục tình trạng non kém về chuyên môn và thiếu kinh nghiệm của chủ đầu tư. Khi thuê các chuyên gia tư vấn quốc tế trong quá trình lập tài liệu đấu thầu và xét duyệt hồ sơ dự thầu đều phụ thuộc vào kết quả đánh giá của các chuyên gia đó. Do vậy, tính khách quan không được đảm bảo và nhiều khi ta là chủ đầu tư nhưng không tự mình quyết định được. Nhiều khi các cơ quan tư vấn quốc tế đề ra các tiêu chuẩn quá khắt khe đối với các công ty Việt Nam nên các nhà thầu trong nước thường thua cuộc. Trong nhiều trường hợp kết quả làm việc của công ty tư vấn chỉ có giá trị tham khảo mà lại tốn kém về chi phí. Do vậy, việc hoàn thiện, nâng cao trình độ các chuyên gia của chúng ta cần thiết hơn và hiệu quả hơn so với việc quản lý, sử dụng công ty tư vấn.
Trình độ ngoại ngữ của cán bộ làm công tác đấu thầu khó khăn nhất ở hai điểm: các thuật ngữ chuyên môn và khả năng nói. Đó là lý do mà nhiều khi ta đành chịu thua trên bàn đàm phán vì không diễn đạt được ý mình. Nếu không những hiểu lầm giữa hai bên do bất đồng ngôn ngữ cũng tốn vô khối thời gian thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng. Việc thuê phiên dịch bên ngoài càng tệ hơn vì họ có thể có ngoại ngữ tốt nhưng không hiểu các kiến thức chuyên môn về đấu thầu và lĩnh vực dầu khí.
2.5- Quản lý Nhà nước đối với ngành dầu khí
Bên cạnh những kết quả đạt được do có quy chế đấu thầu, tuy nhiên do đặc thù của ngành dầu khí, trong quá trình thực hiện các quy chế đã nảy sinh những vướng mắc cụ thể:
+ Thời gian trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt dài trong khi yêu cầu công việc mang tính cấp bách (giải quyết các sự cố về giếng phun, dầu tràn, sự cố giếng khoan..).
+ Việc tuân thủ theo đúng trình tự trong quy chế đấu thầu đối với các dự án khi chỉ có duy nhất một đơn vị thực hiện (thuê máy bay, tàu bảo vệ mỏ...) hoặc công tác chuyên ngành dầu khí (khảo sát địa chất, khoan, vỡ vỉa...) dẫn tới mất nhiều thời gian làm thủ tục.
+ Việc đấu thầu sửa chữa phương tiện nổi (giàn khoan, tàu thuyền..) thực chất không thuộc hình thức mua sắm thiết bị, xây lắp theo quy chế đấu thầu trên nhưng nếu xác định theo giá trị gói thầu thì phải tuân thủ, điều đó dẫn đến khó khăn trong triển khai, đặc biệt là việc đáp ứng các điều kiện mời thầu như lập hạng mục sửa chữa, dự toán sửa chữa, giải quyết phát sinh trong quá trình sửa chữa. Một số hợp đồng sửa chữa tàu thuyền, giàn khoan trong quá trình thực hiện có tỷ lệ phát sinh cao (20- 30%), thời gian sửa chữa dài. TCT cần có cơ chế đặc biệt trong việc ký kết các hợp đồng sửa chữa phương tiện nổi, công trình biển để vừa giám sát, đồng thời hạn chế các phát sinh trong thời gian thực hiện hợp đồng.
+ Một số loại đối tượng đấu thầu chưa được đề cập tới như: đấu thầu mang tính chất chuyển giao công nghệ, thuê mua vật tư tiêu hao có giá trị
lớn, đấu thầu trong lĩnh vực bảo hiểm đặc biệt là những loại bảo hiểm có liên quan tới tái bảo hiểm.
Hàng năm, Tổng công ty DKVN và các đơn vị thành viên ký hàng nghìn hợp đồng với giá trị hàng trăm triệu USD, nếu áp dụng quy chế đấu thầu thì kéo dài thời gian ký hợp đồng, ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của ngành dầu khí.
Tóm lại, quy trình tổ chức đấu thầu là một việc làm mới, mới về tổ chức mời thầu, mới về tổ chức xét chọn thầu, mới về tổ chức ký kết hợp đồng và kiểm tra thực hiện hợp đồng. Vì vậy, trong quá trình áp dụng quy trình đấu thầu hiện hành chúng ta cần phải thường xuyên rút kinh nghiệm cho các hợp đồng tiếp theo để đạt hiệu quả cao nhất và hoàn thiện quy trình đấu thầu cho phù hợp với thực tế của ngành dầu khí nói riêng và của Việt Nam nói chung.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUY TRÌNH ĐẤU THẦU QUỐC TẾ MUA SẮM THIẾT BỊ Ở TỔNG CÔNG TY DKVN
I. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Mục tiêu của Tổng công ty DKVN trong những năm tới
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật trong những năm gần đây đã mang lại những tác động to lớn và những biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội ở các nước trên thế giới. Muốn phát triển bền vững thì bất kỳ một công ty nào cũng phải xây dựng cho mình một mục tiêu, kế hoạch lâu dài. Mục tiêu của Tổng công ty DKVN trong những năm tới là:
+Xây dựng và đưa vào sử dụng các nhà máy chế biến dầu khí và hoá dầu để từ đó có sản phẩm có tính cạnh tranh cao trong khu vực.
+Xây dựng, phát triển và hiện đại hoá hệ thống phân phối các sản phẩm dầu một cách hợp lý nhất.
+Hệ thống các đường ống dẫn khí quốc gia cần sớm xây dựng và đưa vào vận hành có nối kết với đường ống dẫn khí xuyên ASEAN, từ đó sẽ có mạng lưới ống dẫn khí thuận tiện trong khu vực.
+Tăng cường đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ dầu khí, đạt yêu cầu và trình độ quốc tế thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế.
+Xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia và công nhân dầu khí Việt Nam đủ mạnh về chất lượng có thể tự điều hành mọi hoạt động dầu khí trong cả nước và ở nước ngoài.
+Tiếp tục đầu tư khoa học- công nghệ tăng hiệu quả các hoạt động dầu khí đặc biệt trong lĩnh vực khai thác nguồn tiềm năng dầu khí tại các khu vực biển sâu, cận biên kinh tế tăng hệ số thu hồi dầu...
2. Dự báo về nhu cầu thiết bị cho ngành dầu khí Việt Nam
Mục tiêu của Tổng công ty DKVN là phát triển toàn diện trong các lĩnh vực lọc dầu, hoá dầu, phân phối và kinh doanh sản phẩm dầu khí. TCT đang xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 tại Dung Quất, Quảng Ngãi với công suất 6,5 triệu tấn/năm. Công ty cũng đang lập dự án khả thi xây dựng nhà máy lọc dầu số 2 với công suất 6 - 7 triệu tấn/năm tại Nghi Sơn, Thanh Hoá. Công nghiệp hoá dầu cũng là ngành mới và chưa có điều kiện để xây dựng một liên hợp hoá dầu hoàn chỉnh. Trong tương lai, công ty sẽ đầu tư trang thiết bị cho tổ hợp hoá dầu để sản xuất Polyethylen, Methanol, ure.. Mặt khác, TCT cũng lập quy hoạch phát triển tổng thể xây dựng mạng lưới phân phối bao gồm: kho tàng, bến cảng, cây xăng... phục vụ cho hoạt động kinh doanh các sản phẩm dầu khí.
Bảng 14
DỰ KIẾN ĐẦU TƯ CHO GIAI ĐOẠN 2002- 2010
Các dự án tiếp tục
đầu tư
Tr. USD
Các dự án kêu gọi
đầu tư
Tr. USD
Đầu tư còn lại của hợp
đồng PSC
500
Xây dựng nhà máy lọc
dầu số 2
1500
Các hợp đồng PSC mới ký
2200
Xây dựng nhà máy
hoá dầu
1120
Phát triển mỏ Đại Hùng
1230
Xây dựng đề án khí
tổng thể
1000
Đề án Thanh Long
500
Đề án phát triển dịch
vụ dầu khí
400
Phát triển mỏ AEDC
500
Thăm dò và phát triển
khu vực chồng lấn
500
Phát triển mỏ JVPC
500
Công trình đường ống
đưa khí vào bờ
400
Phát triển mỏ của Petronas
500
Nhà máy nhựa đường
250
Phát triển mỏ của các nhà
thầu khác
1400
Hệ thống kho tàng, bể
chứa sản phẩm dầu
400
Đề án nhà máy lọc dầu 1
1300
Đề án đưa khí vào bờ
400
Các đề án SXKD sản phẩm
dầu khí
632
Liên doanh đường ống khí
Nam Côn Sơn
400
Phát triển và khai thác khí
Lan Tây- Lan Đỏ
500
Đầu tư thiết bị cho nghiên
cứu khoa học, xây lắp chuyên ngành
50
Tổng cộng
11.412
Tổng cộng
6250
Toàn bộ I+ II: 17.662 Triệu USD
Do việc khai thác dầu tăng, nhu cầu mua sắm thiết bị ngày càng tăng. Sau đây là bảng nhu cầu mua sắm thiết bị năm 2002-2004 của Tổng công ty dầu khí Việt nam.
Xem bảng 15 trang sau.
Bảng 15
NHU CẦU MUA SẮM THIẾT BỊ NĂM 2002 - 2004
Đơn vị: triệu USD
TT
Danh mục hàng hoá
Kế hoạch
A
1
2
3
4
5
6
7
8
Vốn thu chi
Bình tách dầu, khí, nước
Mũi khoan
Xuồng cứu sinh
Hệ thống đường ống
Hệ thống dò cháy tự động
Thiết bị chữa cháy
Thiết bị văn phòng
Hệ thống thông tin, liên lạc
562,3
145,3
50
35,8
22,4
110,5
51,8
10,2
76,3
B
1
2
Vốn ODA
Máy nén khí
Hệ thống xử lý dầu
353,2
322
31,2
C
1
2
3
4
5
6
Vốn ngân sách
Cần cẩu
Sân bay trực thăng
Khu nhà ở
Thiết bị dầu giếng
Đuốc
Máy trộn, khuấy dung dịch khoan
558,8
21,2
101,3
14,1
207,7
7
207,5
( Nguồn: kế hoạch mua sắm thiết bị của TCT- DKVN)
Để việc mua sắm thiết bị đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi về chất lượng kỹ thuật, tiến độ thực hiện, tiết kiệm chi phí và hạn chế đến mức tối đa những tranh chấp có thể gây thiệt hại về vật chất cũng như uy tín của các bên tham gia. Sau đây tôi xin đưa ra một số ý kiến nhằm làm hoàn thiện công tác đấu thầu mua sắm thiết bị ở Tổng công ty DKVN trên cơ sở những tồn tại thực tế.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUY TRÌNH ĐẤU THẦU QUỐC TẾ MUA SẮM THIẾT BỊ Ở TỔNG CÔNG TY DKVN
Đấu thầu là một hoạt động phức tạp, nó chịu sự chi phối của nhiều bên tham gia, phải trải qua nhiều bước để thực hiện. Đấu thầu là một công nghệ tiên tiến của kinh tế thị trường cùng với quy luật vốn có của nó: cạnh tranh, cung cầu, giá cả... những tồn tại của cơ chế bao cấp đã gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong việc thực hiện đấu thầu quốc tế. Từ những vướng mắc về quy trình tổ chức đấu thầu, kiến thức hiểu biết về công nghệ đấu thầu, khả năng của các nhà thầu đến vướng mắc trong quản lý hành chính, môi truờng pháp lý...làm công tác đấu thầu kém hiệu quả. Vậy làm thế nào để hoàn thiện quy trình đấu thầu tại một ngành có đặc thù riêng như ngành dầu khí ?
1. Cải tiến quy trình đấu thầu quốc tế
1.1- Rút ngắn thời gian phê duyệt dự án
Như trong phần trên đã nói tới việc thời gian phê duyệt dự án ở TCT thường dài gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất- kinh doanh nói chung. Để khắc phục tình trạng này TCT cần xem xét và có giải pháp để hỗ trợ các công ty thành viên giảm các thủ tục không cần thiết, đặc biệt trong cơ chế chỉ định thầu. Cụ thể, TCT nâng hạn mức phê duyệt đối với các hợp đồng trong và ngoài nước để giảm bớt thời gian phê duyệt không cần thiết đồng thời nâng cao vai trò tự quyết định và chịu trách nhiệm của các đơn vị thành viên, góp phần tăng cường hiệu quả công tác thương mại của các công ty. Trong quyết định số 4917/QĐ-VPTĐ quy định vê việc thực hiện quy chế đấu thầu, TCT đã nâng hạn mức giá trị hợp đồng xí nghiệp liên doanh phải trình TCT phê duyệt từ 300.000 USD lên 500.000 USD đối với hợp đồng
NK.
Một điều nữa khiến cho thời gian phê duyệt dự án bị kéo dài là do hồ sơ dự thầu không được chuẩn bị tốt khiến việc đánh giá hồ sơ gặp nhiều khó khăn (do các tiêu chuẩn đưa ra không rõ ràng dẫn tới việc hồ sơ dự thầu chưa đạt tiêu chuẩn như mong đợi của các chủ đầu tư). Do vậy, TCT cần chú
trọng vào việc chuẩn bị hồ sơ mời thầu, nếu thấy cần thiết có thể mời thêm chuyên gia giúp việc đề ra các tiêu chuẩn cho phù hợp với yêu cầu của công việc. TCT cần chỉ đạo các công ty thành viên của mình chuẩn bị hồ sơ mời thầu, kế hoạch đấu thầu để trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi triển khai đấu thầu các đề án lớn như tổ hợp công nghệ công trình khí trị giá
163.000.000 USD. Việc thông qua ý kiến của TCT trước khi đấu thầu có thể rút ngắn thời gian phê duyệt dự án do tránh được sự bất đồng quan điểm với TCT về các chỉ tiêu xét thầu, việc cho điểm....
1.2-Thực hiện tốt các bước cơ bản trong quá trình đấu thầu
1.2.1- Bước lập hồ sơ mời thầu
Đây là một bước rất quan trọng của quy trình đấu thầu quốc tế. Thực hiện tốt bước này sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện các bước sau. Khi lập hồ sơ, bên mời thầu phải xem xét cân nhắc chặt chẽ việc lựa chọn hình thức đấu thầu hợp lý, các yêu cầu trong hồ sơ mời thầu phải đầy đủ, hợp lý để khi mời các nhà thầu tránh được sai sót đáng tiếc. Chẳng hạn như do hồ sơ mời thầu quá chung chung, mập mờ gây khó hiểu cho nhà thầu, gây khó khăn cho quá trình đánh giá; khối lượng đưa ra trong hồ sơ mời thầu sai lệch so với thiết kế. Phải nói rằng, chất lượng của hồ sơ mời thầu là một trong những nguyên nhân làm cho quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu kéo dài, thiếu cơ sở tin cậy để ra quyết định kết quả đấu thầu. Nguyên nhân chính do cán bộ chuyên gia trong một số trường hợp còn chưa đáp ứng năng lực, thiếu kinh nghiệm, TCT thiếu kiểm tra kỹ lưỡng trước khi phê duyệt.
Việc lựa chọn hình thức đấu thầu không phù hợp gây mất thời gian, tốn kém và không đạt hiệu quả cao. Để lựa chọn một cách đúng nhất, ta phải nắm rõ ưu nhược điểm của từng hình thức, mục đích cần đạt được trong từng cuộc đấu thầu.
Đấu thầu cạnh tranh quốc tế có các nhà thầu nước ngoài có trình độ kỹ thuật, năng lực đấu thầu cao, chọn được công nghệ tiên tiến nhưng Văn phòng Thẩm định thầu phải có trình độ cao trong nghiệp vụ đấu thầu nếu không dễ bị ép giá, đàm phán ký kết hợp đồng mất nhiều thời gian. Dựa vào
ưu nhược điểm của các hình thức đấu thầu mà có sự lựa chọn hình thức cho phù hợp. Trong đấu thầu mua sắm thiết bị phục vụ chuyên ngành, Tổng công ty DKVN nên duy trì áp dụng các hình thức thường làm là đấu thầu quốc tế, phạm vi hạn chế vì các thiết bị đòi hỏi trình độ công nghệ cao, giá trị lớn và TCT có khả năng xác định được các nhà cung cấp có uy tín. Điều này giúp cho TCT tiết kiệm được thời gian và chi phí khi lập hồ sơ mời thầu cũng như quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu. Tuy nhiên cũng nên áp dụng các phương thức đấu thầu một cách linh hoạt phù hợp với từng mục đích cụ thể để tìm kiếm những đối tác mới, tạo thị trường mới dễ dàng so sánh trong các cuộc đấu thầu tiếp theo.
Lập thư mời thầu phải đầy đủ, chặt chẽ và hợp lý với yêu cầu của dự án đầu tư. Trong hồ sơ mời thầu của bên mời thầu gửi đến các nhà thầu nêu chi tiết các vấn đề có liên quan tới yếu tố kỹ thuật, ngôn ngữ, đồng tiền thanh toán, thời gian bảo lãnh thực hiện dự án, nêu ra mức đặt cọc. Khi trong hồ sơ mời thầu nêu rõ những yêu cầu của bên mời thầu thì các nhà thầu sẽ nắm bắt được các yêu cầu của chủ đầu tư. Quyết định có tham dự hay không? Điều đó giúp cho cả hai bên tiết kiệm thời gian, công sức.
1.2.2- Thu nhận, đánh giá và xét duyệt hồ sơ dự thầu
Ngoài những nguyên tắc phải thực hiện trong thu nhận, đánh giá hồ sơ dự thầu như bảo đảm tính công khai, không mở phong bì... thì việc thực hiện tốt các vấn đề khác có liên quan cũng cần thiết. Bước này đóng vai trò quan trọng, mang tính quyết định cho kết quả đấu thầu. Khi thực hiện tốt bước này mới giúp ta lựa chọn được nhà thầu tốt nhất.
1-Xây dựng chỉ tiêu xét thầu cho phù hợp
Việc xây dựng các chỉ tiêu xét thầu là cần thiết, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác đấu thầu mua sắm thiết bị. Căn cứ để xác định hệ thống chỉ tiêu xét thầu gồm: yêu cầu lựa chọn đúng thiết bị mua sắm và đảm bảo công bằng. Việc mở gói thầu liên quan đến 3 nội dung thẩm định tài chính, kỹ thuật, thời gian. Khi xây dựng tiêu chuẩn chỉ tiêu xét thầu cần lưu ý một số điểm sau:
+ Các yếu tố cân nhắc phải được lượng hoá chẳng hạn như yếu tố bạn hàng lâu năm, công ty thành viên. Nếu như ban tổ chức quyết định ưu tiên cho bạn hàng quen thì sẽ ưu tiên bằng cách cộng thêm một số điểm nhất định nào đó. Như vậy, kết quả cuối cùng sẽ đảm bảo tính công bằng, đảm bảo tính ưu tiên. Chẳng hạn trong ví dụ ở phần thực trạng, nhà thầu VSP/B&R (liên doanh với công ty thành viên của TCT) nên khi xét thầu được cộng thêm 20 điểm ưu tiên.
+ Chỉ tiêu xét thầu được xây dựng cho từng dự án là khác nhau. Bởi vậy, hệ thống thang điểm phải được xây dựng cho những nhóm dự án riêng biệt. TCT cần xây dựng hệ thống thang điểm cho những nhóm dự án có những điểm tương đồng như dự án về thiết bị cho công tác khai thác giếng khoan, dự án về thuê tàu, dự án về mua thiết bị cho công tác dịch vụ...
Muốn thành lập hệ thống chỉ tiêu xét thầu cần tuân thủ các điều kiện:
- Tổng công ty có văn bản hướng dẫn lập một hệ thống chỉ tiêu xét thầu chung cho toàn ngành.
- Tập huấn cán bộ làm công tác xét thầu
- Các đơn vị lên kế hoạch NK từ đó có thể lựa chọn các chỉ tiêu và cho điểm trước khi mở gói thầu.
2- Vấn đề cho điểm
Quy chế đấu thầu chỉ đưa ra phương pháp đánh giá tiêu chuẩn trong hồ sơ dự thầu là cách cho điểm nhưng lại không quy định cụ thể cách chấm điểm như thế nào. Tại Tổng công ty DKVN phương thức chấm điểm dưới hai hình thức: cho điểm bình quân và cho điểm theo thảo luận. Tuy nhiên cả hai hình thức đều có những mặt hạn chế.
+ Hình thức cho điểm bình quân: khoảng cách cho điểm chênh lệch nhau do cách đánh giá của các thành viên khác nhau dẫn đến kết quả chênh lệch rất lớn về tổng số điểm của các thành viên và việc đánh giá chưa được chính xác.
+ Hình thức cho điểm theo thảo luận: về thực chất, hình thức này có những ưu điểm nhất định như tính công khai, tạo điều kiện cho các thành viên của Hội đồng xét thầu nêu các ý kiến của mình và những diễn giải hợp
lý sẽ được công nhận và nghe theo. Tuy nhiên trên thực tế lại không hoàn toàn đúng như vậy. Trong các cuộc đấu thầu ở các đơn vị thành viên nếu giá trị đấu thầu lớn và có thành phần đại diện cấp trên tham gia thì việc đánh giá các tiêu chuẩn cũng như kết quả đấu thầu sau này phụ thuộc vào các ý kiến của cán bộ cấp trên.
Cả hai hình thức này đều có nhược điểm. Việc tìm ra một hình thức cho điểm phù hợp còn phụ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc đấu thầu, sự cần thiết của dự án.
3- Đánh giá kinh nghiệm của các nhà thầu
Việc đánh giá kinh nghiệm của nhà thầu rất quan trọng bởi không chỉ dựa vào hồ sơ dự thầu mà Hội đồng xét thầu còn dựa vào thực trạng hoạt động tài chính, năng lực chuyên môn hiện tại của nhà thầu. Những thông tin xác thực, cập nhật về nhà thầu có ảnh hưởng lớn như thiết bị của nhà thầu đang phục vụ tốt cho một công ty nào đó và được công ty đó đánh giá cao. Như trong cuộc đấu thầu cung cấp dung dịch khoan cho công ty MJC Co. Ldt, Dowell là nhà thầu đưa ra giá chào thầu thấp nhất (328.239 USD) nhưng công ty MJC vẫn quyết định trao thầu cho Baker vì họ thấy rằng Baker đã làm việc tốt cho họ trong chiến dịch khoan trước đây đồng thời giá chỉ cao hơn giá chào thầu thấp nhất 600 USD. Nếu chỉ dựa trên uy tín của nhà thầu thì khó có thể đánh giá được thực trạng hiện nay của nhà thầu như thế nào, vì đây là chỉ tiêu đánh giá trừu tượng. Nhiều trường hợp cho thấy danh tiếng của nhà thầu cung cấp nhiều khi không đảm bảo rằng người mua có thể tránh được rủi ro.
2. Công tác đào tạo chuyên gia, cán bộ đấu thầu
2.1- Sự cần thiết phải đào tạo cán bộ
Trong thời đại mà khoa học và công nghệ phát triển nhanh, doanh nghiệp muốn thành đạt thì một điều kiện tiên quyết là phải đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao. Việc đào tạo, trang bị kiến thức trong bất kỳ trường hợp nào đều không phải là thừa và có thể coi đây là một loại
hình đầu tư có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, việc đào tạo vẫn còn những khoảng cách nhất định giữa lý thuyết và thực tế.
Cán bộ chuyên môn càng phải được đào tạo có hệ thống đảm bảo hoạt động chuyên sâu có hiệu suất cao. Thực hiện dự án đấu thầu quốc tế có sự hiện diện của nhiều chủ thể kinh tế: nhà thầu, kỹ sư tư vấn, chủ đầu tư. Trong đó kỹ sư tư vấn như một nhân tố đảm bảo cho hợp đồng thực hiện chính xác, mọi sự bất cập về kỹ thuật hoặc tiến độ được phát hiện kịp thời để có những biện pháp điều chỉnh. Kỹ sư tư vấn cũng góp phần hạn chế hiện tượng thông đồng, thoả hiệp gây thiệt hại cho người chủ đích thực của đơn vị. Bởi vậy, những chuyên gia về kỹ thuật- công nghệ phải được đào tạo có hệ thống cập nhật theo định kỳ các kiến thức chuyên ngành cần thiết.
2.2- Công tác đào tạo
Chất lượng các nhà quản lý, các kỹ sư có đủ năng lực trong việc thực hiện vai trò của họ là yếu tố then chốt trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tổng công ty DKVN luôn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của mình bằng cách:
+ TCT tuyển chọn các nhà quản lý giỏi, có đủ năng lực thoả mãn nhu cầu phát triển của ngành.
+ Không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình độ quản lý của các cán bộ quản lý DN thông qua các khoá huấn luyện trong trung tâm cung ứng nhân lực dầu khí và đào tạo nâng cao ở nước ngoài.
Riêng đối với cán bộ hoạt động trong công tác đấu thầu, TCT cần dành sự quan tâm đặc biệt vì những cán bộ này không những hoạt động trong lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn và ngoại ngữ cao mà còn đại diện cho Nhà nước làm việc với nước ngoài. Hiện nay hầu hết số cán bộ này đã được đào tạo qua đại học nhưng chủ yếu là các ngành nghề kỹ thuật. Như ở phần tồn tại vấn đề nhân sự đã có đề cập tới sự yếu kém về chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ thuật đấu thầu. Để khắc phục tình trạng này, trong ngắn hạn, TCT cần cử cán bộ chuyên trách về đấu thầu tham gia lớp đào tạo:
- Nghiệp vụ đấu thầu quốc tế
- Luật đấu thầu trong nước và quốc tế, luật đầu tư.
- Quản trị kinh doanh quốc tế, thanh toán quốc tế
- Ngoại ngữ về đấu thầu quốc tế, kỹ năng đàm phán thương mại đặc biệt là trong lĩnh vực đấu thầu, ký kết hợp đồng.
- Hướng dẫn đấu thầu mua sắm thiết bị theo thể thức hiệp hội quốc tế
kỹ sư tư vấn (FIDIC), ngân hàng thế giới (WB)...
- Tổ chức lớp đào tạo, hướng dẫn thực hiện đấu thầu quốc tế theo NĐ
88/CP, mở các hội thảo về kinh nghiệm hoạt động đấu thầu cho cán bộ của mình.
*Phương thức tổ chức đào tạo của Tổng công ty là:
Cử cán bộ chuyên viên của mình, tuyển chọn sinh viên đi nghiên cứu, khảo sát ngắn hạn, dài hạn tại các nước phát triển như Tây Âu, Bắc Mỹ...
Tổ chức các lớp nghiệp vụ nhằm bổ sung những kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, kỹ sư, chuyên viên.
Tăng cường các tài liệu tham khảo cũng như trang thiết bị cần thiết cho việc đào tạo.
Việc tăng cường đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cũng chính là phát huy nội lực rất quan trọng trong vấn đề phát triển con người của TCT. Bên cạnh phát huy nội lực về tài chính, phát huy nội lực bằng việc đào tạo con người sẽ đưa công ty phát triển một cách vững chắc.
3. Quy định chặt chẽ cho việc thực hiện quy chế đấu thầu
Tổng công ty chỉ đạo các công ty thành viên tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước trong việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế, chấp hành nghiêm chỉnh Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/CP và 14/CP của Chính phủ, đảm bảo cung cấp kịp thời phần lớn vật tư, thiết bị, dịch vụ theo yêu cầu sản xuất.
Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn đấu thầu đã ban hành, TCT cần xem xét nhu cầu của ngành, thực trạng quy trình đấu thầu tại công ty để tiến hành ban hành các văn bản nội bộ cho phù hợp, cụ thể cho từng nhóm công ty như công ty liên doanh, công ty hạch toán độc lập, công ty hạch toán phụ
thuộc. Mặc dù, TCT đã có những văn bản khá cụ thể cho hoạt động của công ty liên doanh Vietsovpetro (về các dự án cần thông qua ý kiến của TCT) song vẫn cần đổi mới cho phù hợp với thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đấu thầu. NĐ 88/CP áp dụng chung cho đấu thầu trên lãnh thổ Việt Nam nhưng ngành dầu khí có những đặc thù riêng nên TCT cố gắng vận dụng một cách linh hoạt NĐ 88/CP mà vẫn đảm bảo theo tập tục công nghiệp dầu khí quốc tế.
TCT phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người có thẩm quyền đối với các dự án chuyên ngành đầu khí, thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu thầu và thời hạn phê duyệt kết quả nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý đấu thầu. Hệ thống quy định cần được không ngừng bổ sung và hoàn thiện. Hướng đi chính trong thời gian tới là cố gắng cụ thể hoá tới mức cao nhất quyền hạn, trách nhiệm của mỗi phòng ban, cá nhân tạo ra bước đột phá thoát khỏi tình trạng trì trệ. Hệ thống quy định được xây dựng trên cơ sở tương xứng giữa quyền hạn và trách nhiệm làm nền tảng cho phân công công tác, chắc chắn sẽ giúp cho toàn bộ guồng máy hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả. Đồng thời, cần có những quy định chặt chẽ trong việc xử lý vi phạm, chế độ khen thưởng hợp lý thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện hoạt động đấu thầu.
TCT chú trọng tổ chức chặt chẽ các cuộc đấu thầu tại Việt Nam. Các cuộc đấu thầu được diễn ra trong khu biệt lập, cán bộ chấm thầu không được phép ra khỏi khu vực, không được liên lạc với bất cứ người ngoài nào cho đến khi kết thúc toàn bộ công việc liên quan tới chấm thầu. TCT quản lý thông tin theo chế độ bảo mật (có quy định cụ thể). Thông qua việc tổ chức đấu thầu chặt chẽ TCT tránh được các áp lực từ các nhà thầu, tránh được áp lực từ các mối quan hệ xã hội tác động tới kết quả chấm thầu. Các dự án lớn được tổ chức xét thầu nghiêm túc và có hiệu quả cao như: dự án tàu dầu Vietsovpetro 1.
4. Bảo đảm điều kiện thông tin và mở rộng mối quan hệ đối ngoại
4.1. Bảo đảm điều kiện thông tin
Thông tin có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tổ chức đấu thầu nói chung và mua sắm thiết bị chuyên ngành dầu khí nói riêng. Việc nắm bắt được thông tin đầy đủ về các nhà cung ứng tiềm năng có thể hạn chế được rất nhiều thời gian và công sức trong xét chọn thầu và vì thế đấu thầu có hiệu quả cao hơn, tránh tình trạng chịu thiệt thòi về mức giá thầu, đảm bảo thời gian thực hiện hợp đồng như đã đề cập đến ở phần "những tồn tại trong quy trình đấu thầu". Nhưng thông tin lấy ở đâu? Như thế nào? Xử lý như thế
nào?
Trong công tác đấu thầu mua sắm thiết bị ngành dầu khí, TCT cũng phải tiến hành nghiên cứu thị trường thông qua nghiên cứu bạn hàng về khả năng tài chính, kinh nghiệm, thời hạn chuyển giao... nhằm khắc phục những tồn tại nêu ở phần trên và do đó:
+Chọn được đúng thiết bị vì chuyên ngành dầu khí đòi hỏi độ chính xác cao, khả năng xử lý, công nghệ hiện đại và độ an toàn cao.
+Vận chuyển thiết bị đúng thời hạn quy định và đúng tiến độ công
trình.
+Chọn đúng ứng thầu tiềm năng.
+Mua đúng giá và điều kiện tận dụng phù hợp hơn.
Tổng công ty DKVN cần xây dựng một bộ phận cung cấp thông tin về
hoạt động mua sắm quốc tế, đặc biệt là việc mua sắm thiết bị chuyên ngành dầu khí. Việc có đủ các thông tin về nhà cung cấp tiềm năng tạo ra nhiều thuận lợi cho công tác tổ chức đấu thầu, xét thầu, lựa chọn các nhà ứng thầu đủ năng lực.
Các thông tin sau khi được thu thập cần được xử lý theo từng mục tiêu khác nhau: xử lý thông tin để lập kế hoạch NK thiết bị, xử lý theo đơn đặt hàng...
Thực tế, TCT thường áp dụng cách thức thu thập thông tin như: trực tiếp mua lại các thông tin đã thu thập và xử lý từ các ứng thầu tiềm năng hoặc tổ chức khai thác thông tin trên báo, tạp chí và các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các cuộc hội chợ triển lãm về các thiết bị chuyên ngành dầu khí do đội ngũ cán bộ, phòng ban chuyên trách. Thông qua việc
thu thập thông tin thì tăng cường sức mạnh trong vòng đàm phán, tiết kiệm được chi phí cho việc tổ chức đấu thầu, xét thầu có hiệu quả, đón đầu được các cơ hội phát triển trong tương lai nhờ việc kiểm soát được hệ thống thông tin.
4.2. Mở rộng quan hệ đối ngoại
Quan hệ đối ngoại gồm: quan hệ tới người cấp vốn, quan hệ với các cơ quan Nhà nước đặc biệt là quan hệ với các nhà thầu. Danh sách các nhà thầu được mời tham dự sơ tuyển dựa trên 3 nguồn chủ yếu: nguồn tự có hay các công ty vốn sẵn quan tâm đến dự án, danh sách từ công ty tư vấn và hiểu biết từ các thành viên trong Văn phòng Thẩm định thầu, trong Tổ chuyên gia giúp việc đấu thầu. Trong tương lai, các bên mời thầu sẽ cần quan tâm đến các công ty lớn trong ngành dầu khí trên khắp thế giới. Qua việc theo dõi hoạt động của mỗi công ty mới có thể có một danh sách mời thầu toàn diện, phong phú, an toàn và khách quan. Từ đó sẽ tránh được tình trạng bị động trong thời gian xét thầu. Đồng thời để giải quyết tình trạng kết quả bị bóp méo, chỉ đạo từ trên xuống, các cơ quan làm công tác đấu thầu quốc tế cần có quan hệ tốt với các tổ chức cung cấp nguồn vốn để loại bỏ các trung gian gây lãng phí tiền của.
Song song với việc mở rộng quan hệ ngoại giao thì chúng ta đón được các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ngày càng nhiều. Với các nguồn viện trợ từ nước ngoài thì khi thực hiện đấu thầu các nhà thầu Việt Nam khó có thể tham gia. Do đó, khi hợp tác với nước ngoài ta cần tăng cường sự làm chủ của mình, tăng cường hoạt động đấu thầu với nguồn vốn nước ngoài.
Để tăng khả năng thực tế của các nhà thầu Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí ngoài những chính sách ưu tiên của Nhà nước, TCT đã thu hút đầu tư, lập các liên doanh với nước ngoài nhằm cung cấp các dịch vụ chất lượng cao, chuyển giao công nghệ. Từ năm 1991 đến nay TCT đã liên doanh trên rất nhiều lĩnh vực như: liên doanh xử lý số liệu địa chấn Petrovietnam- Golden, liên doanh VLG hoá chất, liên doanh nhựa và hoá chất Phú Mỹ, liên
doanh dầu khí Mê Kông, liên doanh Barit-Tuyên Quang-DMC, liên doanh sản xuất- sửa chữa cần khoan ống chống Viettubes...
5. Lập kế hoạch mua sắm thiết bị NK .
Tổng công ty DKVN có nhiệm vụ trực tiếp XNK các trang thiết bị trong dây chuyền công nghệ, quản lý khai thác dầu khí và các hoạt động khác có liên quan. Để khắc phục tính thiếu thống nhất của các chỉ tiêu trong mua sắm thiết bị, TCT cần lập kế hoạch mua sắm thiết bị trong dài hạn. Mua sắm thiết bị NK là một hoạt động phức tạp cần làm rõ các nội dung sau:
+ Kế hoạch này được xây dựng trong thời gian nào.
+ Những căn cứ để lập kế hoạch: nhu cầu của ngành, sự phát triển công nghệ ngành dầu khí thế giới, khả năng vốn của ngành, khả năng hội nhập quốc tế.
+ Các phương án thay thế và bổ sung nếu những căn cứ trên thay đổi.
+ Danh mục thiết bị mua sắm, các nguồn cung cấp thiết bị: uy tín, năng lực của các nhà cung cấp.
+ Dự kiến nhân sự tham gia vào công tác đấu thầu quốc tế ở mỗi dự
án.
Tổng công ty cũng phải đề ra kế hoạch cụ thể cho từng bước trong
quá trình mua sắm để có thể chủ động giải quyết khi có tình huống bất ngờ xảy ra. Từ yêu cầu chất lượng, số lượng đến việc lựa chọn các nguồn cung cấp, các điều khoản mua và giao hàng, điều khoản mua bán tín dụng, hợp đồng và giám sát thực hiện hợp đồng.
Với yêu cầu về chất lượng: công ty cần đặt ra từng tiêu chuẩn kỹ thuật về mặt lợi ích kinh tế và hiệu quả. Theo đó có thể đưa ra một sự đánh giá về các yêu cầu nguyên liệu trên cơ sở giá, khả năng thay thế sẵn có, các đòi hỏi tiêu chuẩn hoá, vận tải quốc tế...
Vấn đề lựa chọn nguồn cung cấp: công ty cần tránh sự lệ thuộc vào một người cung cấp độc quyền mà nên mở rộng các nguồn cung ứng cạnh tranh nhằm bảo đảm các điều kiện có lợi hơn của thương vụ cũng như tăng khả năng mặc cả.
Yêu cầu đối với các điều khoản mua và giao hàng: giá là một yếu tố quan trọng nhất. Giá đúng không nhất thiết phải là giá thấp nhất mà là giá hợp lý gắn liền với chất lượng.
Các điều khoản mua bán tín dụng: khi tài chính khan hiếm, các phương tiện tín dụng có thể là lợi thế. Tuy nhiên việc mua bán dựa trên các điều khoản tín dụng cũng liên quan tới sự tăng chi phí. Do vậy, các lợi thế và bất lợi của các điều kiện tín dụng phải được đánh giá cẩn thận.
Trong hoạt động NK, các điều kiện giao hàng có tính chất nhất định. Tính kinh tế của các phương thức vận tải cũng được phân tích.
Yêu cầu với hợp đồng mua sắm thiết bị cần đưa vào hợp đồng các điều khoản có đủ hiệu lực pháp lý đối với các nhà cung cấp nước ngoài nhằm bảo vệ người mua trong trường hợp có tranh chấp.
Việc giám sát và điều hành hợp đồng: các hợp đồng NK yêu cầu có sự giám sát liên tục. Các điều kiện về chất lượng, lịch giao hàng, các yêu cầu về chứng từ... giám sát hợp đồng sẽ liên quan chặt chẽ với các đại lý giao nhận và thanh toán, các bộ phận đặt hàng, cơ quan giám định tài chính và bất cứ cơ quan nào có liên quan tới mua sắm NK.
6. Một số kiến nghị đối với Nhà nước
6.1- Bổ sung và ban hành thêm một số văn bản phục vụ cho việc đấu thầu
Một môi trường pháp lý lành mạnh là vô cùng cần thiết vì có như thế thì hoạt động đấu thầu quốc tế nói riêng và các hoạt động khác nói chung mới đi theo đúng hướng, đảm bảo lợi ích của các bên tham gia. Nhưng nền kinh tế thị trường chịu nhiều tác động và luôn vận động không ngừng, do đó môi trường pháp lý cũng phải thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ khác nhau. Dù môi trường pháp lý thống nhất thì vẫn phải bổ sung, hoàn thiện
hơn.
Quy chế đấu thầu mới đề cập tới một số lĩnh vực như mua sắm thiết bị, tư vấn, xây lắp, dự án trong khi đó có những đối tượng chưa được đề cập tới. Đấu thầu các đối tượng có tính chất chuyển giao công nghệ, phần mềm
tin học ứng dụng, thuê mua tài sản, vật tư tiêu hao có giá trị lớn. Khi thực hiện đấu thầu các chủ đầu tư phải theo quy chế của các tổ chức quốc tế.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng phát triển. Nhưng trong quy chế đấu thầu chưa đề cập tới lĩnh vực bảo hiểm. Khi mà nền kinh tế đang phát triển, các công ty, các cá nhân muốn mua bảo hiểm ở công ty nào có phí bảo hiểm thấp mà giá trị nhận bảo hiểm cao. Đây là vấn đề thiết thực cho những công ty lớn có nhu cầu bảo hiểm song các công ty trong nước chưa đáp ứng được, phải cần đến các công ty bảo hiểm quốc tế. Như vậy, Nhà nước cần ban hành quy chế đấu thầu trong lĩnh vực bảo hiểm (đặc biệt là hoạt động tái bảo hiểm) để các công ty Việt Nam không bị thiệt thòi khi áp dụng quy chế quốc tế.
Vấn đề ưu đãi nhà thầu trong nước để tăng khả năng cạnh tranh của các nhà thầu trong nước vẫn chưa có một quy định cụ thể nào. Khi tham dự đấu thầu quốc tế ở trong nước các công ty Việt Nam, liên doanh với Việt Nam chịu không ít khó khăn. Nhà nước cần có quy định cụ thể cho vấn đề này để khuyến khích các công ty Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh của các nhà thầu trong nước và đem lại lợi ích cho đất nước.
Trong công tác đấu thầu ở Việt Nam hiện nay, với các công trình cần vốn ứng thầu hay các điều kiện khác mà nhà thầu Việt Nam không đủ điều kiện, các nhà thầu nước ngoài thường thắng thầu rồi khoán thầu cho các nhà thầu Việt Nam để hưởng chênh lệch giá. Vấn đề này đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả công trình và bất công đối với các nhà thầu Việt Nam mà vẫn chưa có điều khoản nào điều chỉnh vấn đề này.
Có một số công ty mạnh còn gọi là công ty 91 thành lập theo quyết định của Chính phủ), có xu hướng phát triển thành các tập đoàn kinh tế trong đó có TCT dầu khí Việt Nam. Hầu hết các TCT này đều đề nghị Chính phủ và các Bộ có quy định thống nhất việc áp dụng quy chế đấu thầu trong nội bộ để việc kết hợp giữa đấu thầu rộng rãi và chỉ định thầu trong nội bộ các tổng công ty 91. Nếu thiên quá về đấu thầu rộng rãi không có sự phân biệt thì mối liên kết của các đơn vị thành viên bị hạn chế, không phát huy được ưu thế của mô hình cạnh tranh của tập đoàn kinh tế. Vì TCT thường có nhiều
thành viên có mối quan hệ trao đổi sản phẩm dịch vụ cho nhau, chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng khối lượng sản phẩm dịch vụ của TCT, có các đơn vị xây lắp và tư vấn chuyên ngành. Ví dụ, Tổng công ty DKVN có các đơn vị thành viên là công ty xây lắp, công ty bảo hiểm dầu khí, công ty tư vấn đầu tư xây dựng dầu khí... TCT thường có cơ chế ưu tiên tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ nội ngành. TCT dầu khí Việt Nam chỉ định các công ty sử dụng các loại vật tư, dịch vụ mà các đơn vị trong nước, trong ngành có thể cung cấp như Barit, Bentonit và một số hoá phẩm của DMC, tầu thuyền của PTSC, bảo hiểm thông qua PVIC, mua ống khai thác tại Viettube...Chính vì vậy các TCT này đều đề nghị Chính phủ có quy định thống nhất việc áp dụng quy chế đấu thầu trong nội bộ TCT 91.
Một thực trạng thường thấy giá trúng thầu trong một số trường hợp thấp hơn nhiều so với mức ước tính. Điều này là do cạnh tranh bắt buộc nhà thầu nhằm hạ giá thành tối đa, mong có việc làm...Hậu quả là chất lượng công trình không đảm bảo, tiến độ thực hiện chậm, gây tố kém chi phí. Nhằm giải quyết tình trạng bỏ giá quá thấp trong đấu thầu gây hậu quả xấu cho dự án, Nhà nước cần bổ sung các văn bản quy định cụ thể về "chống phá giá" trong đấu thầu và xử lý vi phạm Quy chế đấu thầu. Do việc vi phạm Quy chế đấu thầu dẫn tới khiếu kiện giữa các nhà thầu hoặc có sự bất đồng ý kiến giữa TCT và các công ty thành viên. Điều này dẫn tới tình trạng kéo dài thời gian xem xét phê duyệt, gây lãng phí công sức, kinh phí kiểm tra, làm lỡ cơ hội thực hiện dự án.
6.2- Hoàn thiện khâu tổ chức và quản lý của Nhà nước về đấu thầu
Các nguyên nhân chủ quan và khách quan đã gây ra thực trạng là hoạt động đấu thầu bị bóp méo đi trong thời gian qua không chỉ ở Tổng công ty DKVN mà còn là vấn đề chung ở các công ty khác. Trong một số trường hợp, không ít cuộc đấu thầu chỉ mang tính hình thức, thiếu hiệu quả: các bên mời thầu tạo ra những kẽ hở hay thiếu khách quan để nhằm mục đích cho nhà thầu nào đó trúng thầu, trình độ hạn chế của các chuyên gia xét thầu, sự phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài trong các dự án có vốn của họ...đã làm
tiêu tốn các nguồn lực đầu tư, giảm chất lượng công trình, hiệu quả hoạt động không cao...Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp lý nêu rõ quyền lợi và trách nhiệm giữa các bên tham gia vào thực hiện hợp đồng. Các quy định nêu rõ ràng, chi tiết đối với các hành vi tiêu cực làm giảm đi hiệu quả vốn có của hoạt động đấu thầu. Để làm được điều này đòi hỏi có sự kết hợp chặt chẽ, thống nhất giữa các Bộ, ngành, các công ty có liên quan. Chính phủ nên đề nghị các Bộ, ngành, các Tổng công ty lớn thành lập ban thanh tra trong đó có thanh tra hoạt động đấu thầu.
6.3- Đơn giản hoá thủ tục hành chính trong tổ chức đấu thầu quốc tế
Thước đo hiệu quả việc mua sắm trong các hoạt động kinh tế là lợi nhuận. Do có sự phụ thuộc vào ngân sách, các cơ quan mua sắm ở trung ương phải tuân thủ các thủ tục đặt ra trong khuôn khổ luật pháp và quy chế cho phép. Trách nhiệm đối với Nhà nước là đặc trưng nổi bật của việc mua sắm tại các cơ quan này. Để đảm bảo lợi ích chung, các quy định pháp lý được tuân thủ. Tuy nhiên, việc tuân thủ quá cứng nhắc trong mua sắm công cộng kiểu này có thể không đảm bảo hiệu quả cao. Do vậy, cần có sự chuyển dịch tới một phương thức mềm dẻo hơn được chấp nhận với các tổ chức mà ở đó các cấu trúc thị trường quốc tế và các điều kiện được nâng cao trong quá trình mua sắm hơn là các yêu cầu mang tính thủ tục.
Lý do của việc đơn giản hoá thủ tục hành chính trong công tác đấu thầu quốc tế và xét chọn thầu là:
+ Thủ tục hành chính càng đơn giản càng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu quốc tế.
+ Thủ tục hành chính đơn giản sẽ tạo điều kiện cho tất cả các bên tham gia, từ đó sẽ tạo điều kiện cho đấu thầu quốc tế bắt rễ sâu vào nền kinh tế, tạo thành thói quen, tăng kinh nghiệm khi mua sắm quốc tế.
Nội dung của việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong công tác đấu thầu và xét chọn thầu là giảm thủ tục cũng như sự can thiệp của Nhà nước vào công tác đấu thầu của TCT. Công việc của Nhà nước chỉ nên dừng
lại ở mức độ định hướng các quy chế, ban hành các văn bản hướng dẫn và hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các quy chế đó.
Đồng thời với việc đơn giản hoá thủ tục hành chính, để nâng cao tính hiệu quả công tác quản lý Nhà nước, Chính phủ nên lập một ban kiểm tra công tác xét thầu hoạt động độc lập nhằm kiểm tra, thanh tra các hoạt động đấu thầu quốc tế về mua sắm thiết bị có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. Ban này sẽ nghiên cứu hồ sơ và thực tế đấu thầu ở các đơn vị và báo cáo lại Chính phủ. Song sự hoạt động của ban này phải làm sao không làm chậm quá trình đầu tư của công ty.
Đấu thầu không phải là một thủ tục thuần tuý. Trên thực tế đây là một công nghệ hiện đại mà mục đích là đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được thực hiện tối ưu. Bởi vậy cần hoàn thiện môi trường kinh doanh trên mọi khía cạnh như kinh tế, xã hội, hành chính và cả đạo đức. Một số khía cạnh cần chú ý:
+ Đơn giản hoá thủ tục hành chính trong quản lý, phê duyệt quá trình thực hiện đấu thầu mua sắm thiết bị hàng hoá quốc tế.
+ Xây dựng hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh hợp lý.
+ Giải quyết các vấn đề cấp bách về chính sách xã hội phù hợp với công tác quản lý đấu thầu quốc tế.
Ngoài ra cũng cần chuẩn hoá hệ thống văn bản pháp quy, có hướng dẫn cụ thể rõ ràng, chi tiết cho việc giải quyết các vấn đề nhất định. Thêm vào đó, Nhà nước và các cơ quan chủ quản cần quan tâm đến những nguồn thông tin trong và ngoài nước làm cơ sở đánh giá khoa học, chính xác, giúp cho tổ chức đấu thầu quốc tế đạt hiệu quả cao hơn.
6.4- Xin phép Chính phủ cho xây dựng một quy chế đấu thầu riêng áp dụng cho Tổng công ty DKVN
Trong lĩnh vực dầu khí, phần lớn các hoạt động kinh tế của dự án đều từ vài triệu đến hàng chục triệu USD nên hoạt động đấu thầu là rất phổ biến.
Vì Tổng công ty DKVN là một TCT mạnh của Việt Nam, có đặc thù riêng nên mặc dù Nhà nước ban hành "Luật dầu khí" nhưng cũng chưa đáp ứng được hết các yêu cầu của TCT trong thực tế thực hiện.
Tổng công ty DKVN hoạt động trong các lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, kinh doanh và dịch vụ kèm theo đều mang những nét khác biệt với các ngành khác. Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo nghị định
88/CP và quy chế bổ sung 14/CP quy định khá rõ một số lĩnh vực mua sắm thiết bị, xây lắp, tư vấn dự án. Việc áp dụng quy chế đấu thầu mang lại nhiều lợi ích cho Tổng công ty DKVN song do đặc thù riêng của ngành dầu khí mà có nhiều lĩnh vực đấu thầu của Tổng công ty DKVN không có trong quy định của Nhà nước.
Hoạt động đấu thầu trong lĩnh vực bảo hiểm. Tổng công ty DKVN hoạt động trong môi trường, điều kiện thiên nhiên khó khăn phải chịu rủi ro cao. Chính vì vậy, TCT có nhu cầu mua bảo hiểm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh như bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm các công trình, bảo hiểm tàu thuyền vận tải...Như phần trên đã nói, đấu thầu bảo hiểm là một việc chính đáng để TCT tiết kiệm được vốn của mình song chưa có văn bản Nhà nước quy định. Do đó, TCT phải thực hiện theo quy chế đấu thầu của các tổ chức quốc tế, điều này gây không ít khó khăn, bất lợi cho TCT. Chẳng hạn
như dịch vụ đề phòng cho đề án 3 triệu m3 khí ở TCT đã phải áp dụng theo
quy chế đấu thầu của FIDIC, gây bất lợi cho công ty.
Hoạt động đấu thầu về thuê, mua thiết bị hàng hoá, dịch vụ là rất phổ biến ở TCT. Đó là đấu thầu thuê máy móc, tàu bè... hay đấu thầu về đào tạo năng lực chuyên môn của cán bộ.
Bên cạnh những thiếu sót về các lĩnh vực đấu thầu không được nêu trong quy chế đấu thầu thì TCT còn gặp khó khăn trong sự phân cấp quản lý giá trị của dự án đầu tư. Ngành công nghiệp dầu khí là một ngành công nghiệp kỹ thuật cao, sản xuất kinh doanh lớn do đó giá trị của hàng hoá dịch vụ thường lớn so với các ngành khác. Song quy chế đấu thầu phân cấp quản lý giá trị của dự án đấu tư đều ngang bằng nhau nên TCT thường phải chịu sự phê duyệt của cấp trên ngay cả với những dự án mà TCT có thể tự quyết
định được. Điều này gây tốn kém về thời gian làm chậm các bước đi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh nói chung.
Tổng công ty DKVN kiến nghị với Chính phủ cho phép xây dựng một quy chế đấu thầu riêng cho ngành, không áp dụng chung cho các ngành khác để giúp cho TCT có thể thực hiện các dự án một cách dễ dàng. Hiện nay, TCT đang tham gia góp ý và xây dựng quy chế đấu thầu đặc thù cho ngành dầu khí trình Chính phủ.
Qua đây, ta thấy các văn bản pháp quy từ lý thuyết đến thực tế còn có những khoảng cách nhất định. Hơn nữa, các công ty cũng còn những vướng mắc trong thực hiện. Tổng công ty DKVN cũng không nằm ngoài điều đó và cần phải có những cải tiến, sửa đổi, bổ sung để hoạt động này thực sự đem lại lợi ích cho TCT.
KẾT LUẬN
Ngày nay, phương thức đấu thầu quốc tế đã được áp dụng rộng rãi và được coi như một công cụ đắc lực cho hoạt động kinh tế. Nó giúp các nhà kinh doanh trưởng thành, tích luỹ kinh nghiệm, tăng cường năng lực cạnh tranh nhằm đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Đấu thầu là một hoạt động rất quan trọng trong ngành dầu khí vì hầu như mọi vấn đề liên quan đến các dự án dầu khí đều phải đấu thầu. Hơn nữa, từng bước đi của hoạt động đấu thầu đều phải được công ty nước ngoài (là những công ty ký hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí ngoài khơi Việt Nam với Tổng công ty DKVN) trình lên TCT phê duyệt. Thực tế, hoạt động đấu thầu ở Tổng công ty DKVN đã thu được những kết quả đáng khích lệ song vẫn còn những tồn tại. Những nguyên nhân chủ quan như: cơ chế, tổ chức, thực thi... cũng như những nguyên nhân khách quan như thiếu sót trong quy chế đấu thầu đã làm cho hoạt động đấu thầu thiếu tính hiệu quả. Qua phân
tích, chúng ta cũng thấy cũng còn nhiều vấn đề phải sửa đổi trong quá trình đấu thầu do đặc thù của ngành dầu khí, giúp cho các dự án dầu khí triển khai đúng tiến độ, không bị ách tắc lại vì các thủ tục quá rườm rà. Có như thế mới nâng cao hiệu quả đấu thầu quốc tế ở các ngành nói chung và ngành dầu khí nói riêng.
Cùng với sự đổi thay của đất nước, của các ngành kỹ thuật khác, ngành dầu khí thực sự trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, ngày càng đóng góp nhiều hơn cho đất nước và có một vị trí xứng đáng trong cộng đồng các nước có dầu mỏ.
Tuy nhiên, bài viết có thể còn nhiều thiếu sót do những hạn chế nhất định về trình độ hiểu biết và kinh nghiệm thực tế, vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8385.doc