Rủi ro tín dụng tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam chi nhánh Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp
 MỤC LỤC
 LỜI MỞ ĐẦU 1
 I. Sự cần thiết của đề tài: 1
 II. Mục tiêu của đề tài: 1
 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: 2
 IV. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: 2
 V. Cấu trúc nội dung nghiên cứu của đề tài: 2
 VI. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: .3
 CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1
 I. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM: .1
 1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 1
 2. Đặc điểm của rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 1
 2.1. Rủi ro có tính chất đa dạng và phức tạp: .1
 2.2. Rủi ro có tính tất yếu: 1
 3. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng: .1
 II. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM: 3
 1. Khái niệm về rủi ro tín dụng: 3
 2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng: 4
 2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: 4
 2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu: 4
 2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể
 dự báo: 5
 3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng: 5
 4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng: 6
 4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các
 cơ quan quản lý Nhà Nước: 6
 4.1.1. Xuất phát từ hệ thống thông tin: .6
 4.1.2. Xuất phát từ hệ thống văn bản luật: .7
 4.1.3. Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra: 7
 4.1.4. Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên
 quan: 8
 4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM: .9
 1
 4.2.1. Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín
 dụng: 9
 4.2.2. Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng
 và sự vận dụng chính sách, quy trình tín
 dụng chưa nghiêm túc: .10
 4.2.3. Xuất phát từ công tác thẩm định: 11
 4.2.4. Xuất phát từ tài sản bảo đảm: .13
 4.2.5. Xuất phát từ thông tin tín dụng: 15
 4.2.6. Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ: .15
 4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng đi vay: 16
 4.3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp: .16
 4.3.1. Đối với khách hàng là cá nhân: 17
 4.4. Nguyên nhân khác: 17
 5. Tác động của rủi ro tín dụng: 18
 5.1. Tác động đối với hoạt động kinh doanh của các
 NHTM: 19
 5.2. Đối với nền kinh tế nói chung: 19
 III. Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương
 mại: 20
 1. Khái niệm và mục tiêu của công tác quản trị rủi ro tín dụng:.21
 2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng: .21
 2.1. Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình
 kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó
 có rủi ro tín dụng: 21
 2.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM phụ
 thuộc vào mức độ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng: 22
 2.3. Quản trị rủi ro tín dụng tốt là điều kiện quan trọng
 để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của các
 NHTM: 22
 3. Khung quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng: .22
 3.1. Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng: 23
 3.2. Xác định rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng: 23
 3.3. Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng: .24
 3.4. Giám sát và kiểm tra tín dụng: 24
 3.5 Cơ cấu tổ chức: .24
 2
 3.6. Trách nhiệm cá nhân đối với chất lượng cho vay: 25
 3.7. Hệ thống tính điểm tín dụng: 25
 4. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng: .25
 4.1. Nguyên tắc 1: 25
 4.2. Nguyên tắc 2: 25
 4.3. Nguyên tắc 3: 26
 4.4. Nguyên tắc 4: 26
 4.5. Nguyên tắc 5: 26
 4.6. Nguyên tắc 6: 27
 4.7. Nguyên tắc 7: 27
 4.8. Nguyên tắc 8: 27
 4.9. Nguyên tắc 9: 27
 5. Kinh nghiệm của các ngân hàng Thái Lan trong việc quản trị
 rủi ro tín dụng: .27
 CHƯƠNG 2: ĐIỀU TRA KHẢO SÁT VÀ KẾT QUẢ 29
 I. Đề xuất bảng câu hỏi khảo sát: .29
 1. Mục tiêu đề xuất bảng câu hỏi khảo sát: .29
 2. Một số hạn chế khi thực hiện việc khảo sát: .29
 II. Kết quả khảo sát thực tế: 30
 1. Khảo sát nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: 31
 2. Khảo sát giải pháp giúp hạn chế rủi ro tín dụng: 32
 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO
 TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CN
 CẦN THƠ .33
 I. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội và hoạt động ngân hàng của
 TP.Cần Thơ trong thời gian qua: 33
 II. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ: .36
 III. Thực trạng công tác huy động và sử dụng vốn của Chi nhánh
 Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ trong thời gian qua: .37
 1. Công tác nguồn vốn: .37
 2. Công tác sử dụng vốn: .38
 2.1. Tình hình sử dụng vốn qua 03 năm: 38
 2.2. Tình hình phân loại nợ và trích lập dự phòng để xử
 lý rủi ro trong 03 năm, tổng hợp và xử lý nợ xấu: 40
 3
 IV. Phân tích các nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng tại
 NNTVN–CNCT trong thời gian qua: .43
 1. Nguyên nhân khách quan: .43
 1.1. Môi trường tự nhiên: .43
 1.2. Văn bản luật: .43
 1.3. Thông tin tín dụng: 44
 2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHNTVN–CNCT: 45
 2.1. Cán bộ tín dụng: 45
 2.2. Thông tin tín dụng: 46
 2.3. Tài sản bảo dảm: .46
 2.4. Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng: .48
 2.5. Công tác thẩm định: 48
 2.6. Nguyên nhân khác: 50
 3. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng vay vốn: 50
 3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp: .50
 3.2. Đối với khách hàng là cá nhân: .52
 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN
 DỤNG .53
 I. Nhóm giải pháp đối với Chính Phủ và các cơ quan ngang bộ (Ngân
 hàng Nhà Nước, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên và Môi
 Trường, .): 53
 1. Các vấn đề liên quan đến văn bản luật: .53
 2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: 53
 3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: .55
 II. Nhóm giải pháp đối với NHNTVN – CN Cần Thơ: 56
 1. Các vấn đề liên quan đến cán bộ tín dụng: 56
 1.1. Đối với bản thân cán bộ tín dụng: .56
 1.2. Đối với ngân hàng: 57
 2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: 58
 3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: .59
 4. Các vấn đề liên quan đến chính sách tín dụng, quy trình tín
 dụng: 59
 5. Các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định: 63
 4
 LỜI MỞ ĐẦU
 ----------
 I. Sự cần thiết của đề tài:
 Thực tiễn hoạt động của các NHTMVN trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã cho chúng ta thấy tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ những khoản cấp tín dụng khó đòi, điển hình như: việc đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng, NHTMCP của những năm 1989-1990, việc đặt một số NHTMCP vào tình trạng giám sát đặc biệt những năm 1999-2000, hay những vụ án lớn và việc tiến hành xử lý một khối lượng nợ tồn đọng khá lớn của các NHTMNN từ năm 2000 trở về trước đã chứng minh rất rõ điều này. Thêm vào đó, nhìn vào kết cấu tài sản của các NHTMVN chúng ta nhận thấy: tài sản sinh lời là các khoản cấp tín dụng luôn chiếm tỷ trọng khá lớn 60%-70% tài sản có, thậm chí có một số NHTM tỷ lệ này lên đến 80%.
 Chính vì vậy, tín dụng luôn được đánh giá là một trong các loại nghiệp vụ ngân hàng phức tạp và có độ rủi ro cao, và vấn đề quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề luôn được các NHTMVN quan tâm hàng đầu, nhất là hiện nay khi Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
 Với mục tiêu hướng tới xây dựng mô hình một NHTM đạt tiêu chuẩn quốc tế, hiện đại và vững mạnh, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam – chi nhánh Cần Thơ nói riêng trong quá trình chuyển đổi của mình luôn quan tâm và đặt lên hàng đầu đối với vấn đề kiểm soát tốt các loại rủi ro, trong đó đặc biệt là rủi ro tín dụng.
 Đó cũng là lý do Tác giả chọn đề tài “Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp”.
 II. Mục tiêu của đề tài:
 Đề tài nghiên cứu muốn hướng đến các mục tiêu:
 - Góp phần làm rõ hơn các lý luận về hoạt động tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng.
 - Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại NHNTVN-CNCT.
 - Trên cơ sở lý luận, phân tích thực trạng và nguyên nhân, đề tài nêu ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT nói riêng và các NHTMVN nói chung.
 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài: tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các giải pháp góp phần hạn chế rủi ro tín dụng để có thể góp phần nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng tại NHNTVN-CNCT.
 Phạm vi nghiên cứu: tác giả nghiên cứu giữa lý luận và thực tế nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong thời gian ba năm qua (2004-2006) tại NHNTVN-CNCT, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm để hạn chế rủi ro tín dụng.
 IV. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
 Cùng với việc nghiên cứu các lý luận thuộc chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, đề tài nghiên cứu đã được thực hiện trên cơ sở:
 - Thu thập, tổng hợp các số liệu thực tế về hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT.
 - Ghi nhận các ý kiến, nhận định của các cán bộ tín dụng thông qua các mẫu điều tra về nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các giải pháp góp phần hạn chế rủi ro tín dụng.
 - Trao đổi kinh nghiệm với các cán bộ tín dụng công tác tại NHNTVN- CNCT, và các cán bộ công tác trong ngành tài chính, ngân hàng nói chung.
 - Trên cơ sở lý luận, các số liệu thực tế tổng hợp được, kết quả các mẫu điều tra, và các ý kiến nhận định của các cán bộ tín dụng, tác giả sử dụng các phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT, tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và đưa ra giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
 V. Cấu trúc nội dung nghiên cứu của đề tài:
 Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu được tác giả trình bày gồm bốn chương:
 - Chương 1: Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM.
 - Chương 2: Điều tra khảo sát và các kết quả đạt được.
 - Chương 3: Thực trạng về hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại NHNTVN- NCT.
 - Chương 4: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNTVN-CNCT.
 VI. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
 Đề tài nghiên cứu dựa trên thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM nói chung và NHNTVN-CNCT nói riêng. Tác giả phân tích thực trạng kết hợp với các nghiên cứu, lý luận, tư duy của nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia ngân hàng cũng như kinh nghiệm bản thân, đồng nghiệp trong quá trình tham gia hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng để đưa ra các ý kiến, nhận định, giải pháp, nhằm đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
 Qua việc nghiên cứu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, tác giả mong muốn những suy nghĩ, đề xuất và những gì mình học hỏi được sẽ giúp ích cho công việc thực tế, từ đó góp phần nâng cao mức độ hiệu quả và an toàn trong hoạt động tín dụng nơi NHTM tác giả đang công tác, và xa hơn nữa, mong muốn đề tài nghiên cứu sẽ được áp dụng trong hoạt động của các NHTMVN. .
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
71 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu. Tuy nhiên, mỗi năm khu vực này lại phải hứng chịu nhiều đợt thiên tai 
như hạn hán, mưa bão, lũ lụt. Vì là những rủi ro bất khả kháng nên hậu quả 
mang đến sau những đợt thiên tai thường không thể lường trước được. Thêm 
vào đó là các đợt dịch bệnh phá hoại mùa màng (như bệnh rầy nâu, bệnh vàng 
lùn, lùn xoắn lá)... Với những rủi ro từ môi trường thiên nhiên, hàng năm các 
doanh nghiệp thu mua lúa gạo thường phải gánh chịu hậu quả khi không thu 
mua đủ lúa gạo để cung cấp cho các hợp đồng xuất khẩu đã ký, hoặc phải chấp 
hành lệnh cấm xuất khẩu gạo từ Chính Phủ để đảm bảo vấn đề an lương thực 
quốc gia. Khi đó, vừa phải bồi thường cho các hợp đồng xuất khẩu, vừa có thể 
bị mất khách hàng, các doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng phá sản, không 
trả được nợ cho ngân hàng đối với các khoản đã vay. Đối với NHNTVN-
CNCT, đây được xem là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến rủi 
ro tín dụng khi phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu 
gạo là những khách hàng lớn của Chi nhánh. 
1.2. Văn bản luật: 
Hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua chịu ảnh 
hưởng không chỉ từ việc hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến 
hoạt động ngân hàng có sự chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính 
 44
chặt chẽ mà ảnh hưởng rõ nét nhất là từ việc các chính sách về xuất nhập khẩu, 
các quy định về vấn đề an ninh lương thực được Chính Phủ ban hành, thay đổi 
khá đột ngột. 
Như trong thời gian vừa qua, khi Chính Phủ ban hành các văn bản về tăng 
thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà trước đó Chi nhánh đã mở L/C bảo 
lãnh nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, do thuế tăng nên 
việc kinh doanh của một số khách hàng bị thua lỗ, từ đó dẫn đến việc khách 
hàng chậm trả nợ hoặc không trả được nợ cho ngân hàng. 
Hoặc như khi ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh 
lương thực vay vốn thu mua lúa gạo xuất khẩu (một trong những ngành hàng 
chủ lực của khu vực ĐBSCL, và là một trong những lĩnh vực đầu tư chủ yếu 
của NHNTVN-CNCT) các doanh nghiệp đều đã ký được nhiều đơn hàng xuất 
khẩu gạo, tuy nhiên sau đó, do ảnh hưởng của dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, 
để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc gia, Chính Phủ đột ngột ban hành 
quyết định tạm dừng xuất khẩu gạo. Việc ban hành này đã ảnh hưởng nghiêm 
trọng đến việc thực hiện đúng tiến độ các hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký của 
các doanh nghiệp, hậu quả là nhiều doanh nghiệp thu mua lúa gạo là khách 
hàng lớn của Chi nhánh đã giảm dư nợ, và thực hiện gia hạn nợ. 
Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản 
xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu 
thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, 
kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt 
cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo 
nguồn tiền trả nợ, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi. 
1.3. Thông tin tín dụng: 
Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN tuy hoạt động đã 
đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông 
tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng CIC chưa phải là cơ quan định mức 
tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập và hiệu quả. Thêm vào đó, 
vai trò nối kết các NHTM của CIC còn lỏng lẻo, chưa thực sự mang lại kết quả 
như mong muốn. 
Trong thời gian qua, NHNTVN-CNCT trong một vài trường hợp trước 
khi quyết định cấp tín dụng, có nhiều lần đăng ký hỏi tin CIC, tuy nhiên thông 
tin do CIC cung cấp còn khá đơn điệu, chưa đảm bảo thông tin nhanh nhạy, kịp 
thời, chất lượng thông tin chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu. 
 45
Các NHTM nói chung và NHNTVN-CNCT nói riêng hiện nay chưa nhận 
được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ 
quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản. 
Khi tiến hành phân tích hồ sơ khách hàng, NHNTVN-CNCT cũng còn lệ 
thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động 
tìm kiếm thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa 
các ngân hàng và khách hàng vay . 
2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHNTVN–CNCT: 
2.1. Cán bộ tín dụng: 
Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng tại 
NHNTVN-CNCT hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặc dù theo 
kết quả khảo sát tất cả các cán bộ tín dụng đều có trình độ đại học, tốt nghiệp 
đúng chuyên ngành, tuy nhiên do độ tuổi của đa số cán bộ tín dụng còn khá trẻ, 
phần lớn vừa được tuyển dụng, còn ít kinh nghiệm nên cần phải có thêm thời 
gian để được đào tạo thêm, và đúc kết nhiều kinh nghiệm. 
Bên cạnh nguyên nhân trên, vẫn còn một số ít cán bộ chưa có ý thức tự 
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ít chịu học hỏi kinh nghiệm, chỉ thực hiện 
công việc một cách thụ động. 
Thêm vào đó, công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng 
của NHNTVN-CNCT hiện nay không theo từng ngành hàng, lĩnh vực kinh 
doanh nên dẫn đến việc cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không 
chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức 
chuyên ngành. Khách hàng khi cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật 
máy móc chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia 
đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ yếu ngân hàng tự tìm hiểu thông tin thông 
qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet. Việc không có kiến 
thức chuyên môn về chuyên ngành cần thẩm định dễ đưa đến những đánh giá 
sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại, khách hàng thông tin sai mà 
cán bộ tín dụng không biết, từ đó có những quyết định sai lầm trong cho vay. 
Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực trong công việc của một bộ phận cán bộ tín 
dụng tại NHNTVN-CNCT hiện chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, 
sử dụng, phân công, bố trí công việc và vấn đề đãi ngộ chưa đủ sức thu hút. 
 46
2.2. Thông tin tín dụng: 
Việc thu thập thông tin của ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về 
môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được 
ban hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt 
là những cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được 
thực hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống. 
2.3. Tài sản bảo dảm: 
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua 
liên quan đến TSBĐ có nhiều vấn đề cần được phân tích và làm rõ: 
- Việc quản lý, phân loại, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được 
các cán bộ tín dụng làm thường xuyên mà định kỳ hàng năm chỉ kiểm tra trên 
hồ sơ pháp lý, đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay nên xuất 
hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn so với giá trị thẩm định ban đầu khiến 
cho ngân hàng không thể thu hồi đủ nợ gốc và lãi vay 
- Quá trình định giá trị TSBĐ được ngân hàng thực hiện theo cách các 
bên tự thỏa thuận sau khi cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản trên cơ sở 
tham khảo bảng giá đất quy định do UBND TP ban hành hàng năm. Do đa số 
cán bộ tín dụng tại NHNTVN-CNCT còn khá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm 
nên chưa được trang bị đầy đủ nghiệp vụ chuyên môn trong ngành thẩm định 
giá cũng như sự thông thạo về tài sản cần thẩm định, nhất là trong lĩnh vực bất 
động sản. Chính vì vậy, khi tiến hành định giá, phương pháp định giá đối với 
từng loại tài sản chưa được các cán bộ tín dụng sử dụng một cách thích hợp, 
dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá 
cao ngân hàng sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ và lãi vay trong trường hợp 
khách hàng mất khả năng thanh toán. 
- Tâm lý chung của phần lớn các cán bộ tín dụng khi cấp tín dụng vẫn 
chủ yếu dựa vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay 
cần phải được trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh 
doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng 
khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa 
chủ yếu vào TSBĐ sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không 
đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc 
cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín. 
 47
- Do không thể nắm bắt được chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực, nên 
không tránh khỏi việc cán bộ tín dụng không thể đánh giá được chính xác hiện 
trạng của tất cả các loại máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết 
bị chuyên dụng. Thêm vào đó là tình trạng thông tin bất cân xứng về giá trị 
thực của TSBĐ giữa khách hàng và ngân hàng cũng là vấn đề cần được quan 
tâm. Vì khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của 
tài sản. Chính vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp 
không ít khó khăn. 
- Việc cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay hiện nay chưa rõ ràng và các 
vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở không ít 
cho ngân hàng, cụ thể: 
* Ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian trước 
khi bán đấu giá tài sản như không có đầy đủ kho để bảo quản, giá trị tài sản 
giảm sút nhanh, nhất là trong giai đoạn công nghệ thông tin hiện nay, khi đó, để 
có thể bán, khai thác hoặc cho thuê buộc ngân hàng phải sửa chữa, đầu tư thêm, 
điều này làm cho chi phí tăng lên, trong khi giá trị thu hồi từ các tài sản chưa 
chắc đã thu đủ nợ gốc, hoặc như vướng mắc về hồ sơ, thủ tục pháp lý,…nên giá 
bán thực tế đôi khi thấp hơn rất nhiều so với giá bán dự kiến, và vấn đề sẽ càng 
trở nên khó khăn hơn nhiều đối với những tài sản chuyên dùng. Đối với tài sản 
là bất động sản, do giá trị tài sản quá lớn (có những tài sản trị giá vài chục tỉ 
đồng hay thậm chí vài trăm tỉ đồng) gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu 
hồi nợ, vì ít người có khả năng mua được. Hơn nữa, khi bỏ ra một số tiền quá 
lớn để mua lại tài sản “vỡ nợ” thì sức ép tâm lý không phải dễ dàng vượt qua. 
* Trong việc phát mãi TSBĐ, ngân hàng chưa có thực quyền trong 
việc bán, quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản. Để phát mãi 
TSBĐ, ngân hàng phải xin được giải quyết quyền lợi bằng việc khởi kiện ra tòa 
án, do đó, tốn kém rất nhiều thời gian và chi phí. 
* Sự phối hợp giữa cơ quan công an, viện kiểm soát, tòa án, các sở, 
ban, ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ còn nhiều hạn chế, 
chưa đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời. 
* Ngân hàng gặp nhiều vướng mắc khi nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi 
hành án. 
 48
2.4. Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng: 
Sau gần một năm triển khai quy trình tín dụng mới theo tư vấn của dự án 
Hỗ trợ kỹ thuật Hà Lan, có thể nói mô hình tín dụng mới đã thay đổi một cách 
căn bản cơ chế quản lý điều hành hoạt động tín dụng truyền thống tại ngân 
hàng từ trước đến nay. Hai chức năng quan trọng trong hoạt động tín dụng là 
chức năng quan hệ khách hàng (bộ phận quan hệ khách hàng) và chức năng 
quản lý rủi ro (bộ phận quản lý rủi ro tín dụng và bộ phận quản lý nợ) được 
thực hiện tách biệt với mục đích vừa nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín 
dụng vừa chú trọng mở rộng phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, phạm vi điều 
chỉnh của quy trình mới chỉ giới hạn đối với nhóm khách hàng là doanh nghiệp 
lớn, chưa có cơ chế quản lý điều hành trong việc cấp tín dụng đến nhóm doanh 
nghiệp vừa và nhỏ và nhóm khách hàng cá thể. Do mới đi vào hoạt động nên 
quy trình tín dụng mới chưa thể phát huy hết tính hiệu quả, trong quá trình thực 
hiện ngân hàng vẫn vấp phải những vướng mắc cần có sự thống nhất toàn hệ 
thống NHNT sau thời gian triển khai quy định. Rủi ro tín dụng sẽ dễ dàng xảy 
ra nếu như quá trình cấp tín dụng vẫn tiến hành theo cách thức vận dụng khá 
“linh hoạt” quy trình tín dụng như ngân hàng đã thường thực hiện trước đây. 
2.5. Công tác thẩm định: 
Trong quy trình cấp tín dụng, thẩm định được xem là bước quan trọng và 
ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả của khoản vay. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra nếu 
công tác thẩm định không được thực hiện tốt. Khi tiến hành thẩm định, cán bộ 
tín dụng phải tiến hành thẩm định cả yêu tố uy tín, năng lực quản lý và năng 
lực quản trị của khách hàng. 
Tuy nhiên, hiện nay, công việc đánh giá uy tín của khách hàng đang là 
vấn đề thật sự khó khăn khi nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của 
khách hàng còn hạn chế. Cán bộ tín dụng khi đánh giá chủ yếu dựa vào cảm 
tính và chủ quan, như căn cứ vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay 
trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới 
quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc 
với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối 
tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực 
kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây 
dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai 
trò của mình, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, 
 49
nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu 
thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn. 
Về năng lực quản trị, mặc dù nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết 
định sự thành bại của doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả 
đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ 
phận lãnh đạo của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt 
kê bằng cấp và số năm công tác. Kết quả là việc đánh giá năng lực quản lý của 
khách hàng chỉ mang tính hình thức, không đánh giá đúng thực chất. 
Về năng lực tài chính, công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa 
vào việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. 
Hiện nay do Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói 
độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao, nhất là đối với các 
DNTN. Ngân hàng dù biết kiểm toán báo cáo tài chính là tốt nhưng cũng không 
dám đề nghị khách hàng thực hiện vì sợ mất khách hàng. Từ những số liệu 
chưa thực sự tin cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh 
đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng. 
Đối với các dự án/phương án, thẩm định tính hiệu quả là khâu quan trọng, 
ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Tuy nhiên do có 
nhiều nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng 
đánh giá phương án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả: 
- Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định các khía 
cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội 
của dự án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông 
tin như của Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Trên 
thị trường hiện nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu 
thị trường. Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ 
thẩm định chủ yếu phải dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập 
qua báo chí, internet,… 
- Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh 
doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
còn yếu. 
- Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước 
thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng 
có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, 
 50
ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi 
trường, … 
- Một khó khăn khác trong công tác thẩm định dự án đó là xác định 
một suất chiết khấu phù hợp mức độ rủi ro của dự án và doanh nghiệp vay vốn. 
Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán và các dịch vụ tài chính chưa phát triển 
nên việc xác định suất chiết khấu dựa trên mô hình CAPM khó có thể thực hiện 
được. Các cán bộ tín dụng thường sử dụng lãi suất cho vay làm suất chiết khấu. 
Suất chiết khấu được áp dụng cào bằng như nhau giữa các dự án có mức độ rủi 
ro khác nhau có thể để lọt những dự án có độ rủi ro cao. 
- Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, xếp loại doanh 
nghiệp giữa các ngân hàng chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường 
xuyên, định kỳ, một số ngân hàng còn xem việc này chỉ mang tính hình thức. 
Kết quả là việc đánh giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong 
điều kiện trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu. 
2.6. Nguyên nhân khác: 
Do áp lực phải hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch hàng năm, chạy theo thành 
tích muốn tăng nhanh dư nợ vào thời gian những tháng cuối năm, không chỉ 
riêng NHNTVN-CNCT mà hầu hết các NHTM đều xảy ra tình trạng hạ thấp lãi 
suất cho vay, hạ thấp điều kiện tín dụng để thu hút khách hàng, dẫn đến việc 
cạnh tranh thiếu lành mạnh. Công tác thẩm định chỉ được thực hiện mang tính 
hình thức, buông lỏng khâu kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay. 
3. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng vay vốn: 
3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp: 
Trong thực tế hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT, rủi ro tín dụng 
xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do các nguyên nhân: 
- Sau khi nhận được vốn vay, các doanh nghiệp thường có động cơ sử 
dụng vốn vào các mục đích rủi ro với mức sinh lợi cao. Tuy nhiên, vấn đề các 
doanh nghiệp sử dụng vốn vay không đúng mục đích không chỉ do ý chí chủ 
quan của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ công tác giám sát khách hàng sau 
khi cho vay của ngân hàng chưa thật sự chặt chẽ. Thêm vào đó, do Việt Nam 
vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt, trong khi khách hàng cùng một lúc quan hệ 
với nhiều ngân hàng nên một số khoản vay rất khó kiểm soát, việc sử dụng vốn 
vay chồng chéo giữa các ngân hàng là rất phổ biến mà ngân hàng rất khó có thể 
 51
phát hiện. Trong một số trường hợp do tâm lý ỷ lại là ít khi bị pháp luật trừng 
trị khi vi phạm hợp đồng nên khách hàng đã sử dụng khoản tiền trả nợ cho 
ngân hàng để dùng vào những mục đích khác, làm cho nợ vay không được trả 
đúng hạn, thể hiện ở những khoản nợ quá hạn và gia hạn nợ. 
- Khách hàng hiện nay của chi nhánh vẫn còn khá đông các DNNN. 
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình các DNNN chưa thật sự nỗ lực 
trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả. Vì do doanh nghiệp luôn có tâm lý ỷ 
lại vào cơ chế xử lý của Nhà nước, nếu kinh doanh thua lỗ doanh nghiệp cũng 
vẫn tồn tại, trả nợ vay không được Nhà nước sẽ có cơ chế xử lý. Chính vì tâm 
lý này mà một số DNNN rất thiếu sự cẩn trọng trong việc quyết định đầu tư. 
Chỉ cần có ý tưởng là đề xuất dự án vay vốn ngân hàng. Vì không có sự nghiêm 
túc trong quyết định đầu tư nên quá trình triển khai thực hiện dự án gặp rất 
nhiều vướng mắc, có khi dẫn đến dự án bị phá sản, toàn bộ nguồn vốn đã đầu 
tư đều bị mất. Hành vi ỷ lại này thể hiện rất rõ trong quá trình triển khai thực 
hiện dự án của các DNNN. Rất hiếm khi các doanh nghiệp đánh giá kết quả 
thực hiện cho từng giai đoạn để thấy được những mặt làm được cũng như 
những tồn tại cần khắc phục và dự báo những khó khăn, trở ngại phải đối mặt 
trong thời gian tới để đảm bảo cho việc thực thi dự án thành công. Chính từ sự 
thiếu trách nhiệm đã dẫn đến một số dự án bị thua lỗ. 
- Hầu hết các hách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông 
tin đầy đủ và chính xác để phục vụ cho việc cấp tín dụng: các báo cáo tài chính 
thường thiếu sự minh bạch, trung thực, không được kiểm toán hoặc một số 
doanh nghiệp tuy có thực hiện kiểm toán nhưng chậm so với thời gian ngân 
hàng cần có để sử dụng cho quá trình phân tích. 
- Công tác quản lý, điều hành của một số doanh nghiệp chưa hiệu quả. 
Năng lực điều hành của Ban lãnh đạo còn nhiều hạn chế, chưa đủ kinh nghiệm 
và tầm nhìn về lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, trình độ, kiến thức về 
quản lý kinh tế yếu kém thể hiện qua việc doanh nghiệp không có chiến lược 
kinh doanh rõ ràng, cụ thể, không có kế hoạch kinh doanh được triển khai, 
không chủ động trong việc tìm kiếm thông tin về sự biến động của giá cả thị 
trường, ngành hàng, về tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, đối thủ 
cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp không có khả năng thích ứng kịp thời với sự 
biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng của thị trường và môi trường 
kinh doanh, cũng như các sản phẩm làm ra không có sự gắn kết, không đáp ứng 
được thị hiếu của người tiêu dùng... Đa phần các doanh nghiệp vay vốn nhằm 
mục đích mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh. Song hầu hết các 
doanh nghiệp lại ít chịu mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ 
 52
máy điều hành, giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. 
Quy mô kinh doanh mở rộng quá lớn so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn 
đến sự phá sản của hầu hết các doanh nghiệp. 
- Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên về trình độ chuyên môn, tay nghề, 
kỷ thuật và kỹ luật lao động. 
- Thói quen sản xuất, kinh doanh theo kiểu phong trào: thấy lĩnh vực 
nào có hiệu quả, các doanh nghiệp thường đổ xô đầu tư mà không xem xét đầy 
đủ mọi khía cạnh. 
- Công nghệ, quy trình sản xuất của doanh nghiệp không tạo ra được 
những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Nguyên nhân một mặt do Ban lãnh đạo 
chưa đủ tầm nhìn mặt khác do sự phát triển quá nhanh của các tiến bộ khoa 
học, kỹ thuật và công nghệ. 
- Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi 
trường kinh tế - xã hội như sự thay đổi quan điểm và sở thích của người tiêu 
dùng, thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố... 
3.2. Đối với khách hàng là cá nhân: 
Với các khách hàng là cá nhân, nguyên nhân dẫn đến rủi ro chó 
NHNTVN-CNCT thường do: 
- Hoạt động kinh doanh của khách hàng không gặp thuận lợi, khả năng 
quản lý tình hình tài chính yếu kém. 
- Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do 
mất việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động. 
- Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống nên phải sử 
dụng một số tiền lớn do đó ảnh hưởng khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. 
- Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn 
sai mục đích... 
 53
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HẠN 
CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG 
I. Nhóm giải pháp đối với Chính Phủ và các cơ quan ngang bộ (Ngân hàng 
Nhà Nước, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường,...): 
1. Các vấn đề liên quan đến văn bản luật: 
Chính Phủ cùng với các cơ quan ngang bộ (như NHNN, Bộ Tài Chính, 
Bộ Tài Nguyên Môi Trường,...) cần xem xét, rà soát lại tất cả các văn bản liên 
quan đến hoạt động tín dụng, đảm bảo tính chặt chẽ, hợp lý, rõ ràng và không 
có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản Luật thông qua việc ban hành 
các văn bản mới để bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế các văn bản có những điều 
khoản chưa hợp lý. Nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để 
các NHTM có cơ sở cho việc dẫn chiếu các căn cứ pháp lý. 
Bên cạnh đó, Chính Phủ và các cơ quan ngang Bộ cần nghiên cứu ban 
hành các văn bản Luật, các quy định về những vấn đề mới, mang tính cấp thiết 
đối với hoạt động tín dụng như: 
- Ban hành các văn bản quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các 
doanh nghiệp, đặc biệt đối với các công ty cổ phần để các NHTM dựa vào đó 
quy định báo cáo tài chính của các công ty khi vay vốn phải có xác nhận của tổ 
chức kiểm toán độc lập, là điều kiện không thể thiếu khi vay vốn. 
- Xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn 
mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây 
dựng cơ bản... làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án. 
2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: 
Chính Phủ và NHNN cần quan tâm đến việc nâng cấp và phát triển Trung 
tâm thông tin tín dụng (CIC) trở thành trung tâm dữ liệu hàng đầu quốc gia: 
- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nên xây dựng phần mềm đa năng 
ứng dụng thống nhất cho các ngân hàng, chuyên môn hóa kỹ thuật ứng dụng 
công nghệ tin học trong công tác phân tích, đánh giá xếp loại doanh nghiệp, cập 
nhật lưu trữ thông tin khách hàng, đảm bảo tính chính xác, rút ngắn thời gian 
 54
thẩm định. Phải có chế độ kiểm tra, biện pháp chế tài đối với những ngân hàng 
không chuyển số liệu về Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) theo quy định. 
- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nhanh chóng củng cố đội ngũ cán 
bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hóa và tự động hóa tất cả các công đoạn 
xử lý nghiệp vụ để tạo ra nhiều sản phẩm thông tin, đẩy mạnh việc thu thập, xử 
lý và cung cấp thông tin nhằm hỗ trợ có hiệu quả đối với hoạt động của các 
ngân hàng và phục vụ cho hoạt động giám sát của NHNN. Đồng thời đi sâu 
phân tích, đánh giá, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, kịp thời dự báo, cảnh báo 
nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. 
- Để tạo tiền đề cho những bước phát triển mới trong hoạt động nghiệp 
vụ, phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm 
tín dụng, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cần thực hiện nghiên cứu đề án: 
thay đổi mở rộng việc phân ngành kinh tế, mở rộng hơn các đối tượng được sử 
dụng thông tin phân tích, kết quả xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, bổ sung và 
lượng hóa một số chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, các chỉ tiêu về dư nợ. 
Bên cạnh đó, Chính Phủ cần nghiên cứu cho phép thành lập các trung tâm 
thông tin tín dụng tư nhân để tăng cường khả năng tiếp cận tài chính ở Việt 
Nam. Đây là một lĩnh vực khá mới, cần có sự hỗ trợ của Chính Phủ trong giai 
đoạn đầu thực hiện. Để có được một trung tâm thông tin tín dụng tư nhân hoạt 
động hiệu quả, cần: 
- Xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp. 
- Có sự cam kết tham gia của các đối tác liên quan, đặc biệt là các tổ 
chức tài chính lớn. 
- Có sự hợp tác giữa khu vực công–tư và sự hiểu biết của toàn xã hội. 
- Tham khảo chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế. 
Ngoài ra, NHNN cũng cần ban hành các quy định cụ thể và chế tài đối 
với các NHTM trong việc bắt buộc các NHTM phải khai thác, sử dụng thông 
tin như là điều kiện cần phải có trong quy trình cấp tín dụng và cung cấp thông 
tin về cho Trung tâm thông tín dụng (CIC)chính xác và kịp thời. Thanh tra 
NHNN, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trung tâm 
thông tin tín dụng phối hợp đôn đốc, kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin 
của các NHTM, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với 
những đơn vị vi phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng. 
 55
Chính Phủ cần khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành nghề để tạo ra 
sự gắn kết trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong ngành và là cầu nối 
giữa các doanh nghiệp trong ngành với thị trường bên ngoài – trong đó có bên 
cung ứng vốn là ngân hàng. Các hiệp hội sẽ thực hiện các nhiệm vụ: nghiên 
cứu thị trường, xúc tiến đầu tư, dự báo phát triển ngành, tiếp cận thị trường 
mới, đánh giá và xếp loại các doanh nghiệp trong ngành,… Để hoạt động có 
hiệu quả, các hiệp hội nên hoạt động độc lập về mặt chính trị với mục tiêu là 
phục vụ cho sự phát triển đi lên của ngành. 
NHNN và Hiệp hội ngân hàng cần có những định hướng cụ thể trong việc 
thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chung cho cả hệ thống ngân hàng. 
Vì nếu hoạt động xếp hạng tín dụng nội bộ không tạo được tiếng nói chung 
trong toàn hệ thống sẽ dẫn đến những khó khăn trong tương lai tương tự như 
việc độc lập thiết lập các hệ thống thanh toán thẻ ATM của từng ngân hàng. 
Các NHTM, ngành ngân hàng cần sớm nhận thấy khó khăn tiềm ẩn khi độc lập 
phát triển các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình. Hay nói cách khác, 
mặc dù là “nội bộ”, thông tin xếp hạng tín dụng nội bộ của một NHTM phải có 
thể “so sánh được” (tương thích) với thông tin xếp hạng của các NHTM khác. 
Muốn vậy, các NHTM cần phải sử dụng những phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí 
đánh giá được thừa nhận rộng rãi trong việc xếp hạng tín dụng nội bộ. Công bố 
công khai các phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí sử dụng để đánh giá, xếp hạng, 
trong đó phải nêu rõ các hạng mức đánh giá tự thiết lập tương đương mức độ 
nào với những hạn mức đánh giá đã được thừa nhận rộng rãi (của các NHTM 
khác hoặc của những tổ chức đánh giá độc lập, kể cả trong và ngoài nước). Do 
đó, có thể nói vai trò “nhạc trưởng” của NHNN, Hiệp hội ngân hàng là rất quan 
trọng trong việc tổ chức các hội thảo chuyên đề, giới thiệu phương pháp, kỹ 
thuật, tiêu chí đánh giá, xếp hạng tín dụng của các NHTM hay tổ chức đánh giá 
độc lập có uy tín trên thế giới để các NHTM áp dụng. 
3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: 
Chính Phủ cần xây dựng Luật về bảo đảm tiền vay, bảo đảm quyền của 
các TCTD với thu nhập và TSBĐ của khách hàng vay vốn một cách chặt chẽ 
hơn, giải phóng nhanh về vốn đang là vấn đề bức xúc của các NHTM. 
Giải quyết những vướng mắc khi ngân hàng nhận lại TSBĐ từ cơ quan 
thi hành án, điều chỉnh một số điều khoản trong Pháp lệnh thi hành án đảm bảo 
tính thống nhất và hợp lý với những văn bản có liên quan. Cụ thể: như đã phân 
tích về các vướng mắc của ngân hàng trong việc nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi 
hành án, việc cơ quan thi hành án qua hai lần bán đấu giá không thành thì giao 
 56
lại cho người được thi hành án (ngân hàng) theo giá đã giảm để thi hành án là 
điều không hợp lý, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng. Mặt khác, cũng chưa 
đúng với hướng dẫn xử lý TSBĐ của Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT, do 
vậy, đứng trên góc độ ngân hàng (người được thi hành án) đề nghị Chính Phủ, 
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cùng các cơ quan cấp Bộ có liên quan xem xét để 
sửa đổi điều 48 của Pháp Lệnh thi hành án như sau: “Nếu sau hai lần giảm giá 
mà tài sản vẫn không bán được thì người được thi hành án có quyền nhận lại tài 
sản để xử lý bán công khai theo quy định của pháp luật. Nếu giá trị tài sản thực 
tế bán được lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm thì người được thi hành án phải có trách 
nhiệm chuyển số tiền chênh lệch đó cho cơ quan thi hành án để thi hành án. 
Trong trường hợp ngược lại, nếu giá trị tài sản thực tế bán được thấp hơn nghĩa 
vụ bảo đảm thì khách hàng vay phải có trách nhiệm với phần nợ vay còn 
thiếu”. Với hướng giải quyết này sẽ tạo điều kiện cho NHTM xử lý TSBĐ, thu 
hồi vốn vay cho ngân hàng được thuận tiện, nhanh chóng và đúng chế độ quy 
định về xử lý TSBĐ. 
Nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy cho hoạt động thẩm 
định giá, tạo điều kiện dễ dàng hơn để thành lập các doanh nghiệp thẩm định 
giá. Do vai trò của công tác thẩm định giá đối với hoạt động của các ngân hàng 
ngày càng quan trọng nên việc thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá là cần 
thiết trong thời gian sắp tới. Doanh nghiệp thẩm định giá với khả năng chuyên 
môn sâu và rộng của mình sẽ thay cho các ngân hàng chịu trách nhiệm về việc 
thẩm định giá trị các tài sản thế chấp, cầm cố, các dự án đầu tư, giá trị doanh 
nghiệp,...một cách chính xác, trung thực, hợp pháp,...nhằm giải quyết toàn bộ 
những khó khăn mà các ngân hàng đang gặp phải. 
 II. Nhóm giải pháp đối với NHNTVN – CN Cần Thơ: 
1. Các vấn đề liên quan đến cán bộ tín dụng: 
1.1. Đối với bản thân cán bộ tín dụng: 
Mỗi cán bộ tín dụng phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao 
ý thức trách nhiệm trong công việc. Cán bộ ở cương vị càng cao, càng phải thể 
hiện sự gương mẫu. 
Ngoài ra, bên cạnh việc thường xuyên phải nghiên cứu, học tập, nắm 
vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành, mỗi cán bộ tín dụng còn phải 
không ngừng nâng cao năng lực công tác thông qua học hỏi kinh nghiệm nhất 
là khả năng phát hiện, ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách hàng. Cán 
bộ tín dụng phải nắm bắt thật kỹ các nghiệp vụ chuyên môn: quy trình cấp tín 
 57
dụng, kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, đánh giá khách hàng, các biện pháp 
quản lý rủi ro, cách thức phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro... Thường 
xuyên cập nhật các kiến thức về kinh tế, luật pháp, thông tin thị trường,...trao 
dồi khả năng ngoại ngữ và tin học vì nghiệp vụ ngân hàng phát triển với tốc độ 
rất cao mà nguồn cung cấp kiến thức chủ yếu từ nguồn tài nguyên tri thức của 
thế giới. 
1.2. Đối với ngân hàng: 
Nâng cao nhận thức của từng cán bộ tín dụng: giúp các cán bộ hiểu rõ về 
bản chất các loại rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng mà ngân hàng luôn phải đối 
mặt; những nguyên nhân gây ra rủi ro; những hậu quả mà rủi ro có thể đưa đến 
cho ngân hàng; những biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro... 
Đưa ra các quy tắc đạo đức trong quá trình thực hiện nghiệp vụ: 
- Trung thực, minh bạch và công khai khi thực hiện nhiệm vụ được giao. 
- Hết lòng phục vụ khách hàng, song bảo đảm không đặt ngân hàng 
hoặc các cán bộ khác vào những mối quan hệ có mâu thuẫn về lợi ích. 
- Không tham gia vào các hoạt động bị cấm. 
- Không cung cấp thông tin nội bộ cho hoạt động bên ngoài ngân hàng. 
- Không sử dụng tài sản, thông tin của ngân hàng phục vụ cho các mục 
đích cá nhân. 
- Có tinh thần trách nhiệm cao và tự chịu trách nhiệm trong tất cả các 
quyết định. 
Vì chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng là nhân tố quan trọng bậc nhất 
trong việc quản lý rủi ro tín dụng nên ngân hàng cần phối hợp với các đơn vị có 
liên quan thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức để nâng 
cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro tín dụng cho cán bộ tín dụng. 
Thường xuyên kiểm tra, quản lý cán bộ tín dụng khi thấy có những biểu 
hiện bất thường đáng quan tâm trong sinh hoạt hàng ngày…Vì với kinh nghiệm 
và hiểu biết, một số cán bộ tín dụng dễ tìm cách thông đồng với khách hàng, 
chia phần trăm trên số vốn được vay, hay các hành vi lừa đảo khác. 
Có chính sách thưởng, phạt công bằng để tránh hiện tượng “chảy máu 
chất xám”, tạo kỷ cương trong hoạt động tín dụng. Đối với cán bộ có thành tích 
 58
xuất sắc, cần biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng 
với kết quả họ mang lại, kể cả việc nâng lương trước hạn hoặc đề bạt lên đảm 
nhiệm ở vị trí cao hơn. Đối với cán bộ có sai phạm, tùy theo tính chất, mức độ 
mà có thể xử lý kỷ luật hoặc thuyên chuyển sang những công việc khác. 
Có chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đề bạt, phân công, bố trí 
công việc phù hợp với năng lực và trình độ của từng cán bộ tín dụng: 
- Đảm bảo thu nhập phải tương xứng với trách nhiệm; phân phối thu 
nhập phải căn cứ vào chất lượng công việc. 
- Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào 
những vị trí quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người. 
- Có chính sách ưu đãi cho cán bộ tín dụng để khuyến khích tinh thần, 
trách nhiệm, ý thức vươn lên, tự hoàn thiện của mỗi cán bộ. 
2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: 
Để phối hợp với Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) hoàn thiện và phát 
triển hệ thống thông tin tín dụng, NHNTVN-CNCT cần tăng cường việc chỉ 
đạo, theo dõi đôn đốc và kiểm soát việc báo cáo kịp thời đầy đủ, chính xác số 
lượng và chất lượng thông tin tín dụng về Trung tâm thông tin tín dụng 
NHNTVN và Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN. 
NHNTVN-CNCT cần ứng dụng thông tin, thiết lập phần mềm để quản lý 
khách hàng, thống kê, lưu trữ thông tin làm cơ sở phân tích đánh giá khách 
hàng cho những lần cấp tín dụng sau. Quy định cụ thể, chặt chẽ về lưu trữ, bảo 
quản và quản lý hồ sơ tín dụng như một tài sản quan trọng của ngân hàng. 
Ngoài ra, do nguồn thông tin khách hàng cung cấp có thể chưa đảm bảo 
tính chính xác và đầy đủ nên NHNTVN-CNCT cần phải thu thập thêm nhiều 
thông tin hơn nữa từ các nguồn thông tin bên ngoài về quá trình phát triển của 
khách hàng, và ngành nghề kinh doanh của khách hàng để dự đoán được 
khuynh hướng phát triển, áp lực cạnh tranh từ các đối thủ của khách hàng, qua 
đó đánh giá khả năng kinh doanh và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. 
Nguồn thông tin từ bên ngoài có vai trò quan trọng trong việc đánh giá khách 
hàng vay một cách toàn diện. Đây chính là thông tin tín dụng được cung cấp từ 
các cơ quan thông tin tín dụng trong và ngoài nước, các cơ quan ban ngành có 
liên quan như cơ quan thuế, các tạp chí chuyên ngành, các cơ quan thông tin 
đại chúng, internet... 
 59
Bên cạnh đó, NHNTVN-CNCT cần tăng cường hợp tác, trao đổi, chia sẻ 
thông tin với các NHTM trên cùng địa bàn và thực hiện khai thác thông tin tín 
dụng từ Trung tâm thông tin tín dụng của NHNTVN và NHNN (CIC). 
Đặc biệt, NHNTVN-CNCT cần thiết lập một bộ phận độc lập chuyên 
nghiên cứu, phân tích diễn biến và dự báo tình hình thị trường dựa trên tất cả 
các kênh thông tin, đặc biệt là các thông tin về thị trường xuất nhập khẩu: giá 
cả, kim ngạch,...các mặt hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư như lúa gạo, thủy 
sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu, dệt may, thép... 
3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: 
Để có thể hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra, đối với vấn đề TSBĐ, các cán bộ 
tín dụng NHNTVN-CNCT cần thiết phải thực hiện: 
- Hoàn thiện hồ sơ thế chấp, hồ sơ pháp lý (chứng thư sở hữu của tài 
sản, đăng ký giao dịch đảm bảo, công chứng chứng thực, các thoả thuận trong 
hợp đồng…) vì đây là vấn đề quyết định đến quyền tài sản và quyền truy đòi nợ 
của ngân hàng. 
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá giá trị của tài sản, định kỳ tổ chức 
định giá lại TSBĐ, khắc phục việc định giá TSBĐ mang tính chủ quan, thiếu 
căn cứ khoa học, chưa áp dụng thích hợp các phương pháp định giá. Đối với 
những TSBĐ có giá trị lớn, ngân hàng nên thuê các tổ chức tư vấn, tổ chức 
chuyên môn định giá. Việc thuê định giá tuy tiêu tốn một khoản chi phí nhưng 
sẽ giúp khắc phục được tính chủ quan của cán bộ trong quá trình định giá, 
ngoài ra việc định giá còn mang tính khoa học. 
- Hạn chế tâm lý lạm dụng vào TSBĐ. 
- Nghiên cứu áp dụng các hình thức đảm bảo tín dụng mới. 
- Thường xuyên theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật của Nhà nước 
liên quan đến TSBĐ. 
4. Các vấn đề liên quan đến chính sách tín dụng, quy trình tín dụng: 
Để quy trình tín dụng mới thật sự phát huy hiệu quả như mong muốn, 
kiểm soát rủi ro một cách chặt chẽ hơn, NHNTVN-CNCT cần tuân thủ nghiêm 
các bước của quy trình. Trong quá trình thực hiện cần hạn chế việc vận dụng 
quy trình theo hướng quá linh hoạt. Từng bộ phận nghiệp vụ tham gia quy trình 
tín dụng cần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, cụ thể: 
 60
- Phòng quan hệ khách hàng: với chức năng là đầu mối thiết lập, duy trì 
và không ngừng mở rộng mối quan hệ đối với khách hàng trên tất cả các mặt 
hoạt động, nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh doanh một cách an toàn, 
hiệu quả và tăng thị phần của NHNT. Nhiệm vụ cụ thể của phòng sẽ là: 
* Xác định thị trường kinh doanh và đối tượng khách hàng mục tiêu 
trên cơ sở thường xuyên thu thập và đánh giá thông tin từ thị trường (theo 
ngành, lĩnh vực, khu vực địa lý, nhóm khách hàng, nhóm sản phẩm), đề xuất và 
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. 
* Phối hợp cùng các phòng ban có liên quan xây dựng chính sách 
khách hàng hàng năm, bao gồm việc xác định các loại sản phẩm dịch vụ và giá 
trị từng loại sản phẩm dịch vụ dự kiến cung ứng. 
* Trực tiếp triển khai các biện pháp Marketing giới thiệu cho khách 
hàng về các sản phẩm, dịch vụ mà NHNT có lợi thế, có thể cung ứng: duy trì 
liên lạc thường xuyên với khách hàng nhằm kịp thời nắm bắt các thông tin mới 
phát sinh có liên quan và làm đầu mối giải quyết các vướng mắc các yêu cầu 
của khách hàng. Chịu trách nhiệm cung cấp mọi thông tin có liên quan đến 
khách hàng theo yêu cầu của các phòng ban khác. 
* Trực tiếp tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của khách hàng và nghiên 
cứu, xem xét có ý kiến trước khi chuyển phòng Quản lý rủi ro tín dụng thẩm 
định (đối với các khoản cho vay phải có thẩm định của phòng Quản lý rủi ro tín 
dụng) và trực tiếp thẩm định cho vay (đối với các khoản vay không cần phòng 
Quản lý rủi ro tín dụng thẩm định). Thực hiện ký kết các loại hợp đồng / cam 
kết đối với khách hàng trong phạm vi quy định. Trực tiếp tiếp nhận và xử lý 
và/hoặc theo dõi việc xử lý các nhu cầu rút vốn vay theo hợp đồng tín dụng, 
nhu cầu sử dụng nghiệp vụ tài trợ thương mại, nhu cầu thấu chi và các nhu cầu 
tín dụng khác của khách hàng. Thực hiện giám sát và quản lý các giao dịch tín 
dụng đã phát sinh theo đúng các quy định hiện hành. Đôn đốc khách hàng, phối 
hợp với các phòng ban thu hồi nợ vay đầy đủ và đúng hạn. Thực hiện quản lý 
và xử lý các khoản tín dụng có vấn đề trong trường hợp được phân công. 
* Tùy theo đặc điểm riêng đối với từng khách hàng, phối hợp cùng 
các phòng ban khác thiết kế các loại sản phẩm “may đo” hoặc sản phẩm “trọn 
gói” phù hợp và có tính hấp dẫn đối với khách hàng. 
- Phòng quản lý rủi ro: với chức năng nghiên cứu, phân tích, quản lý rủi 
ro bao gồm rủi ro chung (rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường,..) và rủi ro riêng (rủi 
 61
ro từng khách hàng, rủi ro từng dự án) nhằm đảm bảo phát triển tín dụng, mở 
rộng hoạt động một cách an toàn, hiệu quả. Nhiệm vụ cụ thể của phòng là: 
* Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Soạn thảo chính sách 
quản lý rủi ro tín dụng trong từng thời kỳ bao gồm việc xác định tỷ lệ nợ xấu 
tối đa có thể chấp nhận được; cảnh báo các mặt hàng và lĩnh vực đầu tư cần hạn 
chế. Trực tiếp tham gia và theo dõi việc thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín 
dụng. Tổ chức đánh giá định kỳ các chính sách quản lý rủi ro tín dụng nhằm đề 
xuất chỉnh sửa kịp thời các nội dung hoặc các chỉ tiêu cần thiết. 
* Quản lý danh mục đầu tư: Tổ chức giám sát thường xuyên danh 
mục đầu tư tín dụng nhằm đảm bảo dư nợ theo từng nhóm khách hàng, theo 
lĩnh vực, mặt hàng đầu tư, theo cơ cấu thời hạn vay,... không vượt quá tổng 
mức giới hạn đã được phê duyệt. Kịp thời phát hiện các dấu hiệu rủi ro, nhóm 
khách hàng, mặt hàng, lĩnh vực đầu tư có vấn đề, đề xuất điều chỉnh giới hạn 
tín dụng đối với các khoản mục cho là cần thiết. Đánh giá định kỳ kết quả áp 
dụng hệ thống xếp hạng doanh nghiệp đồng thời đề xuất các biện pháp áp dụng 
phù hợp. 
* Trực tiếp thẩm định rủi ro đối với từng khoản cấp tín dụng đến 
khách hàng: Cho điểm tín dụng và phân loại khách hàng theo quy định. Đánh 
giá các loại rủi ro trong giao dịch tín dụng với khách hàng, bao gồm đánh giá 
tính pháp lý và tính đầy đủ của bộ hồ sơ tín dụng, đánh giá tính khả thi và hiệu 
quả của từng khoản cấp tín dụng, thẩm định và định giá TSBĐ (nếu có); thẩm 
định khả năng hoàn trả nợ của khách hàng...Đề xuất giới hạn tín dụng cho 
khách hàng và đề xuất mức cấp tín dụng cụ thể đối với khách hàng và các biện 
pháp cần thực hiện nhằm đảm bảo khả năng thu hồi đủ nợ. 
* Tham gia quy trình phê duyệt tín dụng, tham gia và giám sát quá 
trình thực hiện các quyết định đã được phê duyệt, tham gia xử lý các khoản cấp 
tín dụng có vấn đề: làm đầu mối chuẩn bị tài liệu và thu xếp thực hiện quy trình 
phê duyệt tín dụng theo quy định. Kiểm tra các điều kiện rút vốn và chỉ thị các 
phòng tác nghiệp có liên quan thực hiện giải ngân cho khách hàng (trường hợp 
có yêu cầu). Giám sát phòng Quan hệ khách hàng trong việc thực hiện kiểm tra 
sử dụng vốn vay của khách hàng, phối hợp cùng phòng Quan hệ khách hàng và 
phòng Quản lý nợ phát hiện kịp thời các dấu hiệu có rủi ro liên quan đến khoản 
cấp tín dụng và cùng tìm biện pháp xử lý thích hợp. Trực tiếp theo dõi và quản 
lý các khoản tín dụng có vấn đề, gặp khó khăn kéo dài. 
 62
- Phòng quản lý nợ: với chức năng quản lý và trực tiếp thực hiện các 
tác nghiệp liên quan đến việc giải ngân, thu hồi nợ, đảm bảo số liệu trên hệ 
thống khớp đúng với số liệu trên hồ sơ, lưu giữ hồ sơ vay đầy đủ và an toàn, 
các khoản cấp tín dụng đều tuân thủ các bước quy định trong quy trình tín 
dụng. Nhiệm vụ cụ thể của phòng sẽ là: 
* Kiểm soát tính tuân thủ: Thực hiện rà soát và kiểm tra tính tuân thủ 
của bộ hồ sơ vay theo đúng trình tự quy định tại Quy trình tín dụng. Đối chiếu 
so sánh tính khớp đúng về nội dung giữa thông tin tác nghiệp với các hồ sơ tài 
liệu vay đính kèm. Kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của từng loại văn bản hồ sơ 
được lưu giữ theo quy định. 
* Nhập dữ liệu vào hệ thống: Căn cứ các chỉ thị, yêu cầu của phòng 
Quan hệ khách hàng đã được phòng Quản lý rủi ro tín dụng thông qua, phòng 
Quản lý nợ tiến hành khai báo các dữ liệu vào hệ thống bao gồm dữ liệu về giới 
hạn tín dụng, các thông tin chủ yếu nêu tại hợp đồng tín dụng và các hợp đồng 
bảo đảm tín dụng (nếu có). Tiến hành cập nhật các nội dung sửa đổi (đã được 
phê duyệt đầy đủ theo quy định) đối với các khoản tín dụng đang được quản lý 
trên hệ thống. 
* Nhận và lưu giữ hồ sơ tín dụng: Nhận các hồ sơ, tài sản thế chấp, 
cầm cố từ phòng Quan hệ khách hàng để tiến hành các thủ tục lưu kho quỹ theo 
đúng quy định, bao gồm: báo cáo đề xuất tín dụng, báo cáo rà soát rủi ro, biên 
bản họp hội đồng tín dụng (nếu có), hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp cầm 
cố cho vay (nếu có), lịch rút vốn (nếu có) và các loại giấy tờ khác theo ý kiến 
đề xuất của phòng Quản lý rủi ro tín dụng. Nhận và lưu giữ các hồ sơ chứng từ 
liên quan đến từng lần rút vốn, các biên bản, báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay, 
các công văn, giấy tờ giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong suốt quá 
trình quản lý nợ vay. 
* Thực hiện các tác nghiệp liên quan đến việc rút vốn: Kiểm tra sự 
phù hợp của hồ sơ rút vốn với hạn mức tín dụng còn lại và các điều kiện tín 
dụng đã được phê duyệt. Chỉ thị bộ phận kế toán hoặc phòng Quỹ thực hiện 
giải ngân theo yêu cầu. 
* Lập các báo cáo dữ liệu của các khoản vay: In các báo cáo định kỳ 
về khoản vay: hạn mức, dư nợ, ngày đáo hạn, thời điểm kiểm tra sử dụng vốn 
vay định kỳ. Đầu mối trong việc lập báo cáo phân loại nợ và trích lập dự phòng 
rủi ro và các báo cáo tín dụng định kỳ theo yêu cầu của NHNN và NHNT. 
 63
Cung cấp các thông tin khác theo yêu cầu của phòng Quan hệ khách hàng, 
phòng Quản lý rủi ro tín dụng, và Ban Giám Đốc. 
* Tham gia vào quá trình thu nợ, thu lãi: Định kỳ in phiếu tính lãi gửi 
bộ phận kế toán để tiến hành thu lãi. Gửi thông báo tới phòng Quan hệ khách 
hàng về các khoản nợ đến hạn và theo dõi quá trình trả nợ của khách hàng. Lấy 
các phiếu hạch toán thu nợ gốc, lãi và phí (nếu có) để lưu vào hồ sơ tín dụng. 
* Tham gia góp ý sửa đổi chương trình quản lý nợ vay cho phù hợp 
với yêu cầu thực tế. 
5. Các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định: 
Trong quá trình xem xét cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải lựa chọn 
phương pháp thẩm định phù hợp theo từng loại cho vay, đối tượng khách hàng, 
chú trọng đánh giá đầy đủ về tư cách pháp nhân, năng lực hành vi dân sự của 
khách hàng, và xem xét kỹ tính pháp lý của các giấy tờ, tài liệu liên quan (hồ sơ 
vay vốn) nhằm phát hiện tình trạng thiếu trung thực của khách hàng trong việc 
cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vấn đề vay vốn, đặc biệt cần đánh giá 
chính xác tính khả thi, hiệu quả của dự án/phương án vay vốn, xem xét kỹ các 
thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế giữa khách hàng vay với tổ chức, cá nhân 
liên quan nhằm xác định thời hạn cho vay chính xác với đối tượng vay vốn, 
đồng thời giúp khách hàng vay khắc phục những điểm bất lợi đã được quy định 
trong hợp đồng kinh tế. Mặt khác, để đảm bảo đánh giá chính xác tình hình tài 
chính, nguồn trả nợ của khách hàng vay, ngân hàng ngoài việc dựa vào hồ sơ, 
tài liệu do khách hàng cung cấp, còn phải điều tra nắm chắc các nguồn thông 
tin khác có liên quan và kết hợp với khảo sát thực tế tại đơn vị. Việc thẩm định 
kết hợp như trên không những giúp ngân hàng xác định được mức độ trung 
thực của những tài liệu do khách hàng cung cấp, đánh giá đúng đắn uy tín và 
mức độ cạnh tranh sản phẩm của khách hàng trên thị trường, dự kiến được rủi 
ro có thể xảy ra, mà còn nắm chắc về lịch sử, về mối quan hệ giữa khách hàng 
vay vốn với tổ chức, cá nhân có liên quan, về tình hình công nợ và khả năng 
thanh toán tín dụng của khách hàng, nhất là khách hàng vay ở nhiều ngân hàng, 
khách hàng ngoài địa bàn hoạt động, khách hàng là đơn vị thành viên hạch toán 
phụ thuộc. 
Trước khi cho vay, căn cứ theo quy định, ngân hàng phải thu thập đầy đủ 
các giấy tờ, tài liệu về tính pháp lý của khách hàng. Lập hợp đồng tín dụng phải 
đầy đủ các yếu tố theo quy định của pháp luật đảm bảo an toàn và đủ căn cứ 
pháp lý để xử lý khi có tranh chấp; Việc định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi vay phải 
 64
căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay và phù hợp với khả năng 
trả nợ của từng khách hàng nhằn hạn chế tình trạng định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi 
máy móc, xác định thời hạn trả nợ quá ngắn cho các đối tượng vay có chu kỳ 
luân chuyển vốn dài dẫn đến phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ. 
Khi khách hàng có yêu cầu rút tiền vay, cán bộ trực tiếp cho vay phải 
kiểm tra chặt chẽ các giấy tờ liên quan đến việc rút vốn vay của khách hàng, tài 
liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay, lịch rút vốn, giấy nhận nợ và số dư 
nợ đến ngày nhận nợ nhằm tránh tình trạng cho vay vượt hạn mức tín dụng, rút 
tiền vay không đúng mục đích sử dụng,...Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng phải 
thường xuyên theo dõi tình hình sử dụng vốn vay, nhất là phải kiểm tra kịp thời 
đối với khoản cho vay bằng tiền mặt, định kỳ phải đánh giá khả năng tài chính 
và tình hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Nội dung kiểm tra phải đánh 
giá được đầy đủ các yếu tố như: số tiền vay sử dụng vào mục đích gì, tính toán 
cân đối nợ vay, nhận xét tình hình thực hiện dự án/phương án vay vốn, tình 
hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng, kiểm tra tình hình TSBĐ. Ngoài 
việc kiểm tra thực tế khách hàng, ngân hàng còn phải yêu cầu khách hàng báo 
cáo theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình hoạt động kinh doanh nhằm sớm 
phát hiện hiện tượng suy giảm trong sản xuất, kinh doanh để có biện pháp xử lý 
kịp thời. 
Mặc dù việc xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ là do ngân hàng tự 
quyết định, nhưng không thể tùy tiện mà phải theo nhu cầu chính đáng của 
khách hàng, xem xét nguyên nhân khách hàng không trả được nợ đúng thời hạn 
đã cam kết và đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng sau khi được cơ 
cấu lại thời hạn trả nợ. Thời gian và số lần cho cơ cấu phải có ý nghĩa thật sự 
và mang lại hiệu quả cho khách hàng, tránh điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ 
một cách tràn lan. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
46878.pdf