Tất cả các rủi ro xảy đến với khách hàng thì hầu như Ngân hàng đều phải gánh chịu:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh không ổn định, chất lượng sản phẩm sản xuất ra không đảm bảo và không tiêu thụ được dẫn đến thua lỗ và doanh nghiệp không có tiền để trả nợ Ngân hàng.
- Do khâu tổ chức quản lý yếu kém của người lãnh đạo doanh nghiệp dẫn đến thất thoát vốn kinh doanh thua lỗ không trả được nợ Ngân hàng.
- Hiện nay pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực, bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê chính xác, kịp thời. Do đó các số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chưa thực hiện được chế độ kiểm toán bắt buộc nên số liệu không phản ánh chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những món vay được xét từ các thông tin sai sự thật rất dễ gặp rủi ro và gây thiệt hại cho Ngân hàng.
22 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1085 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khởi đầu cho cuộc sống đổi mới nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường để xây dựng một nền kinh tế hàng hoá thực sự đòi hỏi các mục tiêu của Chính phủ trong đó phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng. Bản thân các doanh nghiệp cần vốn để phát triển mở rộng sản xuất đổi mới công nghệ do đó nhu cầu về vốn đối với chúng ta là rất lớn, nhất là khi nhà nước cho phép các nhà kinh doanh được tự do đầu tư sản xuất trong khuôn khổ pháp luật dưới các hình thức tổ chức kinh tế đa thành phần. Ngoài ra còn có các tổ chức kinh tế tư nhân và hộ gia đình với các hình thức kinh doanh đa dạng và họ cũng cần phải có vốn đầu tư. Như vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng vốn cho các nhà đầu tư trong nền kinh tế như thế nào? Điều đó có thể thực hiện được bằng nhiều cách khác nhau thông qua nhiều nguồn như vốn ngân sách, vốn bản thân các đơn vị kinh tế, vốn tín dụng, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài... Đặc biệt trong đó vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp và các hộ kinh tế gia đình.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động mũi nhọn của Ngân hàng ,không chỉ có vai trò quan trọng đối với ngân hàng mà còn đối với cả sự phát triển của đất nước. Bước sang giai đoạn phát triển mới, ngân hàng đã và đang xây dựng cho mình một chiến lược phát triển toàn diện trong đó nghiệp vụ tín dụng là hoạt động hàng đầu. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài: "Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại " để làm đề án tài chính tiền tệ của mình.
Vì trình độ cũng như thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, tôi mong nhận được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn.
PHÂN I: Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1 Khái niệm :
Trước hết chỳng ta cần làm hiểu tớn dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiờn khi gắn với chủ thể nhất định như ngõn hàng hay cỏc tổ chức trung gian tài chớnh khỏc thỡ tớn dụng chỉ bao hàm nghĩa là ngõn hàng cho vay.
Hoạt động tớn dụng là hoạt dộng kinh doanh chủ yếu, đem lại lợi nhuận cao cho ngõn hàng thương mại. Theo Luật của Quốc hội nước cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam số 20/2004/QH11 ngày 15 thỏng 6 năm 2004 về sửa đổi bổ sung một số điều của Luật cỏc tổ chức tớn dụng thỡ “Hoạt động tớn dụng là việc tổ chức tớn dụng sử dụng nguồn vốn tự cú, nguồn vốn huy động để cấp tớn dụng”. Đối với cỏc ngõn hàng thương mại Việt Nam thỡ cho vay khụng chỉ là khoản sử dụng vốn lớn nhất của ngõn hàng, mà cũn là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu trong tất cả cỏc hoạt động sinh lợi. Cho vay cú ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như đối với nền kinh tế đất nước và nú cũng đúng vai trũ quan trọng trong việc thực hiện cỏc chức năng xó hội của ngõn hàng trong nền kinh tế .
Hoạt động tớn dụng mang lại lợi nhuận cao, tuy nhiờn nguy cơ chịu nhiều rủi ro. Do vậy, cỏc ngõn hàng ngày nay, ngoài hoạt động truyền thống tập trung vào tớn dụng, cũn mở rộng hoạt động sang lĩnh vực đầu tư.
1.2. Phân loại tín dụng :
1.2.1 Dựa vào mục đích của tín dụng:
Cho vay phục vụ sản xuất công thương nghiệp.
Cho vay tiêu dùng cá nhân
Cho vay bất động sản
Cho vay nông nghiệp
Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu
1.2.2 Dựa vào thời hạn tín dụng :
Cho vay ngắn hạn :là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm.
Cho vay trung hạn :là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
Cho vay dài hạn :là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm.
1.2.3 Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng :
Cho vay có đảm bảo
Cho vay không có đảm bảo
1.2.4 Dựa trên phương thức cho vay:
Cho vay theo món vay
Cho vay theo hạn mức tín dụng
1.2.5 Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay
Cho vay chỉ có 1 kỳ hạn trả nợ
Cho vay nhiều kỳ hạn trả nợ
Cho vay trả nợ nhiều lần không có kỳ hạn nợ
1.3. Các nghiệp vụ tín dụng:
Cho vay :ngân hàng thương mại đuợc phép cho các cá nhân và tổ chức vay vốn dưới các hình thức ngắn hạn, trung hạn ,dài hạn
Bảo lãnh :ngân hàng thương mại được phép bảo lãnh vay và bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,bão lãnh đáu thầu..Mức bảo lãnh với mỗi khách hàng không vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng
Chiết khấu:ngân hàng thương mại được chiết khấu các giấy tờ
có giá và các thương phiếu ngắn hạn đối với các tổ choc và táI chiết khấu đối với tổ choc tín dụng khác.
Cho thuê tài chính: ngân hàng thưong mại đuợc hoạt động cho thuê tài chính nhưng hpảI thành lập công ty cho thuê tài chính riêng và hoạt động theo nghi định về tổ choc hoạt động của công ty cho thuê tài chính do chính phủ ban hành.
Phân II .Rủi ro tớn dụng của Ngõn hàng thương mại.
2.1 - Khái niệm rủi ro, sự tồn tại khách quan của rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại:
Trong cơ chế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế vừa phải theo đúng pháp luật, chịu sự điều tiết vĩ mô qua các chủ trương chính sách của nhà nước, vừa hoạt động theo nguyên tắc của riêng mình. Điều đó có nghĩa là các nhà kinh doanh phải có chính sách biện pháp hay các "thủ đoạn" các mẹo trong kinh doanh để tôi đa hoá lợi nhuận đó là mục tiêu chủ yếu của các doanh nghiệp. Tất cả các nhà kinh doanh đều biết rằng: Kinh doanh là có rủi ro, rủi ro và kinh doanh là người bạn song hành. Ngành kinh doanh nào có lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Thị trường Ngân hàng kinh doanh là thị trường có nhiều rủi ro nhất. Vấn đề là chúng được giải quyết bằng các cách khác nhau. Chúng ta không bao giờ tìm ra phương án thực hiện các nghiệp vụ trong lĩnh vực Ngân hàng có thể hoàn toàn loại trừ rủi ro và có thể đảm bảo trước những kết quả tài chính nhất định, chúng ta chỉ có thể lường trước và hạ thấp rủi ro đến mức thấp nhất bằng các biện pháp phòng ngừa và hạn chế.
Vậy rủi ro là gì?
Có nhiều các định nghĩa khác nhau:
Theo từ điển Tiếng Việt: Rủi ro là điều không may ngẫu nhiên xẩy đến. Theo Franhkaight - học giả Mỹ (1921): Rủi ro là sự bất trắc có thể lường trước được.
Theo Allanwillen - Học giả Italia (1951): Rủi ro là sự bất trắc cụ thể, có thể liên quan đến sự xuất hiện một biến cố không mong đợi.
Theo Mark - Hurt - Mecarly - Học giả Anh (1986): Rủi ro là một tình trạng trong đó các biến cố xẩy ra trong tương lai có thể xác định được.
Tuy có nhiều các định nghĩa khác nhau, song chúng đều khẳng định được rằng, rủi ro là những sự kiện diễn ra ngoài ý muốn của con người, nó thường đem đến những hậu quả xấu. Rủi ro xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ lĩnh vực nào của đời sống kinh tế xã hội. Trong hoạt động Ngân hàng rủi ro là mối đe doạ tổn thất một phần nguồn vốn của mình, không đạt được các khoản thu nhập hay đòi hỏi các khoản chi phí bổ sung để thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhất định. Rủi ro còn là những thiệt hại xẩy ra gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Tất cả các nhà khoa học nghiên cứu về rủi ro đều thừa nhận: Không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại nhiều như kinh doanh tín dụng. Chính vì vậy, mà các Ngân hàng thương mại đặc biệt cần phải quan tâm nghiên cứu, nhận biết, phân biệt rủi ro để hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất.
2.2 - Nguyên nhân của các rủi ro
Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Tất cả các rủi ro xảy đến với khách hàng thì hầu như Ngân hàng đều phải gánh chịu:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh không ổn định, chất lượng sản phẩm sản xuất ra không đảm bảo và không tiêu thụ được dẫn đến thua lỗ và doanh nghiệp không có tiền để trả nợ Ngân hàng.
- Do khâu tổ chức quản lý yếu kém của người lãnh đạo doanh nghiệp dẫn đến thất thoát vốn kinh doanh thua lỗ không trả được nợ Ngân hàng.
- Hiện nay pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực, bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê chính xác, kịp thời. Do đó các số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chưa thực hiện được chế độ kiểm toán bắt buộc nên số liệu không phản ánh chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những món vay được xét từ các thông tin sai sự thật rất dễ gặp rủi ro và gây thiệt hại cho Ngân hàng.
- Khách hàng bị lừa đảo hay cố ý lừa Ngân hàng để lấy tiền (thường hay gặp ở khách hàng tư nhân).
- Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, kinh doanh hàng lậu, hàng cấm không theo quy định tín dụng làm thất thoát vốn của Ngân hàng.
- Khách hàng gặp rủi ro do thiên tai, hoả hoạn, cấm vận, phá sản hoặc giải thể.
Như vậy có thể nói rằng: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sản xuất kinh doanh của khách hàng bị thua lỗ, không thu hồi được vốn. Mà trong thực tế hiện nay phần lớn vốn của các doanh nghiệp và tư nhân cá thể đều là vốn vay của Ngân hàng. Do vậy mà các rủi ro của khách hàng luôn đe doạ Ngân hàng và Ngân hàng thường chịu thiệt hại lớn nhất.
Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
- Chính sách tín dụng chưa thật chặt chẽ, thống nhất nên còn bị khách hàng lợi dụng.
- Công nghệ và kỹ thuật trong Ngân hàng còn lại hậu. Điều đó làm cho việc quản lý khách hàng của nhân viên còn hạn chế, thống tin còn chưa cập nhật và thiếu chính xác, dẫn tới việc đánh giá xét duyệt và kiểm tra các món vay không chính xác. Chính vì vậy, việc xử lý và phòng ngừa rủi ro rấ hạn chế.
- Trình độ và năng lực của cán bộ Ngân hàng nói chung và trình độ năng lực cán bộ tín dụng nói riêng còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển cao của công việc.
- Do cán bộ tín dụng không làm đầy đủ quy trình nghiệp vụ tín dụng. Cho vay ra không kiểm tra giám sát mục đích và hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng. Không có biện pháp xử lý kịp thời khi khách hàng có vấn đề.
- Ngân hàng chỉ coi trọng đến tài sản thế chấp, cầm cố mà không quan tâm đến hiệu quả của dự án vay vốn.
- Ngân hàng quyết định cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị lớn đối với một số doanh nghiệp mà vốn tự có của họ rất ít. Khi doanh nghiệp thua lỗ sẽ rất khó thu hồi vốn cho Ngân hàng. Do vậy dễ gây ra rủi ro lớn.
- Do Ngân hàng chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không quan tâm đến các vấn đề khác như: Chất lượng, cơ cấu, mức độ rủi ro...
Qua đây cho thấy: Việc xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ Ngân hàng là rất nhiều và hay xảy ra. Điều này sẽ được hạn chế khi Nhà nước và Ngân hàng đều nhận thấy và có những biện pháp phòng ngừa thích hợp và kịp thời.
Nguyên nhân do hoàn cảnh khách quan:
Đây là nguyên nhân mà cả khách hàng lần Ngân hàng không thể lường hết được, do các hiện tượng thiên nhiên và xã hội diễn biến phát triển phức tạp ngoài tầm kiểm soát của con người hoặc do sự chưa đồng bộ trong chơ chế quản lý của nhà nước, đó là:
- Do thiên tai, chiến tranh, hoả hoạn... hoặc do các hành động ăn cắp, lừa đảo... gây mất mát thiệt hại về tài sản của Ngân hàng cũng như doanh nghiệp, dẫn tới hậu quả làm cho doanh nghiệp bị thiệt hại không trả được nợ Ngân hàng làm Ngân hàng chịu rủi ro.
- Do chính sách thay đổi bất thường của Nhà nước như: Thay đổi chính sách ngoại thương, chính sách sắp xếp lại doanh nghiệp, chính sách đầu tư, chính sáchlãi suất, chính sách tiền tệ... làm cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ, phá sản, không trả được nợ cho Ngân hàng.
- Do tác động của chu kỳ sản xuất kinh doanh, chu kỳ kinh tế gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của khách hàng.
- Do biến động tỷ giá, lãi suất làm cho cả khách hàng và Ngân hàng đều bị ảnh hưởng và có thể dẫn tới rủi ro.
- Do biến động tình hình kinh tế chính trị trong và ngoài nước gây bất ổn định cho sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Điều đó sẽ dẫn tới rủi ro cho cả hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế nói chung.
Tóm lại: Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, trong đó có cả những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nguyên nhân bên ngoài và nguyên nhân bên trong. Rủi ro xảy ra sẽ tác động trực tiếp đến kết quả tài chính của Ngân hàng, nó có thể làm giảm lợi nhuận, gây thua lỗ, mất khả năng thanh toán và cuối cùng là đi đến phá sản. Rủi ro của Ngân hàng này sẽ tác động đến Ngân hàng khác, đến khách hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Vì vậy, các Ngân hàng cần phải có giải pháp tốt nhằm quản lý và hạn chế được rủi ro để hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại gặp nhiều thuận lợi hơn.
2.3 - Phân loại rủi ro:
Rủi ro luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cho nên có người đã gọi nghề Ngân hàng là nghề kinh doanh rủi ro và mạo hiểm. Người ta cũng khẳng định rằng hơn mọi doanh nghiệp khác, Ngân hàng phải đối phó với nhiều loại rủi ro từ nhiều phía.
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro thiếu vốn khả dụng.
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro hối đoái
- Rủi ro tín dụng quốc tế và ngoại thương.
- Rủi ro mất khả năng thanh toán
Rủi ro tín dụng.
Đây là loại rủi ro chủ yếu, thường gặp nhất, gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Đến nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn có thể loại bỏ được rủi ro. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn. Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của phía Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra hai loại chính:
- Rủi ro ứ đọng vốn: Là loại rủi ro mà các Ngân hàng huy động được nguồn vốn lớn mà không cho vay hết được trong khi vẫn phải trả lãi cho số tiền huy động đó, dẫn đến làm giảm thu nhập của Ngân hàng, thậm chí lỗ không đủ bù đắp chi phí để hoạt động.
- Nợ quá hạn: Là những khoản nợ bị kéo dài quá thời hạn quy định trên khế ước cho vay. Nợ quá hạn thường chia thành hai loại:
+ Nợ quá hạn thông thường: Là loại nợ quá hạn do khách hàng chậm thanh toán vì nhiều yếu tố khác nhau như: Hàng hoá tiêu thụ chậm, công nợ chưa thu hồi kịp, khách hàng chưa thanh toán tiền hàng... Nhìn chung loại nợ này cần có thêm thời gian và khách hàng sẽ trả được nợ.
+ Nợ khó đòi: Phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên căn cứ vào khả năng thu hồi nợ người ta phân chia nợ khó đòi thành:
* Nợ khó đòi không có khả năng thu hồi: Đây là loại nợ bên vay đã phá sản hoàn toàn hay không thể trả nợ được. Loại nợ này được để riêng vào quỹ rủi ro.
* Nợ khó đòi còn khả năng thu hồi: Đây là loại nợ mà bên vay có khả năng trả nợ nhờ thanh lý một số tài sản hiện có hoặc nhờ duy trì tích cực sản xuất kinh doanh.
- Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có thể xẩy ra bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Hễ cứ rủi ro nào đó của người vay cũng có thể rủi ro cho Ngân hàng. Nó đòi hỏi Ngân hàng phải có những biện pháp đồng bộ hữu hiệu mới có thể hạn chế ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiếu những thiệt hại có thể xảy ra và đem lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận cao.
- Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng và Ngân hàng được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó, tại thời điểm cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng với một xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều.
Chúng ta hãy quan sát sự phân phối xác suất lợi tức đầu tư Ngân hàng vào các khoản cho vay tín dụng qua đồ thị sau:
Xác suất (P)
P = 1
O gốc gốc và lãi $ hoàn trả
H.1: Phân phối xác suất lợi tức đầu tư
Chúng ta thấy rằng, đỉnh của đồ thị biểu diễn xác xuất hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1)
Trong trường hợp, một Ngân hàng thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình, thì hình dáng đồ thị phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi như được chỉ ra đồ thị H.2.
Xác suất (P)
P = 1
O Hoàn trả tối đa $ hoàn trả
H.2 - Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư
Rủi ro thiếu vốn khả dụng
Rủi ro thiếu vốn khả dụng là rủi ro xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng hoặc khi Ngân hàng không đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư.
Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hoá các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn Ngân hàng. Quá trình chuyển đổi này là quá trình kinh doanh theo phương thức "vay ngắn hạn và vay dài hạn" chẳng hạn Ngân hàng nắm giữ những tài sản nợ ngắn hạn như món vay tiền gửi có thể phát séc và sử dụng tiền thu được để mua các tài sản loại dài hạn. Những món vay với lãi suất cao hơn. Quá trình chuyển đổi này thường đem lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận lớn hơn nhưng đồng thời cũng có thể đem lại rủi ro thiếu vốn khả dụng.
Rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất là những rủi ro mà các chủ thể kinh tế gặp phải khi có biến động về lãi suất, biến động về yếu tố tiền tệ. Trong cơ chế thị trường lãi suất là một loại giá cả, là một công cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất luôn biến động, nhằm đảm bảo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Quá trình này có thể gây tổn thất cho Ngân hàng thương mại. Chẳng hạn Ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn với lãi suất cố định, sự thiệt hại sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trường tăng lên. Ngược lại khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất cố định Ngân hàng sẽ thiệt hại khi lãi suất trên thị trường giảm xuống.
Rủi ro lãi suất của Ngân hàng chính là chi phí nguồn vốn trở nên cao hơn thu nhập sử dụng vốn. Nhìn chung Ngân hàng có thể gặp rủi ro do lãi suất lên hay hạ xuống.
Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nghĩa là rủi ro biến động giá ngoại tệ so với nội tệ.
Các rủi ro hối đoán thường do biến động kinh tế - chính trị của một nước. Việc duy trì nắm giữ một loại ngoại tệ của một quốc gia nào đó là mạo hiểm, vì nó khiến Ngân hàng phải gánh chịu một rủi ro hối đoái phát sinh từ biến động tỷ giá ngoại tệ, thể hiện ở các khoản cho vay và các khoản nợ so với đồng nội tệ.
Các Ngân hàng phải cảnh giác không chỉ những thay đổi về tỷ giá hối đoái mà cả những nguyên nhân của những thay đổi đó có thể áp dụng những biện pháp nhằm giảm bớt rủi ro. Về các loại tiền tệ chủ yếu, các Ngân hàng hay khách hàng có thể giảm bớt rủi ro với các giao dịch trong thị trường tỷ giá hối đoái kỳ hạn. Chúng ta thấy rủi ro hối đoái và rủi ro lãi suất đan xen với nhau, vì trong một giao dịch hối đoái có kỳ hạn, giai đoạn đầu là bán ngoại tệ giao ngay là phát sinh rủi ro từ đó và giai đoạn hai là đem đầu tư số ngoại tệ hay nội tệ trên thị trường vốn làm phát sinh rủi ro.
Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế quốc tế, đặc trưng bởi sự thả nổi các đồng ngoại tệ và sự biến động lớn của tỷ giá hối đoái. Việc quản lý rủi ro hối đoái ngày càng trở nên cần thiết hơn, nhằm giảm bớt những mất mát có thể xảy ra khi có biến động về tỷ giá hối đoái.
Rủi ro trong tín dụng quốc tế và ngoại thương:
Khi cho vay quốc tế thường có rủi ro đất nước thường gọi là rủi ro chính trị. Rủi ro này chắc chắn sẽ xảy ra từ sự phát triển kinh tế chính trị nó ảnh hưởng tới khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng với cam kết đã thoả thuận của người vay. Suy thoái kinh tế rõ ràng là một loại rủi ro đất nước, cũng như sự biến động về chính trị. Với hình thức và mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng tới sự vận động rủi ro thương mại và lợi ích đối với mỗi cá nhân, các doanh nghiệp và cũng ảnh hưởng tới lợi tức các cấp chính quyền khác nhau, việc quốc hữu hoá tài sản, trục xuất ra khỏi nước chủ nhà không phải là điều không thể xảy ra.
Rủi ro cũng phải được xem xét đến là việc áp dụng các giới hạn có thể ngăn cản nhập khẩu. Những cuộc biểu tình nổi loại là những tai hoạ phải đối phó trong cho vay quốc tế. Một rủi ro lớn nhất đối với nhà đầu tư và cho vay đó là việc quốc hữu hoá tài sản. Các nhà Ngân hàng cũng luôn gặp phải những rủi ro về pháp lý ở trong nước thì gặp rủi ro ở nước ngoài là việc một quốc gia sẽ áp đặt thay đổi mạch các yêu cầu dự trữ tỷ lệ vốn trên các tài sản, thuế, phá giá đồng tiền hay các quy định khác nhằm hạn chế cản trở hoạt động Ngân hàng.
Rủi ro mất khả năng thanh toán:
Rủi ro mất khả năng thanh toán là rủi ro không riêng của Ngân hàng. Nó liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Rủi ro mất khả năng thanh toán thường là hậu quả của một hay nhiều rủi ro nói trên mà Ngân hàng không thể lường trước được. Trong trường hợp này vốn tự có của Ngân hàng không thể bù đắp hết tất cả các khoản mất mát thiệt hại, Ngân hàng sẽ phá sản hay vỡ nợ.
Chi phí vốn (r)
rCD
rDD
Tr. phiếu Tiền gửi Rủi ro
5 năm kh.kỳ hạn thanh khoản
Trong đó: rCD = mức lãi suất của trái phiếu kỳ hạn 5 năm
rDD = mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn
Một Ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai. Khi Ngân hàng thiếu khả năng thanh toán thì dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán thì dẫn đến đọng vốn, làm cho thu nhập của Ngân hàng bị giảm, khả năng sinh lời giảm.
Các rủi ro khác:
Ngoài các loại rủi ro trên Ngân hàng còn gặp những rủi ro biến động của thiên nhiên mang lại như: Động đất, bão lụt, hoả hoạn hoặc các rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng, làm thiệt hại hay phá huỷ các tài sản của Ngân hàng.
Phần III - Những nội dung cơ bản của công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay, tín dụng Ngân hàng không chỉ là "cầu nối" giữa những nơi thừa vốn và nơi thiếu vốn. Bằng việc huy động và cho vay, tín dụng ngân hàng đã điều hoà linh hoạt vốn giữa các đơn vị, các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có hình thức sở hữu khác nhau. Thông thường nhà nước sử dụng nguồn thu ngân sách để cấp cho các tổ chức kinh tế thuộc quyền sở hữu nhà nước mà không cấp cho các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh. Do vậy không thể thông qua ngân sách để điều hoà vốn thuộc các quyền sở hữu khác ấy với nhau. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể tận dụng được mọi nguồn vốn tạm thời chưa sử dụng phục vụ cho mối quan hệ qua lại không thể thiếu được giữa kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác mà không xâm phạm đến quyền sở hữu vốn đó. Sự gắn bó tất yếu trên phạm trù tín dụng với quyền sở hữu khác nhau về vốn càng khẳng định việc điều hoà vốn giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần sở hữu khác nhau thông qua phạm trù tín dụng là cần thiết.
Thực hiện việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện tiến hành bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành sản xuất vật chất. Thực hiện điều hoà vốn tín dụng ngân hàng đã chuyển dịch tư bản từ các ngành sản xuất có lợi nhuận thấp sang các ngành sản xuất cho lợi nhuận cao hơn. Đó cũng là sự đáp ứng đòi hỏi mang tính chất khách quan của các nhà tư bản trong nền sản xuất hàng hoá bởi họ luôn mong muốn tìm kiếm lĩnh vực đầu tư có lợi nhất mà khả năng về vốn của bản thân không cho phép nhà tư bản có thể ngay lập tức đầu tư vào lĩnh vực sản xuất mà họ mong muốn. Thông qua việc tài trợ vốn, tín dụng ngân hàng đã góp phần tích cực định hướng giúp đỡ khách hàng tìm ra lĩnh vực đầu tư cần thiết và có lợi.
Trong nền kinh tế hiện nay, quá trình sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp có quan hệ gắn bó và liên quan mật thiết lẫn nhau. Điều đó được phản ánh trong mối quan hệ trực tiếp thường xuyên giữa tín dụng ngân hàng với các hoạt động của mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức cũng như toàn bộ nền kinh tế. Mối quan hệ đó đủ điều kiện cho tín dụng ngân hàng có khả năng kiểm soát được mọi giao dịch bằng tiền của các doanh nghiệp, giúp cho Ngân hàng có thể xem xét đến quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để từ đó đưa ra quyết định đúng đắn trong cho vay, thu nợ. Thông qua kiểm soát bằng tín dụng ngân hàng có thể giúp đỡ khách hàng tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục khó khăn. Ngoài ra, thực hiện chức năng kiểm soát bằng đồng tiền các mặt hoạt động kinh tế của nền kinh tế quốc dân, tín dụng ngân hàng đã góp phần quan trọng trong việc củng cố thực hiện chế độ hạch toán kinh tế từ đó nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn vốn.
Việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ đã tạo điều kiện cho Ngân hàng phát huy vai trò của mình trong việc tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền. Trên cơ sở tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng ngắn hạn với nhu cầu cho vay, Ngân hàng thực hiện việc phát hành tiền vào lưu thông. Việc tăng giảm lượng tiền trong lưu thông, việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt hông qua hoạt động nghiệp vụ tín dụng có tác dụng tích cực trong việc điều hoà lưu thông tiền mặt. Tín dụng ngân hàng phát triển tạo điều kiện tăng tốc độ lưu thông tiền tệ thông qua việc thu hút tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng và chuyển vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh góp phần giảm lượng tiền mặt trong lưu thông cùng các chi phí khác (chi phí vận chuyển, in ấn, đếm, đóng gói, bảo quản... tiền mặt).
Có thể nói tín dụng ngân hàng là dòn bẩy kinh tế phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng lớn, nó đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng /như toàn bộ nền kinh tế. Cùng với ngân sách Nhà nước, tín dụng ngân hàng là nguồn hỗ trợ vốn chủ yếu cho việc hình thành lên vốn cố định và vốn lưu động của các doanh nghiệp, đảm bảo thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh một cách hợp lý và linh hoạt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ... Như vậy, tín dụng ngân hàng thực sự là nhân tố không thể thiếu được trong quá trình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế.
3.1 Nghiên cứu tình hình kinh tế chính trị xã hội:
Mọi doanh nghiệp đều hoạt động trong một môi trường xã hội, hay hoàn cảnh kinh tế – chính trị – xã hội nhất định và luôn bị hoàn cảnh tác động chi phối. Ngày nay khi cuộc sống xã hội mang tính chất quốc tế hoá, nền kinh tế thế giới bị phụ thuộc và chi phối lẫn nhau thì tình hình kinh tế – chính trị – xã hội thế giới cũng tác động mạnh vào tình hình sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp.
- Tình hình trong nước cũng như quốc tế thường xuyên biến động, các biến động ấy có khi là tích cực nhưng cũng có khi là biến đổi tiêu cực làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp và cũng chịu sự tác động, chi phối của tình hình kinh tế – chính trị – xã hội. Chính vì vậy mà các nhà Ngân hàng cần phải quan tâm đến việc nghiên cứu xem xét tình hình kinh tế – chính trị – xã hội một cách khoa học, dự báo được những biến đổi về tình hình kinh tế – chính tri – xã hội, cũng như các thay đổi về cơ chế chính sách pháp luật có thể xảy ra. Trên cơ sở đó mà đề ra các chính sách tín dụng một cách hợp lý, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra do sự biến động của tình hình
3.2 Đánh giá phân tích khách hàng:
Hoạt động của Ngân hàng thương mại liên quan đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Kết quả kinh doanh của Ngân hàng phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Kinh doanh khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, trả nợ Ngân hàng sòng phẳng thì Ngân hàng kinh doanh sẽ có lãi. Nhưng khi khách hàng gặp khó khăn, bị thiệt hại thì Ngân hàng cũng phải chịu rủi ro theo. Vì vậy Ngân hàng cũng phải biết chọn mặt gửi vàng. Muốn chọn được khách hàng tốt thì Ngân hàng phải có sự phân tích đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện. Có thể nói đây là biện pháp cơ bản, quan trọng nhất trong công tác cho vay của Ngân hàng để phòng ngừa hạn chế rủi ro.
Thông thường khi phân tích đánh giá khách hàng cần chú ý những mặt sau:
- Đánh giá năng lực pháp lý của người vay vốn.
- Đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng (chủ yếu đối với khách hàng là doanh nghiệp).
Khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đánh giá trên các mặt:
+ Vốn tự có của doanh nghiệp phải là số dương và ngày càng được bổ sung tăng lên.
+ Cơ cấu vốn của doanh nghiệp phải hợp lý, nghĩa là tỷ trọng vốn vay với tổng số vốn của doanh nghiệp phải nhỏ hơn hoặc bằng 50%.
+ Khả năng thanh toán của doanh nghiệp: Quan tâm 2 chỉ tiêu:
Giá trị tài sản có thể ing trong thanh toán
K1 = ___________________________________
Giá trị các khoản nợ
K1 > 1 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp mới đảm bảo.
Trong đó:
* Tài sản có ing để thanh toán bao gồm: Giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền, giá trị giấy tờ có giá mà doanh nghiệp đang giữ và giá trị các khoản nợ mà có khả năng thu hồi.
* Giá trị các khoản nợ bao gồm: nợ Ngân hàng, nợ ngân sách, nợ bạn hàng.
Khả năng thanh toán nhanh
Vốn bằng tiền
K2 = ________________________
Giá trị các khoản nợ đến hạn
Nguyên tắc lý thuyết thì K2 > 1
Trong thực tế thì chấp hành ở mức K2>0,5 là có thể xem xét cho vay.
Ngoài hai chỉ tiêu trên, Ngân hàng còn quan tâm đến các chỉ số hoạt động:
Doanh thu tiêu thụ
Vòng quay hàng tồn kho = ________________________
Số dư hàng tồn kho bình quân
Số vòng Doanh thu tiêu thụ
quay = ________________
toàn bộ vốn Tổng số vốn
Lợi nhuận ròng
Doanh lợi vốn = __________________
Tổng số vốn
Lợi nhuận ròng
Doanh lợi vốn tự có = ________________
Vốn tự có
- Đánh giá về khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp.
- Đánh giá năng lực kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường có tính tời chu cầu sống của sản phẩm.
3.3 Thực hiện bảo đảm tín dụng:
Để đảm bảo thu hồi được nợ, Ngân hàng phải xem xét một cách hen trọng đến uy tín và năng lực của khách hàng, từ đó áp dụng vào phương pháp cho vay thích hợp.
Bảo đảm tín dụng là thiết lập cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thứ hai vào nguồn thứ nhất, đảm bảo việc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
Bảo đảm tín dụng hiện nay có thể thực hiện dưới các hình thức: Thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh.
Trong việc thực hiện các loại bảo đảm tín dụng bằng tài sản như cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh bằng tài sản thì vấn đề quan trọng là việc đánh giá và định giá tài sản. Ngân hàng chỉ nhận các loại tài sản theo đúng quy định của nhà nước, trong trường hợp cần thiết phải thuê chuyên gia đánh giá để tránh rủi ro thất thoát cho Ngân hàng thương mại.
3.4 Ngân hàng phải tiến hành kiểm tra, kiểm soát, nắm bắt thông tin về khách hàng:
Cán bộ tín dụng phải theo dõi, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, phát hiện và xử lý kịp thời các khoản nợ có vấn đề, phân loại nợ để xét loại rủi ro, phân loại khách hàng để xác định mức độ đầu tư, hạn chế tín dụng tất cả đều nhằm hạn chế bớt rủi oc ho Ngân hàng.
Việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát và nắm bắt thông tin về khách hàng giúp cho Ngân hàng nắm được quá trình sử dụng vốn vay và kết quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nừu doanh nghiệp có khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh thì Ngân hàng có đối sách kịp thời để tháo gỡ giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ sản xuất kinh doanh hoặc khách hàng có dấu hiệu thua lỗ, rủi ro thì Ngân hàng biện pháp xử lý đôn đốc, thu hồi nợ hạn chế thất thoát vốn Ngân hàng.
3.5 Thực hiện dự trữ:
Ngân hàng phải thực hiện dự trữ với mức độ thích hợp để đảm bảo khả năng thanh toán chi trả. Có hai loại dự trữ :
- Dự trữ sơ cấp: Là các khảon dự trữ bằng tiền để đáp ứng các yêu cầu tức thời của khách hàng. Trong khảon dự trữ này thì ưu tiên hàng đầu là đảm bảo dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên về tiền gửi của khách hàng.
- Dự trữ thứ cấp: Là các khoản dự trữ dưới hình thức các giấy tờ có giá như thương phiếu, trái khoán, cổ phiếu, ngoài ra còn có vàng bạc, ngoại tệ mạnh. Mục đích của dự trữ thứ cấp là để bổ sung cho dự trữ sơ cấp khi cần thiết. Các loại chứng khoán ít rủi ro về tín dụng và lãi uet, thời gian đến hạn ngắn và mang tính thanh toán cao mới được coi là dự trữ thứ cấp.
Dự trữ thứ cấp là loại dự trữ bổ sung nên khi có nhu cầu thanh toán dự trữ thứ chấp sẽ chuyển thành dự trữ sơ cấp thông qua mua bán trên thị trường mở hay tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước.
3.6 Phân tán rủi ro:
Các Ngân hàng thương mại cần phân tán rủi bằng các biện pháp sau:
- Không nên dồn vốn cho một số ít khách hàng vay: Khi dồn vốn cho một số ít khách hàng vay làm cho Ngân hàng quá lệ thuộc vào sốt ít khách hàng đó nên khi họ gặp khó khăn sẽ làm cho Ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro cao. Pháp lệnh số 38 ban hành ngày 24 tháng 5 năm 1990 Việt Nam quy định: Dư nợ một khách hàng không quá 10% vốn tự có hoặc quỹ dự trữ một tổ chức tín dụng; tổng dư nợ của 10 khách hàng có dư nợ lớn nhất không quá 30 % tổng dư nợ của tổ chức tín dụng ấy.
- Ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá các hình thức cho vay, các nghiệp vụ kinh doanh, tức là Ngân hàng cần đa dạng hoá các sản phẩm của mình.
- Đối với các dự án lớn nên có nhiều Ngân hàng cùng tham gia đầu tư.
- Ngân hàng nên yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm đối với từng vật tư hàng hoá hình thành từ vốn vay Ngân hàng và những tài sản được dùng để cầm cố thế chấp Ngân hàng.
KÊT LUÂN
Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng, phức tạp và luôn phải đương đầu với những rủi ro từ nhiều phía. Vì vậy, các Ngân hàng cần hết sức coi trọng việc nắm bắt các thông tin, các rủi ro có thể xẩy ra để từ đó có các biện pháp xử lý, phòng ngừa và hạn chế rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Trong sự nghiệp kinh tế đất nước, Ngân hàng luôn đi đầu và đứng vững trong cơ chế thị trường và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Chính sự đổi mới và hiện đại hoá công nghiệp Ngân hàng đã nhânh chóng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thúc đẩy sự đổi mới của các ngành khác.
Trong thời gian tới, nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục phát triển, do đó có thể nảy sinh nhiều rủi ro hết sức đa dạng và phức tạp đến hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy trong quá trình kinh doanh đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải phòng chống, quản lý và hạn chế rủi ro, song cũng phải chấp nhận rủi ro ở một mức độ nào đó mà vẫn đảm bảo cho các hoạt động của Ngân hàng "Phát triển, an toàn và hiệu quả". Mặt khác nhà nước cần nhanh chóng hệ thống các văn bản pháp luật, cần có những biện pháp cơ bản và sự chỉ đạo thích hợp, nhanh chóng, kịp thời để giúp các Ngân hàng giải quyết những vướng mắc là các vấn đề mới nảy sinh.
Rủi ro tín dụng là một đề tài khá rộng có rất nhiều giải pháp có thể giúp Ngân hàng phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh của mình. Tuy nhiên một số biện pháp và kiến nghị mà tôi đề xuất trong luận văn này chưa phải là toàn diện và tối ưu, mới chỉ giới hạn trong phạm vi rủi ro tín dụng của ngan hàng thương mại, là một khía cạnh trong toàn cảnh rủi ro trong nghề Ngân hàng. Nhưng nó cũng có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng..
Do thời gian nghiên cứu có hạn và trình độ chuyên môn còn hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong các thầy cô giáo và các đồng nghiệp tham gia ý kiến đề tài nghiên cứu cửa tôi được hoàn chỉnh và đạt hiệu quả tốt hơn./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6132.doc