- Nhà nước cần tạo sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, pháp luật nói chung nhằm tạo dựng môi trường kinh tế thông thoáng, ổn định và thuận lợi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển phù hợp với yêu cầu của các tổ chức kinh tế, các quy ước, định chế thương mại quốc tế mà chúng ta tham gia.
- Nâng cao chất lượng điều hành vĩ mô về tiền tệ, tín dụng. Duy trì chính sách tỷ giá thị trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện chính sách quản lý ngoại hối có hiệu quả.
- Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt động TTQT. Sớm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ TTQT của NHTM đáp ứng các yêu cầu mới của nền kinh tế. Các quy định này cần được tiến hành từng bước phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, lại vừa đảm bảo tính độc lập, đặc thù của nước ta.
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động TTQT. Nhà nước cần tiếp tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và hệ thống NH. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động TTQT, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT của NHTM. Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm.
27 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2026 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hàng đại lý ở nước người mua.
b. Phân loại
Có hai loại nhờ thu:
* Nhờ thu phiếu trơn
- Khái niệm: Nhờ thu phiếu trơn (Clean Bill): là nhờ thu theo chứng từ tài chính không kèm theo chứng từ thương mại, trong đó nhà xuất khẩu nhờ ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra mà không kèm theo điều kiện nào cả, còn chứng từ gửi hàng sẽ được gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
* Nhờ thu kèm chứng từ
- Khái niệm: Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection) là loại nhờ thu có kèm chứng từ thương mại, trong đó nhà xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện nhà nhập khẩu phải trả tiền ngay hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn để đổi lấy chứng từ đi nhận hàng. Điều kiện này đã tạo ra cho phương thức thanh toán nhờ thu có hai hình thức:
+ Nhờ thu trả tiền đồi chứng từ (Documents Against Payment – D/P): Được sử dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay.
+ Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents Against Acceptance – D/A): Được áp dụng trong trường hợp nhờ thu trả sau.
1.3.4. Phương thức tín dụng chứng từ
Tín dụng chứng từ hay còn gọi là thư tín dụng (L/C) là một sự thỏa thuận trong đó một ngân hàng ( Ngân hàng phát hành L/C theo yêu cầu của khách hàng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (Người hưởng lợi số tiền của L/C) hoặc phải chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Nội dung của L/C thể hiện các điều kiện, điều khoản đã được ký kết trong hợp đồng thương mại giữa người mua và người bán, có thể hiện sự sắp đặt, thỏa thuận của ngân hàng để đi đến điều khoản cam kết thanh toán bộ chứng từ. Song, cam kết của ngân hàng lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại. Để được thanh toán từ ngân hàng, người hưởng lợi phải hoàn tất bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện điều khoản quy định trong L/C. Đây là một quá trình có tính logic của một vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động thương mại và ngân hàng.
2. Rủi ro trong hoạt động TTQT
Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế là những rủi ro về kinh tế phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, nó do các nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia TTQT (nhà xuất khẩu, nhập khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các tác nhân trung gian…) hoặc những nhân tố khách quan khác gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị...
Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế. Nó cũng giống như rủi ro trong giao dịch thương mại trong nước, nhưng phức tạp hơn do khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hóa, luật pháp,…
PHẦN II: MỘT SỐ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TTQT
Hoạt động TTQT là hoạt động mang tính phức tạp và đa chiều, trong quá trình diễn ra hoạt động này, có nhiều rủi ro mang tính chất chủ quan và khách quan, tuy nhiên trong phạm vi bài thảo luận nhỏ, chúng ta có thể xem xét các loại rủi ro trong TTQT thường gặp theo một số khía cạnh, từ đó có cái nhìn tổng thể hơn về hoạt động này:
I. Phân loại theo nguyên nhân phát sinh
1. Rủi ro thương mại
Loại rủi ro này hiện diện trong tất cả các giao dịch giữa các thương gia, do đó cần được xem xét một cách khác nhau từ phía người xuất khẩu và nhập khẩu.
1.1.Đối với người xuất khẩu, rủi do đến từ các nguyên nhân sau:
- Sự suy yếu về tài chính của người mua hàng (nhà nhập khẩu). Trong trường hợp này người mua hàng bất ngờ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán trong thời hạn đã thỏa thuận, họ sẽ đề nghị xin gia hạn trả nợ. Người bán sẽ phải chấp nhận nếu người mua chưa thể cải thiện tình hình tài chính.
- Những quy định pháp lý: trường hợp người mua tuyên bố không còn khả năng chi trả, doanh nghiệp đó sẽ bị giải thể theo luật pháp. Nợ của nhà xuất khẩu chỉ được thanh toán sau khi các khoản nợ được ưu tiên đã giải quyết xong như các khoản tiền lương, thuế, các khoản nợ các tổ chức xã hội,… do đó sẽ có rất ít cơ hội thu hồi các khoản mà người mua đã nợ.
1.2. Đối với người nhập khẩu, rủi do đến từ các nguyên nhân sau:
- Thời hạn gửi hàng: theo hợp đồng đã ký kết, người nhập khẩu bắt buộc phải nhận hàng trong thời hạn đã thỏa thuận. Mọi sự chậm trễ trong quá trình vận chuyển từ người xuất khẩu đều gây khó khăn cho việc nhận hàng theo đúng hợp đồng và sẽ gây tổn thất đối với người mua hàng.
- Sự thay đổi về điều kiện và thời gian thanh toán: Nhiều khi hợp đồng thương mại đã ký quy định cụ thể về các điều kiện và thời gian thanh toán, song người xuất khẩu đơn phương thay đổi buộc nhà nhập khẩu phải thanh toán một lần toàn bộ số tiền hàng mới được nhận hàng, điều này khiến cho nhà nhập khẩu bị động và phải có khoản vay của Ngân hàng để tài trợ cho việc thanh toán. Nếu khoản vay lớn sẽ gây khó khăn trong việc vay vốn và ảnh hưởng đến khả năng nhận hàng.
- Yếu tố giá cả: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, với lý do đặc biệt như chính trị, thiên tai, người xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu phải trả mức giá cao hơn so với thỏa thuận. Trong trường hợp này người nhập khẩu có thể từ chối hợp đồng và tìm người cung cấp mới, song sẽ bị chậm hơn so với quy định với các đối tác. Nhiều khi họ không có sự lựa chọn nào khác và buộc phải chấp nhận giá cao gây tổn thất trong lợi nhuận.
- Rủi ro trong bảo hiểm: Trong hợp đồng thương mại được ký, các bên tham gia thiếu sự quản lý chặt chẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng trong vận chuyển hàng hóa. Khi đó hàng hóa được đền bù với giá quy định trong hợp đồng bảo hiểm, nhưng có thể thấp hơn nhiều so với giá trị thực của hàng hóa.
- Yếu tố chất lượng, nguồn gốc của hàng hóa: Hàng hóa với chất lượng không như chuẩn mực đã ký kết hay như tên gọi gốc sẽ gây ra những rắc rối đối với người nhập hàng trong việc quan hệ với các cơ quan chức năng: hải quan, thuế,...Ví dụ khi hợp đồng hàng hóa đã ký nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa tại một nước nào đó thi không thể thay thế bằng hàng nhập từ nước khác. Trường hợp hải quan xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa không đúng như đăng ký , người nhập khẩu sẽ phải trả thêm lệ phí.
Một ví dụ điển hình trong thực tế, Công ty Hapos của Úc đã ký thoả thuận mua hàng với một đối tác Nhật Bản, nhưng trong hợp đồng, Hapos đã để cho đối tác Nhật Bản lựa chọn hãng tàu vận chuyển. Hapos cứ đinh ninh đợi hàng về, nhưng sự việc bất ngờ đã xảy ra, chiếc tàu của hãng tàu trên trên đường từ Nhật Bản đến Úc đã bị hải quan bắt giữ vì có vận chuyển hàng cấm và hàng chưa kê khai hải quan. Kết quả là tất cả các hàng hoá mà Hapos đặt cũng bị tịch thu luôn.
2. Rủi ro do cho vay tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu
- Khái niệm: Rủi ro tín dụng xảy ra khi NHTM cấp tín dụng cho khách hàng để thực hiện các phương thức thanh toán quốc tế theo những điều kiện thanh toán đã thỏa thuận với đối tác nước ngoài.
- Nguyên nhân: Rủi ro tín dụng gây ra cho các ngân hàng xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân chủ quan:
+ Khả năng áp dụng quy chế và năng lực cán bộ trong quá trình thẩm định món vay xuất – nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện các phương thức thanh toán chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán theo L/C, thanh toán ứng trước, chiết khấu hối phiếu và chứng từ, đó là các vấn đề như thẩm định phương án vay vốn, phân tích năng lực tài chính, khả năng hoàn trả, hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng, khả năng phân tích các thông tin rủi ro từ phía đối tác của khách hàng, của ngân hàng nước ngoài.
+ Sự phối hợp giữa thực hiện nghiệp vụ TTQT của cán bộ đối với những dịch vụ thanh toán cung ứng tín dụng. đó là các vấn đề về điều kiện thanh toán, sửa đổi L/C, ký hậu và bảo lãnh vận đơn nhận hàng..
Nguyên nhân khách quan: Đối với các phương thức thanh toán, khả năng rủi ro tín dụng bao gồm các nguyên nhân rủi ro do khả năng thanh toán của khách hàng và ngân hàng nước ngoài đem lại, mà khả năng này lại phụ thuộc vào các nhân tố khách quan khác như: Đối tác của khách hàng không thực hiện hợp đồng đúng, đủ, kịp thời về hàng hóa và điều kiện thanh toán làm phá vỡ kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất – kinh doanh của khách hàng, hàng hóa bị mất mát trong quá trình vận chuyển do khách hàng xuất – nhập khẩu đảm nhiệm, hàng kém phẩm chất phát sinh trong quá trình vận chuyển, đối tác không có khả năng thanh toán, ngân hàng nước ngoài đang trong quá trình sát nhập giải thể, phá sản.. Riêng đối với phương thức tín dụng chứng từ thì rủi ro tín dụng là đặc thù vì theo phương thức này:
+ Ngân hàng phát hành thực sự bị ràng buộc vào cam kết thanh toán cho người hưởng lợi nếu bộ chứng từ phù hợp được xuất trình, nên kể cả khi ngân hàng thông báo cung cấp tín dụng cho người mở thì ngân hàng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình.
+ Ngân hàng thương lượng khi đã chiết khấu, ứng trước bộ chứng từ có sai sót hoặc không bảo lưu quyền truy đòi nhà xuất khẩu thì có thể nhận lấy rủi ro không được thanh toán của ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng hoàn tiền.
3. Rủi ro tỷ giá
- Khái niệm:
Rủi ro tỷ giá là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng đồng ngoại tệ của một nước nào đó. Khi tỷ giá hối đoái biến động so với tỷ giá khi ký kết hợp đồng xuất khẩu sẽ có lợi cho người này và thiệt cho người khác. Nếu ngoại tệ lên giá thì nhà nhập khẩu bị thiệt hại và ngược lại nếu ngoại tệ mất giá thì người xuất khẩu sẽ gặp rủi ro.
Một cách chung nhất, rủi ro hối đoái tồn tại khi biến động tỷ giá ảnh hưởng tới từng nghiệp vụ tiền mặt của công ty hay toàn bộ luồng tiền mặt của công ty.
Nói một cách khác, có thể hiểu rủi ro hối đoái là sự không chắc chắn về giá trị của một khoản thu nhập hay một khoản chi trả do sự biến động tỷ giá gây ra có thể làm tổn thất đến giá trị dự kiến.
- Tác động của rủi ro tỷ giá:
Rủi ro hối đoái cũng có thể coi như rủi ro suy đoán và tác động của nó đối với các khoản phải thu, phải trả là trái ngược nhau, và tùy thuộc vào vị trí của doanh nghiệp là nhà xuất khẩu hay nhập khẩu mà tác động của rủi ro hối đoái cũng khác nhau.
+ Đối với nhà xuất khẩu, tỷ giá biến động sẽ phá vỡ kế hoạch tính toán của nhà xuất khẩu, chẳng hạn khi giá cả đồng tiền trong nước so với đồng ngoại tệ tăng (tỷ giá hối đoái giảm) sẽ bất lợi cho nhà xuất khẩu vì tiền bán hàng thu về bằng ngoại tệ sẽ được ít đồng nội tệ hơn do vậy mua được ít yếu tố đầu vào hơn làm cho kinh doanh xuất khẩu có thể bị thua lỗ. Biến động tỷ giá hối đoái giảm còn ảnh hưởng khi nhà xuất khẩu nhận tài trợ xuất khẩu từ ngân hàng bằng nội tệ để phục vụ sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
+ Đối với nhà nhập khẩu, việc lựa chọn đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính toán trong một thương vụ khác nhau cũng gây nên rủi ro cho nhà nhập khẩu khi có biến động tỷ giá. Ngược lại với xuất khẩu, khi tỷ giá hối đoái biến động tăng (giá cả đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ giảm) sẽ bất lợi cho nhà nhập khẩu vì họ mua ngoại tệ thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu với giá cao nhưng giá cả tiêu thụ hoặc nguyên vật liệu còn phụ thuộc cung cầu thị trường không thể bù đắp nổi với biến động thay đổi tỷ giá. Những khoản tín dụng bằng ngoại tệ do ngân hàng cung cấp sẽ đến hạn trong tương lai càng trở nên lớn hơn do cộng thêm tỷ lệ tỷ giá hối đoái tăng.
+ Đối với các ngân hàng thương mại: Trong quá trình thực hiện thanh toán cho khách hàng, vấn đề quản lý nguồn ngoại tệ và hoạt động kinh doanh ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu thanh toán trên cơ sở cân đối tài sản có bằng ngoại tệ là vô cùng quan trọng, nhằm tránh những rủi ro do biến động tỷ giá gây nên. Chẳng hạn khi trạng thái ngoại tệ của một ngân hàng là dư thừa, nếu tỷ giá biến động tăng liên tục thì đối với các nước có hệ thống ngân hàng hoạt động trên thị trường ngoại tệ không hiệu quả, hoặc khả năng dự trữ của ngân hàng trung ương yếu có thể làm cho ngân hàng đó luôn đứng trước nguy cơ khan hiếm nguồn ngoại tệ, ngược lại nếu tỷ giá giảm liên tục thì ngân hàng đó cũng luôn đứng trước nguy cơ lỗ về tỷ giá.
4. Rủi ro quốc gia
- Khái niệm:
Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng hóa. Loại rủi ro này là do những nguyên nhân khách quan gây nên:
Xảy ra chiến tranh, đảo chính, biểu tình ở các nước
Xảy ra khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính – tiền tệ gây ra những khó khăn trong thanh toán.
Những cấm vận trong thanh toán: nước nhập khẩu bị phong tỏa tài khoản do những món nợ nước ngoài chưa trả, hoặc do quan hệ không bình thường giữa hai nước có quan hệ kinh tế quốc tế làm cho các hợp đồng ngoại thương, hiệp định thương mại bị hủy bỏ giữa chừng.
Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia bị thâm hụt nặng nề khiến cho Chính phủ nước nhập khẩu phải đưa ra biện pháp cấm thanh toán hoặc chuyển ngoại hối ra nước ngoài.
Rủi ro quốc gia của nước nhập khẩu xảy ra khi người mua có khả năng và sẵn sàng thanh toán cho người bán, song do những biến động hoặc biến cố bất thường trong quốc gia nhập khẩu khiến cho chính phủ của nước nhập khẩu cấm các công ty của nước mình thanh toán ngoại tệ ra nước ngoài, hoặc hàng hóa nhập khẩu thuộc diện cấm nhập khẩu nên không được làm thủ tục thông quan.
Rủi ro quốc gia của nước xuất khẩu xuất hiện khi có sự thay đổi về chính sách ngoại thương, thuế quan của quốc gia đó. Nhà xuất khẩu đã chuẩn bị giao hàng, song do thuế xuất khẩu tăng hoặc hàng hóa thuộc diện cấm xuất khẩu. Cũng có khi do quan hệ thanh toán giữa hai quốc gia chưa được bình thường hóa nên gây khó khăn cho việc nhận tiền hàng của người xuất khẩu.
Rủi ro quốc gia cũng có thề xảy ra đồng thời với nhà xuất khẩu và nhập khẩu nếu sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương chính phủ nước nhập khẩu và xuất khẩu đều không cho phép nhập khẩu và xuất mặt hàng đó nữa.
Trong kinh doanh quốc tế, việc phòng tránh rủi ro quốc gia là một vấn đề rất quan trọng đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vì vậy trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh với đối tác, các nhà quản trị cần nhận dạng và phân tích kỹ cấu trúc rủi ro quốc gia để từ đó xây dựng các chính sách đề phòng, bảo hiểm.
5. Rủi ro đạo đức
Là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức ở đây chính là sự tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác thường ở cách nhau rất xa, thậm chí không hề gặp nhau trong quá trình thực hiện đàm phán.
5.1. Rủi ro đạo đức nhà nhập khẩu.
Nấu khách mua hàng không phải bạn hàng lâu năm, có uy tín thì rất dễ có những hành vi lừa người bán. Họ cố tình trì hoãn, từ chối thanh toán bằng những thủ đoạn nghiệp vụ như bắt lỗi sai sót chứng từ, ép giá người bán để thu lợi cho mình. Có trường hợp do giá hàng hóa nhập khẩu giảm nên người mua hàng sợ thua lỗ trong kinh doanh đã có tình không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc trì hoãn không thanh toán đẩy ngân hàng và nhà xuất khẩu vào tình thế khó khăn.
5.2. Rủi ro đạo đức nhà xuất khẩu.
Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng không phù hợp với hợp đồng, nhưng lại xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo với các điều khoản ký kết của hợp đồng, hoặc nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ khống giả mạo (không giao hàng). Ngân hàng khi đó sẽ thực hiện thanh toán và nhà xuất khẩu sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro. Nếu ngân hàng tài trợ cho người nhập khẩu thì rủi ro này ngân hàng cũng phải gánh chịu. Trường hợp giá cả hàng hóa quốc tế tăng, người bán hàng sợ thiệt không muốn giao hàng cho người mua nữa, điều này sẽ phá vỡ kế hoạch sản xuất kinh doanh và gây thiệt hại cho người mua.
5.3. Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở
Người bán hàng giao hàng cho người chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo, nhận hàng lấy tiền rồi biến mất, hoặc bán mất hàng. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải thực hiện việc thanh toán cho người bán hàng theo hồ sơ chứng từ, còn việc kiện hãng chuyên chở, hoặc chờ bảo hiểm hoàn toàn tách rời nhau. Việc chờ đợi, kiện tụng rất mất thời gian và tốn kém, gây thiệt hại cho cả người mua và người bán.
5.4. Rủi ro đạo đức của ngân hàng
Trong nhiều trường hợp ngân hàng phát hành cũng vi phạm cam kết như trì hõa, châp ỳ, hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Hoặc ngược lại đối với sự thiếu trung thực của ngân hàng chiết khấu khi bộ hồ sơ không hoàn hảo vẫn gửi điện cam kết hồ sơ chuẩn đòi tiền ngân hàng phát hành. Nếu ngân hàng phát hành tin tưởng thanh toán sẽ gặp rủi ro, việc đòi lại được tiền rất khó khăn.
Như vậy có thể kết luận rằng nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy đủ, không cân xứng, thiếu những thông tin xác thực về khả năng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như uy tín, tính trung thực của của đối tác. Vì vậy đã đưa ra những quyết định sai lầm dẫn đến rủi ro trong thanh toán.
6. Rủi ro pháp lý
Rủi ro về pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp hay khiếu kiện giữa các bên có tham gia thanh toán. Khi đó vấn đề đặt ra là tòa án nước nào sẽ đứng ra thụ lý và xử vụ án trên cơ sở pháp lý nước nào. Mặc dù trong hợp đồng mua bán đã đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi vì không bên nào có thể thông thạo luật pháp của bên đối tác. Chính vì môi trường pháp lý và luật pháp của các bên khác nhau nên rủi ro pháp lý là không thể tránh khỏi.
7. Rủi ro trong quá trình hoạt động, tác nghiệp
- Khái niệm: Là những rủi ro sai sót kỹ thuật do chính các bên tham gia gây nên, rủi ro này được thể hiện trong việc lập các hồ sơ chứng từ không hoàn hảo.
- Nguyên nhân: Rủi ro này này xảy ro chủ yếu là do trình độ của các bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu của quá trình thanh toán, dẫn đến sai sót trong quá trình giao dịch từ lúc soạn thảo và ký kết hợp đồng cho đến khâu lập chứng từ và thanh toán.
Cụ thể các bên gặp rủi ro như sau:
+ Ngân hàng chuyển tiền: Do nhận chuyển tiền cho những hợp đồng thanh toán vi phạm chế độ quản lý hạn ngạch nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại hối, những hợp đồng thanh toán ma được lập để lợi dụng hoạt động phi pháp..
+ Ngân hàng uỷ nhiệm và nhận nhờ thu: Do giao bộ chứng từ nhận hàng cho khách hàng trước khi nhận được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu, nhận và gửi chỉ thị thanh toán không rõ ràng.
+ Các ngân hàng có liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ:
Ngân hàng phát hành bao gồm các rủi ro về mặt phát hành và về kiểm tra chứng từ: Phát hành thư không đúng theo các điều kiện của đơn xin mở L/C, hoặc có những điều khoản bất lợi, dẫn đến các rủi ro: Không những phải chịu chi phí sửa đổi, đôi khi những điều này lại có lợi cho người bán nên họ sẽ không chấp nhận sửa đổi nếu họ không có thiện chí vì vậy có thể dẫn đến rủi ro cho người mở kéo theo rủi ro cho ngân hàng.
Kiểm tra chứng từ không phát hiện được sai sót mà thực hiện thanh toán sẽ gặp khả năng rủi ro không được hoàn lại tiền từ nhà nhập khẩu.
Ngân hàng xác nhận : Bằng việc gắn thêm các cam kết thanh toán theo thư tín dụng khi ngân hàng phát hành không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Vì vậy nó có rủi ro do:
+ Rủi ro thương mại của ngân hàng phát hành, họ không có khả năng thanh toán.
+ Rủi ro do kiểm tra bộ chứng từ: Nếu ngân hàng xác nhận thanh toán không đúng cho người hưởng khi bộ chứng từ có sai sót thì ngân hàng phát hành có quyền từ chối hoàn tiền cho ngân hàng xác nhận.
Ngân hàng thông báo: Ngân hàng thông báo L/C sẽ không có bất cứ một cam kết nào khi thông báo thư tín dụng nhưng việc xác thực một thư tín dụng hay sửa đổi thư tín dụng qua các khóa mật hoặc kiểm tra cẩn thận vể tính chân thật của nó sẽ có những rủi ro do đã thông báo L/C giả mạo không xác thực mà không lưu ý cho người được thông báo.
Ngân hàng chiết khấu, thương lượng: Ngân hàng này bao gồm các rui ro của ngân hàng phát hành, ngân hàng hoàn trả tiền của người hưởng và rủi ro kiểm tra chứng từ. Nếu ngân hàng thương lượng không kiểm tra chứng từ giao hàng của nhà xuất khẩu một cách cẩn thận, thích đáng thì những sai sót của bộ chứng từ đã được thương lượng sẽ bị ngân hàng phát hành từ chối một cách hợp pháp.
II. Phân loại theo các phương thức thanh toán quốc tế
1. Rủi ro trong phương thức chuyển tiền
Trong phương thức thanh toán chuyển tiền Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán phục vụ khách hàng, với vị trí trung gian giữa người chuyển trả tiền và người thụ hưởng, thực hiện lệnh của các bên liên quan. Vì vậy Ngân hàng không thể can thiệp vào thiện chí của bên chi trả cho bên thụ hưởng. Rủi ro có thể xẩy ra đối với phương thức chuyển tiền:
1.1. Rủi ro đối với người mua
Sẽ rất bất lợi cho người mua nếu sau khi chuyển tiền xong, người bán bị phá sản hoặc giao hàng không đúng số lượng, chủng loại, chất lượng kém hay không bảo đảm thời gian giao hàng theo đúng thỏa thuận làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình. Vì thế nếu buộc phải thanh toán theo phương thức này, nhà nhập khẩu nên yêu cầu ngân hàng của nhà xuất khẩu phát hành cho mình một thư bảo lãnh về số tiền ứng trước đó, để tránh rủi ro mất tiền khi người bán không thực hiện những nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng ngoại thương.
1.2. Rủi ro đối với người bán
Rủi ro xảy đến với người bán trong trường hợp nếu người mua thanh toán sau khi xuất hàng thì việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của người mua, do đó bên bán dễ bị bên mua chiếm dụng vốn trong thanh toán.
1.3. Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua khi Ngân hàng cho vay thanh toán để người mua nhập hàng, khi hàng về không đúng phẩm chất, quy cách, thương vụ thua lỗ, người mua mất khả năng thanh toán, gây tổn thất cho ngân hàng không thu được nợ.
1.4. Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán trong trường hợp Ngân hàng cho vay thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu, người bán không thu hồi được tiền, ảnh hưởng đến thu nợ của Ngân hàng.
Rủi ro có thể xảy đến với Ngân hàng trong phương thức thanh toán bằng chuyển tiền cũng có thể do công nghệ thanh toán lạc hậu, chất lượng đường truyển kém dẫn đến việc chuyển sai hoặc chuyển nhầm số tiền cần thanh toán.
Bên cạnh đó, rủi ro trong phương thức này có thể do sự tắc trách, cẩu thả của cán bộ thanh toán dẫn đến thanh toán nhầm hoặc chậm thanh toán.
Tóm lại, phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản, thủ tục nhanh gọn đối với ngân hàng. Trong phương thức thanh toán này, Ngân hàng đóng vai trò là trung gian, do đó rủi ro đối với Ngân hàng trong trường hợp này phần lớn gắn liền với rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
2. Rủi ro trong phương thức ghi sổ
Phương thức thanh toán ghi sổ thuận lợi cho người mua, rủi ro cho người bán.
Thuận lợi cho người mua: Người mua chỉ phải trả tiền khi đã nhận được hàng hóa, dịch vụ hoặc thậm chí khi tiêu thụ xong hàng hóa và dịch vụ.
Thuận lợi cho người bán: Tiêu thụ được hàng hóa và giữ được thị trường truyền thống.
Bất lợi cho người bán: Người bán đã chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa mà không được đảm bảo thanh toán: Có khả năng các sự kiện kinh tế chính trị sẽ đặt ra các quy định làm chậm trễ hoặc tạm ngừng việc chuyển tiền cho người bán; vốn của người bán bị đọng cho đến khi người mua nhận hàng, đôi khi gặp sự chây ỳ không thanh toán của người mua thì việc theo đuổi con nợ gặp phải khó khăn vì ngay từ đầu người mua đã không cần phải phát hành bất cứ chứng từ nhận nợ nào để cam kết thanh toán màng tính phi lý của mình.
3. Rủi ro trong phương thức nhờ thu
3.1. Rủi ro chủ yếu thuộc về nhà xuất khẩu
- Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu trơn không đảm bảo quyền lợi cho bên bán (thanh toán không bình đằng) giữa sự trả tiền và nhận hàng tách rời, không có sự ràng buộc lẫn nhau. Người mua có thể nhận hàng mà không chịu trả tiền hoặc trì hoãn việc trả tiền.
- Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu kèm chứng từ, người bán không chỉ nhờ Ngân hàng thu hộ tiền mà còn nhờ Ngân hàng khống chế chứng từ hàng hóa đối với người mua. Với cách khống chế theo bộ chứng từ này quyền lợi của bên bán được đảm bảo hơn vì sự ràng buộc giữa việc thanh toán và nhận hàng của người mua. Tuy nhiên trong phương thức thanh toán này vẫn có thể xảy ra rủi ro đối với người bán. Người bán thông qua Ngân hàng giữ hộ số hồ sơ hàng hóa mới chỉ đảm bảo được quyền sở hữu hàng hóa của mình, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hàng hóa (không cần nhận hàng), không thanh toán khi giá cả trên thị trường biến động dẫn đến bất lợi cho người bán trong việc giải tỏa hàng hóa và gặp rủi ro trong tiêu thụ hàng hóa.
3.2. Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Trong phương thức nhờ thu, người mua do quy định họ phải có trách nhiệm trả tiền ngay hoặc chấp nhận hối phiếu trước khi nhận hàng vì vậy không có điều kiện kiểm tra hang hóa trước, người mua có thể gặp trường hợp hàng hóa giao không đúng quy cách, phẩm chất với chứng từ hoặc với hợp đồng.
3.3. Rủi ro đối với ngân hàng trung gian thu hộ
Đối với các ngân hàng ngoài sự cẩn trọng khi thực hiện đúng chỉ thị ủy nhiệm thu thì rủi ro chủ yếu của ngân hàng là rủi ro tín dụng:
+ Ngân hàng nhận nhờ thu: Gặp rủi ro khi chiết khấu bộ chứng từ mà lại bị người nhập khẩu từ chối thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu.
+ Ngân hàng ủy nhiệm nhờ thu: Gặp rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng nhưng hàng hóa của nhà nhập khẩu lại gặp khó khăn trong tiêu thụ.
4. Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ
4.1. Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
Trong phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, các Ngân hàng tham gia không chỉ đơn thuần chỉ là những trung gian thanh toán mà chính là những thành viên thực sự trong quá trình thanh toán, là “người” cam kết trả tiền cho người bán thay cho người mua. Với việc mở L/C cho người hưởng lợi, Ngân hàng phát hành đã thay mặt người nhập khẩu cam kết việc thanh toán cho người hưởng lợi, điều đó có nghĩa là Ngân hàng phát hành sẽ trả tiền cho người thụ hưởng thực hiện đầy đủ các điều kiện ngay cả khi người mở không trả hay không muốn thanh toán L/C và lúc này Ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro. Rủi ro này không thuộc về mối quan hệ tín dụng, vậy nên khi Ngân hàng nhận được thư yêu cầu mở L/C, Ngân hàng cần xem xét kỹ tình hình tài chính của khách hàng để có thể có các phán quyết chính xác trước khi mở L/C.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp loại L/C không thể hủy ngang khi đã được phát hành thì Ngân hang không thể tự ý hủy bỏ hoặc sửa đổi, chỉ được phép thông báo sai sót trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ chứng từ, nếu qua thời hạn đã quy định đó thì Ngân hàng mất quyền từ chối và chịu mọi rủi ro, tổn thất.
4.2. Rủi ro đối với ngân hàng thông báo
Đối với ngân hàng thông báo L/C cần thiết phải xác định tình trạng mã khóa của Ngân hàng phát hành L/C, nếu không xác định được điều này phải nêu rõ trong thông báo L/C cho người xuát khẩu và nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác thực của L/C này, nếu trong việc này Ngân hàng thông báo không cẩn trọng sẽ dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng thông báo và người xuất khẩu.
4.3. Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu
Trong trường hợp nếu các Ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ không phát hiện ra sai sót hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực hiện thanh toán hoặc chiết khấu cho người bán Ngân hàng sẽ phải chịu mọi rủi ro nếu Ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trường hợp Ngân hàng chiết khấu đồng thời là Ngân hàng xác nhận L/C thì Ngân hàng đó sẽ không có quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu.
4.4. Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên nhà nhập khẩu buộc phải thanh toán bất kể hàng hóa tốt hay xấu. rủi ro thuộc về phía người mua nếu người bán cố ý lập các chứng từ hàng hóa giả mạo, người mua sẽ phải gánh chịu những thiệt hại do lừa đảo từ phía người bán.
Thực tế đã minh chứng không ít nhiều người bán tiền chuyển đi mà hang thì không thấy về. Điển hình, Tập đoàn Nestle có nhập khẩu bơ từ hãng Latel của Na Uy để sản xuất các loại sữa giàu dinh dưỡng. Cuộc mua bán được giới thiệu thông quan một số thông tin trên Internet. Do đang trong lúc cần nguyên liệu gấp nên Nestle đã nhanh chóng thoả thuận hợp đồng nhập khẩu với Latel. Họ đã thoả thuận thanh toán theo L/C, vì vội vàng nên Nestle chưa đề cập kỹ các nội dung cụ thể của L/C mà nhanh chóng chuyển tiền cho Latel theo L/C thông qua một ngân hàng do Nestle chỉ định. Nhưng rồi, tiền thì được gửi đi mà hàng thì mãi vẫn chưa thấy về. Tìm hiểu kỹ thì Nestle mới vỡ lẽ ra rằng, Latel chỉ là một công ty ảo trên mạng, không có thật.
4.5. Rủi ro đối với nhà xuất khẩu
Chi phí cao, đôi khi không đáp ứng được những quy định của L/C nên việc thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. Một ví dụ điển hình đó là:
Lagergren, một hãng kinh doanh các sản phẩm nội thất lớn của Thuỵ Điển, đã bán một lô hàng đồ gỗ cho tập đoàn Cadtrak Furniture Co.Ltd của Đài Loan. Về phần mình, theo thoả thuận giữa hai bên, Cadtrak đã mở tại ngân hàng của mình một thư tín dụng L/C để chuyển nhượng số tiền hàng trị giá 760.000 USD cho Lagergren qua một ngân hàng Thuỵ Điển. Theo thoả thuận giữa hai bên, hàng sẽ được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau muộn nhất là 20 ngày . Tiền hàng cũng được thanh toán làm hai lần và việc thanh toán qua L/C sẽ tuân theo UCP500.
Có hai điều kiện được quy định cho thư tín dụng. Thứ nhất, ngân hàng Đài Loan sẽ tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển đã xếp hàng hoàn hảo. Thứ hai, ngân hàng Thuỵ Điển sẽ phải đợi giấy chấp nhận hàng do ngân hàng tại Đài Loan của Cadtrak cấp. Giấy này sẽ được cấp sau khi có thông báo của Cadtrak rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Đài Loan tại cảng chấp nhận. Sau khi hàng đến Đài Loan, ngân hàng Thuỵ Điển đã gửi bộ chứng từ của chuyến hàng cho Cadtrak và đã bị Cadtrak từ chối với lý do thời gian giữa hai chuyến giao hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Thuỵ Điển đã không chấp nhận điều này. Do vậy, ngân hàng đã thuyết phục Cadtrak chấp nhận điều không đúng nguyên tắc trên. Sau cùng, Cadtrak chấp nhận thời gian giao hàng quá 20 ngày nhưng vẫn bảo lưu ý kiến từ chối của mình với lý do đợi sự chấp nhận lô hàng của Bộ Y tế Đài Loan, cơ quan mà công ty Cadtrak nộp đơn xin kiểm tra hàng. Sau đó không lâu, Cadtrak thông báo rằng họ chính thức từ chối hàng của Lagergren vì Cơ quan Y tế Đài Loan tại cảng đã phát hiện ra nguy cơ mối mọt trong lô hang đồ gỗ này.Lagergren lập luận rằng, trong biên bản của Cơ quan y tế đã không có dòng chữ bác bỏ sản phẩm. Tuy nhiên, Cadtrak vẫn giữ nguyên quan điểm của mình vớI nhận định rằng: “theo thông lệ, hàng đồ gỗ phải đủ độ tin cậy để lưu kho trong vòng 12 tháng”. Cadtrak cho rằng sản phẩm mà họ đặt đã không được đảm bảo về chất lượng và bởi vậy khăng khăng không chấp nhận lô hang này.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC
I. Một số giải pháp hạn chế rủi ro với chủ thể là các Ngân hàng Thương mại.
1. Đối với bản thân mỗi Ngân hàng thương mại cần phải thực hiện:
1.1. Các giải pháp chung:
* Nhanh chóng xây dựng quy trình quản trị rủi ro chính thức trong thanh toán quốc tế:
Quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế phải là một quá trình gồm những công đoạn khác nhau, chịu ảnh hưởng lẫn nhau: kết quả của công đoạn này là cơ sở để tiến hành các công đoạn tiếp theo. Quy trình phải bao gồm ít nhất 5 bước cụ thể: (1) Nhận dạng rủi ro có thế xảy ra trong hoạt động thanh toán quốc tế; (2) Đo lường rủi ro, tổn thất trong hoạt động thanh toán quốc tế; (3) Giám sát rủi ro trong thanh toán quốc tế; (4) Lựa chọn kỹ thuật phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế; (5) Báo cáo và đánh giá về quản trị rủi ro trên thực tế.
* Hoàn thiện chiến lược quản trị rủi ro tổng thể và phổ cập một cách rộng rãi trong toàn hệ thống ngân hàng:
Rủi ro có thể xảy ra từ tất cả các hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng thương mại, do vậy ngân hàng thương mại không thể chỉ có chiến lược quản trị rủi ro thanh toán quốc tế hay một vài loại rủi ro cụ thể nào khác. Các ngân hàng cần hoàn thiện chiến lược quản trị rủi ro toàn diện và mang tính dài hạn đối với tất cả các hoạt động kinh doanh. Tất cả mọi cán bộ công nhân viên, cổ đông của Ngân hàng đều phải tham gia đóng góp ý kiến hoàn thiện chiến lược.
* Kiện toàn về tổ chức cũng như hoạt động của bộ phận quản trị rủi ro để tăng cường quản trị rủi ro của Ngân hàng.
Chất lượng và hiệu quả của công tác quản trị rủi ro phản ánh năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng. Để đạt được chất lượng và hiệu quả cao, một trong những giải pháp cần thiết là phải tách bạch giữa bộ phận quản trị rủi ro và bộ phận kinh doanh tiến tới quản trị rủi ro theo ngành dọc. Trên cơ sở đó bộ phận này mới có thể giám sát chặt chẽ toàn bộ các rủi ro và điều hành chính sách quản lý rủi ro phù hợp với từng thời kỳ.
* Đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật và công nghệ hiện đại phục vụ hoạt động quản trị rủi ro trong thanh toán quốc tế:
* Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ quản lý các cấp
* Chú trọng đào tạo và phổ cập kiến thức về quản trị rủi ro cho cán bộ nhân viên:
Sử dụng những chuyên gia giỏi chuyên nghiên cứu về rủi ro và quản trị rủi ro làm hạt nhân trong việc tham mưu cho lãnh đạo Ngân hàng và trong việc phổ cập kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên về rủi ro và quản trị rủi ro. Mỗi khi ban hành quy định mới hay và bổ sung, sửa đồi các cơ chế, quy chế cần cập nhật về quản trị rủi ro, Ban lãnh đạo Ngân hàng cần thiết lắng nghe ý kiến của các chuyên gia coi trọng những đề xuất khách quan và khoa học.
Tích cực tìm kiếm cơ hội đào tạo kết hợp với việc chủ động mở các lớp đào tạo ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ và ý thức đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ công nhân viên theo mô hình và phương thức các lớp bồi dưỡng kiến thức về rủi ro trên đây để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho tất cả mọi cán bộ, nhân viên.
Bố trí sắp xếp có hiệu quả đội ngũ cán bộ nghiệp vụ theo nguyên tắc đúng người đúng việc, bố trí công tác phù hợp với khả năng, trình độ và sở trường của mỗi người.
1.2. Các giải pháp cụ thể:
* Nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ quản trị, điều hành trong hoạt dộng thanh toán quốc tế của ngân hàng và cán bộ chuyên trách quản trị rủi ro
Để nâng cao năng lực quản trị rủi ro của cán bộ quản trị điều hành và cán bộ chuyên trách, cách tốt nhất trong giai đoạn hiện nay vẫn kết hợp đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng tư vấn. Mở riêng các lớp bồi dưỡng ngắn hạn với trình độ nâng cao dần cho các cán bộ điều hành các cấp với phương pháp và học liệu riêng phù hợp. Mặt khác, cán bộ quản trị điều hành cần có các chuyên gia về quản trị rủi ro để tham mưu tư vấn mỗi khi cần quyết định những vấn đề liên quan.
*Tăng cường hơn nữa việc kiểm soát tín dụng cho vay xuất khẩu nhằm phòng ngừa rủi ro
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Cần coi trọng hệ thống kiểm tra nội bộ, xây dựng hệ thống kiểm tra ngày càng hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn trong từng nghiệp vụ.
* Củng cố và tăng cường khả năng quản trị rủi ro gây ra do nghiệp vụ của nhân viên
Cần xây dựng cơ chế, quy chế nghiệp vụ hoạt động thanh toán quốc tê đảm bào đồng bộ, chặt chẽ, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng rủi ro chủ quan trong quá trình hoạt động.
* Hoàn thiện các hoạt động quản trị rủi ro tỷ giá
Cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro tỷ giá bằng cách sử dụng thường xuyên và hiệu quả nghiệp vụ phái sinh ngoại hối để chủ động hạn chế rủi ro tỷ giá.
*Thiết lập hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động quản trị rủi ro của Hội đồng quản trị
Hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát đảm bảo hiệu quả hoạt động và thông tin cần thiết để chỉ đạo Tổng giám đốc điều hành thực hiện quản lý có hiệu quả, phòng ngừa rủi ro ở tầm vĩ mô và vi mô do khách quan và chủ quan.
*Hoàn thiện chính sách đào tạo và trả lương cho các cán bộ quản trị rủi ro và nhân viên thanh toán quốc tế
*Thực hiện thưởng, phạt nghiêm minh đối với các cá nhân, đơn vị trong việc quản trị rủi ro
Đây là cơ chế động lực khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt công tác phòng ngừa rủi ro, đảm bào an toàn trong kinh doanh. Đồng thời cần thiết phải có hình thức xử phạt những đơn vị, cá nhân đề xảy ra rủi ro do yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và uy tín của Ngân hàng tùy theo mức độ vi phạm.
2. Đối với NHNN
2.1. Tăng cường quyền tự chủ kinh doanh và tính độc lập cho các ngân hàng thương mại.
Trên cơ sở thống nhất hóa hệ thống thông tin và chế độ báo cáo thống kê. Đề nghị chính phủ cho phép thí điểm mở rộng hơn quyền tự chủ của các ngân hàng thương mại cổ phần và coi đây là một trong những điều kiện cần thiết tạo ra những động lực để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng hoạt động, quản trị rủi ro và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Hiện nay có rất nhiều các nghiệp vụ kinh doanh và phòng chống rủi ro được ngân hàng ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường thực hiện nhưng lại chưa thể thực hiện ở Việt Nam bởi những quy định giới hạn của Ngân hàng nhà nước. Cụ thể là các hoạt động phát sinh ngoại hối, lãi suất và chứng khoán hoặc bị cấm, hoặc chỉ cho phép một số ngân hàng thực hiện. Đây là sự thiếu bình đẳng và tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động tài chính ngân hàng. Vậy đề nghị Chính phủ và Ngân hàng nhà nước cần nhanh chóng bãi bỏ các quy định hạn chế về nghiệp vụ kinh doanh và phòng chống rủi ro cũng như các quy định hành chính khác. Thay vào đó, nên áp dụng những phương pháp quản lý mang tính chât pháp lý - kinh tế thì việc quản lý sẽ có hiệu quả cao hơn mà năng lực quản trị nói chung và quản trị rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng cũng sẽ được cải thiện.
2.2. Củng cố và phát triển thị trường tiền tệ
Hầu hết các công cụ thực hiện phòng chống rủi ro của ngân hàng thương mại đều được thực hiện trên thị trường tiền tệ. Do vậy, củng cố và phát triển thị trường tiền tệ có ý nghĩa rất quan trọng đến việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại. Trong những năm gần đây, thị trường tiền tệ nước ta đã từng bước được hình thành và phát triển, song vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu phát triền của nền kinh tế và hoạt động ngân hàng. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa thực sự tận dụng được những ưu thế của thị trường tiền tệ kể từ việc xác định lãi suất đến việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh để hạn chế rủi ro. Sự phối hợp giữa Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước vừa qua chưa chặt chẽ, nhất là về cơ chế xác định lãi suất của thị trường tiền tệ (Vẫn lệ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước). Do vậy, Chính phủ và Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính cần tiếp tục giải phóng đối với lãi suất, chuyển sang áp dụng cơ chế thị trường xác định lãi suất. Điều này cũng phù hợp với xu hướng xóa bỏ tài chính kiềm chế, thực hiện hội nhập quốc tế về ngân hàng tài chính một cách chủ động và tích cực.
2.3. Hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện hội nhập quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác đa phương, song phương nhằm khơi thông các quan hệ ngân hàng và tận dụng các nguồn vốn từ các nước và các tổ chức quốc tế như: tham gia các điều ước quốc tế về ngân hàng, các thỏa thuận ngân hàng trung ương, các diễn đàn khu vực và quốc tế về ngân hàng, các thỏa thuận ngân hàng trung ương, các diễn đàn khu vực và quốc tế về dịch vụ ngân hàng. Cải cách lại hệ thống kế toán cho phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Chú trọng đến việc đầu tư cho hạ tầng cơ sở của các ngân hàng như hệ thống thông tin, mạng máy tính. Kết hợp với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế để tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin, kế toán và xử lỹ thông tin kế toán ngân hàng, hệ thống chuyển tiền tự động.
Rà soát để xây dựng các môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, an toàn cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối cho phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế về tài chính - ngân hàng theo hướng xây dựng cơ chế quản lý ngoại hối mở. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện phát triển các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối, đặc biệt là các nghiệp vụ phòng chống rủi ro về hối đoái trong cơ cấu tài sản của ngân hàng và bảo vệ lợi ích của khách hàng.
Về phía các cơ quan Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin về pháp luật, thị trường của các quốc gia khác, thu thập thông tin về sự thay đổi của thị trường, pháp lý của các quốc gia đó. Các cơ quan đại diện cho Nhà nước ở các thị trường phải trực tiếp nắm bắt thông tin về các doanh nghiệp, pháp lý, thị trường để cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính những nguồn thông tin này là một kênh quan trọng để doanh nghiệp trong nước phòng tránh, giảm thiểu được rủi ro khi tham gia các hoạt động thương mại quốc tế.
II. Một số giải pháp hạn chế rủi ro với các nhà xuất nhập khẩu
1. Giải pháp chung đối với cả hai bên.
- Tìm hiểu bạn hàng kỹ lưỡng, bao gồm năng lực tài chính, tiểu sử hoạt động sản xuất kinh doanh, lĩnh vực xuất nhập khẩu
- Tham khảo ý kiến ngân hàng về quá trình kinh doanh của đối tác.
- Nghiên cứu kỹ quy định về điều khoản phạt trong hợp đồng (Penalty), trong đó quy định phạt bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ.
- Yêu cầu cả hai bên ký quỹ tại một ngân hàng để đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Ngoài ra, trong hoạt động thanh toán quốc tế cung thường xảy ra tranh chấp liên quan đến pháp lý. Để khắc phục, hạn chế những rủi ro pháp lý, các nhà xuất nhập khẩu cần:
Thứ nhất, phải tự nâng cao nhận thức của mình về pháp luật thương mại quốc tế; chủ động tìm hiểu về những quy định pháp lý liên quan đến xuất nhập khẩu tại các thị trường lớn để đưa ra cho mình những đối sách hợp lý.
Thứ hai, có kế hoạch, phòng chống rủi ro pháp lý bằng các xây dựng pháp chế doanh nghiệp chuyên nghiệp với những nhân viên đủ năng lực, trình độ để ký kết hợp đồng giao thương với nước ngoài.
Thứ ba, tạo thói quen sử dụng tư vấn của luật sư, chuyên gia pháp lý trong hoạt động thương mại quốc tế.
Thứ tư, kiểm tra xác minh tư cách pháp lý và năng lực tài chính của đối tác nước ngoài trước khi chính thức ký hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hoặc khi thiết lập các quan hệ hợp tác khác với đối tác nước ngoài.
Thứ năm, riêng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng lớn trong nước để thực hiện phương thức thanh toán với nước ngoài.
Trên cơ sở đó các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên lựa chọn một phương thức thanh toán quốc tế để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tuy nhiên cũng cần có một vài phương thức thanh toán dự phòng trong trường hợp không thỏa thuận được với đối tác phương thức tối ưu có lợi cho mình.
2. Những giải pháp hạn chế rủi ro đối với nhà nhập khẩu:
Nếu đối tác không tin cậy hay đối tác có chủ ý “lừa đảo”, rất có thể bạn sẽ gặp rắc rối bởi những loại giấy tờ giả. Ngoài ra, vấn đề mâu thuẫn giữa hàng và chứng từ cũng là yếu tố cần để ý, bởi rất có thể hàng hoá khi nhập khẩu sẽ bị hải quan tịch thu do không có sự trùng khớp với giấy tờ. Để tránh những rủi ro này, bạn cần:
- Đưa ra các yêu cầu chặt chẽ, thống nhất giữa nội dung và hình thức chứng từ, không yêu cầu chung chung. Đặc biệt là điều khoản sau:
+ Hàng hóa: phải nêu rõ đặc điểm hàng hóa, quy cách phẩm chất, nguồn gốc xuất xứ, số lượng cụ thể
+ Phương thức giao hàng: Nếu nhà xuất khẩu là người thuê phương tiện vận tải thì phải quy định rõ phương thức vận chuyển là gì, yêu cầu chất lượng đối với phương tiện chuyên chở ví dụ: tuổi tàu…., phương thức đóng gói hàng hóa, các ký hiệu cụ thể trên bao bì đóng gói để hướng dẫn bốc xếp và đặc biệt phải quy định rõ phí bốc xếp do bên nào chịu.
+ Thời gian giao hàng: Ghi cu thể thời gian giao hàng. Nên ghi cụ thể ngày giao hàng cuối cùng. Điều khoản phạt nên ghi rõ nếu giao hàng chậm thì bên bán phải trả khoản tiền phạt là bao nhiêu.
+ Thanh toán: Ghi rõ phương thức thanh toán. Người mua nên chọn phương thức an toàn đặc biệt đối với đối tác lần đầu giao dịch. Người mua nên quy định: thanh toán bao nhiêu % khi nhận chứng từ, bao nhiêu % sau khi nhận hàng. Nên quy định rõ đồng tiền tính toán, đồng tiền thanh toán.
+ Nơi giải quyết tranh chấp: cố gắng thỏa thuận nếu có tranh chấp sẽ giải quyết tại nước của nhà nhập khẩu.
+ Bảo hiểm hàng hóa: phải quy định rõ loại bảo hiểm, thường là loại A (Bảo hiểm tất cả các rủi ro)- Vận đơn do hãng tàu đích danh lập. Khi xếp hàng hoá phải có sự giám sát của đại diện phía nhà nhập khẩu để kịp thời đối chiếu sự thật giả của vận đơn và lịch trình tàu (đối với lô hàng có giá trị lớn).- Ðề nghị nhà xuất khẩu gửi thẳng 1/3 bộ vận đơn gốc (bản chính)- Hoá đơn thương mại đòi hỏi phải có sự xác nhận của đại diện phía nhà nhập khẩu hoặc của Phòng Thương mại hoặc hoá đơn lãnh sự (Consulars invoice).- Giấy chứng nhận chất lượng do cơ quan có uy tín ở nước xuất khẩu hoặc quốc tế cấp hoặc có sự kiểm tra giám sát và ký xác nhận vào giấy chứng nhận của đại diện phía nhà nhập khẩu.- Cung cấp giấy kiểm định chất lượng và số lượng hàng hóa (Certificate of inspection)
Trên hợp đồng phải quy định rõ: Hàng hóa phải được kiểm định bởi một tổ chức kiểm định có uy tín nhưng kết quả kiểm định cuối cùng để giải quyết tranh chấp (nếu có) phải do tổ chức kiểm định tại nước nhập khẩu.
- Yêu cầu phải đưa ra những công cụ đảm bảo an ninh thanh toán của ngân hàng như Standby L/C, Bank Guarantee, Performance Bond.. (chỉ áp dụng đối với những hợp đồng lớn và khách hàng không quen biết nhau) để đảm bảo quyền lợi của nhà nhập khẩu.- Đối với các rủi ro trong quá trình vận chuyển như: lựa chọn hãng tàu không tin cậy, hư hỏng hàng hóa do xếp hàng không đúng quy định, có thể hạn chế bằng cách:
- Giành quyền chủ động thuê tàu, chỉ định hãng tàu nổi tiếng. Đặc biệt nên thuê tàu của các hãng có văn phòng giao dịch tại nước mình, nên quy định tuổi tàu (nếu nhà xuất khẩu thuê)
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa.
- Trong hợp đồng nên rằng buộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu trong vấn đề lên tàu như nhập khẩu theo điều kiện FOB, CFR, hay CIF (được quy định trong Incorterms 2000).
3. Những giải pháp hạn chế rủi ro với nhà xuất khẩu:
Đối với nhà xuất khẩu rủi ro lớn nhất là khách hàng không thanh toán hoặc thanh toán chậm khi hàng đã được chuyển cho người nhập khẩu. Để giảm các rủi ro này, ngoài một số giải pháp chung như đã nêu ở trên. Người xuất khẩu cần:
- Lựa chọn loại hình thanh toán an toàn cho người xuất khẩu: Điện chuyển tiền trong trường hợp trả trước khi giao hàng, L/C trong trường hợp thanh toán khi nhận hàng. Nhìn chung nếu người xuất khẩu không thể yêu cầu người nhập khẩu thanh toán trước nên yêu cầu người nhập khẩu thanh toán bao nhiêu % trước khi giao hàng, bao nhiêu % khi bên mua nhận chứng từ. Trong một số trường hợp người xuất khẩu có thể sử dụng phương thức bao thanh toán.
- Trong trường hợp tỷ giá đồng tiền thanh toán tăng, người nhập khẩu sẽ bị thiệt hại do phải bỏ nhiều đồng nội tệ của nước nhập khẩu để mua đồng tiền thanh toán để trả cho người xuất khẩu. Trong trường hợp này rủi ro người nhập khẩu không thanh toán/ hủy hợp đồng là khá lớn. Bên cạnh đó khi tỷ giá giảm, số tiền thực thu bằng đồng nội tệ của nước người xuất khẩu lại ít đi. Để tránh trường hợp này, nhà nhập khẩu nên lựa chọn đồng tiền thanh toán là đồng tiền có tính ổn định cao hoặc sử dụng rổ tiền tệ và các công cụ phái sinh như: hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai…
- Trên hợp đồng nên quy định rõ thời hạn thanh toán và điều khoản phạt khi thanh toán chậm. Người xuất khẩu cũng nên quy định nơi giải quyết tranh chấp tại nước người xuất khẩu.
- Để tránh trường hợp người nhập khẩu từ chối thanh toán do hàng thiếu mặc dù với số lượng không nhiều (vì nhiều nguyên nhân khách quan như: hao hụt trong quá trình vận chuyển, cân đong đo đếm…), người xuất khẩu nên quy định đúng sai số lượng hàng giao có thể chấp nhận được trong hợp đồng và trên các chứng từ giao hàng.
- Các khoản phí như: phí bốc xếp hàng lên/xuống phương tiện vận tải, phí tu chỉnh L/C,… cung nên nêu rõ trong hợp đồng để tránh các tranh chấp, hoặc chần chừ trong việc thanh toán các khoản phí này.
- Nhà xuất khẩu nên quy định rõ ràng các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mà người xuất khẩu có thể được miễn trách nếu gặp phải. Trong quá trình sản xuất, chuẩn bị, vận chuyển hàng hóa cho người nhập khẩu, người bán đôi khi gặp phải các tình huống bất khả kháng như: thiên tai, đình công, …. Dẫn đến việc giao hàng chậm hơn dự tính hoặc hàng giao có thể chất lượng không đảm bảo 100% như yêu cầu của người nhập khẩu. Trong hợp đồng nên quy định rõ trong trường hợp bất khả kháng, người nhập khẩu không có quyền từ chối thanh toán, từ chối nhận hàng và người xuất khẩu không bị phạt nếu thời gian giao hàng chậm hơn quy định bao nhiêu ngày.
III. Đối với Nhà nước và các bộ ngành có liên quan
- Nhà nước cần tạo sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, pháp luật nói chung nhằm tạo dựng môi trường kinh tế thông thoáng, ổn định và thuận lợi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển phù hợp với yêu cầu của các tổ chức kinh tế, các quy ước, định chế thương mại quốc tế mà chúng ta tham gia.
- Nâng cao chất lượng điều hành vĩ mô về tiền tệ, tín dụng. Duy trì chính sách tỷ giá thị trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện chính sách quản lý ngoại hối có hiệu quả.
- Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt động TTQT. Sớm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ TTQT của NHTM đáp ứng các yêu cầu mới của nền kinh tế. Các quy định này cần được tiến hành từng bước phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, lại vừa đảm bảo tính độc lập, đặc thù của nước ta.
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động TTQT. Nhà nước cần tiếp tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và hệ thống NH. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động TTQT, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT của NHTM. Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26201.doc