Đề tài Rủi ro và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bình Chánh

NHNO & PTNT Bình Chánh là một Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh theo quy định pháp luật. Phương châm hoạt động của ngân hàng là “Kinh doanh để phục vụ, phục vụ để kinh doanh”. Ngân hàng đã tận dụng mọi khả năng và năng lực để nâng cao chất lượng kinh doanh. Ngân hàng đầu tư tín dụng cho các lĩnh vực: cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam và Ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân và hộ gia đình. Cho vay ủy thác và dịch vụ Ngân hàng chính sách. cho vay các chương trình ủy thác bằng vốn đầu tư nước ngoài, Góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của địa phương, cùng thực hiện xây dựng xã hội theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.

doc68 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 930 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rủi ro và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bình Chánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng vốn vay hay không, chu kỳ sản xuất, sự thành thật của khách hàng, Trong điều kiện như hiện nay, giá cả vật tư cũng như sản phẩm không ổn định sẽ gây ra bất lợi cho Ngân hàng khi quyết định cho vay đối với các dự án sửa chữa, xây dựng nhà (do giá ximăng, sắt thép tăng cao) Vì vậy, để đảm bảo cho khoản tín dụng của mình Ngân hàng thường xét duyệt cho vay đối với những hộ có tài sản đảm bảo có giá trị cao. 4.1.3. Đảm bảo tín dụng. Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải mục đích kinh doanh của Ngân hàng, nhưng nó là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu kinh doanh. Để đảm bảo thu hồi được nợ, Ngân hàng phải xem xét một cách thận trọng đến uy tín và năng lực của khách hàng, từ đó áp dụng những phương pháp cho vay thích hợp. Nếu khách hàng được đánh giá là tốt như có phẩm chất tốt trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, chấp hành tốt các hợp đồng tín dụng trong quá khứ và có triển vọng phát triển trong tương lai thì Ngân hàng có thể cho vay không cần đảm bảo. Ngược lại, nếu khách hàng không đạt được các tiêu chuẩn đó thì để hạn chế rủi ro buộc Ngân hàng phải cho vay có đảm bảo. Đảm bảo tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. Trong cho vay kinh doanh nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với cho vay vốn lưu động hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn để hình thành tài sản cố định. Trong cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thứ nhất của Ngân hàng là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính (lãi cho vay, lãi các chứng khoán) và các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá hoạt động của khách hàng nếu thấy rằng nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở chắc chắn thì buộc Ngân hàng phải thiết lập các cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Khi quyết định cho vay, người ra quyết định phải có câu trả lời cụ thể cho ba câu hỏi sau: Khách hàng có mong muốn trả nợ không? Khách hàng có khả năng trả nợ không? Khả năng và ý muốn đó có duy trì được trong suốt thời hạn vay vốn không? Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay, nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất mang tính nguyên tắc. Tuy vậy trên thực tế, đôi khi Ngân hàng xếp đảm bảo vào vị trí số một và thậm chí trong nhiều trường hợp coi như nó là tiêu chuẩn duy nhất. Chính quan điểm này đã dẫn đến xuất hiện hàng loạt các rủi ro trong cho vay của Ngân hàng. Mặc dù đảm bảo tín dụng không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc, nhưng không vì thế mà đặt thấp vị trí của nó. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp, vì thế mọi dự đoán rủi ro của Ngân hàng chỉ mang tính chất tương đối. Trong môi trường kinh doanh, đảm bảo là tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của việc quản trị tín dụng, cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi cho việc kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. a. Đảm bảo đối nhân (bảo lãnh). Đảm bảo đối nhân là hình thức đảm bảo thực hiện thông qua một hợp đồng, trong đó người bảo lãnh cam kết với Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng trong trường hợp khách hàng vay mất khả năng thanh toán . Sơ đồ 4: Quan hệ bảo lãnh. Người đi vay (1) Ngân hàng Người bảo lãnh (2) Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng và người đi vay. Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng và người bảo lãnh. Cùng một khoản nợ có thể có nhiều người bảo lãnh, mỗi người có thể bảo lãnh cho một khoản nợ hoặc chỉ bảo lãnh một phần. - Các loại bảo lãnh: + Bảo lãnh không có tài sản đảm bảo: Đối với cá nhân và doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh và có uy tín với Ngân hàng thì có thể ký kết hợp đồng bảo lãnh mà không phải kèm theo tài sản thế chấp hoặc cầm cố. + Bảo lãnh có tài sản đảm bảo: Khi người bảo lãnh thiếu các tiêu chuẩn về uy tín hoặc năng lực tài chính thì để đảm bảo cho cam kết bảo lãnh cần phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố kèm theo. Theo phương thức bảo lãnh này, khi khách hàng vay vốn không trả được nợ thì người bảo lãnh phải trả thay. Trong trường hợp người bảo lãnh cũng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết, Ngân hàng có quyền thu hồi nợ thông qua bán tài sản thế chấp hoặc cầm cố theo quy định của pháp luật. - Căn cứ vào nghĩa vụ bảo lãnh: + Bảo lãnh riêng biệt: Bảo lãnh riêng biệt được thực hiện cho một số tiền vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được hạch toán riêng trên tài khoản cho vay. + Bảo lãnh duy trì: Là hình thức bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mức bảo lãnh theo hạn mức tối đa, phương pháp bảo lãnh này được áp dụng khi cho vay bằng kỹ thuật thấu chi trên tài khoản vãng lai. - Căn cứ theo nội dung xét duyệt bảo lãnh: + Bản thân người bảo lãnh phải có năng lực pháp lý. + Người bảo lãnh phải có năng lực tài chính đủ mạnh để trả nợ thay. + Người bảo lãnh phải có uy tín. + Việc bảo lãnh phải được thực hiện bằng văn bản. b. Đảm bảo đối vật. Đảm bảo đối vật là hình thức đảm bảo tín dụng mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng _ con nợ nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Tài sản đảm bảo tín dụng phải đủ các điều kiện sau: - Tài sản đảm bảo phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng vay vốn. - Tài sản đảm bảo phải được pháp luật cho phép chuyển nhượng hợp pháp. - Tài sản đảm bảo phải có thị trường tiêu thụ. Đây là điều kiện cần thiết để Ngân hàng có thể bán hoặc phát mãi tài sản khi khách hàng không trả được nợ. Như vậy, tùy thuộc vào loại tài sản và tính chất thị trường của nó để Ngân hàng có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận là tài sản đảm bảo. Các phương thức đảm bảo đối vật. - Thế chấp : là phương tiện chuyển dịch quyền lợi về tài sản sang cho chủ nợ với mục đích là đảm bảo cho món nợ hoặc miễn trừ một nghĩa vụ. Người đi vay được gọi là người thế chấp và người cho vay được gọi là người nhận thế chấp. Hành vi thế chấp được coi là hết hiệu lực khi món nợ đã được thanh toán hoặc nghĩa vụ đã được thực hiện. Các loại thế chấp: - Căn cứ vào nội dung pháp lý, thế chấp được chia làm hai loại như sau: + Thế chấp pháp lý. + Thế chấp công bằng. - Căn cứ vào số lần thế chấp thì thế chấp bao gồm hai loại:  + Thế chấp thứ nhất. + Thế chấp thứ hai. - Căn cứ vào tính chất của bất động sản, thế chấp có hai loại: + Thế chấp toàn bộ bất động sản. + Thế chấp một phần bất động sản. - Cầm cố: là hình thức đảm bảo mà trong đó khách hàng phải giao cho Ngân hàng tất cả giấy tờ lẫn tài sản mà không được quyền sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận cầm cố. Các tài sản dưới đây được phép cầm cố: + Tài sản dùng cầm cố vay vốn ở các tổ chức tín dụng là các động sản có giá trị, chuyển nhượng hoặc mua bán dễ dàng như: phương tiện vận tải, công cụ lao động, máy móc thiết bị dùng cho sản xuất kinh doanh, vật tư hàng hóa, + Giấy tờ có giá đang có thời hạn hiệu lực thanh toán như: sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do các doanh nghiệp, Ngân hàng hoặc Chính phủ phát hành và một số tài sản hợp pháp khác. Xử lý tài sản cầm cố: Trong trường hợp hết thời hạn, người có tài sản cầm cố từ chối trả nợ, hoặc người có tài sản cầm cố bị chết mà không có người thừa kế hoặc có người thừa kế nhưng tuyên bố không thừa kế, hoặc các doanh nghiệp có tài sản cầm cố bị phá sản, giải thể, thì Ngân hàng được quyền phát mãi tài sản thu hồi nợ, việc phát mãi tài sản được thực hiện theo phương thức bán đấu giá, số tiền thu về được xử lý như sau: - Bù đắp chi phí tổ chức bán đấu giá. - Trả nợ cầm cố. - Phần còn lại trả cho bên cầm cố. Vấn đề đảm bảo tín dụng được đặt ra khi nguồn thu nợ chính của người vay chưa được chắc chắn. Hầu hết các khoản tín dụng của Ngân hàng đều được đảm bảo. Tuy nhiên, trong đảm bảo tín dụng cũng chứa đựng những yếu tố rủi ro như sau: - Rủi ro về đảm bảo đối vật: + Cơ sở pháp lý về quyền sở hữu tài sản, quyền chuyển nhượng tài sản. + Rủi ro trong khi làm thủ tục đảm bảo. + Rủi ro do biến động thị trường tài sản đảm bảo. + Rủi ro chi phí phát mãi. - Rủi ro về đảm bảo đối nhân: + Rủi ro môi trường. + Rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh. + Rủi ro đạo đức. Chính vì phải đối mặt với những rủi ro trên, nên Ngân hàng phải thực hiện việc đảm bảo tín dụng nhằm buộc khách hàng tôn trọng các cam kết đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Khi cho vay, Ngân hàng sẽ tùy từng khách hàng mà lựa chọn hình thức đảm bảo tín dụng để bảo đảm an toàn nhất cho khoản tín dụng phát ra. Luật các tổ chức tín dụng tại điều 52: Bảo đảm tiền vay, đã quy định rõ: + Tổ chức tín dụng chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay. + Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba. + Việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với khách hàng được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Triển khai thực hiện Luật các tổ chức tín dụng, Chính phủ ban hành Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước có thông tư 06/2000/TT-NHNN1 hướng dẫn thực hiện Nghị định trên. Do yêu cầu thực tiễn, ngày 25/10/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số: 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 178/1999/NĐ-CP. Sau đó, ngày 19/05/2003 Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2003/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện Nghị định này. Riêng đối với lĩnh vực kinh tế hộ và sản xuất nông nghiệp mới đây nhất, Thống đốc NHNN có Quyết định số: 312/2003/QĐ-NHNN, ngày 24/02/2003, hướng dẫn về cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo Nghị định số 02, ngày 17/01/2003 của Chính phủ. Theo Nghị định này, đối với hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp mang tính sản xuất hàng hóa, có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi và nằm trong vùng đã được quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng, đã ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp, hợp tác xã, ngay cả khi chưa ký hợp đồng nhưng sản phẩm được nêu trong dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh có khả năng tiêu thụ thì các TCTD được xem xét cho vay đến 30 triệu đồng không phải áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản, chỉ nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có giấy xác nhận của UBND xã (phường) về đất không có tranh chấp. Tuy nhiên, cùng với việc áp dụng những quy chế này thì nguy cơ xảy ra rủi ro trong thực tế cũng tăng theo. Do đó, việc các tổ chức tín dụng triển khai thực hiện như thế nào để vừa bảo đảm an toàn trong cho vay, hạn chế thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn và giảm thiểu rủi ro, nhưng lại mở rộng được cho vay là cả một nghệ thuật trong việc điều hành của lãnh đạo TCTD. Tóm lại, Ngân hàng phải lựa chọn một hình thức đảm bảo phù hợp với yêu cầu của một khoản vay, đồng thời phải đánh giá chính xác giá trị vật làm đảm bảo tại thời điểm vay vốn. - Đối với đảm bảo bằng tài sản (đảm bảo đối vật) Ngân hàng phải xác định chính xác được quyền sở hữu, quyền sử dụng, tính lưu thông và sự tồn tại thực tế của tài sản đó đối với người vay tiền. Cần lưu ý thời hạn sử dụng của tài sản đảm bảo phải lớn hơn thời hạn vay tiền. - Đối với đảm bảo bằng bảo lãnh (đảm bảo đối nhân) Ngân hàng phải đánh giá chính xác năng lực pháp lý, năng lực tài chính, uy tín và trách nhiệm của người bảo lãnh. 4.1.4. Đăng ký giao dịch đảm bảo góp phần hạn chế rủi ro trong bảo đảm tiền vay. Giao dịch bảo đảm là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được quy định tại Điều 13 Nghị định số 165/1999/NĐ – CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, mà cụ thể là: các bên thoả thuận bên bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm. Đăng ký giao dịch bảo đảm cho phép các cơ quan chức năng quản lý việc giao dịch bảo đảm ngày càng chặt chẽ. Đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những biện pháp góp phần hạn chế rủi ro trong bảo đảm tiền vay, mà cụ thể là: - Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký hạn chế rủi ro cho các tổ chức tín dụng khi xử lý tài sản: hợp đồng bảo đảm bằng tài sản để vay vốn tại các tổ chức tín dụng dù được công chứng nếu các bên có thỏa thuận hay như trong trường hợp pháp luật quy định phải có chứng nhận, chứng thực thì các bên phải tuân theo nhưng việc công chứng đó không thay thế cho việc đăng ký. Mặc khác, trong quan hệ bảo đảm một tài sản bảo đảm có thể thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ cho nhiều bên nhận bảo đảm trong đó có thể có nhiều tổ chức tín dụng cho nên để bảo đảm quyền lợi cho các bên có liên quan khi xử lý tài sản phải tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm. Một trong những giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm là thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký. Chính vì vậy, đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ cho phép các tổ chức tín dụng khi xử lý tài sản của khách hàng sẽ được hưởng thứ tự ưu tiên thanh toán theo thứ tự đã đăng ký nhằm hạn chế rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Chấm dứt tình trạng thường xảy ra trước đây là: các tổ chức tín dụng có quan hệ bảo đảm với khách hàng trước các bên nhận bảo đảm khác, nhưng do chưa thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm nên khi xử lý tài sản không được hưởng thứ tự ưu tiên trong thanh toán mà phải chia theo tỷ lệ vốn tham gia làm thiệt hại cho các tổ chức tín dụng. - Hạn chế việc lợi dụng của khách hàng: hiện nay, khi cho vay có bảo đảm bằng tài sản các tổ chức tín dụng thường giữ bản chính các giấy tờ liên quan chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng của tài sản bảo đảm, còn tài sản thường giao cho bên bảo đảm giữ. Tuy bên bảo đảm giữ tài sản nhưng tổ chức tín dụng luôn tin tưởng là khách hàng không thể sử dụng tài sản này để làm tài sản bảo đảm vay vốn tại tổ chức tín dụng khác, nhất là khi tài sản đó chỉ có khả năng bảo đảm trả nợ tại một tổ chức tín dụng hoặc bán đi vì cho rằng bản chính các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng của tài sản bảo đảm chỉ có một và tổ chức tín dụng đã giữ nên khách hàng không còn bản chính các giấy tờ này để thực hiện hành vi lợi dụng. Nhận thức trên là chưa đầy đủ, vì hiện nay đang tồn tại không ít trường hợp một tài sản nhưng lại có nhiều bản chính các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng nhất là trong lĩnh vực nhà đất. Mặc khác, bất cứ loại tài sản nào khi chủ tài sản báo mất các giấy tờ có liên quan chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản ấy thì đều được các cơ quan chức năng xem xét cấp lại giấy khác. Đặc biệt đối với những phương tiện đi lại, vận chuyển như ô tô, xe máy, tàu thuyền thì việc cấp lại gấy đăng ký rất dễ dàng mà không cần điều tra, xác minh việc mất đó là có thật. Từ việc quản lý thiếu chặt chẽ trên, khách hàng có thể lợi dụng để có nhiều bản chính của một tài sản để thực hiện hành vi vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng khác nhau hoặc tự ý bán tài sản khi đã dùng để bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng mà tổ chức tín dụng, người mua tài sản và các cơ quan chức năng không phát hiện được. Nhưng nếu có đăng ký giao dịch bảo đảm thì khách hàng không thể lợi dụng được, vì thông qua việc thu thập thông tin về giao dịch bảo đảm, các tổ chức tín dụng sẽ dễ dàng phát hiện và từ chối việc cho vay hoặc người mua sẽ từ chối việc mua tài sản bất hợp pháp. Nếu người mua thiếu thông tin thì trong quá trình làm thủ tục sang tên, trước bạ, chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng để mua tài sản các cơ quan chức năng có liên quan sẽ phát hiện và ngăn chặn kịp thời nên hạn chế được việc khách hàng lợi dụng. - Thông qua việc đăng ký giao dịch bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có liên quan giám sát chặt chẽ và chủ động phối hợp với tổ chức tín dụng xử lý kịp thời tài sản bảo đảm khi cần thiết nhằm hạn chế rủi ro cho tổ chức tín dụng. 4.1.5. Lựa chọn khách hàng. Trong quá trình quan hệ với khách hàng, Ngân hàng sẽ phân tích, đánh giá khách hàng nhằm phân loại khách hàng có uy tín và khách hàng có ít uy tín. Từ đó Ngân hàng sẽ thu thập thêm thông tin cần thiết, kiểm soát chặt chẽ khách hàng có ít uy tín. Trong môi trường cạnh tranh giữa các Ngân hàng, việc thiết lập mối quan hệ lâu dài với khách hàng là rất cần thiết, bởi vì Ngân hàng không những đánh giá được khách hàng mà còn giảm được chi phí thu thập thông tin, chi phí giám sát các khoản vay của khách hàng. Như vậy, phân tích sàng lọc khách hàng giúp cho Ngân hàng nâng cao độ an toàn vốn tín dụng của mình, bên cạnh đó thiết lập quan hệ lâu dài với khách hàng tốt sẽ giúp cho Ngân hàng đối phó với những bất ngờ về rủi ro đạo đức mà ban đầu quan hệ Ngân hàng không lường trước được. 4.1.6. Thu thập và xử lý thông tin. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng có độ rủi ro cao, vì thế Ngân hàng cần theo dõi thông tin trên thị trường, theo sát khách hàng để phát hiện những trường hợp vi phạm và đưa ra biện pháp xử lý kịp thời để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra sau này. Hơn nữa, nếu Ngân hàng có đầy đủ thông tin và thông tin chính xác thì những biện pháp đưa ra sẽ chính xác, phù hợp với hoạt động của khách hàng, dẫn đến việc sản xuất kinh doanh hiệu quả, giảm thiểu được rủi ro cho Ngân hàng trong việc thu hồi vốn. Phân tích, đánh giá chính xác khách hàng là một trong những biện pháp quan trọng quyết định hiệu quả đầu tư, cần phân tích đánh giá chính xác khách hàng vay vốn để có quyết định đầu tư vốn cho chắc chắn thể hiện qua các nội dung sau: a. Đánh giá về năng lực pháp lý của khách hàng. Nhằm ràng buộc trách nhiệm của khách hàng trước pháp luật và để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng. Xác định tính pháp lý của khách hàng chính là cơ sở để ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng. Đánh giá năng lực pháp lý của doanh nghiệp trên một số mặt sau: - Quyết định thành lập doanh nghiệp; - Điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp; - Giấy phép kinh doanh (giấy phép hành nghề); - Vốn điều lệ và vốn kinh doanh của doanh nghiệp; - Tài sản riêng độc lập thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, có trụ sở đăng ký với chính quyền sở tại; - Tình hình thực hiện văn bản quy định của Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp. b. Đánh giá khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của người lãnh đạo doanh nghiệp. Vị trí của người lãnh đạo điều hành trong doanh nghiệp quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp, có thể đánh giá trên một số khía cạnh sau: - Phân tích năng lực, trình độ chuyên môn, công việc của người lãnh đạo được phân công có phù hợp với chuyên môn của họ không? - Khả năng hoạch định các chính sách của người lãnh đạo trong kinh doanh thông qua các chiến lược về sản phẩm, về thị trường, về chiến lược khách hàng, về định hướng phát triển của doanh nghiệp. - Phân tích năng lực tổ chức quản lý điều hành thông qua các tiêu chí như: tổ chức sắp xếp lao động, cách thức hạch toán, quyết toán tài chính hàng năm; Phân tích các phương án sản xuất kinh doanh tiêu thụ sản phẩm, - Đánh giá xác định uy tín, vị trí của người lãnh đạo điều hành về khả năng điều hành doanh nghiệp để từ đó Ngân hàng xác định được mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp là bao nhiêu là thích hợp. c. Đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp. Nhằm giúp cho Ngân hàng nắm được thực trạng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, xác định chính xác thực trạng và triển vọng về khả năng thanh toán của doanh nghiệp thông qua đánh giá về cơ cấu vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá cơ cấu tài sản và vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp có được sắp xếp, bố trí hợp lý không? (tỷ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động có phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không?) hoặc vốn trong khâu dự trữ với vốn trong khâu luân chuyển trong kinh doanh có phù hợp không? Khả năng tự chủ về tài chính của khách hàng xem xét trên bảng cân đối tài sản Có và tài sản Nợ của doanh nghiệp để thấy được: - Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng nguồn vốn nào là chính, nếu chủ yếu là nguồn vốn của doanh nghiệp thì khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp là tốt, nếu mức vốn tự có / vốn vay > 1 thì thấy được hiệu quả vốn đầu tư của Ngân hàng là đảm bảo. - Mức vốn vay / Doanh số hoạt động < 1 thì ta thấy chất lượng sử dụng vốn của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Đánh giá quan hệ tín dụng của doanh nghiệp thông qua khả năng thanh toán bằng một số chỉ tiêu sau: - Khả năng thanh toán chung = Tổng các khoản dùng để thanh toán / Tổng các khoản nợ > 1 thì ta thấy được khả năng thanh toán của doanh nghịêp là tốt. - Khả năng thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền / Các khoản nợ đến hạn > 1 ta đánh giá là tốt. Do vậy, Ngân hàng phải phân tích và kiểm soát các nguồn tiền ra vào của khách hàng. - Đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh qua các chỉ số so sánh vòng quay luân chuyển vốn lưu động. - Đánh giá về khả năng sinh lời về vốn trong hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu: + Lợi nhuận ròng / Vốn tự có. + Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản. Nếu khả năng sinh lời về vốn trong hoạt động kinh doanh đủ trang trải các chi phí trong kinh doanh và có lãi thì kết luận khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo và đủ độ tin cậy để Ngân hàng đầu tư vốn. 4.1.7. Đào tạo đội ngũ nhân viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Sự phát triển của các ngành nghề sản xuất cùng với sự phát triển của công nghệ Ngân hàng đòi hỏi các nhân viên ngân hàng phải được đào tạo và bồi dưỡng thỏa các mục tiêu sau: + Thông hiểu chính sách tín dụng, chiến lược khách hàng của Ngân hàng. + Thi hành hữu hiệu các qui định về quản lý rủi ro của Ngân hàng. + Có khả năng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng trong từng tình huống cụ thể, có thái độ đúng trong hoạt động Ngân hàng. 4.1.8. Tăng cường kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng. Về phía nội bộ Ngân hàng: - Thường xuyên kiểm tra tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn trong quá trình hoạt động bằng cách lập báo cáo và kế hoạch hàng tháng, quí, năm để tổng kết những công việc đã thực hiện được trong kỳ và đưa ra phương hướng mới cho đơn vị. Nêu lên những mặt hoạt động đã thực hiện được và những mặt hoạt động cần được chấn chỉnh để rút kinh nghiệm, phát huy hiệu quả công tác tín dụng, đồng thời có hướng điều chỉnh kịp thời đối với những sai lệch xảy ra trong quá trình hoạt động. - Tổ chức định kỳ để kiểm tra, giám sát, phổ biến kế hoạch cho vay, thu nợ, chỉ tiêu nợ quá hạn, theo địa bàn phụ trách của từng cán bộ tín dụng. Công tác kiểm tra và lập báo cáo kế toán, quyết toán phải phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ, thực hiện đúng nguyên tắc chuyên môn của ngành để tiện cho việc kiểm tra, giám sát hoạt động của Ngân hàng cấp trên. Đối với khách hàng: - Kiểm tra trước khi cho vay: thẩm định các điều kiện vay vốn, tính chặt chẽ của hồ sơ trước khi phát tiền vay. - Kiểm tra trong khi cho vay. Đây là khâu quan trọng của công tác kiểm tra. Bởi bì các khâu trước được tiến hành theo đúng quy định nhưng sau khi nhận được tiền, khách hàng lại sử dụng vốn sai mục đích sẽ dẫn đến tình trạng thất thoát tiền vay, gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Nội dung kiểm tra sau khi cho vay bao gồm: + Kiểm tra quá trình sử dụng tiền vay theo đúng mục đích. Ngoài việc phát hiện sai sót trong quá trình sử dụng vốn để có hướng xử lý, còn tạo tâm lý tôn trọng cam kết sử dụng vốn vay của khách hàng, nếu khách hàng tôn trọng cam kết thì việc trả nợ càng được bảo đảm. + Kiểm tra kết quả sản xuất kinh doanh, theo dõi thời hạn tiêu thụ và thanh toán sản phẩm để đôn đốc khách hàng trả nợ gốc và lãi. + Kiểm tra hiện trạng tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay, xem xét giá trị tài sản có giảm sút không, đang được sử dụng hay đem cầm cố thế chấp nơi khác. Trong quá trình kiểm tra, giám sát nếu cán bộ tín dụng phát hiện khách hàng có biểu hiện sai sót thì đề nghị uốn nắn sửa chữa kịp thời, nếu thấy cần thiết sẽ trình Giám đốc Ngân hàng xem xét, xử lý. 4.1.9. Giảm thiểu rủi ro. Giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hóa các hoạt động tín dụng, Ngân hàng có thể phát vay theo đối tượng, ngành nghề sản xuất kinh doanh, tránh tập trung vốn vào một đối tượng nhất định. Đối với các dự án có số vốn lớn, hoạt động trong môi trường kinh doanh không ổn định thì Ngân hàng có thể đồng tài trợ với Ngân hàng khác hoặc mua bảo hiểm khoản vay. 4.1.10. Phân tán rủi ro. Biện pháp phân tán rủi ro được thực hiện theo phương pháp chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư khác, không tập trung vốn vay vào một khách hàng, hoặc một lĩnh vực đầu tư, Ngân hàng phải luôn đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư. Giới hạn cho vay đối với một khách hàng không nên vuợt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng hoặc biện pháp tốt nhất trong giai đoạn này là Ngân hàng có thể đồng tài trợ trên cùng một dự án theo tỷ lệ 50/50. 4.1.11. Bảo hiểm nông nghiệp. Rủi ro tín dụng có thể phát sinh khi gặp các nguyên nhân sau: - Do gặp rủi ro thiên tai. - Do già yếu neo đơn thiếu lao động, thiếu kinh nghiệm về kiến thức làm ăn. - Do không có kế hoạch chi tiêu, đông con, nhiều người ăn theo, lười lao động, cờ bạc, Do đó, vấn đề đặt ra là hoạt động tín dụng phải làm sao đảm bảo sự hài hòa giữa việc bảo toàn và sinh lời của đồng vốn đầu tư với việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước. Điều đó chỉ có thể thực hiện khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức tín dụng cũng như giữa các tổ chức tín dụng với các cấp chính quyền địa phương trong việc tăng cường tính dân chủ trong khi xét duyệt vay vốn. Đồng thời có những biện pháp thích hợp phân biệt với từng trường hợp để có biện pháp quản lý vốn tín dụng. Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất chịu nhiều tác động của thiên nhiên nên khi tham gia đầu tư vào sản xuất nông nghiệp thì vốn tín dụng cũng chịu tác động của những rủi ro đó, do đó đồng thời với việc đầu tư vốn tín dụng, Ngân hàng cần phối hợp với cơ quan bảo hiểm để triển khai các hoạt động về thiên tai, tai nạn bất ngờ trong nông nghiệp. Có bảo hiểm thì khi thiên tai xảy ra, cơ quan bảo hiểm sẽ xác định những thiệt hại do khách quan và loại bỏ các thiệt hại do chủ quan của khách hàng để bồi thường tạo điều kiện cho khách hàng trả các khoản tín dụng nợ và có vốn để tái đầu tư sản xuất. Do hình thức bảo hiểm và sự hạn chế về trình độ nên hình thức này chưa thịnh hành. Tuy nhiên, nếu có sự trợ giá và bao tiêu sản phẩm nông nghiệp thì sẽ có người tham gia. 4.1.12. Tăng cường công tác kiểm soát kiểm toán nội bộ. Công tác kiểm soát nội bộ hoạt động nhằm mục đích ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và Ngân hàng. Phải kiểm tra chặt chẽ các cơ sở pháp lý khi thiết lập quan hệ giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp để bảo vệ cho chính bản thân Ngân hàng trước pháp luật. Nội dung kiểm toán nội bộ trong hoạt động kinh doanh bao gồm: - Kiểm tra việc chấp hành quá trình cho vay vốn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay. - Kiểm tra hồ sơ cho vay để đánh giá những khoản đã cho vay có cần bổ sung, chỉnh sửa gì không? - Phân tích đánh giá chất lượng của các khoản cho vay để làm cơ sở chắc chắn cho những khoản vay tiếp theo. - Tiến hành phân loại các khoản nợ, tổ chức kiểm tra chéo áp dụng các biện pháp cụ thể về xử lý các khoản nợ có vấn đề, tăng cường kiểm tra việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, giám sát việc thực hiện quá trình đầu tư vốn. 4.1.13. Ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh. - Phải xây dựng chiến lược khách hàng chi tiết cụ thể, từng bước trước mắt và lâu dài, phân loại khách hàng để từ đó đề ra các biện pháp tiếp cận thị trường và khách hàng. Trong quá trình xây dựng chiến lược và phân loại khách hàng phải chú ý đến tình hình kinh tế của địa phương để xác định khách hàng và có chính sách phục vụ phù hợp. -Tăng cường công tác thẩm định cho vay. Đây là nội dung công tác quan trọng của cán bộ tín dụng, giữ vị trí quyết định đến chất lượng tín dụng và khả năng phòng ngừa rủi ro. Đối với NHNO & PTNT Bình Chánh, cán bộ tín dụng được phân công phụ trách theo từng địa bàn, từng loại hình kinh doanh do đó cán bộ tín dụng có thể nắm rõ tình hình sản xuất, kinh doanh và đời sống của khách hàng. Để thực hiện tốt nội dung này, cần tập trung vào các điểm sau: + Tính chất pháp lý của hồ sơ vay vốn trên các đơn xin vay và sổ nhận nợ. + Nội dung kinh tế của việc vay vốn, tính hiệu quả, ý nghĩa kinh tế và khả năng hoàn trả gốc, lãi cho Ngân hàng. + Tài sản thế chấp: tính hợp pháp của tài sản thế chấp, các quyền của người vay đối với tài sản thế chấp, các giấy tờ gốc kèm theo, giá trị tính lưu thông của tài sản thế chấp. + Thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi phát vay, kiểm soát cho vay phải thực hiện từ khâu bắt đầu cho đến khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi. 4.1.14. Thực hiện tốt việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Để có biện pháp xử lý kịp thời những rủi ro trong hoạt động tín dụng xảy ra, nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh bình thường, Ngân hàng phải trích đầy đủ quỹ dự phòng rủi ro theo đúng tỷ lệ quy định của Ngân hàng Nhà nước, đưa vào chi phí nhất là khi có những khoản nợ quá hạn phát sinh mới. Rủi ro luôn luôn tiềm ẩn trong mọi lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng. Nhận thức tác hại của rủi ro, Ngân hàng cần phải chủ động trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phân tán rủi ro, để hạn chế đến mức thấp nhất tác hại của nó. Tỷ lệ trích lập dự phòng và xử lý rủi ro được áp dụng hiện hành: - Đối với những khoản vay có đảm bảo bằng tài sản: + Chưa đến hạn: 0%. + Dưới 180 ngày là: 20%. + Từ 181 ngày đến 361 ngày là: 50%. + Trên 361 ngày là: 100%. - Đối với những khoản vay không có đảm bảo bằng tài sản: + Chưa đến hạn: 0%. + Dưới 91 ngày là: 20%. + Từ 91 ngày đến 181 ngày là: 50%. + Trên 181 ngày là: 100%. Trên đây là những biện pháp mang tính chất phòng ngừa rủi ro hơn là xử lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động của Ngân hàng vẫn thường có rủi ro xảy ra, vì vậy ngoài các biện pháp mang tính chất phòng ngừa, Ngân hàng còn có những biện pháp xử lý khi rủi ro xảy ra. 4.2. Các biện pháp xử lý. 4.2.1. Phân loại nợ quá hạn. Căn cứ vào thực trạng nợ quá hạn và lãi đọng để tiến hành phân loại từng khoản nợ quá hạn theo thời gian, theo khả năng thu hồi: thu được 100%, thu được một phần hay khả năng mất trắng. Phân tích nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn: căn cứ vào việc kiểm tra, kiểm soát trên hồ sơ và điều tra tình hình thực tế toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh của khách hàng, gắn liền với quá trình sử dụng vốn vay và thông tin khác có liên quan để xác định nguyên nhân gây ra nợ quá hạn, do yếu tố khách quan hay chủ quan? Xác định nguồn thu hồi nợ quá hạn: nguồn có thể thu hồi không chỉ là nguồn từ món vay mà từ tất cả các nguồn khác mà người vay có thể dùng trả nợ Ngân hàng, các nguồn thu đó phải được xác định có căn cứ thực tế và có cơ sở pháp lý. 4.2.2. Xử lý nợ quá hạn. Khi đã xác định tư liệu và thông tin cần thiết, việc đề ra biện pháp xử lý đã rõ ràng, cần lựa chọn phương án hợp lý, hợp pháp, từng bước xử lý rất cụ thể để đạt được kết quả tối ưu nhằm thu hồi được nợ và lãi tồn đọng. Cụ thể: - Khi khách hàng gặp rủi ro do hạn hán, dịch bệnh gây thiệt hại 40% giá trị trở lên được Ngân hàng xét cho gia hạn một lần theo một chu kỳ sản xuất (đối với cho vay ngắn hạn). Nếu hộ bị thiệt hại có nhu cầu vay vốn để khôi phục sản xuất sẽ được xem xét và cho vay bình thường . - Trường hợp rủi ro do kẻ gian phá hoại, lừa đảo, cướp giật hoặc chủ vay bỏ trốn, Ngân hàng lập báo cáo cho cơ quan pháp luật xử lý và đồng thời ngừng ngay quan hệ tín dụng cho đến khi hồ sơ được xử lý và thu hồi được nợ. Dư nợ được hạch toán vào tài khoản “nợ chờ xử lý”, lãi suất nợ chờ xử lý được tính theo lãi suất nợ quá hạn kể từ ngày phát hiện vụ việc. Trường hợp nợ đến hạn mà người vay cố ý không trả nợ, sử dụng vốn sai mục đích, ngân hàng ra quyết định ngừng quan hệ tín dụng, chuyển dư nợ sang nợ quá hạn và tính lãi suất bằng 150% lãi suất cùng loại kể từ ngày cho vay và lập hồ sơ khởi kiện trước pháp luật để buộc người vay hoàn trả nợ gốc và lãi. PHẦN KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 1. KIẾN NGHỊ. Qua phân tích hoạt động của Ngân hàng, tôi xin trình bày một số kiến nghị nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng: - Từ những phân tích trên cho thấy, việc đánh giá không đúng và không kịp thời các khoản nợ “có vấn đề” thông qua việc chuyển nợ quá hạn là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến khó khăn cho Ngân hàng trong công tác theo dõi khoản vay, thu hồi nợ, cũng như có khả năng làm gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn mới phát sinh. Chính vì vậy, việc chuyển nợ quá hạn theo điểm 2 Điều 13 của Quyết định số 1627 không phải là vấn đề cốt lõi làm gia tăng nợ quá hạn của Ngân hàng, mà chính là ở chổ chất lượng tín dụng của Ngân hàng và đang được cải thiện như thế nào. Vì vậy, để chuyển nợ quá hạn theo tinh thần văn bản mới đi vào cuộc sống, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng nợ xấu, trước mắt Ngân hàng cần làm những việc sau: + Ngoài việc chuyển nợ quá hạn theo Điều 13, Quyết định 1627, NHNN nên đưa thêm một số quy định khác mang tính định lượng đối với nợ quá hạn như: tỷ lệ nợ quá hạn ròng tối đa mà NHTM được phép duy trì, phương pháp xác định nợ quá hạn ròng, Hiện tại chưa có một văn bản nào quy định về các nội dung đó. + Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ càng hơn về tính đúng đắn và ý nghĩa của việc chuyển nợ quá hạn theo Điều 13, Quyết định 1627, để qua đó, đề ra kế hoạch hành động nhất quán phù hợp với hoàn cảnh đổi mới. Đặc biệt là nhanh chóng thay đổi tư duy và ứng dụng kịp thời các chuẩn mực vào hoạt động của Ngân hàng, tránh tình trạng chạy đua về mặt thành tích, chẳng hạn như tìm mọi cách để giảm tỷ lệ về nợ quá hạn càng thấp càng tốt, mà bỏ rơi những tiềm ẩn đang rình rập và đe dọa Ngân hàng đằng sau những khoản nợ quá hạn đó. Nghĩa là, chúng ta không nên để đến lúc nợ quá hạn phát sinh rồi mới tìm biện pháp phòng ngừa, xử lý mà chúng ta phải có những biện pháp phòng ngừa trước khi chưa thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Do đó, việc chuyển nợ quá hạn và quản lý nợ quá hạn là một nghiệp vụ không thể tách rời trong hoạt động tín dụng. Nếu nghiệp vụ này được coi trọng (song song với các nghiệp vụ xảy ra trước nó như thẩm định, kiểm tra, giám sát, ) thì nó không những góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, mà còn góp phần giảm thiểu rủi ro. + Đối với cán bộ tác nghiệp (đặc biệt là cán bộ tín dụng), trước khi Ngân hàng và khách hàng tiến hành ký hợp đồng tín dụng, cán bộ tín dụng phải dành thời gian để giải thích rõ ý nghĩa của việc chuyển nợ quá hạn theo quy định mới của NHNN để giúp người vay nâng cao ý thức từ khâu xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả đến khâu xây dựng lịch trả nợ cho Ngân hàng mang tính khả thi và khoa học sát với tình hình sản xuất kinh doanh của mình. Tránh tình trạng hai bên ký hợp đồng tín dụng mà không có lời giải thích cặn kẽ nào về vấn đề chuyển nợ quá hạn theo quy định mới làm cho người vay không hiểu, dẫn đến tình trạng lợi dụng việc gia hạn nợ để kéo dài thời hạn khoản vay, qua đó làm cho tình trạng nợ diễn biến xấu đi. - Tiến hành phân loại hộ vay vốn, xây dựng quản lý hồ sơ khách hàng, xác định mức độ tín nhiệm của Ngân hàng đối với từng khách hàng cụ thể theo các tiêu chí cụ thể để có chính sách, biện pháp tín dụng phù hợp với từng loại khách hàng. Trên cơ sở đó góp phần giảm áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng, đồng thời rút ngắn được thời gian thẩm định, quyết định cho vay, mở rộng tín dụng đi liền với nâng cao chất lượng tín dụng. - Có kế hoạch giáo dục – đào tạo cụ thể từng bước thích hợp cho CBCNV, nên đánh giá đúng hơn thực trạng đội ngũ CBCNV, phân loại theo theo nhiều cấp độ khác nhau theo từng loại nghiệp vụ, có những hệ thống gồm nhiều chỉ tiêu đánh giá đúng thực trạng về trình độ năng lực của CBCNV ở mỗi vị trí công tác. Việc đánh giá này có đúng đắn, khách quan sẽ giúp việc đào tạo sát đúng đối tượng, đúng với trình độ mỗi nghiệp vụ và có hiệu quả hơn. - Trong điều kiện ngày nay, khi công nghệ, dịch vụ Ngân hàng ngày càng hiện đại lại đòi hỏi những nhân viên có kỹ năng nghiệp vụ phù hợp để vận hành các thiết bị cần thiết, kiểm tra, kiểm soát ở trình độ cao hơn. Do đó, cần lựa chọn những nhân viên trẻ đã có kiến thức cơ bản để đào tạo đón đầu, để chuyển dần lao động giản đơn sang lao động có trình độ kỹ năng cao đáp ứng yêu cầu đa dạng dịch vụ Ngân hàng tiên tiến và giảm bớt được việc tuyển chọn nhân viên mới. - Mỗi phòng ban trong Ngân hàng cần tổ chức đều đặn, thường xuyên các buổi họp nghiệp vụ định kỳ, tạo điều kiện cho những cán bộ có kinh nghiệm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng cho những người đi sau chưa có nhiều kinh nghiệm, hoặc củng cố lại kiến thức, qua đó có thể trao đổi những kinh nghiệm trong thực tế sinh động, phục vụ cho công tác hiệu quả hơn. - Động viên cán bộ tín dụng học hỏi kinh nghiệm, tham khảo tài liệu hướng dẫn kỹ thuật trong các hoạt động sản xuất, am hiểu tính thời vụ cũng như chu kỳ sản xuất để thẩm định, xét duyệt cho vay đúng đối tượng, đúng yêu cầu, phù hợp với chi phí thực tế tránh gây lãng phí vốn của Ngân hàng, đồng thời tạo hiệu quả trong hoạt động sản xúât kinh doanh của các thành phần kinh tế. - Hoạt động tín dụng trên địa bàn luôn đòi hỏi Ngân hàng mà đặc biệt là cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn phải có quan hệ mật thiết với UBND xã (phường) và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội tại địa phương. Thực tế cho thấy, tại những địa bàn mà cán bộ tín dụng thiết lập được mối quan hệ tốt với cấp ủy, chính quyền địa phương thì hoạt động tín dụng sẽ tăng trưởng tốt và chất lượng tín dụng được bảo đảm. UBND xã (phường) không những hỗ trợ cán bộ tín dụng trong việc thẩm định cho vay mà còn rất đắc lực trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay, đôn đốc thu lãi, thu nợ, xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề, Do đó, cán bộ tín dụng cần phải tạo mối quan hệ mật thiết với các tổ chức đoàn thể địa bàn mình phụ trách. - Cần có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tín dụng để động viên, khuyến khích họ tạo không khí phấn khởi hăng sai yên tâm làm tốt công tác. Cụ thể, hệ số lương kinh doanh, công tác phí, hao mòn phương tiện, bảo hộ lao động, - Có thể nghiên cứu hạ thấp lãi suất cho vay trong sản xuất nông nghiệp so với các ngành kinh doanh dịch vụ khác. - Đề nghị Ngân hàng Trung ương hướng dẫn triển khai thực hiện Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên môi trường số 03/2003/TTLT – BTP – BTNMT ngày 4/7/2003 “hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký và cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 21/2003/CT – TTg ngày 2/10/2003 “về tăng cường công tác đăng ký giao dịch đảm bảo”. Vì hiện nay việc triển khai thực hiện Thông tư 03 chưa thống nhất, có Ngân hàng thực hiện, có Ngân hàng chưa thực hiện, ảnh hưởng đến hoạt động chung trên địa bàn. - Phối hợp với các ngành, các cấp chính quyền địa phương, cộng tác với họ trong việc thẩm định dự án và cho vay đúng đối tượng, đảm bảo an toàn vốn. Bên cạnh đó, có thể tuyên truyền, tiếp thị cho khách hàng về các quy định cũng như thủ tục vay vốn của Ngân hàng. - Ngoài ra đối với loại rủi ro do thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn, để bảo toàn vốn thì đồng thời với việc cho vay vốn cần hướng dẫn cho khách hàng cách sử dụng đồng vốn có hiệu quả, song song với việc cho vay bằng tiền cần tổ chức cho vay bằng tư liệu sản xuất cần thiết cho sản xuất để tổ chức cho vay phù hợp với yêu cầu của sản xuất. - Ngân hàng phải hoạch định một chiến lược huy động vốn khả thi và phù hợp với nhu cầu đầu tư của kinh tế địa phương trong đó đặc biệt chú trọng đến nguồn vốn trung, dài hạn bằng các giải pháp tích cực và khẩn trương việc huy động kể cả đối với các tổ chức tín dụng, khách hàng khác ngoài địa bàn. - Ngân hàng nên tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm huy động, nâng cao hơn nữa tính tiện ích thông qua chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm. Về lâu dài, Ngân hàng phải đạt được mục tiêu: bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có nguồn tiền chưa sử dụng, đều có thể tìm kiếm ở Ngân hàng một loại hình nào đó phù hợp với mong muốn của họ. Riêng đối với hình thức huy động tiết kiệm kỳ hạn truyền thống, cần có những sửa chữa theo hướng linh hoạt: cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn từng phần, trả lãi định kỳ với những món gửi lớn, khách hàng được quyền lựa chọn kỳ hạn bất kỳ trong giới hạn kỳ hạn tối đa của Ngân hàng. - Nhà nước nên có chế độ bảo hiểm rủi ro cho người sản xuất. - Nếu bị thiên tai, dịch bệnh Nhà nước cần nhanh chóng khoanh nợ để người sản xuất ổn định cuộc sống và an tâm sản xuất tiếp. 2. KẾT LUẬN. NHNO & PTNT Bình Chánh đóng trên địa bàn mà phần lớn dân cư hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, thương mại dịch vụ nông nghiệp, mà đơn vị sản xuất chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ gia đình, quy mô sản xuất còn nhỏ, năng suất chưa cao, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế. Do đó cần có một chính sách phát triển kinh tế một cách toàn diện và lâu dài, mà vai trò của Ngân hàng là không thể thiếu được. Sau khi ra đời và chính thức đi vào hoạt động, NHNO & PTNT Bình Chánh đã đóng góp một phần to lớn vào sự nghiệp phát trển kinh tế của địa phương. Đồng vốn của Ngân hàng đã đến tận tay của người dân giúp họ mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao trình độ sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm hơn cho xã hội, làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất của nhân dân. Bên cạnh việc cung cấp nhiều sản phẩm, Ngân hàng cũng tranh thủ được sự hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương, giúp người dân dễ dàng lập thủ tục xin vay và xem xét lập danh sách các hộ nghèo vay vốn bằng tín chấp theo chương trình xoá đói giảm nghèo, cho vay ưu đãi hộ nghèo trong thời gian qua cũng đạt được kết quả khả quan. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng luôn phải đương đầu với áp lực cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng hoạt động trên địa bàn và tình hình rủi ro trong hoạt động tín dụng. Do vậy, hạn chế rủi ro tín dụng luôn là vấn đề đặc biệt quan tâm của Ngân hàng, đòi hỏi phải có sự đầu tư thoả đáng và tìm ra những giải pháp ngăn ngừa, xử lý và hạn chế đến mức thấp nhất khi rủi ro xảy ra. Như ta đã biết, rủi ro tín dụng xảy ra không chỉ gây thiệt hại cho Ngân hàng mà còn ảnh hưởng xấu cho cả nền kinh tế. Vì vậy, ngoài việc Ngân hàng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng của mình cũng cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của các ngành các cấp chính quyền địa phương trong việc quản lý các khoản tín dụng của Ngân hàng cũng như có biện pháp mở rộng đầu tư tín dụng và có nhiều giải pháp hạn chế nợ quá hạn, tạo điều kiện cho hoạt động của Ngân hàng đạt hiệu quả cao, góp phần trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới cho người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội địa phương.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoidung.doc
  • docbangbieu.doc
  • docBIA1.doc
  • doccoquan.doc
  • docGVHD.doc
  • docLoicamta.doc
  • docmuc luc.doc
  • docPHAN BIEN.doc
  • docthamkhao.doc
Tài liệu liên quan