Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, sự phát triển của mỗi quốc gia đều gắn liền với quan hệ cộng đồng quốc tế và khu vực. Toàn cầu hoá và xu thế hội nhập đã làm thay đổi cơ bản những diễn biến kinh tế ở nước ta.Trong điều kiện đó,hoạt động kiểm toán có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức nên kiểm toán cần tự xây dựng cho mình một mô hình hoạt động phủ hợp với từng loại hình kiểm toán. Là một bộ phận của nền kinh tế,việc hình thành và phát triển kiểm toán vừa là tất yếu khách quan của kinh tế thị trường vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế tài chính và đóng vai trò tích cực trong việc phảt triển xã hội. Hoạt động kiểm toán là nhu cầu cần thiết, trước hết là vì lợi ích của bản thân doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, lợi ích của chủ sở hữu vốn và yêu cầu của nhà nước.Xuất phát từ lợi ích thiết yếu của hoạt động kiểm toán,Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến việc phát triển các loại hình kiểm toán.Do đó hoạt động kiểm toán đã phảt triển nhanh về số lượng và quy mô.Nhưng bên cạnh những kết quả đã đạt được,thực trạng hoạt động kiểm toán vẫn còn tồn tại gây trở ngại lớn cho quá trình hội nhập quốc tế như chất lượng kiểm toán chưa thỏa mãn các đối tượng sử dụng,nhận thức của xã hôi về kiểm toán chưa hoàn toàn đúng mực và đầy đủ, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kiểm toán còn thiếu và chưa đồng bộ.
Tóm lại qua việc tìm hiểu về sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới ta thấy được rõ hơn quá trình vận hành củakiểm toán và những ưu việt của nó cũng như những tồn tại của hoạt động này.Từ đó chúng ta có nhận thức đúng đắn về kiểm toán và để gắn kết chúng với các hoạt động kinh tế-xã hội khác nhằm mục tiêu phát triển kinh tế đất nước và tiến tới hội nhập kinh tế thế giới.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2542 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam tiến tới hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vẹn ý nghĩa của nó như trong doanh nghiệp nơi mà năng lực quản lý cần được đánh giá toàn diện và bồi bổ thường xuyên nhằm không ngừng nâng cao hiệu năng quản lý của đơn vị kiểm toán.
1.3. Chức năng:
Từ khái niệm và bản chất của kiểm toán chúng ta thấy được phần nào đặc điểm của hoạt động này. Qua đó ta thấy được kiểm toán có hai chức năng cơ bản chính đó là xác minh và bày tỏ ý kiến.
Chức năng xác minh: Nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính.
Xác minh là chức năng cơ bản được thể khác nhau tuỳ đối tượng cụ thể của kiểm toán. đối với các bản khai tài chính, việc thực hiện chức năng xác minh này trước hết được thực hiện ở sự xác nhận của người kiểm tra độc lập ở bên ngoài. Việc xác minh bản khai tài chính cần có hai mặt: tính trung thực của các con số và tính hợp thức cuả các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính. Đối với các thông tin đã được lượng hoá việc xác minh được thực hiện trước hết qua hệ thống kiểm soát nội bộ và kết quả cuối cùng khi đã xác minh được điều chỉnh trực tiếp để có hệ thống thông tin tin cậy và lập các bản khai tài chính. Đối với kiểm toán các nghiệp vụ kiểm toán hướng nhiều vào việc thực hiện chức năng thứ hai là bày tỏ ý kiến.
Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Cách thức thực hiện chức năng bày tỏ ý kiến về trách nhiệm và tư vấn cũng rất khác biệt giữa các khách thể kiểm toán và giưuã các nước có cơ sở kinh tế và pháp lý khác nhau. ở khu vực công cộng đều đặt dưới sự kiểm soát của kiểm toán nhà nước. Trong quan hệ này chức năng xác minh và kết luận về chất lượng thông tin của kiểm toán được thực hiện tương tự nhau. ở mức độ cao của chức năng này là sự phán quyết như quan toà, có quyền kiểm tra các tài liệu và tình hình quản lý của các tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước để xác minh tính chính xác và hợp lệ của tài liệu thu chi và quản lý ngân sách, các quan này có quyền xét xử như một quan toà bằng các phán quyết của mình. ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách nhà nước, chức năng bày tỏ ý kiến này cũng được thực hiện qua phương thức tư vấn. Do khách thể chủ yếu là các doanh nghiệp nên chức năng tư vấn chủ yếu được biểu hiện dưới hình thức các lời khuyên hoặc các đề án, Do đó trong trường hợp này, nếu sản phẩm của bày tỏ ý kiến kết quả xác minh về độ tin cạy của thông tin là báo cáo kiểm toán thì sản phẩm của bày tỏ ý kiến dạng tư vấn là thư quản lý.
1.4. Phân loại kiểm toán và đối tượng chung – cụ thể của kiểm toán
1.4.1. Phân loại kiểm toán.
Qua nghiên cứu lịch sử và bản chất của kiển toán, chúng ta đã tiếp cận các loại kiểm toán khác nhau. cũng như các hoạt động khác, kiểm toán cần và có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:
Theo đối tượng cụ thể có thể phân kiểm toán thành kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán nghiệp vụ, kiểm toán liên kết.
Theo lĩnh vực cụ thể của kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành kiểm toán thông tin, kiểm toán quy tắc, kiểm toán hiệu năng và kiểm toán hiệu quả.
Theo phương pháp áp dụng kiểm toán phân thành kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
Thoe tổ chức bộ máy kiểm toán phân thành kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nôị bộ.
Để hiểu khái quát về từng loại kiểm toán ta có một số khái niệm:
Kiểm toán tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về bản khai tài chính do các kiểm toán viên thực hiện theo các luật định.
Kiểm toán nghiệp vụ là việc thẩm tra các trình tự và các phương pháp tác nghiệp ở bộ phận hoặc đơn vị kiểm toán. Các tác nghiệp này không chỉ giới hạn ở lính vực tài chính – kế toán mà còn mở rộng sang cả đánh giá cơ cấu tổ chức, cả nghiệp vụ sử dụng máy vi tính… vì vậy, kết quả của kiểm toán nghiệp vụ không chỉ giới hạn ở củng cố nề nếp tài chính, kế toán mà còn nâng cao được hiệu năng và hiệu quả của hoạt động quản lý.
Kiểm toán liên kết: là sự sáp nhập các loại kiểm toán trên và thường được ứng dụng ở các dơn vị công cộng. Đây là việc thẩm định, soát xét công việc quản lý các nguồn tài chính, nhân lực, vât lực đã uỷ quyền cho người sử dụng theo mục tiêu đã đặt ra.
Kiểm toán nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của nhà nước thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản công. Qua quá trình phát triển cho đến nay kiểm toán nhà nứoc ở các nước phát triển đều thực hiện chức năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng.
Kiểm toán độc lập: là hoạt động đặc trưng của kinh tế thị trường. Đây là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách hàng.
Kiểm toán nội bộ: là bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn vị, phục vụ yêu cầu quản lý nội bọ đơn vị, Do mục tiêu được giới hạn ở phạm vi nội bộ đơn vị nên bộ máy này thường chỉ bao gồm những kiểm toán viên nội bộ.
1.4.2 . Đối tượng của kiểm toán.
Kiểm toán nảy sinh từ kế toán do đòi hỏi của quản lý đối với thông tin kế toán ngày càng phức tạp,do người quan tâm đến tài liệu kế toán ngày càng đa dạng và sự tách biệt ngày càng xa giữa chủ sở hữu vớí tài sản cùng hệ thống thông tin và kiểm tra tài sản. Như vậy đối tượng của kiểm toán được xác định trong bất kì cuộc kiểm toán,là một trong năm yếu tố cần được xác định.
1.4.2.1. Thực trạng hoạt động tài chính -Đối tượng chung của kiểm toán
Hoạt động tài chính là dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ kinh tế trong đầu tư,trong kinh doanh,trong phân phối và trong thanh toán nhằm đạt tới lợi ích kinh tế xác định.
Các mối quan hệ kinh tế chính là nội dung bên trong của hoạt động tài chính. Do đó,để giải quyết tốt các mối quan hệ này theo mục tiêu đã xác định,hoạt động tài chính phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau :
Hoạt động tài chính phải có kế hoạch.
Hoạt động tài chính phải đảm bảo tiết kiệm và có lợi.
Hoạt động tài chính phải bảo đảm tuân thủ pháp luật và thể lệ tài chính.
1.4.2.2. Tài liệu kế toán -Đối tượng cụ thể cụ thể kiểm toán.
Tài liệu kế toán,trước hết là các bảng khai tài chính,là đối tượng trực tiếp và thường xuyên của mọi cuộc kiểm toán. Điều đó được lý giải trứơc hết ở vị trí của tài liệu kế toán trong quan hệ với những người quan tâm tới thông tin tài chính trong cơ chế thị trường. Mặt khác trong cơ chế thị trường với tự do cạnh tranh,rủi ro trong kinh doanh và trong đầu tư rất lớn.Do đó sự quan tâm đến tài liệu kế toán không những tăng lên về số lượng mà còn cả về chất lượng tài liệu kế toán cũng cao hơn…Ngoài ra cũng phải kể đến tính phức tạp của quá trình xử lý thông tin kế toán cũng như kết cấu của các bảng công bố tài chính. Hậu quả của tình trạng này không phải mọi người quan tâm đều am hiểu được tài liệu đó mà đôi khi chính các kế toán viên cũng gặp nhũng khó khăn trong việc phản ánh các quan hệ phức tạp, đặc bịêt là những quan mới phát sinh. Tính phức tạp này ngày càng tăng lên theo rất nhiều nguyên nhân khác nhau: do quy mô của khách thể kiểm toán; không ngừng mở rộng. Ngoài ra cũng phải kể đến sự cách biệt về chuẩn mực kiểm toán và các điều kiện thực hiện nó giữa các nước giữa các thời kỳ…Dẫn đến sự nhận thức khác nhau và tổ chức khác nhau, nhất là sự thay đổi của chế độ kiểm toán … tất cả những thực tế đó đòi hỏi kiểm toán phải được thực hiện trước tiên đối với tài liệu kế toán để tạo niềm tin cho người quan tâm và thường xuyên hướng dẫn nghiệp vụ, củng cốa nề nếp và cải tiến tổ chức để nâng cao chất lượng kiểm toán.
1.4.2.3. Thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính - đối tượng cụ thể của kiểm toán.
Trong một đơn vị kinh doanh hay sự nghiệp, tài sản đều biểu hiện dưới hình thái vật chất khác nhau với yêu cầu về quy cách, phẩm chất khác nhau lại được lưu trữ trên nhiều kho với những người quản lý khác nhau. mối liên hệ giữa những người quản lý với nhau cũng như giữa người quản lý với người sở hữu tài sản được thực hiện theo những xu hướng và phương thức khác nhau song có xu hướng ngày càng tăng dần sự cách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản. Đồng thời khi sản xuất phát triển quy mô tài sản và kinh doanh tăng lên các mối liên kết kinh tế ngày càng đa dạng phức tạp. Cộng vào đó là sự phong phú thêm của khái niệm truyền thống về tài sản đặc biệt là sự xuất hiện của các tài sản vô hình, các hậu quả của rủi ro dẫn đến những thu nhập hoặc tổn thất bất thường về tài sản… tất cả những yếu tố này dẫn đến khả năng cách biệt giữa tài sản với sự phản ánh của nó trong thông tin kiểm toán… Thực tế đó đã thúc đẩy sự ra đời của kiểm toán cùng tính tất yếu phải đặt thực trạng của tài sản vào đối tượng kiểm toán.
1.4.2.4 . Hiệu quả và hiệu năng - Đối tượng cụ thể của kiểm toán.
Theo quan điểm hiện đại đối tượng kiểm toán còn bao gồm cả hiệu năng và hiệu quả. Việc mở rông đối tượng kiểm toán như vậy cũng xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của quản lý trong điệu kiện quy mô kinh doanh và hoạt động ngày càng đòi hỏi mở rộng,trong khi nguồn lực ngày càng gay gắt để thực hiện tiết kiệm,để thắng thế trong cạnh tranh …vấn đề hiệu quả,hiệu năng cần được đặt ra trong từng nghiệp hay hoạt động cụ thể.
1.5. Khái quát về tổ chức công tác kiểm toán.
1.5.1. Khái niệm :
Qua một số nội dung chính về hoạt động kiểm toán chúng ta đã có được cái nhìn khái quát vềcác nhân tố của hoạt động kiểm toán. Song để có thể tổng hợp những nội dung trên và gắn kết chúng trong một quy trình kiểm toán cụ thể mà còn là tiền đề giúp chúng ta phát triển vào tổ chức công tác kiểm toán ở những loại hình cụ thể như kiểm toán tài chính,kiểm toán nghiệp vụ.Đồng thời qua đó cho chúng ta có thể hiểu được quá trình vận hành của kiểm toán để đạt được mục tiêu đặt ra.Và khi đó hoạt động kiểm toán mới có thể giúp cho khách thể kiểm toán nói chung có thể điều chỉnh và phát triển. Từ đó từng bộ phận trong nền kinh tế phát triển sẽ là bàn đạp tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Tổ chức kiểm toán hướng tới việc tạo ra mối liên hệ khoa học và nghệ thuật các phương pháp kỹ thuật kiểm toán dùng để xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng.
Kiểm toán là một hệ thống có chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng tài chính.Các yếu tố của xác minh và bày tỏ ý kiến là kiểm toán cân đối,đối chiếu logic,đối chiếu trực tiếp,thực nghiệm và điều tra …Các yếu tố này cần được kết hợp theo một trình khoa học phù hợp với đối tượng cụ thể khác nhau và mang lại hiệu quả cụ thể khác nhau. Đó chính là tính nghệ thuật của tổ chức.
1.5.2. Trình tự công tác kiểm toán.
Trình tự công tác kiểm toán thực hiện theo một quy trình chung với 3 bước cơ bản:
Chuẩn bị kiểm toán
Thực hành kiểm toán
Kết thúc kiểm toán
1.5.2.1. Chuẩn bị kiểm toán.
Chuẩn bị là bước công việc đầu tiên của tổ chức công tác kiểm toán nhằm tạo ra tất cả tiền đề và điện kiện cụ thể trước khi thực hành kiểm toán.Đây là công việc có ý nghĩa quyết định chất lượng kiểm toán.Do đó,những công việc trong giai đoạn này cần được xác định rõ ràng chính xác nhằm tạo được cơ sở pháp lý,kế hoạch kiểm toán cụ thể và các điều kiện vật chất cho công tác kiểm toán.Các công việc đó được xác định thành 5 người :
Xác định mục tiêu,phạm vi kiểm toán
Mục tiêu kiểm toán là đích cần đạt tới đồng thời là thước đo kết quả kiểm toán cụ thể.Mục tiêu chung của kiểm toán phải gắn chặt với mục tiêu, yêu cầu của quản lí.Vì vậy,trước hết mục tiêu kiểm toán phải tuỳ thuộc vào quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào loại hình kiểm toán.
Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán. Phạm vi kiểm toán thường được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm toán và là một hướng cụ thể hoá mục tiêu này.
Chỉ định người phụ trách công việc kiểm toán và chuẩn bị các điều kiện vật chất cơ bản
Công việc này có thể làm đồng thời với việc xây dựng mục tiêu cụ thể song cần thực hiện trước khi thu thập thông tin,đặc biệt là việc làm quen với đối tượng,với khách thể mới của kiểm toán. Với yêu cầu của công việc này là phải có người có trình độ tương xứng với mục tiêu,phạm vi kiểm toán nói riêng và tương xứng với vị trí,yêu cầu,nội dung và tinh thần của cuộc kiểm toán nói chung. Đồng thời chúng ta cần chuẩn bị các thiết bị và điều kiện vật chất khác kèm theo ;phương tiện tính toán kèm theo…
Thu thập thông tin
ở bước chuẩn bị, thu thập thông tin chỉ hướng tới việc đưa ra các bước quyết định về kiểm toán mà chưa đặt ra tương ứng vơí mục tiêu và phạm vi kiểm toán song nói chung cần quan tâm đến chiều rộng hơn là chiều sâu. Thậm chí có trường hợp chỉ xét tới khả năng hiện diện của các nguồn tài liệu cụ thể như: chế độ, chuẩn mực có liên quan, truyền thống và tín nhiệm của khách thể kiểm toán…trong thu thập thông tin trước hết cần tận dụng tối đa nguồn tài liệu đã có song khi cần thiết vẫn phải có những biện pháp điều tra bổ sung. Các nguồn tài liệu đã có thường bao gồm:
Các nghị quyết có liên quan đến hoạt động của đơn vị được kiểm toán.
Các văn bản có liên quan đến hoạt động của đơn vị và khách thể kiểm toán.
Các kế hoạch dự toán dự báo có liên quan.
Các báo cáo kiểm toán lần trước, các biên bản kiểm kê và biên bản xử lý các vụ việc đã xảy ra trong kỳ kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán.
Kế hoạch kiển toán là quá trình cân đối tích cực giữa nhu cầu và nguồn lực đã có. Trong kiểm toán kế hoạch chung này gọi là kế hoạch chiến lược. Tuy nhiên giới hạn lập kế hoạch được đề cập ở đây là kế hoạch tổng quát cho một cuộc kiểm toán. Trên cơ sở xem xét các quan hệ về mục tiêu phạm vi nhu cầu cần xác định số người, kiểm tra phương tiện và xác định thời hạn thực hiện công tác kiểm toán. Số người tham gia kiểm toán cần được xem xét cả về cơ cấu và tổng số. Cơ cấu của nhóm công tác phải thích ứng với từng việc cụ thể đã chính xác hoá mục tiêu, phạm vi ở phần xác định nhu cầu. Tóm lại, nhiêm vụ của xây dựng kế hoạch kiểm toán là xác định số lượng, cơ cấu, chất lượng về người và phương tiện tương ứng với khối lượng nhiệm vụ kiểm toán. Đồng thời kế hoạch của từng cuộc kiểm toán cũng phải được xây dựng phù hợp với từng loại hình kiểm toán.
Xây dựng chương trình kiểm toán.
Hoạt động kiểm toán bao gồm nhiều phần hành có vị trí, đặc điểm khác nhau nên phạm vi loại hình kiểm toán cũng khác nhau dẫn đến số lượng và thứ tự các bước kiểm toán khác nhau. Xây dựng chương trình kiểm toán chính là việc xác định số lượng và thứ tự các bước kể từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc công việc kiểm toán. Chúng ta cần xây dựng quy trình kiểm toán riêng cho từng loại nghiệp vụ trên những cơ sở cụ thể trước hết là mục tiêu, đặc điểm cụ thể của đối tượng kiểm toán.
1.5.2.2. Thực hành kiểm toán
Thực hành kiểm toán là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn định trong kế hoạch, chương trình kiểm toán. Trong bước công việc này tính nghệ thuật trong tổ chức bao trùm suốt quá trình. Mặc dù vậy tính khoa học của tổ chức vẫn đòi hỏi thực hành kiểm toán phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản sau:
Kiểm toán phải tuyệt đối tuân thủ chương trình kiểm toán đã xây dựng.
Kiểm toán viên phải thường xuyên ghi chép những phát giác, những nhận định về các nghiệp vụ nhằm tích luỹ bằng chứng nhận định với những kết luận kiểm toán và loại trừ những nhận xét ban đầu không chính xác về nghiệp vụ.
Định kỳ tổng hợp kết quả kiểm toán để nhận rõ mức độ thực hiện so với khối lượng công việc chung.
Mọi điều chỉnh về nội dung phạm vi đều phải có ý kiến thống nhất của người phụ trách chung công việc kiểm toán và người ký thư mời hợp đồng kiểm toán.
1.5.2.3. Kết thúc kiểm toán.
Trong bất kỳ cuộc kiểm toán nào kiểm toán viên phải đưa ra kết luận kiểm toán và lập báo cáo hoặc biên bản kiểm toán.
Kết luận kiểm toán là sự khái quát kết quả thực hiện các chức năng kiểm toán trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Do đó kết Luận kiểm toán phải đảm bảo yêu cầu cả về nội dung cũng như tính pháp lý. Về nội dung phải phù hợp và đầy đủ, phù hợp là sự nhất quán giữa kết luận đưa ra với mục tiêu kiểm toán, đầy đủ là sự bao hàm toàn bộ yêu cầu phạm vi kiểm toán đã xác định và được điều chỉnh. Tính pháp lý của kiểm toán trước hết đòi hỏi những bằng chứng tương ứng theo yêu cầu của các quy chế chuẩn mực và luật pháp. để đảm bảo các yêu cầu pháp lý trong kiểm toán tài chính được quy định thành chuẩn mực với 4 loại phù hợp với các tình huống cụ thể:
ý kiến chấp nhận toàn bộ.
ý kiến loại trừ
ý kiến bác bỏ.
ý kiến từ chối.
Báo cáo hoặc biên bản kiểm toán là hình thức biểu hiện các chức năng kiểm toán và thể hiện kết luận kiểm toán. Biên bản kiểm toán thường được sử dụng trong kiểm toán nội bộ hoặc trong từng phần kiểm toán báo cáo tài chính.
1.6. Kiểm toán – một hoạt động độc lập với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến.
Kiểm toán là một công cụ quản lý kinh tế ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống các công cụ quản lý của nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Kiểm toán là một lĩnh vực khoa học chuyên môn có phạm vi rộng nhưng cũng được phân loại chuyên sâu theo những loại hình kiểm toán khác nhau. Để có thể nhận thức một cách toàn diện về kiểm toán ta đề cập đến một số khái niệm để phân biệt với kiểm toán.
1.6.1. Kiểm toán và kiển tra kế toán.
Kiểm tra kế toán là chức năng cố hữu của kế toán. Phương pháp tự kiểm tra của kế toán được thực hiện dựa trên các phương pháp: Chứng từ kế toán, tính giá, đối ứng tài khoản, cân đối tổng hợp. Kiểm tra kế toán dù có ưu việt song chỉ tạo được niền tin cho một giới hạn nhất định của người quan tâm đến tình hình tài chính trước hết là những người làm kế toán và những nhà quản lý am hiểu về nghiệp vụ kiểm toán. Do vậy việc kiểm tra ngoài kế toán là yêu cầu tất yếu của quản lý đặc biệt trong điều kiện đa phương hoá sở hữu và đa dạng hoá các loại hình đơn vị kinh doanh và cộng cộng đồng thời cần nhận thức rõ sự cách biệt giữa thực trạng hoạt động tài chínhvới sự phản ánh của nó trong kế toán. Đây là khoảng cách tất yếu giữa kỳ vọng của nhiều người quan tâm đến hoạt động tài chính với những giới hạn cho phép về nghề nghiệp trong các chính sách. Vì vậy kiểm tra kế toán dù khoa học cũng chỉ kiểm tra phần thông tin thu được, Với lượng thông tin thu được. Với lượng thông tin chưa thu đựơc nhưng lại cần có để xác minh thực trạng tài chính rõ ràng cần kiểm tra ngoài kế toán.
Kiểm toán sinh ra từ yêu cầu của quản lý và phục vụ cho quản lý. Quản lý bao gồm cả việc định hướng và tổ chức thực hiện những hướng đã định. ở mọi giai đoạn đều cần thiết phải kiểm tra. Khi nhu cầu kiểm tra chưa nhiều và chưa phức tạp kiểm tra được thực hiện với các chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống nhất. Trái lại khi nhu cầu này thay đổi tới mức độ cao kiểm tra cũng cần tách ra thành một hoạt động độc lập và được thực hiện bằng một hệ thống phương pháp chuyên môn độc lập.
1.6.2. Kiểm toán với thanh tra kiểm soát.
Thanh tra và kiểm soát việc thi hành chế độ tài chính kế toán trong các đơn vị cơ quan kinh tế trực thuộc trực tiếp và gián tiếp vào chính phủ.Cụ thể thanh tra tài chính với nhiệm vụ là kiểm tra nghiêm ngặt việc chấp hành chính sách,luật lệ,chế độ tài chính Nhà nước tại các cơ quan bất kì đơn vị nào. Trên cơ sở đó nhanh chóng phát hiện các vụ việc vi phạm, tham ô lãng phí tiền của, vật tư, tài sản của nhà nước để trình các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm minh, bảo đảm kỷ cương, phép nước trong hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh tế, xã hội. Làm lành mạnh hoạt động tài chính doanh nghiệp và tài chính quốc gia. Trong khi đó kiểm toán là một hoạt động độc lập với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về tất cả các đối tượng cần kiểm toán. trong trường hợp chủ thể kiểm toán(phân loại kiểm toán theo bộ máy tổ chức) là kiểm toán nhà nước, là bộ máy chuyên môn trực thuộc chính phủ có quyền hạn kiểm tra các hoạt động của nhà nước, kiểm toán tài sản công cụ thể như sau:
Xây dựng chương trình kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch đó. Định kỳ báo cáo thực hiện chương trình kế hoạch kiểm toán lên Thủ tướng chính phủ.
Cung cấp kết quả kiểm toán cho chính phủ và các cơ quan cấp nhà khác theo quy định của chính phủ.
Xác nhận đánh giá và nhận xét các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung đã đánh giá.
Góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai sót kiến nghị với cấp có thẩm quyền, xử lý những vi phạm và đề xuất với thủ tướng chính phủ về việc sửa đổi.
Kiểm toán nhà nước chỉ tuân theo pháp luật và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ đã được nhà nước quy định.
Và với kiểm toán độc lập, là một hoạt động đặc trưng của kinh tế thị trường. Đây là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách hàng.Cuối cùng là kiểm toán nội bộ là bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn vị, phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị. Do mục tiêu được giới hạn ở phạm vi nội bộ đơn vị nên bộ máy này thường chỉ bao hàm những kiểm toán nội bộ.
2. Sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam tiến tới hội nhập quốc tế.
2.1. Thực trạng - vị trí- đòi hỏi nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Nền kinh tế Việt Nam với điểm xuất phát thấp nên gặp rất nhiều khókhăn trong quá trình hoạt động.Với sự tàn phá nặng nề của chiến tranh nền kinh tế Việt Nam tưởng chừng như không thể thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu.Nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước kinh tế đã đi lên với tốc độ tương đối nhanh và ổn định.Trong những năm gần đây với cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước và sự đổi mới sâu sắc cơ chế quản lý kinh tế tài chính,hệ thống kế toán,kiểm toán Việt Nam phù hợp với cơ chế quản lý phù hợp với tiến trình cải cách đổi mới và hội nhập kinh tế.Với sự cố gắng nỗ lực các doanh nghiệp nói chung đã đóng góp một phần không nhỏ tạo điều kiện thúc đẩy nhanh kinh tế đất nước và có chỗ đứng trong khu vực tiến tới hội nhập kinh tế thế giới.Nền kinh tế đã đáp ứng một khối lượng nhu cầu lớn trong nước và nước ngoài (là nước đứng đầu về xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng khác).
Hiện nay, nước ta có nền kinh tế phát triển đứng ở vị trí gần đầu khu vực Đông Nam á.Mặc dù vậy Việt Nam còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa bởi chúng ta vẫn còn những khó khăn nhất định. Chính vì những khó khăn chưa giải quyết được nên khi so sánh với các nước bạn chúng ta còn thua kém họ ở các chỉ tiêu kinh tế như Việt Nam có tỉ lệ thất nghiệp đứng thứ hai chỉ sau philipin,lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp –thuỷ sản của nước ta vào loại cao nhất trong khu vực, và cũng giảm chậm nhất. Đặc biệt,ngày nay với sự cạnh tranh gay gắt về kinh tế buộc chúng ta phải luôn luôn tự điểu chỉnh và xác định hướng đi chính xác. Và tất cả những điều chỉnh đó phải đưa đến kết quả cuối cùng đó là nền kinh tế Việt Nam phải hội nhập với kinh tế thế giới. Chúng ta có thể kể ra một số khó khăn mà trong điều kiện hiện nay buộc chúng ta không thể chậm trễ mà phải gấp rút đưa ra được những phương hướng thích hợp:
Chuyên môn tay nghề của cán bộ,công nhân chưa cao.
Quá trình hoạt động và quản lí chưa đạt hiệu quả và hiệu năng
Các nguồn tài chính công còn chưa được sử dụng hiệu quả.
Trình độ khoa học kĩ thuật vẫn còn lạc hậu.
Như chúng ta đã biết một trong những yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất đó là lực lượng sản xuất –nhân tố con người.Với nhận thức đúng đắn về vai trò của con người trong quá trình sản xuất chúng ta mới có thể đặt ra phương hướng đào tạo đội ngũ cán bộ,công nhân có trình độ chuyên môn cao. Tiếp đó chúng ta phải tổ chức hoạt động sao cho các nguồn lực được sử dụng một cách tối đa và mục tiêu của các chương trình dự án.Trong điều kiện quy mô kinh doanh và hoạt động sự nghiệp ngày càng đòi hỏi mở rộng,trong khi nguồn lực ngày càng bị giới hạn. Đặc biệt trong kinh doanh khi cạnh tranh ngày càng gay gắt,để thực hiện tiết kiệm, để thắng thế trong cạnh tranh…vấn đề hiệu quả hiệu năng cần đặt ra cho từng nghiệp vụ hay hoạt động.Với các đơn vị có sử dụng nguồn ngân sách,như Doanh Nghiệp Nhà Nước được coi là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của DNNN trong các ngành hạ tầng như giao thông,năng lượng,bưu chính viễn thông …đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.Khu vực DNNN chiếm vị trí quan trọng trong các nguồn thu của ngân sách nhà nước.Do đó nhà nước có những khoản tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp.Tuy nhiên tình trạng tài chính không lành mạnh,phần do phát sinh mới chưa được xử lý kịp thời làm cho hạch toán bị méo mó, thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc mua sắm thiết bị chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách mà không tìm cách huy động các nguồn vốn khác; khi gặp khó khăn trong sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm thì đòi hỏi nhà nước ưu đãi, bao cấp. Chính vì vậy, mà nguồn ngân sách nhà nước bị hao hụt, lãng phí.Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học.ở những nước phát triển,trong quá trình hoạt động sản xuất họ áp dụng một cách tối đa tính ưu việt của khoa học công nghệ nên sản phẩm của họ đáp ứng được mọi yều cầu của khách hàng dù có khó tính nhất. Điểm nổi bật về trình độ kỹ thuật trong các doanh nghiệp nói chung là công nghệ lạc hậu (Theo kết quả khảo sát ở trong DNNN có727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện khoa học bảo hộ lao động thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tiến hành thì có đến 76%thiết bị,máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50-60, trên 70% là đã hết khấu hao,gần 50% được tân trang lại ).
Trên đây chỉ là một số hạn chế còn tồn tại trong nền kinh tế của nước ta.Điều chúng ta quan tâm đó là phát hiện ra những hạn chế và nghiên cứu để đưa ra phương hướng tốt nhất để giải quyết tất cả những khó khăn còn tồn tại.
2.2. Vai trò kiểm toán đối với từng khách thể kiểm toán cụ thể.
2.2.1. Doanh nghiệp nhà nước(DNNN).
Trong nền kinh tế nhiều thành phần,hệ thống các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Nghiên cứu năng lực sản xuất kinh doanh của DNNN nhằm hoạch định các mục tiêu,nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,làm sáng tỏ các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến việc tồn tại và phát triển cũng như sự tác động của hệ thống DNNN đến nền kinh tế quốc dân.Để quá trình hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp được tiến hành liên tục và có hiệu quả thì doanh nghiệp phải biết sử dụng và khai thác triệt để các nguồn lực sẵn có.Các yếu tố quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể phân thành hai nhóm :nhóm về yếu tố thuộc về cơ sở vật chất. Qúa trình hoạt động kinh doanh luôn đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các yếu tố sản xuất diễn ra liên tục trong từng bộ phận sản xuất cũng như toàn bộ doanh nghiệp. Mức độ đồng bộ và cân đối càng cao thì tạo ra năng lực sản xuât càng lớn. Khi quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra,việc mất cân đối giữa năng lực sản xuất của các yếu tố sản xuất so với nhiệm vụ đặt ra,sự chênh lệch năng lực sản xuất này chứa đựng khả năng tiềm tàng mà doanh nghiệp cần tập trung khai thác. Mặt khác, việc xem xét tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh chính là đánh giá khả năng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù đã giảm mạnh số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn cần đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản phảm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông…Doanh nghiệp nhà nước đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn định chính trị xã hội, định hướng công bằng văn minh góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm thu nhập cho người lao động xoá đói giảm nghèo phát triển văn hoá giáo dục y tế làm cơ sở và nền tảngcho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới. Doanh nghiệp nhà nước đã chiếm tỉ lệ khá cao về xuất nhập khẩu. Tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm 20%. Doanh nghiệp nhà nước là đầu mối xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng như dầu thô, than, gạo. Đồng thời doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm trên 98% tổng số dự án liên doanh với nước ngoài đã góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể từ khu vực này. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về mặt kinh tế phản ánh năng lực sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nhiêù tồn taị yếu kém trên nhiều mặt. Có thể kể ra sau đây một số yếu kém cơ bản sau:
Về tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh: Tốc độ này chưa cao và đang giảm dần số doanh nghiệp thực sự có hiệu quả còn ít và số doanh nghiệp bị lỗ liên tục chiếm khoảng 20% còn lại là những doanh nghiệp chưa có hiệu quả nằm trong tình trạng khi lỗ khi lãi. Về công nợ: Công nợ trong khu vực này còn quá lớn và khả năng thanh toán lại rất thấp. Tình trạng tài chính không lành mạnh. Về quan điểm kinh doanh: Quan điểm kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước còn mang nặng tư tưởng bao cấp. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm các doanh nghiệp nhà nước còn được vay trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi.
Về tình hình lao động: Lao đọng thiếu việc làm và dôi dư là một khó khăn lớn ảnh hưởng xấu đến quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác cơ chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi dư.
Về quy mô phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ còn dàn trải chồng chéo theo cơ quan quản lý và ngành nghề. Sự chồng chéo trùng lặp về ngành nghề về sản phẩm trong một thị trường còn chưa phát triển và sức mua còn thấp đã dẫn dến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư dàn chải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối
Về trình độ kỹ thuật: Điểm nổi bật về trình độ kỹ thuật trong các doanh nghiệp nhà nước là công nghệ lạc hậu. Đây chính là cản trở lớn nhất đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Với tinh thần đó giúp các nhà quản lý thấy rõ thực trạng của doanh nghiệp nhà nước hiện nay đối với kiểm toán viên nhà nước những tư liệu trên có thể là có ích trong quá trình tìm hiểu và nhận diện đối tượng kiểm toán quan trọng của kiểm toán nhà nước Việt Nam. Qua đó kiểm toán (Kiểm toán Nhà nước) có thể đưa ra những nhận xét cụ thể cho từng doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào làm ăn không có hiệu quả thì có thể mạnh dạn cổ phần hoá hoặc tuyên bố giải thể. Đặc biệt với xu hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả hơn tránh tình trạng lệ thuộc làm thâm hụt ngân quỹ của nhà nước. Đối với những doanh nghiệp làm hoạt động chưa có hiệu quả nhưng là những ngành mũi nhọn của nhà nước thì qua hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến với hình thức tư vấn về những mặt còn yếu kém và những phương hướng giải pháp cụ thể nhằm khác phục những yếu kém. Cụ thể Công ty 28 là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng cục Hậu cần – Bộ quốc phòng hoạt động trên các lĩnh vực sản xuất- kinh doanh – xuất nhập khẩu các sản phẩm dệt, may, kinh doanh bất động sản. trong đó nhiệm vụ chính trị trung tâm là sản xuất quân trang phục vụ quân đội. Là doanh nghiệp nhà nước thực hiện hoạch toán độc lập trong cơ chế thị trường Công ty luôn lấy chủ trương phát triển vững mạnh làm nền tảng. Một trong những điều kiện cần của nó là phải luôn luôn duy trì được một tình trạng tài chính lành mạnh và khoẻ khoắn. Kiểm toán là biện pháp có ích nó vừa giúp cho người Giám đốc nắm chắc tình hình tổ chức và tài chính doanh nghiệp, lại vừa thúc đẩy những người làm công tác quản lý nhất là quản lý tài chính. Công ty đã tiến hành thuê kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính tất cả các công trình đầu tư cũng đều được kiểm toán nhờ đó mà công ty đã thu lại được một khoản tiền đáng kể. Qua các kỳ kiểm toán đã giúp cho Đảng uỷ doanh nghiệp và Giám đốc khắc phục được những thiếu sót nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nói chung và quản lý tài chính nói riêng, nhất là góp phần vào sự tăng trưởng vốn của công ty lên gấp 5,76 lần.
2.2.2. Công ty cổ phần.
Các công ty cổ phần được thành lập bởi các tổ chức, cá nhân…góp vốn và được gọi là các cổ đông. Mặc dù loại hình công ty này chưa được phát triển rộng rãi ở nước ta. Song các công ty cổ phần được hình thành trong cơ chế thị trường nên quá trình hoạt động của nó mang tính tự chủ về tài chính và độc lập về loại hình hoạt động.Đồng thời trong quá trình hoạt động công ty cũng thể hiện tính năng động thích ứng với đòi hỏi của kinh tế thị trường. Các Công ty cổ phần thường xuyên có các cuộc họp hội đồng quản trị để đưa ra những nhận xét đánh giá về tình hình hoạt động của công ty đặc biệt là tình hình tài chính. Công ty cổ phần cũng đóng góp một phần không nhỏ vào qúa trình phát triển kinh tế ở nước ta.Do đó chúng ta cần quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho công ty hoạt động liên tục và có hiệu quả. Tuy nhiên với đặc điểm hoạt động tài chính có sự đan xen của các quan hệ kinh tế phức tạp dẫn đến tình trạng công ty gặp khó khăn trong giải các mối quan hệ đó. Trong trường hợp này kiểm toán có thể tìm hiểu về đặc điểm loại hình hoạt động kinh doanh của Công ty từ đó có thể xác minh được các vấn dề mà công ty đang gặp khó khăn. Từ đó mà tình hình tài chính của công ty được khoẻ khoắn và làm cho nguồn vốn của công ty được gia tăng.Trong trường hợp công ty đã hoạt động có hiệu quả thì vấn đề cần được kiểm toán đây có thể là quyền lợi của các cổ đông có được đảm bảơ hay không? Lợi nhuận của công ty có được giữ lại một phần để trích lập các quỹ hay các khoản dự phòng nhằm làm cho tình hình tài chính công ty luôn ổn định. Còn phần để lại chia lãi cổ phần có được chia theo đúng tỉ lệ góp vốn hay không? Quyền lợi của các cổ đông có được đảm bảo thì đó mới là động lực thúc đẩy giúp cho họ ngày càng có những đóng góp tích cực cho công ty.
2.2.3. Công ty liên doanh.
Đất nước đang trong qúa trình đổi mới, cùng với việc mở cửa hội nhập cùng với thế giới. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy rằng Việt Nam với nhiều tiềm năng về con người và tài nguyên. Đồng thời với các chính sách kinh tế mà nhà nước ta đã sửa đổi là một trong những cơ hội cho các nhà đầu tư tiếp cận với thị trường Việt Nam. Công ty liên doanh là những công ty có tỉ lệ đóng góp vốn của các đơn vị cá nhân nước ngoài theo một tỉ lệ nhất định mà tỉ lệ này được nhà nước ta qui định các bên tham gia liên doanh phải đạt mức tối thiểu là bao nhiêu.Với chủ trương đa phương hoá các loại hình sở hữu, các công ty liên doanh cũng được khuyến khích phát triển. Với sự đóng góp của các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ về nguồn vốn bằng tiền, tài sản mà có thể họ đóng góp những phương cách quản lí mà các nước trên thế giới thường áp dụng. Đặc biệt với tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay chúng ta cần phải tiếp thu những khoa học quản lí và việc sử dụng các nguồn nhân lực một cách có hiệu quả nhất. Nhưng không phải loại hình công ty này chỉ có những ưu điểm mà không bộc lộ những khó khăn. Cũng giống như các loại hình công ty khác,thực trạng tài chính của công ty là một trong những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong bất kì loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh nào, bởi mục tiêu của họ là tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy kiểm toán lại thực hịên chức năng của mình và qua quá trình kiểm toán có thể thấy được quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia liên doanh có bị vi phạm hay không, đã thực hiện đẩy đủ trách nhiệm của mình hay chưa?Kiểm toán không những giúp cho hoạt động của công ty có hiệu qủa mà còn có thể tạo được sự hấp dẫn về môi trường đầu tư ở Việt Nam cho các nhà đầu tư truyền thống và tiềm năng.
3. Tác động cụ thể của kiểm toán tới việc quản lí và hoạch định chính sách kinh tế của Nhà nước trong quá trình đổi mới-đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung của mình với mọị thành phần kinh tế, mọi hoạt động xã hội. Đặc biệt, với các khoản thu chi của ngân sách nhà nước, các khoản vốn liếng và kinh phí nhà nước đầu tư cho các đơn vị kinh doanh hoặc sự nghiệp và tài sản, tài nguyên quốc gia…càng cần được giám sát chặt chẽ theo đúng pháp luật và có hiệu quả. Chỉ có hoạt động kiểm toán phát triển trên cơ sỏ khoa học thực sự mới đáp ứng được những yêu cầu thông tin cho những quyết sách của Nhà nước và kế toán mới thực sự trở thành “cái nền” vững chắc cho cả sự can thiệp trực tiếp lẫn quản lý gián tiếp của Nhà nước.ở các đơn vị có sử dụng ngân sách của nhà nước, để nhà nước làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia thì kiểm toán ngân sách nhà nước đánh dấu một bước tiến mới trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ngân sách, kiểm toán góp phần đáng kể vào việc kiểm tra, kiểm soát thu-chi ngân sách Nhà nước ,ngăn ngừa hữu hiệu các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí ngân sách và tài sản công.Kiểm toán xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi ngân sách nhà nước. Kiểm toán góp phần tạo ra cơ sở dữ liệu tin cậy cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan nhà nước và các cơ quan nhà nước trong việc quyết định, điều hành ngân sách nhà nước một cách hữu hiệu, hiệu quả;cung cấp thông tin tin cậy cho Quốc hội trong việc giải toả trách nhiệm cho Chính phủ khi thực hiện nghị quyết của Quốc hội về ngân sách. Đất nước có nền kinh tế phát triển phải là một đất nước có nguồn ngân sách dồi dào và phục vụ vào những mục đích chính đáng, mang tính kinh tế, tiết kiệm, hiệu quả trong qúa trình quản lí,sử dụng ngân sách. Qua qúa trình kiểm toán ngân sách các Bộ, ngành và ngân sách các tỉnh, thành phố, KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công rất có vai trò quan trọng.Trên cơ sở kết quả kiểm toán và những dữ liệu thu được KTNN có thể tư vấn những ý kiến đảm bảo tính khả thi hợp lý công bằng tiết kiệm ngay từ khâu lập dự toán.Để công tác quản lý ngân sách Nhà nước được tốt hơn, hướng việc sử dụng ngân sách hiệu quả từ đó nâng cao hiệu quả và hiệu năng của nền kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay hầu hết chính phủ của các nước trên thế giới đều phải mở rộng phạm vi quản lý để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội, theo đó nhu cầu chi tiêu phục vụ bộ máy công quyền ngày càng gia tăng, trong khi nguồn lực tài chính tài chính lại có hạn. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi chính phủ các nước phải tiến hành cải cách bộ máy hành chính nhà nước, cắt giảm chi tiêu công, nhưng vẫn phải đáp ứng nhu cầu công chúng về cả số lượng chất lượng hành chính công. Nước ta cũng cần có những chính sách phù hợp để cải cách hành chính,đồng thời với quá trình cải cách này tạo điều kiện cho đất nước ta có thể hội nhập nhanh chóng với thế giới.Trong quá trình cải cách không thể không có sự tham gia của kiểm toán. Kiểm toán việc xây dựng xây dựng dự án cải cách hành chính, xem những mục tiêu chung của dự án có tuân thủ mục tiêu định hướng nhà nước không và xác định các biện pháp để thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Kiểm toán đưa ra ý kiến đánh giá nhận xét về tính khả thi và tính kinh tế. Từ đó kiểm toán đưa ra những kiến nghị với chính phủ để bổ sung, sửa đổi những bất hợp lý của dự án, tránh thiệt hại, lãng phí trong quá trình thực hiện.
Kiểm toán còn tiến hành kiểm toán việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước để cắt giảm chi tiêu của các cơ quan hành chính công. Thông qua kiểm toán, kiểm tra việc tuân thủ luật và các chế độ trong công tác quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, phát hiện những bất hợp lý lãng phí, sai mục đích kinh phí ngân sách nhà nước.Từ đó giúp cho nhà nước có chính sách cắt giảm chi tiêu hoặc nếu ở mức nghiêm trọng thì có thể xử lý theo pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang phải đối mặt với nhu cầu phát triển ngày càng gia tăng về công nghệ thông tin, năng lượng và bảo đảm an ninh quốc phòng y tế, môi trường …Do đó đòi hỏi sự can thiệp ngày càng lớn hơn của nhà nước vào các lĩnh vực này.Để nhà nước thực hiện các chức năng trọng tâm của mình, kiểm toán đưa ra kiến nghị đối với cơ quan lập pháp và hành pháp về việc xây dựng cơ chế chính sách và các hoạt động lập pháp để giúp Quốc hội, Chính phủ xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể.Kiểm toán đã đưa ra ý kiến về :
Sự cần thiết phải xây dựng luật đối với khu vực, lĩnh vực công nào.
Số lượng và chất lượng văn bản pháp luật hiện nay có đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế có đáp ứng được yêu câù quản lý kinh tế xã hội không.
Hiệu quả và hiệu năng hoạt động có được thực hiện ở bất kỳ các cấp chính quyền không.
Nhiệm vụ của một cơ quan hành chính công có thể chuyển giao cho một đơn vị hoặc tổ chức tự thực hiện không.
Trong qúa trình đổi mới về mọi mặt, nhà nước ta cũng thấy được những yêu cầu về phân cấp,phân quyền của cấp dưới luôn là một đòi hỏi đặt ra cho chính phủ. Trong trường hợp Chính phủ giao quyền phủ hợp cho cấp dưới thì cấp dưới có thể giải quyết công việc một cách linh hoạt và hiệu quả hơn, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân và ngược lại. Để tư vấn cho Chính phủ kiểm toán đã xem xét chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các cơ quan nhà nước, các bộ ngành và chính quyền địa phương các cấp,mà trọng tâm là xem xét các cơ quan,đơn vị đó có tuân thủ pháp luật hay lạm dụng quyền hạn trong quá trình thực thi nhiệm vụ và có để cho quyền lợi cá nhân chi phối đến nhiệm vụ công;không đáp ứng được được yêu cầu thực tế…
Tóm lại cải cách hành chính đang là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nứơc ta.Với chức năng và nhiệm vụ của kiểm toán, kiểm toán đã đóng góp cho nhà nước những nguồn thông tin chính xác phủ hợp để nhà nước thiết lập nên một bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả và hiệu năng đồng thời nhà nước ta đưa ra được những chính sách đổi mới như về hành lang pháp lý, điều kiện hoạt động ở mọi lĩnh vực…
Thế kỉ 21 là thế kỉ của hội nhập quốc tế về kinh tế, thương mại, đầu tư, tài chính, quá trình đó diễn ra mạnh mẽ cả về bề rộng và bề sâu trên tất cả khu vực kinh tế.Trong xu thế thời đại đó quá trình phát triển nền kinh tế ở Việt Nam cũng phải luôn bám sát, chủ động và tích cực theo đúng xu hướng vận động của tiến trình hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với nền tảng chính là khu vực kinh tế quốc doanh chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã chấp nhận sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế, chấp nhận sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị. Trong nền kinh tế đang chuyển đổi và phát triển ở Việt Nam, vấn đề đổi mới cơ chế kinh tế luôn được coi là bước đầu tiên, đột phá. Xuất phát từ vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế, là tổng thể các chính sách và giải pháp tài chính,tiền tệ.Do đó,đổi mới kinh tế luôn gắn liền với đổi mới tài chính. Trong bối cảnh tiến trình hội nhập quốc tế về kinh tế - tài chính đang diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, chính sách kinh tế nói chung và các chính sách về tài chính tiền tệ cũng không ngừng đổi mới, đáp ứng được yêu cầu hội nhập, qua đó tăng thêm nguồn lực cho nước nhà thực hiện các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.Qua trình hội nhập quốc tế về kinh tế đã và đang tạo ra cho nền kinh tế Việt Nam những cơ hội mới như:
Hội nhập quốc tế sẽ tăng cường và nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong các tổ chức kinh tế và các diễn đàn quốc tế.
Hàng hoá, sản phẩm của Việt Nam được hưởng chính sách, chế độ ưu đãi của các nước về thuế, cũng như không bị phân biệt đối xử trong xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ được mở rộng, qua đó tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, thu hút lao động, tăng thu nhập,nâng cao đời sống nhân dân.
Tăng khả năng đầu tư ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện tiếp cận và chuyển giao khoa học kỹ thuật và các công nghệ tiên tiến trên thế giới, đồng thời thúc đẩy tạo dựng một môi trường cạnh tranh, đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước…
Như vậy hội nhập kinh tế là cần thiết song chúng ta phải tạo ra cho mình những tiền đề có tính chiến lược để thực hiện hội nhập tự chủ.Thực hiện hội nhập quốc tế về kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải từng bước phủ hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế,có như vậy mới đảm bảo sự tương đồng và bình đẳng với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.Cũng trong quá trình này nền kinh tế đã hình thành được hệ thống Kiểm toán Nhà nước,kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập.Trong sự phát triển gắn liền xu thế hội nhập quốc tế, nhu cầu về thông tin ngày càng tăng và không có giới hạn. Sự chính xác của thông tin càng đòi hỏi cao hơn bao giờ hết và trở thành sức mạnh cạnh tranh kinh tế. Một mâu thuẫn luôn tồn tại là doanh nghiệp luôn muốn biết được nhiều thông tin chính xác về các doanh nghiệp các doanh nghiệp cạnh tranh, nhưng lại muốn dấu diếm thông tin về chính doanh nghiệp mình; thậm chí che giấu thông tin xấu, quảng cáo sai về các ưu thế của mình.Trên phương diện tài chính các hiện tượng thiếu trung thực, số liệu không đúng với thực tế, vấn đề giả mạo chứng từ, nợ khống dẫn đến lãi giả, lỗ thật…vẫn là hiện tượng phổ biến trong các doanh nghiệp.Do vậy với sự xuất hiện của kiểm toán (kiểm toán độc lập) đã đẩy mạnh công tác khai hoá báo cáo tài chính của đơn vị.Kiểm toán góp phần nâng cao tính chính xác, trung thực ;qua đó giúp cho nhà quản lý, nhà đầu tư có cách nhìn đúng đắn hơn về tình hình tài chính để đưa ra về cơ chế, về quản lí điều hành thích hợp thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp và nền kinh tế trong xu thế hội nhập quốc tế.Đồng thời đối với các tổ chức tài chính quốc tế (WB, ADB, IMF), đối với các cam kết của các cam kết của các tổ chức khu vực và quốc tế(AFTA, WTO, APEC, EU,ASEAN…) hoặc nhà đầu tư của các nước đều rất quan tâm đến NSNN và khâu phân bổ NSNN vì thế họ có thể đánh giá được chính sách kinh tế của Việt Nam cũng như khả năng thực hiện các dự án quốc tế. Tổ chức quốc tế và nhà đầu tư nước ngoài còn đặc biệt quan tâm đến các doanh nghiệp Việt Nam, qua báo cáo tài chính để đánh gía khả năng tài chính, sự lành mạnh, khả năng thu hồi vốn vay, hiệu quả kinh doanh …Trong điều kiện đó việc hoàn thiện và phát triển kiểm toán không chỉ cung cấp các căn cứ quản lý vĩ mô của Nhà Nước ta mà còn giúp cho các nhà đầu tư thực sự an tâm trước môi trường đầu tư được kiểm soát và lành mạnh của Việt Nam.
4. Một vài kiến nghị phát huy vai trò của kiểm toán.
Sự ra đời và kết quả hoạt động của kiểm toán tuy còn rất khiêm tốn nhưng đã khẳng định được được vai trò, vị trí của nó; đồng thời đã phản ánh sự chuyển biến cách mạng trong tiến trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.Để kiểm toán luôn thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả thì chúng ta có thể đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện tổ chức kiểm toán :
- Cần xác định phạm vi kiểm toán hợp lí để tập trung nâng cao chất lượng kiểm toán, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về kỷ cương, tác phong và lề lối làm việc, nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm toán đi đôi với việc nâng cao văn hoá nghề nghiệp.
- Trong qúa trình kiểm toán phải đánh giá cho được những mặt mạnh, mặt yếu của các khách thể kiểm toán.Trong mỗi báo cáo cáo phải có tính chiến đấu cao, sai thì nói sai, đúng thì nói đúng, không được “dàn xếp”với đơn vị được kiểm toán rồi báo cáo sai sự thật.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế toán, kiểm toán tạo khuôn khổ pháp lý có tính ổn định theo hướng phổ biến và hội nhập, phù hợp với luật pháp và điều kiện của Việt Nam.
- Phát triển và đổi mới tổ chức công tác chuyên môn kiểm toán để nâng cao vai trò,chức năng của tổ chức hội nghề nghiệp. Duy trì và phát triển về tổ chức năng cao chất lượng loại hình kiểm toán.
- Đào tạo và đào tạo lại nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, của những người làm công tác kiểm toán và người quản lý lĩnh vực kiểm toán.
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin tiên tiến, xây dựng các chương trình phần mềm tiến bộ tin học công tác kiểm toán.
- Tiếp tục duy trì và mởquan hệ quốc tế về kiểm toán với các trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt học tập kinh nghiệm các nước trong khu vực có đặc điểm và điều kiện tập quán … tương tự Việt Nam trong cải cách công tác kiểm toán.
Đó chỉ là những kiến nghị cơ bản, cho nên trong quá trình hoạt động kiểm toán, kiểm toán cần chủ động điều chỉnh hoạt động của mình, tránh tình trạng quá máy móc.
Phần C: Kết luận
Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, sự phát triển của mỗi quốc gia đều gắn liền với quan hệ cộng đồng quốc tế và khu vực. Toàn cầu hoá và xu thế hội nhập đã làm thay đổi cơ bản những diễn biến kinh tế ở nước ta.Trong điều kiện đó,hoạt động kiểm toán có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức nên kiểm toán cần tự xây dựng cho mình một mô hình hoạt động phủ hợp với từng loại hình kiểm toán. Là một bộ phận của nền kinh tế,việc hình thành và phát triển kiểm toán vừa là tất yếu khách quan của kinh tế thị trường vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế tài chính và đóng vai trò tích cực trong việc phảt triển xã hội. Hoạt động kiểm toán là nhu cầu cần thiết, trước hết là vì lợi ích của bản thân doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, lợi ích của chủ sở hữu vốn và yêu cầu của nhà nước.Xuất phát từ lợi ích thiết yếu của hoạt động kiểm toán,Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến việc phát triển các loại hình kiểm toán.Do đó hoạt động kiểm toán đã phảt triển nhanh về số lượng và quy mô.Nhưng bên cạnh những kết quả đã đạt được,thực trạng hoạt động kiểm toán vẫn còn tồn tại gây trở ngại lớn cho quá trình hội nhập quốc tế như chất lượng kiểm toán chưa thỏa mãn các đối tượng sử dụng,nhận thức của xã hôi về kiểm toán chưa hoàn toàn đúng mực và đầy đủ, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kiểm toán còn thiếu và chưa đồng bộ...
Tóm lại qua việc tìm hiểu về sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới ta thấy được rõ hơn quá trình vận hành củakiểm toán và những ưu việt của nó cũng như những tồn tại của hoạt động này.Từ đó chúng ta có nhận thức đúng đắn về kiểm toán và để gắn kết chúng với các hoạt động kinh tế-xã hội khác nhằm mục tiêu phát triển kinh tế đất nước và tiến tới hội nhập kinh tế thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Tạp chí Kiểm toán.
2. Tạp chí Kế toán.
3. Lý thuyết kiểm toán.
4. Kiểm toán - Học viện Ngân hàng.
5. Kiểm toán - Tài chính kế toán
6. Tạp chí Kinh tế Phát triển
Mục lục
Trang
sự cần thiết của kiểm toán trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam với hội nhập kinh tế thế giới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35617.doc