Xuất phát từ thực tế yếu kém, khó khăn bên cạnh vai trò và vị trí của hệ thống DNVVN của nước ta thì quá trình đổi mới cơ chế chính sách đối với hệ thống DNVVN vốn còn non trẻ và một bước đi đúng đắn, kịp thời và hợp với xu thế của nền kinh tế thế giới mà Đảng và Nhà nước đã chọn nhằm đưa DNVVN nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung phát triển mạnh, tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
48 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác DNVVN phát triển một cách có hiệu quả mà còn cản trở, hạn chế sự phát triển của các DNVVN theo cơ chế thị trường. Mặt khác, cơ chế quản lý DNVVN chưa dựa trên nền tảng lý luận về quản lý doanh nghiệp nói chung, chưa biết thừa kế tinh hoa của nhân loại, có sự mặc cảm tư bản và chủ nghĩa trong khoa học quản lý. Do đó, trong quá trình hình thành và phát triển của mình các DNVVN đã gặp phải những khó khăn, thách thức lớn.
a) Về tình hình sản xuất - kinh doanh :
Theo số liệu thống kê năm 1992, trong phạm vi cả nước công nghiệp nông thôn đã thu hút trên một triệu lao động, thu hút khoảng 1000 tỷ đồng trong dân, tăng thêm cho thu ngân sách Nhà nước 70 - 80 tỷ đồng, thu nhập của người lao động hàng tháng tăng hơn 20-60% so với lao động thiếu nông nghiệp. Trong công nghiệp chế biến nông sản sơ chế, sản xuất - vật liệu xây dựng thông thường (gạch ngói, đá, sỏi…), hàng mộc dân dụng, thì sản xuất của công nghiệp nông thôn kém ưu thế gần như tuyệt đối.
Tuy công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã có những mốc phát triển đáng kể, kết quả đạt được có ý nghĩa rất to lớn ở nhiều mặt cả kinh tế và xã hội, nhưng hiệu quả còn thấp. Năm 1992 so với khu vực thành thị, tổng doanh thu bình quân của một DNVVN ở nông thôn chỉ bằng 30%. Trung bình một doanh nghiệp tư nhân ở thành thị tạo ra được giá trị tăng thêm lớn hơn 2 lần so với loại DNVVN này ở nông thôn, đối với doanh nghiệp hộ gia đình mức chênh lệch này tới 3 lần. Đây là sự chênh lệch rất lớn giữa các DNVVN ở nông thôn so với thành thị, làm cho một số DNVVN ở nông thôn sản xuất - kinh doanh kém hiệu quả, nhiều lúc còn dẫn tới phá sản, không có khả năng thanh toán.
Sản phẩm của các DNVVN ở thành thị nói chung và ở khu vực nông thôn nói chng mới chỉ đáp ứng được một cách hạn chế nhu cầu tiêu dùng liên tục chất lượng chưa ổn định, quy cách mẫu mã, chậm thích ứng với thị hiếu của người tiêu dùng, nên chủ yếu phục vụ cho thị trường tại chỗ : 66% tiêu thụ tại huyện; 21% tại xã, 12% tại làng. Chính vì vậy, mà sản phẩm làm ra kém sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ hạn chế, cuối cùng là hiệu quả sản xuất - kinh doanh thấp, hoạt động chủ yếu là tự phát, không ổn định. Số DNVVN hoạt động không thu được lãi hoặc bị phá sản trong những năm gần đây là 60% - 70%trong tổng số các DNVVN.
Điều này cho thấy, nhiều DNVVN đang ở trong tình trạng khó khăn. Bên cạnh các yếu tố trượt giá do chất lượng sản phẩm thấp và tăng tỷ giá ngoại tệ và việc phát triển chậm của nền kinh tế nói chung các DNVVN còn thiếu chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường tiêu thụ cũng như nguồn lực đầu vào.
b) Về vốn tài chính và tín dụng :
Trong những năm gần đây, tuy nguồn vốn chính thức ngày càng tăng, năm 1991 : 7% trên tổng số vốn, năm 1995 : 50% trên tổng số vốn. Riêng DNVVN ngoài quốc doanh chỉ đáp ứng 25% so với nhu cầu chủ yếu là vốn ngắn hạn, khó có khả năng đầu tư, chuyển hướng sản xuất - kinh doanh. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần có vốn là chính. Qua sự vận động, luân chuyển của vốn có thể bắt mạch được trạng thái hoạt động của các DNVVN. Điều kiện về vốn của các DNVVN Việt Nam đang rất hạn hẹp và gặp rất nhiều khó khăn có trên 58% DNVVN thiếu vốn điều kiện sự thiếu vốn của các DNVVN đều rất khó, hạn hẹp, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh có chất lượng và hiệu quả đặc biệt đối với các DNVVN muốn mở rộng, phát triển quy mô và đổi mới nâng cấp chất lượng công nghệ, sản phẩm. Hạn chế tài chính đối với các DNVVN được bộc lộ qua sự không hoàn thiện, không linh hoạt của thị trường tài chính ở nước ta, đặc biệt là hoạt động của hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khả năng hạn hẹp về tích tụ vốn bên trong và huy động nguồn vốn ngoài doanh nghiệp. Phần lớn các DNVVN, cơ sở sản xuất cá thể để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNVVN phải vay vốn từ các tổ chức phi tài chính, thông tư bạn bè, người thân với mức lãi suất vay không chính thức gấp từ 3 đến 6 lần lãi suất của ngân hàng. Nước ta chưa có những hình thức tín dụng chuyên cho các DNVVN như ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Inđônêxia, lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp còn có sự phân biệt lớn. Năm 1991, lãi suất cho vay áp dụng thông thường với doanh nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 4%, với doanh nghiệp Nhà nước chỉ khoảng 2,7%. Điều này cho ta thấy còn có sự ưu tiên, ưu đãi quá nhiều đối với các DNVVN thuọc sở hữu Nhà nước. Đến nay, lãi suất cho vay đối với tất cả các DNVVN nói riêng và ccs doanh nghiệp nói chung đã thống nhất nhưng các DNVVN vay khó khăn hơn các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tức là doanh nghiệp không thuọc sở hữu của Nhà nước vay khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp thuôcj sở hữu Nhà nước. Do đó các DNVVN nói chung có doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình, cá thể có nguồn vốn rất nhỏ, trong đó vốn cố định chiêm quá 2/3 tổng số vốn. Thiếu vốn là một khó khăn rất lớn đối với các DNVVN, thiếu vốn dẫn tới hạn chế sản xuất - kinh doanh, chiếm dụng vốn của nhau, nợ vòng vo, khó có khả năng thanh toán đúng hạn, làm mất cả quyền mà cơ chế đề ra, thậm chí phải đóng cửa doanh nghiệp.
Khó khăn lớn nhất là vẫn chưa tìm được tiếng nói chung giữa các ngân hàng với các DNVVN. Về phía ngân hàng, vì mục tiêu lợi nhuận cao, an toàn, ngân hàng thường cho vay đối với các doanh nghiệp lớn có hiệu quả. Các thủ tục xin vay vốn ngân hàng phải có thế chấp bằng tài sản cố định, nhưng không thừa nhận đất thuê mà phải là nhà cửa hoặc công trình xây dựng trên mảnh đất đó, trong khi đó thủ tục về chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai lại quá phức tạp. Bên cạnh đó là yêu cầu về luận chứng kinh tế kỹ thuật chi tiết về phương án mà các DNVVN đầu tư nên thời gian chờ đợi xét duyệt là rất lâu từ 3 tháng - 6 tháng. Nhưng các DNVVN phần lớn thiếu tài sản thế chấp và khó xác định giá trị của tài sản thế chấp như : máy móc, thiết bị nhà xưởng lạc hậu, lâu đời. Bên cạnh đó, các DNVVN thường yếu kém về tài chính, chưa đủ những khoản vay có bảo đảm chở cho một số ít các DNVVN vay. Nguyên nhân chính là các thủ tục tín dụng ngân hàng trung hạn, dài hạn và ngắn hạn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức rất phức tạp, dẫn đến chi phí giao dịch cao, làm cho những khoản tín dụng này trở nên quá tốn kém đối với DNVVN. Bên cạnh đó, những quy chế về việc ký quỹ và các dự án đầu tư quá cứng nhắc làm cho nhiều doanh nghiệp trong hệ thống DNVVN không thể đáp ứng được khi muốn vay tín dụng từ các tổ chức tài chính, trong khi các DNVVN lại được muốn việc ký quỹ.
Một tình trạng không kém phần quan trọng là thị trường vốn dài hạn, thị trường chứng khoán về cơ bản ở nước ta chưa có. Và nếu có thì điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các DNVVN Việt Nam là hết sức khó khăn, hiếm hoi và các DNVVN sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi. Đồng thời, khả năng và điều kiện tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường tín dụng đối với các DNVVN ở nước ta còn bị hạn chế và gặp khó khăn lớn là do: không đủ tài sản thế chấp, mức lãi suất cho vay còn quá cao so với lợi nhuận mà các DNVVN thu được khối lượng mà các DNVVN vay được là rấ ít, thời gian cho vay quá ngắn. Đặc biệt đối với khu vực nông thôn còn nghèo nàn và đơn điệu và thực hiện pháp lý không cao thì tình trạng này lại diễn ra mạnh hoưn và càng làm cho DNVVN ở nông thôn ảnh hưởng lớn đến việc huy động nguồn vốn cố định và nguồn vốn lưu động. Những khó khăn đó rất cần được giải quyết tháo gỡ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển cuả các DNVVN.
c. Về thị trường :
Một vấn đề nan giải chung đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh quy mô nhỏ và luôn đặc biệt là đối với quy mô nhỏ là thiếu chiến lược về thị trường, kế hoạch sản xuất - kinh doanh không bài bản vì các doanh nghiệp này đã quen theo kiểu hoạt động “đánh quả” “nền văn minh kinh doanh” với nền kinh doanh chân chính chưa được tập lập. Điều này phụ thuộc vào tình hình phát triển của đất nước vào nhận thức của các chủ doanh nghiệp, ở đây còn có khả năng yếu tố vượt quá khả năng của các chủ doanh nghiệp và họ thiếu thông tin về thị trường, thiếu các tổ chức dịch vụ, dịch vụ tư vấn về thông tin thị trường, thiếu các hiệp hội tư vấn và hỗ trợ của chính họ sản xuất và gắn liền với nó là thực hiện nửa cơ khí, cơ khí hoà toàn phần, toàn bộ quá trình sản xuất. Nhưng do nguồn vốn tài chính bị giới hạn không cho phép các doanh nghiệp có thể tự mình, đỏi mới cũng như áp dụng mạnh mẽ công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy, tỉ lệ đổi mới trang thiết bị cũng rất thấp, chỉ khoảng 10%/năm tính theo vốn đầu tư. Điều này cho thấy trình độ về thiết bị công nghệ, kỹ thuật của các DNVVN vẫn thấp và còn lạc hậu so với trung bình của thế giới. Lý do xuất phát từ việc vốn đầu tư của các DNVVN rất thấp so với các DNVVN, các DNVVN rất khó có thể vay được một khoản tín dụng trung và dài hạn cần thiết để đầu tư nâng cấp công nghệ. Chính vì những nguyên nhân đó nên khoảng gần 50% sô doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn chỉ sử dụng công cụ cầm tay ; 15,8% sử dụng công cụ nửa cơ giới, hơn 35,5% có sử dụng máy chạy điện. ở miền Bắc tỷ lệ số doanh nghiệp nhỏ sử dụng công cụ cầm tay cao hơn ở miền Nam. Gần đây một số cơ sở có vốn đã nhập máy móc, thiết bị của nước ngoài nhưng chủ yếu là máy do công nghiệp địa phương của Trung Quốc sản xuất trình độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất còn hạn chế, nên các doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào nguồn máy móc thải loại của công nghiệp thành thị hoặc tự chế tự dùng. Ngoài khó khăn về khả năng đầu tư của bản thân các doanh nghiệp, sự bất hợp lý trong hệ thống đầu tư, cung ứng và quản lý điện ở nông thôn cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm cản trở quá trình phát triển của các doanh nghiệp nhỏ. Nhiều doanh nghiệp có điều kiện sử dụng điện nhưng vẫn dùng công cục cầm tay hoặc nửa cơ giới. Ví dụ : ở Hải Phòng qua điều tra số DNVVN có điện chiếm tới 87% nhưng số doanh nghiệp sử dụng máy chạy điện chỉ có 43,5%, nguyên nhân chủ yếu alf do không ổn định về giá và chất lượng điện.
Nhìn chung, trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất của các DNVVN nói chung và đặc biệt là các DNVVN ở nông thôn còn đang ở mức rất thấp, phần lớn đang nằm trong giai đoạn chuyển từ lao động thủ công sang sản xuất cơ giới và chủ yếu nhận chuyển giao những thiết bị và công nghệ truyền thống hoặc thải loại của công nghiệp quốc doanh, của công nghiệp đo thị hoặc công nghệ lạc hậu của nước ngoài mà chủ yếu là của Trung Quốc ; hiệu quả và trình độ sử dụng thiết bị nói chung còn thấp, hệ số sử dụng nguyên liệu thấp, năng suất của các thiết bị máy móc và lao động, chất lượng sản phẩm thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Do sự bất lợi rất lớn đối với các doanh nghiệp lớn nên so với các doanh nghiệp lớn trong nước cũng như các doanh nghiệp liên doanh thì các DNVVN rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ máy móc và thiết bị quốc tế do họ thiếu thông tin về thị trường này thiếu vốn để đổi mới công nghệ. DNVVN cũng khó tiếp cận với những dịch vụ tư vấn hỗ trợ của các tổ chức,Nhà nước trong việc xác định công nghệ, máy móc, thiết bị thích hợp và hiệu quả, giúp họ cải tiến sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh và phù hợp với cơ chế thị trường trong nước và ngoài nước.
e. Về kiến thức và tay nghề của lực lượng lao động.
Trình độ tri thức và tay nghề của lực lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp cũng rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chúng. Những người có tri thức, tay nghề cao, kỹ năng thành thạo, lao động lành nghề sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ, có trình độ cao, phức tạp, tiếp thu áp dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại, làm ra những sản phẩm đẹp, có chất lượng, với năng suất và hiệu quả cao.
Nhưng đội ngũ lao động hiện có trong các DNVVN, phần đông có trình độ văn hoá cấp IV chiếm từ 40 - 45%, số có trình độ văn hoá phổ thông trung học cũng chiếm một tỷ trọng khá từ 20 - 30% và số có trình độ tiểu học và chưa biết chữ còn chiếm tỷ trọng khá lớn (25 - 30%). Nhưng về trình độ tay nghề, kỹ thuật của những người lao động trong các DNVVN hiện rất thấp, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Số lao động có tính chất phổ thông, có trình độ tay nghề giản đơn, chưa được đào tạo qua các trường dạy nghề, bình quân chiếm khoảng 60 - 70% trong tổng số lực lượng lao động của các DNVVN. Do tỷ lệ lực lượng lao động trong các DNVVN có trình độ tay nghề thấp nên sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không cao, số lượng sản phẩm không nhiều, mẫu mã ít, khó cạnh tranh với các mặt hàng của các doanh nghiệp lớn.
Bên cạnh đó trình độ tay nghề của lực lượng lao động thấp sẽ làm cho việc sử dụng máy móc công nghệ không có hiệu quả cao, hạn chế năng suất tạo ra sản phẩm. Đặc biệt là đối với lực lượng lao động làm việc trong các DNVVN ở nông thôn, đa sốđược đào tạo nghề chính quy chỉ chiếm khoảng 10% nên gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế trong việc sử dụng máy móc thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp. Đó cũng là một khó khăn đối với việc phát triển mạnh mẽ các DNVVN hiện nay ở nước ta.
f. Về kiến thức và tay nghề của lực lượng quản lý.
Sự hoạt động sản xuất kinh doanh trên thương trường với sự cạnh tranh khốc liệt đầy cam go, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi mới có thể thành đạt trong điều kiện, đưa doanh nghiệp của mình ngày một phát triển. Mỗi chủ doanh nghiệp phải biết thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các loại thông tin kinh tế, kỹ thuật biết đề ra những chiến lược đúng đắn và đưa ra những quyết định sán suốt, kịp thời. Đồng thời chủ doanh nghiệp phải biết quản lý, giám sát, điều khiển công việc của những người lao động làm việc cho mình một cách hợp lý, có hiệu quả,m biết đánh giá, động viên, khuyến khích, thưởng phạt và trả công chính xác, tương xứng với những đóng góp của họ vào kết quả chung của doanh nghiệp.
Nhìn lại đội ngũ các chủ DNVVN ở nước ta hiện nay cho thấy họ còn có nhiều bất cập, khó khăn, hạn chế với đòi hỏi của kinh doanh trong thương trường hiện đại. Đại đa số các chủ doanh nghiệp chỉ có trình độ kiến thức văn hoá phổ thông cấp II chiếm từ 45 - 50%, một số không ít nhiều có trình độ văn hoá phổ thông trung học, cao đẳng và đại học (30 - 35%), còn một bộ phận đáng kể có trình độ văn hoá cấp tiểu học chiếm từ 10 - 15%. Chỉ có rất ít chủ doanh nghiệp (2 - 3%) của các DNVVN được đào tạo kiến thức quản lý chính quy, một sôits từ 20- 30% được tập huấn, đào tạo ngắn hạn được 6 tháng tại các trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, còn đại bộ phận các chủ doanh nghiệp chỉ quản lý và điều hành doanh nghiệp của mình bằng kinh nghiệm học hỏi được.
Việc phân cấp quản lý các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng, theo ngành và địa phương tỏ ra không phù hợp với xu thế vận động của nền kinh tế thị trường, dẫn đến việc bất bình đẳng trong việc huy động vốn và lựa chọn lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Việc quản lý các DNVVN ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thì vừa buông lỏng vừa phức tạp và tùy thuộc vào từng địa phương. Cơ quan quản lý và cán bộ quản lý chưa thật sự đổi mới kịp với quá trình phát triển của DNVVN, kinh nghiệm quản lý theo định hướng thị trường hiện đại vẫn còn thiếu. Chưa có sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước trong việc đào tạo công nhân cho các doanh nghiệp. Các trường đào tạo quản lý kinh doanh, quản lý và pháp luật thiên hẳn về việc tiếp cận lý thuyết hơn là thực hành.
g. Về mặt bằng kinh doanh của các doanh nghiệp :
Điều kiện mặt bằng cho sản xuất - kinh doanh của các DNVVN nhìn chung hiện đang rất chật hẹp và gặp nhiều khó khăn trong việc tập lập và mở rộng mặt bằn, do cơ chế chính sách chưa thích hợp và khả năng tài chính hạn chế của các doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp phải thuê mượn lại mặt bằng của các doanh nghiệp Nhà nước, hoặc phải dùng nơi ở để cấp cho các DNVVN không đảm bảo chất lượng, thường hay có sự cố. Hệ thống xử lý nước và chất thải khác của các DNVVN hầu như không có, nếu có thì rất thô sơ, lạc hậu, gây tác hại rất lớn tới môi trường sống xung quanh nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung.
Các điều kiện về kho bãi, đường xá trong và ngoài doanh nghiệp, nhất là hệ thống giao thông công cộng phục vụ cho sản xuất - kinh doanh, giao lưu hàng hoá của các doanh nghiệp trong cả nước nói chung, ở khu vực nông thôn nói riêng (khu vực mà các DNVVN đang và sẽ có địa bàn hoạt động chiếm ưu thế) đang rất hạn chế về mật độ và độ rộng của lòng đường, thấp kém về chất lượng cầu cống, nền và mặt đường, cũng như sự thiếu thốn về bến bãi. Chúng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của hệ thống DNVVN nói riêng của nước ta.
Bên cạnhđó các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc được cấp quyền sử dụng đất hoặc họ gặp khó khăn khi thuê đất làm trủ và nhà máy để sản xuất. Nguyên nhân là các thủ tục để được cấp quyền sử dụng đất là không rõ ràng và thường không công nhận đối với các DNVVN. Đặc biệt, trong trường hợp đất công nghiệp, các quyền bán, mua, chuyển nhượng và cầm cố quyền sử dụng đất để ký quỹ vẫn còn chưa được chấp nhận. Trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư mới năm 1997 chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân, cũng do những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp háp nên còn tồn tại một thị trường đất đai đáng kể hoạt động một cách không chính thức và bất hợp pháp làm ảnh hưởng tới quá trình hình thành các DNVVN mới với quy mô lớn hơn.
h. Về khả năng tiếp cận thông tin của hệ thống thông tin.
Hệ thống thông tin và khả năng tiếp cậnthông tin, nhất là thông tin về thị trường, giá cả công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp nói chung. Hệ thống thông tin ở nước ta hiện nay mặc dù đã phổ biến rộng rãi hơn trước, các phương tiện thông tin tương đối phong phú và hiện đại phương pháp thu thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ. Song nhìn chung, tính chất nhanh nhạy, kịp thời, chính xác và đầy đủ, hoàn thiện của hệ thống thông tin chưa đáp ứng được những yêu cầu của sản xuất - kinh doanh trong điều kiện của thị trường và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đặc biệt đối với các DNVVN. ở khu vực nông thôn và doanh nghiệp ở những khu vực không thuận lợi về thông tin các DNVVN không có bộ phận chuyên trách về thu thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn, chúng không đủ kinh phí để mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh chóng kịp thời nói riêng và chi phí cho các hoạt động tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin nói chung. Trình độ tri thức và năng lực thu thập, xử lý thông tin của các chủ DNVVN còn rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Chính sự khó khăn của việc cập nhật - thông tin của các DNVVN đã làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và kinh doanh của các DNVVN, đặc biệt là thông tin về thị trường sản phẩm quá trình tạo lập vốn và quá trình tìm kiếm thị trường.
i. Về hệ thống chính sách và pháp luật Nhà nước.
Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước tác động tới toàn bộ mọi mặt hoạt động trong đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành và phát triển của các DNVVN. Tuy nhiên, hệ thống chính sách và văn bản pháp luật chưa đồng bộ, một số văn bản pháp luật đã ban hành nhưng chưa được thực hiện tốt. Mặc dù đã có Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng quá trình thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tiễn chỉ ra rằng khi Nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào năm1988 thì số dự án được thực hiện nhiều hơn trước nhưng còn nhiều hạn chế, khó khăn về vốn, công nghệ.
Một số chính sách tay đã ban hành, nhưng vẫn chưa đi vào cuộc sống, vì có sự mâu thuẫn hoặc thiếu đồng bộ giữa các khâu, điều đó không những ảnh hưởng đến sự phát triển của DNVVNmà còn ảnh hưởng đến sự giám sát, kiểm soát của Nhà nước.
Một văn bản pháp luật, chính sách ra đời đều xuấ phát từ tình hình thực tiễn của đất nước, từ những vấn đề vĩ mô để điều chỉnh hoạt động sản xuất - kinh doanh của vi mô, theo hướng tích cực của các quy luật - kinh tế thị trường. Nhưng không ít văn bản, pháp luật, chính sách ra đời đã không thực hiện tốt như pháp lệnh, kế toán và thống kê pháp lệnh bảo hộ lao động… có nhiều lý do khác nhau để giải thích vấn đề trên, nhưng có thể khái quát thành 3 lý do chủ yếu sau đây :
+ Luật pháp chính sách còn có nhiều điểm xa vời với điều kiện thực tế của các DNVVN nếu thực hiện một cách nghiêm túc, DNVVN khó có điều kiện tồn tại và phát triển. Như luật thuế các luật thuế đánh chồng chéo nhau, không có sự phân biệt theo quy mô lớn, nhỏ.
+ ý thức tự giác trong cuộc thực hiện luật lệ, chế độ, chính sách của Nhà nước đối với DNVVN điển hình là doanh nghiệp tư nhân, còn hạn chế, hiện tượng đăng ký kinh doanh một đằng sản xuất - kinh doanh một nẻo.
+ Tổ chức thực hiện pháp luật chưa tốt, Nhà nước đã ban hành luật, chế độ, chính sách tuy chưa thật hoàn chỉnh, đồng bộ song cũng đã tạo ra được môi trường pháp lý cần thiết, tối thiểu, nhưng không ít DNVVN tồn tại và phát triển là nhờ các hoạt động ngoài khuôn khổ pháp luật. Rõ ràng là thiếu một bộ máy tổ chức thực hiện có hiệu lực.
Chính sách bảo hộ mậu dịch của Nhà nước có những bất hợp lý, thể hiện ở thuế xuất nhập khẩu. Trong quá trình tìm kiếm thị trường, DNVVN luôn ở tình thế bất lợi hơn các doanh nghiệp lớn nhưng với chính sách xuất, nhập hiện nay quy định doanh số 2 triệu USD/năm, đối với xí nghiệp và 20 triệu USD/năm đói với Công ty mới được trực tiếp xuất, nhập khẩu thì các DNVVN khó có thể đủ vốn để thực hiện xuất, nhập khẩu trực tiếp, đặc biệt là khu vực ngành nghề truyền thống.
Bên cạnh đó hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của Nhà nước đã không có sự thống nhất chồng chéo lên nhau, nhiều khi còn đổ lỗi cho nhau làm ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN nói riêng và hệ thống doanh nghiệp nói chung. Điều này đòi hỏi phải có sự đổi mới, hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước để tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của các DNVVN.
III. Đổi mới cơ chế chính sách đối với DNVVN.
1. Cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan tới loại hình kinh doanh này.
- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật : Xuất phát từ thực tiễn hệ thống pháp luật, chính sách chưa thật đầy đủ và đồng bộ. Thậm chí có vấn đề trái ngược nhau, tính hiệu lực chưa cao… do đó trong thời gian tới cần thiết phải ban hành thêm một số luật cần thiết và triển khai thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật lao động, luật công ty. Luật doanh nghiệp tư nhân, đồn thời hoàn thiện luật thuế, bao gồm cả thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra còn nghiên cứu xây dựng để ban hành luật hoặc Bộ luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong bộ luật này phải xác định rõ mục tiêu thành lập và quy mô hoạt động - kinh doanh của doanh nghiệp, mô hình doanh nghiệp và tổ chức quản lý chế độ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với Nhà nước và người lao động, đồng thời cũng phải xác định ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên dành riêngcho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ưu đãivề tín dụng, thuế, trợ cấp giúp đào tạo quản lý trong những năm đầu thành lập doanh nghiệp.
Trong các văn bản pháp quy phục vụ cho việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp thì vấn đề quan trọng nhất hiện nay là các chế định có liên quan đến tài chính doanh nghiệp, kiểm toán, kế toán tiếp đến là ngành hàng, chất lượng sản phẩm và thuế.
Khuôn khổ pháp luật cũng như các quy chế quản lý phải đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tính ổn định, lâu dài trước hết phải thể hiện ở quan điểm nhất quán của Nhà nước đối với các DNVVN thuộc các thành phần kinh tế, không có sự phân biệt đối xử trong các văn bản pháp luật cũng như tổ chức thực hiện. Sự ổn định lâu dài còn được thể hiện ở tính khả thi của hệ thóng văn bản pháp luật. Xuất phát từ thực tế của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường, để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng pháp luật chính sách để quản lý trong một số năm nhất định, tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất -kinh doanh trên cơ sở chiến lược và kế hoạch khắc phục tình trạng làm ăn theo kiểu “đánh quả”. Sự ổn định lâu dài của pháp luật, chính sách là tiền đề quan trọng để đảm bảo quyền tự chủ thật sự trong sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.
Về lâu dài, phải hoàn thiện một bộ luật trong đó phải quy định rõ : loại hình cho từng ngành nghề cụ thể, tư cách pháp nhân, về tổ chức và hoạt động, về các chính sách bảo hộ, khuyến khích là điều mà chúng ta cần làm trong những năm tới. Đặc biệt là nhanh chóng thực hiện luật doanh nghiệp mới thay thế cho luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty năm 1990 nhằm hợp lý hoá các thủ tục thành lập và đăng ký, quy định các khả năng huy động vốn kinh doanh cho các mục đích đầu tư sản xuất. Giúp cho các DNVVN một cách hiệu quả hơn trong việc huy động vốn, quy định một cơ cấu mềm dẻo hơn, bảo vệ tốt hơn các cổ đông thiểu số, có quy tắc rõ ràng trách nhiệm pháp lý của giám đốc và các giaodịch quan trọng của Công ty như sát nhập và chuyển đổi hình thức Công ty. Ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để tạo ra một cơ sở dữ liệu tập trung thông tin các doanh nghiệp và các Công ty đã đăng ký và công khai các thông tin đó ra công chúng. Đồng thời, khi tiến hành xây dựng bộ luật riêng cho các DNVVN cần phải tham khảo các bộ luật về DNVVN của các nước đặc biệt là các nước ASEAN trong tính đặc thù của Việt Nam.
2. Cải cách thủ tục, hành chính.
Thủ tục hành chính luôn là vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp, vì vậy Chính phủ phải có những biện pháp triệt để và liên tục nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là chúng ta phải có những cải cách, đổi mới bốn thủ tục có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các DNVVN.
- Thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh thì Nhà nước phải có văn bản quy định rõ ràng điều kiện để thành lập doanh nghiệp và tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Đồng thời Nhà nước phải có những văn bản để giúp đỡ các doanh nghiệp đã đăng ký được thành lập và đi vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao.
- Thủ tục vay vốn tín dụng :
Nguồn vốn là một khó khăn lớn nhất đốivới các DNVVN ở nước ta hiệnnay, chính vì thế Nhà nước cần phải có những hỗ trợ đối với các DNVVN. Cần phải tạo ra một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng trung và dài hạn để tất cả người đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật và những quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại, tạo điều kiện cho người đi vay thực hiện và bắt buộc cầm cố và thế chấp.
- Thủ tục thuế đất : Bắt buọc các DNVVN phải có mặt bằng để sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu hoặc mặt bằng thuê của người khác hoặc thuê của một tổ chức nào đấy. Việc hoàn thiện chính sách và thủ tục thuế đất phải đi theo hướng thống nhất và hiện đại hoá, đăng ký đối với đất đai va các công trình xây dựng và hợp lý hoá các thủ tục quyền sử dụng. Quy định các thủ tục rõ ràng, đơn giản và hợp lý để giải quyết các tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết về quyền sử dụng và quyền sở hữu. Bắt buộc các DNVVN khi đăng ký phải nộp đầy đủ thuế đất như đã đăng ký tránh tình trạng một số doanh nghiệp trốn thuế đất.
- Thủ tục xuất nhập khẩu : Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh mà các DNVVN còn gặp nhiều hạn chế và khó khăn do đó, cơ quan quản lý Nhà nước phải có những hỗ trợ nhất định đặc biệt là các hợp đồng xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹnghệ nông sản. Các mặt hàng xuất khẩu, phải được kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu, đảm bảo thì mới được xuất khẩu. Đối với nhập khẩu thì khuyến khích các DNVVN nhập khẩu công nghệ hiện đại nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu với mức thuế nhập khẩu phù hợp.
3. Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp.
- Có chính sách ưu đãi hợp lý và công bằng đối với tất cả các DNVVN thuộc mọi thành phần kinh tế để các DNVVN chủ động xây dựng quan hệ, hợp tác bình đẳng với tất cả các đối tác làm ăn nên tất cả các nước trên thế giới xây dựng nền kinh tế mở với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, tiến tới hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới đã và đang được Việt Nam áp dụng trong những năm qua.
Đốivới các DNVVN phải có trợ cấp, đánh thuế với mức ưu đãi để các DNVVN có thể nhập nguyên liệu với giá rẻ hơn, từ đó có thể làm ra các sản phẩm với giá thành thấp để có thể cạnh tranh được với các Công ty lớn và các Công ty nước ngoài. Ngoài ra các DNVVN hoạt động trong các ngành công nghiệp - tác nhân tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng khả năng thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp phải được sự ưu đãi hợp lý về các vấn đề như thuế đất, vay vốn tín dụng.
- Trợ giá xuất khẩu cho các DNVVN để ổn định sản xuất kinh doanh trong thời gian đầu tìm kiếm thâm nhập thị trường mới đặc biệt là trợ giá xuất khẩu đối với các mặt hàng truyền thống, nông sản để hàng của các DNVVN của nước ta có thể thâm nhập vào thị trường thế giới, để tránh tình trạng hàng của Việt Nam mất giá. Các DNVVN không yên tâm sản xuất và kinh doanh.
- Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước cần đảm bảo tính hợp lý tạo điều kiện cho các DNVVN góp phần tích cực vào cuộc chiếm lĩnh thị trường trong nước, thay thế các mặt hàng nhập khẩu, đồng thời phải tiến tới xuất khẩu ra thế giới với khối lượng quy mô, chủng loại ngày càng tăng. Đặc biệt phải cạnh tranh lành mạnh không để các doanh nghiệp Nhà nước độc quyền bóp méo thị trường trong nước như hiện nay. Kiên quyết đẩy lùi tình trạng làm phải phù hợp của tình hình phát triển kinh tế của đất nước, phù hợp với xu thế hợp tác hoá và quốc tế hoá.
- Chính phủ cần tích cực và hỗ trợ một phần kinh phí tài trợ trong việc hình thành và phát triển các vườn ươm doanh nghiệp. Trước hết là các vườm ươm doanh nghiệp chung và tiến tới hình thành vườm ươm doanh nghiệp chuyên ngành và kỹ thuật nhằm cung cấp cho các DNVVN cơ sở hạ tầng, dịch vụ khi khởi sự và tăng cường khả năng kinh doanh cho các DNVVN. Trước hết phải xây dựng thí điểm ở một vài thành phố lớn như : TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, và dần tiến hành mở rộng dàn trải nên phạm vi cả nước.
- Khuyến khích các hình thức hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu giữa các DNVVN trong nước và với các DNVVN trong các nước khu vực APEC, ASEAN và các khu vực khác.
trên thế giới, hỗ trợ chi phí trong việc tham dự các hội chợ thương mại ở trong nước do các tổ chức nước ngoài tổ chức hoặc các công ty tổ chức ở nước ngoài để các DNVVN của Việt Nam có thể học tập được kinh nghiệm và quy cách sản xuất một mặt hàng có chất lượng cao quy cách để lãnh đạo, tổ chức kinh doanh có hiệu quả cao.
4. Hoàn thiện chính sách tài chính – tín dụng :
Nhà nước lập quỹ tín dụng quốc gia hỗ trợ DNVVN, sử dụng hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính công cộng, để quản lý nguồn quỹ. Bên cạnh đó khuyến khích tư nhân hình thành các công ty tài chính hỗ trợ DNVVN với quy chế ưu đãi. Xuất phát từ thực tế yếu kém, khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta, trọng tâm là vấn đề : Việc thiếu vốn, sẽ hạn chế nghiêm trọng sự phát triển của các DNVVN, vì vấn đề đầu tư chỉ được thực hiện khi có sẵn vốn chứ không phải do các cơ hội và lợi ích thị trường. Nhiều doanh nghiệp bắt buộc phải duy trì quy mô nhỏ bé do thiếu vốn mặt dù có cơ hội mở rộng. Chính vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ để khắc phục có hiệu quả.
- Bảo đảm các DNVVN khu vực tư nhân được thực sự bình đẳng như các DNVVN trong vay vốn, ngân hàng, vay các tổ chức tài chính trung gian về tín dụng trung hạn và dài hạn. Nhà nước và Ngân hàng Trung ương phải quy định rõ ràng về việc vay thực hiện và bắt buộc cầm cố và thế chấp. Đối với các DNVVN khó khăn ở khu vực nông thôn thì ngoài tiền vay có tài sản thế chấp, ngân hàng phát triển nông thôn có thể cho các DNVN này vay với lãi suất ưu đãi để các DNVVN này có thể mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh. Bãi bỏ đối sử ưu đãi về vay nợ, xoá nợ giãn nợ đối với khoản nợ quá hạn, gia hạn nợ đối với các khoản vay gặp rủi ro. Đặc biệt, cho vay với số lượng lớn đối với các DNVVN hoạt động kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao. Song song với việc hình thành các tổ chức tài chính tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần thiết phải hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước hoặc tư nhân để hạn chế sự rủi ro cho các tổ chức tài chính tín dụng.
- Mở rộng các hình thức tín dụng, cung cấp các khoản tín dụng trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi : Mở rộng khả năng tiếp cận của DNVVN với vốn có thể theo hướng tạo ra một cơ cấu vốn mềm dẻo hơn, cho phép các DNVVN tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của nước ngoài bằng cách cho phép các công ty bán một số cổ phiêú của họ cho các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích và cho phép các DNVVN tham gia nhiều hơn vào các công ty liên doanh. Cần đa dạng các hình thức tín dụng, đẩy mạnh tín dụng dựa vào kiểm soát cho phép ngân hàng giữ cổ phiếu và dùng cổ phiếu để thế chấp hoặc bằng hàng hoá là dây chuyển thiết bị mua bằng vốn vay, sau đó nợ có thể được chuyển thành cổ phiếu khi tình hình tài chính khó khăn. Đặc biệt là hình thành các thị trường chứng khoán ở các vùng đô thị lớn, tiến tới thị trường chứng khoán hoàn chỉnh trên địa bàn cả nước với nhiều đối tượng được tham gia trong đó có hệ thống các DNVVN để các DNVVN có thể huy động vốn lưu động một cách dễ dàng hơn, kịp thời cho tái sản xuất mở rộng. Thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng, qua đó huy động nguồn vốn nhàn dỗi rải rác của các doanh nghiệp vào sản xuất. Mặt khác cần tiếp tục hoàn thiện luật khuyến khích đầu tư trong nước cho phù hợp để khuyến khích các doanh nhân mạnh dạn bỏ thêm vốn vào sản xuất kinh doanh.
- Chính phủ lập hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng cho các DNVVN, trong đó chủ yếu là yếu là vốn ngân sách và đóng góp các tổ chức trong và ngoài nước. Việc giải quyết vấn đề thiếu vốn sản xuất kinh doanh là khâu đột phá, tìm cái lợi, hạn chế bất lợi cho cả ngân hàng, và doanh nghiệp. Doanh nghiệp được vay vốn, ngân hàng có thể phát huy được tiềm năng của mình, hạn chế được rủi ro. Về thực chất đây là quỹ bảo hiểm đảm bảo cho các DNVVN vay vốn không cần tài sản thế chấp, hạn chế được nhiều thủ tục phiền hà khi vay vốn, đồng thời là nguồn quỹ chia sẻ rủi ro cho ngần hàng khi DNVVN mất khả năng trả nợ. Đây là phương thức cho vay chủ yếu dựa vào tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của DNVVN, không lệ thuộc vào hình thức giấy tờ, tài sản thế chấp.
Thiết chế bảo lãnh tín dụng là một trong những công cụ tài chính phải phối hợp thực hiện việc tiếp cận tín dụng của những doanh nhân có uy tín hoặc những dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng cần được thiết lập như một ngần hàng bảo lãnh độc lập dưới dưới sự giám sát của ngân hàng Nhà nước. Việc hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng phải bao gồm nhiều nội dung : Mục tiêu, tổ chức hoạt động, phương thức hoạt động. Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động không được dựa trên mục tiêu lợi nhuận mà phải là một trung gian tài chính về mục tiêu hỗ trợ phát triển các DNVVN. Vì vậy Nhà nước phải tạo điều kiện chung cho hoạt động của quỹ : Luật ngân hàng cần có những điều khoản cho phép hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ vốn cho các DNVVN, các thủ tục hoạt động của quỹ được hợp pháp hoá.
Quỹ bảo lãnh tín dụng là nguồn vốn được hình thành để hỗ trợ phát triển các DNVVN nhưng đồng thời cũng phải tiến hành thu phí bảo lãnh và lệ phí thẩm định dự án của các DNVVN để xung vào quỹ.
- Về hình thức tổ chức, quỹ phải hoạt động như một công ty bao gồn hợp đồng quản trị giám đốc, ban điều hành đặc biệt là phải thành lập uỷ ban bảo lãnh quỹ ngân sách. Trong điều kiện của nước ta quỹ phải hoạt động như một doanh nghiệp công ích thuộc sở hữu nhà nước. Quỹ bảo lãnh tín dụng phải được tổ chức có quy mô từ trung tương có chi nhánh ở các vùng lãnh thổ.
- Đơn giản hoá thủ tục ngân hàng trong việc cho vay tín dụng, đặc biệt là các khoản vay trung hạn và dài hạn. Giảm bớt chi phí giao dịch khi vay đảm bảo nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Do các DNVVN ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với thị trường chứng khoán nên cần phải taọ điều kiện thuận lợi cho các DNVVN vay vốn sản xuất kinh doanh, tái sản xuất mở rộng.
Tóm lại, với hệ thống tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ kết hợp với chính sách tài chính, tín dụng phù hợp chắc chắn các DNVVN sẽ có cơ hội tạo vốn để phát triển ngày càng mạnh.
5. Hoàn thiện chính sách thuế
Tránh sự trùng lặp về thuế, các văn bản về thuế cần phải rõ ràng, nhất quán và ổn định vì thuế là một trong những chính sách quan trọng tác động đến hoạt động của các DNVVN ở nước ta. Với hệ thống thuế có nhiều mức như ở nước ta hiện nay thì cần phải phân loại các định mức thuế chung của các doanh nghiệp.
Cơ quan quản lý thuế phải có định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra hoá đơn, sổ sách kế toán để xác minh mức thuế cho đúng luật, nhưng 1 năm không quá 2 lần ở một doanh nghiệp. Việc thu thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động theo các luật định có thể thực hiện trực tiếp bằng cách chủ doanh nghiệp nộp cho kho bạc địa phương. Trên cơ sở có sự xác nhận của cơ quan huế về mức thuế phải nộp, để giảm bớt lực lượng cán bộ thuế. Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo nghị định 66/HĐBT phải nộp trực tiếp cho cơ quan thuế trên cơ sở có hoá đơn hợp lệ. Chính sách thuế hiện hành (chưa thật sự khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vốn mở rộng sản xuất thu hút nhiều lao động, vấn đề không chỉ là hiện tượng “Thuế chống thuế”, thuế suất cao. Để khắc phục tình trạng “thuế chống thuế” khi có đủ điều kiện cần phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng thêm (VAT).
+ áp dụng thuế khoán hàng năm cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện lập xí nghiệp, Công ty (cơ sở sản xuất – kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT) kết hợp với kinh nghiệm quản quản lý của cơ quan thuế để xác định mức thuế. Doanh thu có thể tính theo từng tháng hoặc từng quý tuỳ theo hình thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Những ưu đãi về thuế phải nhằm vào các tiêu thức như : Theo quy mô doanh nghiệp, theo ngành nghề, theo vùng, theo quá trình tổ chức kinh doanh, theo sự tác động tới việc giải quyết các vấn đề, kinh tế xã hội (sử dụng nhiều lao động…)
+ Giảm mức thuế doanh thu đối với một số mặt hàng : Tiêu dùng được sản xuất trong nước tăng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng cùng loại. Đó cũng là biện pháp tốt để bảo hộ hàng trong nước đối với DNVVN và chống tình trạng buôn lậu.
+ Tinh giảm thu nhập : Một số loại thu nhập nhất định sẽ không bị tính vào diện doanh thu, chịu thuế , ví dụ : Thu nhập từ việc chuyển giao công nghệ.
+ Thuế vốn : Các DNVVN nếu tái đầu tư mở rộng bằng nguồn vốn lợi tức, hoặc đầu tư hàng năm sẽ được giảm trừ khối lượng chịu thuế sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
+ Giảm mức thuế lợi tức từ 30% - 50% như hiện nay xuống 20 – 25% cho các doanh nghiệp quy mô vừa, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa ở khu vực nông thôn.
- Miễn thuế doanh thu cho những doanh nghiệp nhỏ mới hoạt động năm đầu và miễn giảm thuế doanh thu một số năm cho các doanh nghiệp nhỏ ở những vùng kinh tế kém phát triển.
+ Giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa có nguồn vốn kinh doanh lớn nhưng lại sử dụng nhiều lao động.
+ áp dụng mức thuế nhập khẩu từ 0 –1% đối với máy móc thiết bị, vật tư, phụ tùng trong nước chưa sản xuất được nhằm đưa công nghệ hiện đại vào trong nước phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
+ Giảm thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng sử dụng ít vốn nhưng nhiều lao động như : Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ tạo xu hướng hợp tác hoá cho các DNVVN của nước ta với các nước khác trên thế giới.
+ Bồi dưỡng nâng cao trình độ và sàng lọc đội ngũ cán bộ trong ngành thuế, chống các hiện tượng tiêu cực, thất thoát thuế.
+ Sự ưu đãi về thuế hoàn toàn không được xác định theo thành phần kinh tế và theo nguồn gốc đầu tư nhằm hỗ trợ cho các DNVVN.
- Có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập (có thuế miễn thuế) cho các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khi cho các DNVVN vay vốn sản xuất kinh doanh. Khi các ngân hàng không phải chịu thuế thu nhập thì các ngân hàng sẽ cho các DNVVN vay nhiều hơn khi có thuế nó thúc đẩy được sự hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng ngày càng cao.
Cho phép lập quỹ dự phòng rủi ro trích từ lợi nhuận thu được do được ưu đãi về thuế mang lại, nhằm bù đắp một phần rủi ro cho ngân hàng khi các doanh nghiệp không có khả năng thanh toán.
6. Hoàn thiện chính sách công nghệ đào tạo
+ Chính phủ phải khuyến khích các DNVVN đổi mới công nghệ
Khuyến khích các hợp đồng thuê mua hoặc bán trả góp, tạo điều kiện cho các DNVVN có được máy móc, thiết bị mới được cải tiến, nâng cao máy móc, thiết bị. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng mua máy móc. Đồng thời, một số DNVVN khó có các khoản vay tín dụng từ ngân hàng. Hình thức thuê mua là một giải pháp cho vấn đè này khi một doanh nghiệp không đủ điều kiện để mua máy móc, thiết bị mới hoặc tốt hơn dùng cho hoạt động kinh doanh của họ mà không phải thanh toán toàn bộ ngay từ khi mua hàng, thay vào đó họ phải trả số tiền thuê máy móc nhỏ hơn nhiều.
Hiện nay vẫn tồn tại những trở ngại căn bản các DNVVN tiếp cận với công nghệ mới. Những biện pháp dưới đây có thể sẽ loại bỏ những trở ngại này và thúc đẩy cách tiếp cận tới công nghệ của các DNVVN Việt Nam.
- Cải thiện điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước gia nhập thị trường theo định hướng càng đơn giản càng tốt.
- Các thủ tục đăng ký kinh doanh hiệu quả và hợp lý như đã kiến nghị ở trên cho phép có nhiều doanh nghiệp hơn gia nhập thị trường. Điều này sẽ tăng sự cạnh tranh và đây là khả năng lớn nhất thúc đẩy mạnh mẽ phát triển công nghệ mới ở tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Tạo điều kiện các DNVVN có khả năng đầu tư cải tiến liên tục công nghệ
- Thành lập các trung tâm hỗ trợ chuyển giao công nghệ Nhà nước hoặc tư nhân ở các vùng, các trung tâm này có nhiệm vụ cung cấp thông tin về kỹ thuật, công nghệ, thực hiện các dịch vụ, tư vấn và chuyển giao công nghệ cho DNVVN, kiểm định chất lượng, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
- Các trung tâm này cần phối hợp với các trung tâm nghiên cứu ứng dụng của vùng hoặc trung ương, các doanh nghiệp nghiên cứu cải tiến đổi mới thiết bị máy móc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nhà nước cần hỗ trợ cung cấp một phần vốn cho hoạt động đổi mới thiết bị, kỹ thuật, công nghệ của hệ thống trung tâm này, không phân biệt đó là trung tâm do Nhà nước hay là trung tâm của tư nhân thành lập mà phải căn cứ vào lĩnh vực trung tâm hoạt động có thuộc những ngành nghề mà Nhà nước ưu đãi phát triển hay không.
- Nhà nước cần tăng thời hạn được xét miễn, giảm thuế đến mức có thể cho các dự án đổi mới công nghệ.
+ Đối với hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN, cần liên kết các Viện kinh tế trường đại học trong và ngoài nước nhằm đào tạo những nhà quản lý giỏi và công nhân có trình độ tay nghề cao.
Chính phủ cần tích cực đầu tư thêm, mở rộng các trung tâm đào tạo đội ngũ quản lý và người lao động. Hệ thống này bao gồm các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động. Các trung tâm đào tạo bồi dưỡng chủ doanh nghiệp, các trung tâm này tổ chức độc lập ở trung tương và các vùng và cũng có thể xen ghép vào hệ thống các trường dạy nghề, các trường đại học hoặc các trung tâm do tư nhân tổ chức hoặc cũng có thể do các doanh nghiệp tổ chức.
Phương pháp hình thức tổ chức đào tạo phải rất phong phí, đa dạng, và linh hoạt nhằm đáp ứng tốt nhu cầu lao động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước phải thống nhất quản lý về chất lượng đào tạo, để không ngừng nâng cao chất lượng lực lượng lao động.
Nhà nước nên lập quỹ quốc gia về đào tạo và việc làm nhiều hơn nữa để hỗ trợ cho các trung tâm do nhà nước tổ chức và hỗ trợ các trung tâm đào tạo tư nhân, kinh nghiệm của các nước cho thấy chúng ta nên hình thành các trung tâm này ở từng vùng và từng địa phương, do các địa phương trực tiếp quản lý và có sự giúp đỡ của các ngành chức năng.
Về lâu dài cần phải cải tổ lại hệ thống giáo dục sẵn có nhằm mục đích đào tạo các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lý, lực lượng lao động, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong quá trình tham gia vào thị trường thế giới của các DNVVN.
7. Hoàn thiện chính sách thị trường
Mọi nỗ lực hỗ trợ nêu trên hoặc hỗ trợ nào khác cũng sẽ không phát huy tác dụng nếu cuối cùng các DNVVN không có thị trường tiêu thụ sản phẩm do mình làm ra vững chắc. Vì thế, song song với cuộc vận động “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” nhà nước với tư cách là người tiêu dùng cần khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, phải ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam. Bên cạnh đó cần triển khai mạnh mẽ các biện pháp sau :
- Trước hét, Nhà nước cần tích cực hỗ trợ bằng biện pháp ngoại giao, thông qua các cơ quan xúc tiến thương mại với các nước nhằm mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNVVN nói riêng để có thể thâm nhập vào thị trường các nước khác nhau trên thế giới. Thực hiện giải pháp để chống độc quyền chống buôn lậu, hàng trốn thuế…. Nhằm đảm bảo thị trường tiêu thụ sản phẩm điều hoà cung cầu và giá cả của những hàng hoá, sản phẩm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên 1 số ngành hàng thiết yếu. Phổ biến rộng rãi cho các DNVVN về Nghị định 57/CP ngày 31/7/1998. Đó là một bước tiến quan trọng của chính phủ mở ra thị trường xuất nhập khẩu quốc tế cho tất cả các doanh nghiệp – bao gồm cả DNVVN trong phạm vi giấy phép thành lập kinh doanh, mà không cần sự cho phép đặc biệt nào khác từ Bộ thương mại.
Các cơ quan quản lý kinh tế cần cung cấp thông tin mẫu phí cho các DNVV về khách hàng, đối tác làm ăn, về chất lượng, số lượng mà sản phẩm cần xuất nhập khẩu, đặc biệt là sự biến động của giá cả mặt hàng mà các DNVVN xuất khẩu.
- Thứ hai, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách. Việc tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia đấu thầu xây dựng các công trình công cộng cùng không nằm ngoài chủ trương bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tạo ra công ăn và thu nhập cho người lao động. Một số DNVVN nếu có khả năng và nguồn vốn có thể tham gia đấu thầu các công trình ở tầm quốc gia, các công trình có quy mô vốn lớn. Hơn nữa từ đây sẽ là cơ sở để các DNVVN có thể hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn thông qua các hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, kém thành phẩm, gia công.
- Thứ ba, tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp lớn với các DNVVN vừa có tác dụng bảo đảm thị trường, tạo công ăn việc làm, vừa tạo điều kiện thuận lợi để chuyển giao công nghệ kỹ năng quản lý từ doanh nghiệp lớn sang doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cường mối quan hệ ở đây phải thông qua nhiều nội dung, thông qua nhiều hình thức liên kết dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không làm ảnh hưởng xâm hại đến lợi ích của ai. Thông qua việc hợp tác này thì các DNVVN có thể học tập được nhiều kinh nghiệm từ mô hình kinh doanh, cơ chế quản lý, phương thức tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp lớn, điều mà các DNVVN còn gặp nhiều hạn chế và khó khăn.
Thứ tư về lâu dài, một chiến lược phát triển tổng thể đối với các DNVVN có sự phối hợp triển khai đồng bộ giữa các bộ, các ngành là trọng yếu trong quá trình cải cách mà Việt Nam cần tập trung để tạo một nền tảng cho sự phát triển bền vững đối với các DNVVN. Điều quan trọng ở đây là ngoài những nỗ lực của chính phủ ra thì các DNVVN cũng cần phải có những giải pháp tích cực và chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh và tìm kiếm thị trường của mình. Tất nhiên, đổi mới cơ chế quản lý và thiết lập hệ thống các biện pháp, giải pháp hỗ trợ không phải là giải pháp thực hiện một sớm một chiều, mà cần cân nhắc và thực hiện dần dần tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất định như một số nước ASEAN đã làm trước đây. Nói tóm lại, khi Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong chính sách cải cách kinh tế, chúng ta cần có một số biện pháp tốt hơn toàn diện hơn, hiệu quả hơn, cả trước mắt và lâu dài đối với các loại hình DNVVN. Hoàn thiện cơ chế quản lý và thiết lập các biện pháp hỗ trợ DNVVN là cần thiết và đã được thực hiện ở nhiều khác khác nhau. Vì vậy cần có những cơ sở pháp lý riêng cho các DNVVN và những chính sách phù hợp liên quan đến môi trường đầu tư, chính sách kinh thương, cải tạo cơ sở hạ tầng….đáp ứng đòi hỏi của môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng hiện nay theo mô hình AFTA và WTO, tiếp tục con đường cải cách và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và mạnh mẽ của hệ thống DNVVN của nước ta hiện nay.
C. Kết luận
Xuất phát từ thực tế yếu kém, khó khăn bên cạnh vai trò và vị trí của hệ thống DNVVN của nước ta thì quá trình đổi mới cơ chế chính sách đối với hệ thống DNVVN vốn còn non trẻ và một bước đi đúng đắn, kịp thời và hợp với xu thế của nền kinh tế thế giới mà Đảng và Nhà nước đã chọn nhằm đưa DNVVN nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung phát triển mạnh, tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Tuy nhiên thực tế trong nước đã khẳng định, vai trò của Nhà nước đối với DNVVN, và kinh nghiệm thế giới cũng có nhiều, nhưng hoàn toàn không có mô hình chung cho tất cả các nước. Đối với nước ta do xuất phát điểm khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đang ở trình độ thấp do đó cần phải có sự tác động tích cực mạnh mẽ và trực tiếp của Nhà nước để thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm đáp ứng công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đó là sự khác biệt của nước ta so với các nước khác đặc biệt đối với các nước phát triển mạnh. Bên cạnh đó, phải có sự tự vươn lên, tự hoàn thiện của chính các DNVVN, và đó chính là động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển của một doanh nghiệp nói chung và hệ thống các DNVVN nói riêng.
Tài liệu tham khảo
1. Nghiên cứu kinh tế Vũ Quốc Tuấn 9/2000
2. Nghiên cứu lý luận PGS.PTS. Nguyễn Cúc 1/1999
3. Nghiên cứu kinh tế Dương Bá Phượng 11/1999
4. Đổi mới cơ chế quản lý Nguyễn Hữu Hải 1995
5. Phát triển kinh tế TSKH Phan Nhiệm
TS Đỗ Thanh năm
Nguyễn Văn Thị
6. Nghiên cứu trao đổi Hồ Sỹ Hùng 2000
7. Kinh tế và phát triển GS.TS Vũ Huy Từ
8. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc VIII - IX
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34594.doc