Đề tài Sự cần thiết và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Tại Đại hội Đảng IX đã xác định mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống, vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao". Vì vậy phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, là điều kiện không thể thiếu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự cần thiết và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp sản xuất ra khoảng 40% thu nhập quốc dân và trên 40% giá trị xuất khẩu góp phần tạo nguồn tích luỹ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nông thôn là nơi cung cấp nguồn lực dồi dào cho xã hội, chiếm trên 70% lao động xã hội. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lao động nông nghiệp chuyển dần sang làm công nghiệp; dịch vụ; tuyển lao động nông thôn vào các đô thị các khu công nghiệp. Nông thôn nước ta chiếm 80% dân số cả nước. Đó là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn phát triển sẽ cho phép nâng cao đời sống, và thu nhập dân cư ở nông thôn, tạo điều kiện mở rộng thị trường để phát triển sản xuất trong cả nước. ở nông thôn có trên 50 dân tộc khác nhau sinh sống baogồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp có các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau. Đó là nền tảng quan trọng để đảm bảo tình hình kinh tế xã hội của đất nước, để tăng cường sự đoàn kết của các dân tộc. Nông thôn nước ta nằm trên địa bàn rộng lớn có điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội khác nhau, đó là tiềm lực to lớn về tài nguyên đất đai, khoáng sản, thuỷ sản để phát triển đất nước. Vì vậy phát triển kinh tế nông thôn là cần thiết trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. II. Thực trạng, phương hướng và giải pháp để phát triển Kinh tế Nông thôn 1. Thực trạng kinh tế nông thôn nước ta trong thời kì đổi mới. Sau 10 năm đổi mới, kinh tế nông thôn Việt Nam đã có những bước chuyển biến căn bản, các nguồn lực huy động triệt để và sử dụng có hiệu quả hơn, nhiều mô hình kinh tế sống động xuất hiện, nhiều mối quan hệ kinh tế được hình thành trong nông thôn. Sản lượng lương thực đã tăng khá nhanh và vững chắc, đảm bảo được nhu cầu lương thực trong nước, ngoài ra có dư để xuất khẩu. Việt Nam trở thành nước đứng thứ hạng cao trên thế giới về xuất khẩu gạo (năm cao nhất đạt 4,5 triệu tấn, xuất khẩu cho 30 nước, kim ngạch đạt 1 tỷ USD). Các mặt hàng xuất khẩu nông sản khác như cây công nghiệp, cây thực phẩm đều tăng nhanh (trên 430 nghìn tấn / năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 530 triệu USD), đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu hạt điều (30 triệu tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 120 triệu USD), cao su xuất khẩu hàng năm trên 160 nghìn tấn mũ khô, chè xuất khẩu gần 60 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 60 triệu USD. Về thuỷ sản việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản đều phát triển với tốc độ cao, bình quân 5%/năm tổng sản lượng tăng từ 1 triệu tấn năm 1990 lên 2 triệu tấn năm 2000; đạt kim ngạch xuất khẩu năm 2000 là 1,475 tỷ USD, tăng gấp 7 lần so với năm 1990. Hiện nay nước ta chỉ còn phải nhập khẩu một số nông sản chủ yếu gồm bông, dầu thực vật, sửa bò, thịt cao cấp, bột giấy và gỗ. Đã hình thành trong nông thôn các vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh như các vùng lúa, cao su, cà phê, điều, mía, rau quả, chè, lợn, bò, tôm, cá. Trong đó có những vùng phát triển khá ổn định như lúa, cao su, cà phê, chè. Phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu với khối lượng và tỷ suất hàng hoá ngày càng tăng. Nông thôn từng bước được thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, hoá học hoá, điện khí hoá, và việc áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng sinh học đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và điều kiện làm việc của người lao động được từng bước cải thiện. Cơ sở hạ tầng trong nông thôn như thuỷ lợi, giao thông, công nghiệp chế biến nông sản đã có những tiến bộ đáng kể. Thuỷ lợi đã bảo đảm được tưới cho 84% diện tích gieo trồng, hàng vạn ha rau màu, cây công nghiệp góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Mức độ cơ giới hoá khâu làm đất tăng từ 22% năm 1986 lên 54% năm 2000; cả nước hiện có 145,8 máy kéo các loại sử dụng trong nông nghiệp, trong đó nông dân trực tiếp quản lý 88% máy kéo lớn và 97% máy kéo nhỏ; gần 800 ngàn thức ăn gia súc. Điện cung cấp cho nông nghiệp nông thôn tăng từ 536 triệu Kwh năm 1990 lên trên 200 triệu Kwh năm 2000. Khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, năng suất nhiều cây trồng vật nuôi tăng nhanh: so với năm 1990, năm 2000 năng suất lúa tăng 1,36 lần; cao su tăng 2,36 lần; cà phê tăng 1,55 lần; trọng lượng lợn xuất chuồng tăng 27%; sản lượng khai thác thuỷ sản tăng 1,74 lần. Công nghệ sinh học trong 10 năm gần đây đã tạo ra nhiều giống lúa, ngô, rau, đậu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về công nghệ sinh học được áp dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, công nghệ chế biến, công nghệ sản xuất phân vi sinh, sản xuất nấm. Cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển theo hướng tích cực, nghĩa là cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người nông dân góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp nhưng sản lượng về nông nghiệp vẫn tăng lên về tuyệt đối nhằm bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm cho đất nước và xây dựng một nông thôn mới hiện đại và văn minh. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn đã và đang phục hồi góp phần quan trọng tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn. Những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, may, thêu ren, làm đồ gốm, thuỷ tinh, da, giấy, thủ công mỹ nghệ và dịch vụ, xây dựng, sửa chữa cơ khí đã và đang được phục hồi và được phát triển góp phần cho phục vụ thị trường trong nước. Quan hệ sản xuất được đổi mới một cách cơ bản theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế tham gia, phát huy mạnh mẽ vai trò của kinh tế hộ, đổi mới kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Doanh nghiệp Nhà nước chi phối những khâu then chốt, doanh nghiệp dân doanh phát triển mạnh trong tất cả các lĩnh vực góp phần phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Hiện nay số cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn 40.500 cơ sở, trong đó doanh nghiệp Nhà nước 14,1% hợp tác x; doanh nghiệp tư nhân 8,1%. Cả nước có khoảng hơn 1.000 làng nghề, trong đó 2/3 làng nghề truyền thống. Năm 2000 tổng giá trị của các ngành nông thôn đạt khoảng 40 nghìn tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 300 triệu USD và giải quyết được việc làm cho hơn 10 triệu lao động. Do đó đời sống vật chất và tinh thần của nhiều vùng nông thôn được cải thiện rõ rệt, các nhu cầu về văn hoá, y tế, xã hội được đáp ứng tốt hơn. Mức chi tiêu bình quân của một hộ ở nông thôn là 788.146 đồng (mức bình quân chung của cả nước là 911.671 đồng); 64,07% hộ có nhà ở kiên cố; 11,22% số hộ có ti vi màu; 11,61% số hộ có xe máy; 0,93% hộ có tủ lạnh; 0,29% số hộ có điện thoại riêng; 53,7% số hộ được dùng điện; 31,17% số hộ được dùng nước sạch. Số hộ nghèo đói giảm rõ rệt, số hộ khá và giàu trong nông thôn đã tăng hơn. Nhà ở, đường sá, giao thông, trạm y tế, trường học ở nông thôn được khang trang hơn trước nhiều. Trình độ học vấn của người nông thôn được nâng lên rõ rệt. Đội ngũ lao động cũng có sự tiến bộ lớn. ở nông thôn lao động có trình độ chuyên môn và kỹ thuật tăng hơn nhiều so với trước. Thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2001 trong điều kiện thế giới bị suy giảm, nhất là sau sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy giảm nặng nề, thị trường và giá cả nhiều mặt hàng nông sản biến động bất lợi nhưng ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có nhiều cố gắng, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt được và tăng về số lượng, đời sống nông thôn tiếp tục được cải thiện; các chương trình mục tiêu quốc gia triển khai khá; cơ cấu sản xuất nông nghiệp có bước chuyển biến tích cực theo hướng sản xuất hàng nông sản thay thế hàng nhập, khối lượng hàng nông sản xuất khẩu tăng nhanh về số lượng, về kim ngạch xuất khẩu. Nếu không bị ảnh hưởng bởi giá cả thị trường thì đã đạt được chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Nhìn chung bộ mặt ở nông thôn nước ta sau 10 năm đổi mới đã có nhiều thay đổi tích cực tuy nhiên bên cạnh những thay đổi đó nông thôn Việt Nam còn tồn tại nhiều mặt yếu kém và hạn chế. Có thể nêu lên những tồn tại chủ yếu sau: Kinh tế nông thôn vẫn còn mang tính chất thuần nông. Nếu xét về cơ cấu lao động, cơ cấu nhân khẩu, cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản phẩm thì nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng tuyệt đối còn công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ bé. Lao động chủ yếu ở trong nông nghiệp chiếm 75% lao động cả nước; thu nhập của dân cư ở nông thôn còn khá thấp (90% số nghèo đói tập trung ở nông thôn, 1.500 xã còn trong diện đói nghèo). Tỷ trọng nông nghiệp trong giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm trên 80%, trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp tỷ trọng trồng trọt vẫn chiếm 75-78%; tỷ trọng chăn nuôi trong nhiều năm chỉ chiếm từ 22-25%; sản lượng lương thực vẫn chiếm tới 75% thu nhập của dân cư ở nông thôn. Do ảnh hưởng của tập quán nông nghiệp truyền thống và do mới chuyển đổi từ phương thức sản xuất theo kiểu tập thể hoá trước đây nên ở nhiều nơi nông dân vẫn chủ yếu sản xuất theo tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc dựa vào lao động thủ công và khai thác các nguồn lực hiện có. Số đông nông dân trên các vùng còn thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, thiếu năng lực, bản lĩnh và trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Do đó sản xuất hàng hoá phần nhiều mang tính tự phát, thiếu ổn định và thiếu định hướng thị trường do đó mặt dù đã được khai thác tốt hơn song sản xuất hàng hoá vẫn cơ bản theo chiều rộng, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất thấp. Sản phẩm hàng hoá tuy đa dạng, phong phú nhưng manh mún có tính thời vụ và chưa tương thích với nhu cầu thị trường. Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản (kể cả nông sản xuất khẩu) hiện vẫn còn thua kém nhiều so với các nước trong khu vực, trong khi giá thành sản xuất còn ở mức khá cao và thiếu sức cạnh tranh. Chẳng hạn: giá thành mía nguyên liệu cho 1 tấn đường ở nước ta cao hơn 40% so với ở ấn Độ; 48,8% so với Thái Lan và gấp 1,6 lần so với giá nguyên liệu ở Australia. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng ứ đọng tiêu thụ nông sản hàng hoá và tình trạng rủi ro thua thiệt của nông dân của các nhà sản xuất kinh doanh hiện nay. Cơ cấu đầu tư không thích hợp, vốn đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông thôn. Vốn đầu tư chủ yếu cho thuỷ lợi và đê điều, đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp. Dân cư nông thôn nói chung còn nghèo, thu nhập tích luỹ ít, không đủ khả năng tự đầu tư theo hướng yêu cầu thâm canh cao và phát triển dịch vụ nông thôn nhất là đầu tư vào công nghệ tiên tiến. Công nghệ nông thôn chủ yếu sử dụng công nghệ thải loại từ công nghệ thành phố hoặc công nghệ nước ngoài hoặc công nghệ tự tạo nên công nghệ còn lạc hậu. Việc vay vốn phát triển nông thôn còn nhiều hạn chế (thời gian vay ngắn, mức vốn vay ít, không có đủ tài sản để thế chấp). Các trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và đổi mới công nghệ. Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) dựa vào các dự án phát triển nông thôn vừa ít về số lượng vừa nhỏ bé về quy mô. Điều đáng quan tâm là các nguồn vốn này đêù hoạt động kém hiệu quả. Kết cấu hạ tầng cơ sở trong nông thôn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và đời sống. Nhiều hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, chế biến bảo quản và lưu thông tiêu thụ nông sản hàng hoá còn lạc hậu, yếu kém và thiếu hụt nghiêm trọng. ở nhiều vùng nông thôn miền núi, vùng cao, vùng xa điều kiện thuỷ lợi và giao thông còn rất khó khăn. Đây là một trong những trở ngại lớn trong nông thôn, hay trở ngại cho việc tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá; đồng thời là nguyên nhân gây ra nhiều thất thoát, thiệt hại và làm giảm phẩm cấp, chất lượng của hàng nông sản nhất là đối với mặt hàng hải sản, hoa quả và thực phẩm tươi sống (theo số liệu điều tra của Viện Công nghệ sau thu hoạch và một số cơ quan chức năng thì tỷ lệ thất thoát sau khi thu hoạch của hầu hết các loại sản phẩm đều cao hơn đáng kể so với các nước trên thế giới và trong khu vực, tỷ lệ thất thoát lúa là 15%, rau quả 25-30%. Trong khi đó tỷ lệ chế biến sản lượng nói chung của nhiều loại sản phẩm còn ở mức rất thấp như chè mới đạt 40-45%; cây có dầu 15-20%; cao su khoảng 20%; rau quả thực phẩm 20%; thịt lợn 10-15%) mạng lưới thuỷ lợi tuy có tiến bộ nhưng không đồng bộ và hoàn chỉnh nên hiệu quả còn thấp, việc cung cấp điện có khá hơn nhưng chủ yếu mới phục vụ một phần cho đời sống và thuỷ lợi, còn phục vụ cho sản xuất còn khá thấp. Mạng lưới điện ở nông thôn còn thiếu quy hoạch, thiếu an toàn, tổn thất điện khá nhiều làm cho giá điện tăng cao ảnh hưởng khá nhiều đến tăng năng suất lao động trong nông thôn. Tỷ lệ dân số và lao động ở nông thôn còn khá cao, gây sức ép khá lớn về việc làm, về ruộng đất, về y tế, giáo dục. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn là vấn đề bức xúc. Mặc dù, chương trình quốc gia giải quyết việc làm trong những năm qua đã tạo được hơn1 triệu chỗ làm mới mỗi năm nhưng năm 2000 cả nước vẫn có khoảng 1447 nghìn người thất nghiệp, trong đó nông thôn 755 nghìn người chiếm 52%. Đối với khu vực nông thôn ngoài số không có việc làm còn nhiều người thiếu việc làm. Các cuộc điều tra về lao động tại thời điểm 1/7 hàng năm của những năm gần đây cho thấy lao động trong độ tuổi ở nông thôn thường chỉ sử dụng được 70% thời gian lao động. Cụ thể là: năm 1996: 72,3%; năm 1997: 73,1%; năm 1998: 71,1%; năm 1999: 73,6%; năm 2000: 74,2%. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đã làm ảnh hưởng khá nhiều đến đời sống, đến trật tự an ninh xã hội, đến việc di dân tự do ồ ạt vào các đô thị. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở nông thôn nước ta tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Nhìn chung số hộ nghèo và trung bình chiếm tuyệt đại đa số. Số hộ giàu và khá có tăng lên nhưng vẫn còn thấp. Về trình độ học vấn của nhân dân tuy có nâng cao nhưng vẫn còn thấp, số mù chữ vẫn còn đặc biệt là ở vùng xa và cao. Mạng lưới y tế ở nông thôn tuy có phát triển, nhưng ở nhiều vùng có bất cập, đặc biệt ở nhiều vùng khó khăn số bệnh nhân thường muốn về đô thị, thành phố để chữa bệnh. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở các bà mẹ và trẻ em ở vùng xa và cao còn nhiều. Phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế chưa gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tình trạng tài nguyên thiên nhiên đất, nước, rừng, biển bị khai thác quá mức cho phép dẫn đến nghèo, kiệt ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái là thực tế tồn tại rất đáng lo ngại. Tình hình trật tự an ninh xã hội có tiến bộ. Tuy nhiên, tình hình dân chủ, công bằng xã hội kỷ cương pháp luật chưa được đảm bảo. Tình trạng lấn chiếm đất, tham nhũng, buôn lậu, đầu cơ, cho vay nặng lãi, các tệ nạn xã hội như: mê tín dị đoan, nghiện hút, cờ bạc... chưa giảm, tình hình khiếu kiện trong nhân dân có chiều hướng gia tăng còn những truyền thống tốt đẹp trong gia đình, tình làng nghĩa xóm chưa được phát huy đầy đủ. Như vậy nhìn khái quát thì sự phát triển nông thôn nước ta đến nay đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều mặt yếu kém, bất cập. Đòi hỏi phải có những quyết sách, giải pháp mới cụ thể phù hợp với tình hình đất nước và xu thế phát triển thế giới trong giai đoạn hiện nay nhằm phát triển kinh tế nông thôn theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2. Quan điểm phát triển kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển kinh tế nông thôn nhất thiết phải có hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường. Nước ta là một nước nghèo đi lên chủ nghĩa xã hội không có cách nào khác là sản xuất và kinh doanh phải có hiệu quả. Quan điểm hiệu quả bao gồm 3 mặt gắn bó với nhau: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Hiệu quả kinh tế đòi hỏi sản xuất ngày càng nhiều nông sản phẩm với giá thành hạ, chất lượng sản phẩm và năng suất lao động cao, tích luỹ và tái sản xuất mở rộng không ngừng. Hiệu quả xã hội đòi hỏi đời sống của nông thôn không ngừng được nâng cao, lao động có việc làm với thu nhập ngày càng tăng, thực hiện xoá đói giảm nghèo, số hộ khá và giàu ngày càng tăng, thực hiện được dân chủ, công bằng, xã hội văn minh, xoá bỏ được các tệ nạn xã hội, phát huy được truyền thống tốt đẹp của cộng đồng nông thôn. Hiệu quả sinh thái đòi hỏi môi trường sinh thái ngày càng được bảo vệ và hoàn thiện. Khi đánh giá sự phát triển của nông thôn mà chỉ dựa vào tăng trưởng kinh tế không thì không đủ, còn phải tính đến đất đai bị xoá mòn, từng bị tàn phá, nguồn nước và không khí bị ô nhiễm. Có đảm bảo cả 3 mặt: hiệu quả kinh tế, xã hội , môi trường thì phát triển kinh tế nông thôn mới bền vững được. Tuỳ theo vùng nông thôn, từng thời gian mà xem xét và giải quyết các mặt hiệu quả sao cho thích hợp. Phát triển nông thôn với kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nước ta hiện nay đang phát triển kinh tế nông thôn theo hướng xã hội hàng hoá ngày càng cao. Muốn vậy đi đôi với phát triển sản xuất phải mở rộng thị trường ở nông thôn ở rất quan trọng. Mở rộng tự do cạnh tranh sẽ tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá ở nông thôn, cũng như giữa nông thôn với đô thị, trong nước và nước ngoài. Người sản xuất có thể mua bán những thứ cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng theo giá cả thị trường tránh được tình trạng ép giá, ép cấp. Tham gia vào thị trường có nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước với các doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể, cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này cùng vận động hợp tác, liên kết, liên doanh một cách đa dạng về hình thức, quy mô và trình độ khác nhau. Cơ chế thị trường đòi hỏi không chỉ hợp tác mà còn phải cạnh tranh, chấp nhận những cơ may và rủi ro theo quy luật cung cầu và giá cả thị trường. Nhà nước cần phải có sự quản lý đối với thị trường để đảm bảo cho sản xuất và đời sống ở nông thôn hoạt động bình thường. Nhà nước quản lý điều tiết các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng và có hiệu quả. Phát triển nông thôn một cách toàn diện có tính đến lợi thế so sánh của các vùng khác nhau. Phát triển nông thôn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường. Trong kinh tế không chỉ phát triển nông nghiệp và cả công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp không chỉ phát triển trồng trọt mà cả chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản. Tuy nhiên, phát triển nông thôn một cách toàn diện phải tính đến lợi thế của các điều kiện tự nhiên, kinh tế của các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển, các vùng xung quanh đô thị và các khu công nghiệp. Mỗi vùng có một thế mạnh nhất định vì vận cần phải có quy hoạch, định hướng phát triển các vùng nông thôn khác nhau thích hợp với điều kiện từng vùng. Các vùng trên gắn bó hỗ trợ nhau trong tổng thể phát triển nông thôn của cả nước. Phát triển nông thôn theo từng hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Muốn xoá bỏ dần sự lạc hậu của nông thôn, xây dựng nông thôn giàu đẹp và văn minh phải phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trước tiên phải dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xoá bỏ dần tính chất thuần nông, phát triển công nghiệp và dịch vụ. Việc phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản cho phép nâng cao giá trị nông sản phẩm hàng hoá phụ vụ cho xuất khẩu. Phát triển công nghiệp phải đi đôi với phát triển lâm nghiệp và thuỷ sản. Còn trong nông nghiệp giảm bớt tính chất độc canh, phát triển cây công nghiệp, rau quả, chăn nuôi. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội như: giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, văn hoá, y tế, giáo dục làm thay đổi dần bộ mặt nông thôn. Việc áp dụng khoa học và công nghệ tiến bộ gắn liền với thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, điện khí hoá, công nghệ sinh học trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản ngành nghề, nhằm tăng năng suất, sản lượng, chất lượng cây trồng, vật nuôi với giá thành sản phẩm hạ và bảo vệ được môi trường sinh thái bền vững nông thôn. 3. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam. a. Phương hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam. Vấn đề cơ bản và hết sức quan trọng của việc phát triển kinh tế xã hội nông thôn là xác định cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý, làm cơ sở tiền đề cho việc khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo điều kiện phát triển nhanh các ngành kinh tế nông thôn, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn là cấu trúc bên trong của kinh tế nông thôn. Nó bao gồm các bộ phận cấu thành lên cơ cấu kinh tế nông thôn, các bộ phận đó có mối quan hệ hữu cơ với nhau theo tỷ lệ nhất định về mặt số lượng, liên quan chặt chẽ về mặt chất lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong điều kiện thời gian và không gian nhất định tạo thành một hệ thống kinh tế nông thôn. Việc xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn chính là giải quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tự nhiên và con người trong khu vực nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là thay đổi tỷ lệ các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ trong kinh tế nông thôn theo chủ định và định hướng đã định nhằm đạt trạng thái phát triển tối ưu và hiệu quả mong muốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người nông dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp nhưng sản lượng ngành nông nghiệp vẫn tăng lên về tuyệt đối nhằm đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho đất nước và xây dựng một nông thôn mới hiện đại, văn minh. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX (tháng 3/2002) đã đánh giá: Hơn 10 năm qua, nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn diện, công nghiệp ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu đã phục hồi và phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng, môi trường sinh thái và đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt... Tuy vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển dịch chậm chưa theo sát với thị trường. Sản xuất nông nghiệp nhiều nơi còn phân tán, manh mún, mang yếu tố tự phát,... công nghiệp chế biến ở nông thôn nhất là công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản phát triển chậm. Ngành nghề dịch vụ chưa thu hút nhiều lao động. Đánh giá trên cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay đang là một chủ trương lớn của Đảng ta nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, kết cấu kinh tế hợp lý, kết cấu hạ tầng phát triển ngày càng hiện đại. Cụ thể phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn như sau: Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn, đặc biệt coi trọng chế biến nông - lâm - thuỷ sản, các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại nông thôn, các ngành nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp. Tranh thủ công nghệ hiện đại, tận dụng công nghệ truyền thống, chú trọng công nghệ tạo ra nhiều việc làm. Đồng thời phải coi trọng việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang nhiều nghề mới, song phải hết sức quan tâm tới bảo vệ môi trường. Phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ nông thôn. Coi trọng dịch vụ nông thôn phục vụ trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển cải thiện đời sống ở nông thôn. Các dịch vụ, bao gồm các khâu thiết yếu về tài chính, thương mại, kỹ thuật và đời sống. Mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến công, dịch vụ thuỷ sản, thú y, bảo vệ thực vật cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Đảm bảo đáp ứng đầy đủ và kịp thời của sản xuất có hiệu quả, giá thành hạ... Thực hiện xã hội hoá thương mại với các nước bán hành chính nhất là Trung Quốc, Mỹ, EU; đáp ứng thông tin kịp thời cho nông dân và các doanh nghiệp. Đối với nông nghiệp: coi trọng việc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất lúa gạo hàng hoá, chuyển mạnh sang sản xuất lúa gạo chất lượng cao, gắn với chế biến và tiêu thụ. Đẩy mạnh sản xuất ngô, sắn đáp ứng yêu cầu thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu phát triển mạnh các cây trồng có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu lớn. Mở rộng sản xuất các cây trồng thay thế nhập khẩu. Tăng diện tích trồng các loại cây xuất khẩu: chè, cao su, cây điều, cà phê. Với cây chè mở rộng diện tích đến năm 2010 đạt 100.000 ha; cao su: tiếp tục thâm canh diện tích cao su hiện có, để đến năm 2010 xuất khẩu khoảng 500.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 500 USD/năm; cây điều: đạt mục tiêu xuất khẩu 100.000 tấn; cà phê đạt mục tiêu: đảm bảo thường xuyên có 450.000 ha, sản lượng 650.000 đến 700.000 tấn cà phê và chất lượng tốt, đảm bảo kim ngạch xuất khẩu từ 0,8 đến 1,2 tỷ USD/năm. Ngoài ra, cần tập trung cao độ sản xuất ngô, đậu tương, sắn bằng các giống có năng suất cao, hàm lượng đạm cao. Chăn nuôi: trong 10 năm tới chủ yếu sản xuất đủ nhu cầu trong nước. Thực hiện tổ công tác thú y phòng chống dịch bệnh, xây dựng khu vực an toàn dịch bệnh, cải tạo giống nhất là giống lợi hướng nạc, bò sữa, bò thịt, gà vịt để mở rộng sản xuất thịt chất lượng cao, an toàn thực phẩm, giá thành hạ. Đẩy mạnh tiếp thị, mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi. Đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD. Phát triển đàn bò sữa khoảng 200.000 con, sản xuất 200.000 tấn sữa, giảm tỷ lệ nhập khẩu sữa từ 93% hiện nay xuống còn 70%. Lâm nghiệp: tăng diện tích trồng rừng, tiếp tục đẩy nhanh khoanh nuôi tái sinh rừng. Tập trung phát triển rừng kinh tế phục vụ chương trình sản xuất giấy và chế biến gõ. Đưa ngành sản xuất lâm nghiệp trở thành ngành quan trọng trong phát triển kinh tế miền núi. Phấn đấu xuất khẩu đạt 1 đến 1,5 tỷ USD/năm, nâng độ che phủ rừng lên 43% vào năm 2010. Thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn có lợi thế phát triển nhất. Thực hiện tốt song song cả 2 chương trình đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản. Tăng tỷ trọng sản lượng khai thác xa bờ, ổn định khai thác vùng gần bờ, duy trì sản lượng ở mức cho phép. Thực hiện đa dạng ohá sản phẩm nuôi trồng. Phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ chuyển một bộ phận lao động khai thác gần bờ sang nuôi trồng và làm dịch vụ. Khai thác và sử dụng có hiệu quả mặt nước, kể cả chuyển một phần đất sản xuất nông nghiệp hiệu quả thấp sang nuôi trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh nuôi ở biển, nước lợ, nước ngọt, tăng sản lượng nuôi trồng tương đương sản lượng khai thác . b. Phát triển kết cấu hạ tầng. Theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn là tổng thể những phương tiện vật chất và thiết chế làm nền tảng cho kinh tế xã hội nông thôn phát triển, bao gồm hạ tầng kinh tế - xã hội của toàn ngành nông nghiệp và nông thôn, của vùng và của thôn xã. Trong từng giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, sự phát triển nông nghiệp nông thôn dựa trên một kết cấu hạ tầng có trình độ phát triển nhất định. Vì vậy trong giai đoạn hiện nay việc phát triển kết cấu hạ tầng là tất yếu. Phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn nước ta giai đoạn hiện nay là: tập trung chủ yếu vào xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển nông thôn, các khâu này phải đi trước một bước bảo đảm cho sản xuất hàng hoá và phục vụ đời sống, sinh hoạt cho dân cư nông thôn cụ thể: Về thuỷ lợi: Tiếp tục phát triển theo hướng lợi dụng tổng hợp, khai thác theo lưu vực sống; cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất nuôi, thuỷ sản, du lịch, phòng chống thiên tai... trong nông nghiệp chuyển mạnh sang đầu tư làm thuỷ lợi phục vụ tưới cho cà phê, chè, mía đường, cây ăn quả, rau, nuôi trồng thuỷ sản... hiện đại hoá hệ thống đê sông Hồng, sông Thái Bình để chống được lũ ở mức thiết kế; xây dựng các hồ chứa thuỷ lợi tổng hợp ở miền Trung; kiểm soát lũ có hiệu quả ở đồng bằng sông Cửu Long để nâng cao hiệu quả phòng chống bão lũ và giảm nhẹ thiên tai. Về giao thông nông thôn: Đến năm 2005 có đường ôtô đến tất cả trung tâm xã. Tỷ lệ xã và huyện có mặt đường cứng đạt 80% trong đó bê tông hoá (mặt nhựa hoặc xi măng) đạt 30% đường giao thông nông thôn đi lại an toàn trong cả mùa mưa và khô; xoá bỏ 80% cầu khỉ và thay thế bằng cầu cứng các loại ở đồng bằng sông Cửu Long; phát triển giao thông phục vụ các trung tâm công nghiệp ở nông thôn và giao thông nội đồng, phổ biến các loại xe vận tải nhẹ (1,5 - 4 tấn). Về hệ thống điện: Đến năm 2010, 100% số xã được cung cấp điện lưới quốc gia hoặc bằng các nguồn tại chỗ khác (điện gió, điện mặt trời, điện chạy bằng xăng dầu, điện nhiệt, thuỷ điện nhỏ...) bảo đảm 90% số hộ nông dân được cung cấp điện lưới. Về phát triển các dịch vụ bưu chính viễn thông và các điểm văn hoá đến tất cả các xã; từng bước ứng dụng công nghệ thông tin cho nông nghiệp và nông thôn. Phát triển các thị xã, thị tứ, thị trấn trên địa bàn nông thôn để thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, văn hoá - xã hội. Đầu tư thoả đáng cho các vùng nghề, nhất là miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để đạt được mục tiêu công bằng xã hội. c. áp dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật vào lao động sản xuất. Sự xuất hiện các thành tựu khoa học công nghệ mới có tácđộng trực tiếp đến quá trình sản xuất nâng cao năng suất lao động, cho phép tạo sự phân công lao động mới. Đó cũng là yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng. Những thành tựu mới của cách mạng sinh học và việc ứng dụng các thành tựu đó vào sản xuất đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, khả năng thích nghi rộng góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Phương hướng cụ thể: áp dụng khoa học và công nghệ tiến bộ, thích hợp nhằm đạt yêu cầu tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, lama nghiệp, thuỷ sản, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời góp phần phát triển kinh tế nông thôn bền vững. áp dụng công nghệ sinh học để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng sức đề kháng cho cây trồng, vật nuôi, giảm chi phí sản xuất, tận dụng được các phế thải nông nghiệp. áp dụng công nghệ sản xuất giống cây trồng, các chủ lực như lúa, ngô, lạc, điều, bông, rau và một số loại cây ăn quả. Coi đây là hướng đột phá để tăng suất sinh học và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng chịu mặn, chịu phèn, chịu sâu bệnh, tăng khả năng chịu mặn, chịu phèn, chịu sâu bệnh, giàu prôtrin thích hợp ở các vùng khô hạn, phèn mặn. Công nghệ sinh học phục vụ cho chăn nuôi, trước tiên, nhằm chọn lựa nhân giống gia súc có năng suất và chất lượng cao như giống bò, lợn có năng suất thịt, sữa cao, tạo các nguồn có khối vi sinh có hàm lượng prôtrin cao đểlàm thức ăn cho gia súc. Sản xuất các loại thuốc thú y, các loại văcxin mới. Trong việc tạo giống vật nuôi, tăng cường áp dụng công nghệ di truyền phân tử, công nghệ gen. Việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép nắm bắt và xử lý nhanh các số liệu của thị trường, qua đó kịp thời nắm bắt thông tin giá cả trên thị trường. Việc phát triển mạng lưới vệ tinh khí tượng thuỷ văn cho phép thu nhận và dự báo trước về diễn biến địa chấn và môi trường sinh thái, có biện pháp xử lý kịp thời và hạn chế được thiên tai. Việc phát triển thông tin liên lạc trong và ngoài nước, giữa các vùng, địa phương, các cơ sở một cách rộng rãi nhằm nắm bắt kịp thời và đúng đắn, lưu thông, phân phối và tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt để quản lý điều chỉnh và cân đối trong quản lý vĩ mô và vi mô kinh tế nông thôn. Cơ khí hoá, điện khí hoá là một trong những quá trình của điện khí hoá nông thôn để giảm bớt lao động thủ công, nặng nhọc của người nông dân và tăng năng suất lao động. áp dụng sao cho có hiệu quả những công nghệ tiên tiến với quy mô, trình độ và các hình thức khác nhau. d. Hoàn thiện các chính sách kinh tế - xã hội ở nông thôn. Các chính sách kinh tế - xã hội luôn luôn có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đối với nông thôn những chính sách chủ yếu sau yêu cầu cần được quan tâm: Chính sách đất đai: chính sách đất đai nhằm cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai một cách lâu dài để người nông dân yên tâm đầu tư, thâm canh sử dụng có hiệu quả. Miễn giảm thuế sử dụng đất cho các đối tượng khác nhau, thúc đẩy tập trung ruộng đất. Chính sách tài chính tín dụng: đảm bảo cho người sản xuất được vay vốn với thủ tục đơn giản, quy mô vốn được vay tương đối lớn và tương đối dài với lãi suất hợp lý. Nâng cao tỷ trọng đầu tư cho phát triển công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ tương xứng với vai trò và vị trí của công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Chính sách mua bán vật tư và sản phẩm: phải hợp lý để người sản xuất sau khi trừ chi phí sản xuất có lãi để mở rộng sản xuất tránh tình trạng giá vật tư đầu vào cao còn giá bán sản phẩm lại thấp. Chính sách bảo trợ sản xuất: nhằm hỗ trợ người sản xuất gặp nhiều khó khăn do sự biến động thị trường giá cả trên thế giới và trong nước làm cho người sản xuất gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm với giá cả hợp lý. Chính sách đào tạo: khuyến khích những người sản xuất, đặc biệt là những nông dân nghèo có điều kiện học tập nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn đủ khả năng trình độ phát triển sản xuất. Chính sách khoa học và công nghệ: khuyến khích người sản xuất có điều kiện áp dụng ngày càng nhiều các tiến bộ khoa học và công nghệ như khoa học công nghệ về sinh học, thông tin, điện, cơ giới, thuỷ lợi... vào lao động sản xuất. Chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hoá: khuyến khích người sản xuất nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh và xuất khẩu ngày càng nhiều sản phẩm trên thị trường và thế giới. Ví dụ: chính sách thưởng xuất khẩu giá trị kim ngạch xuất khẩu tính theo từng mặt hàng xuất khẩu. e. Hoàn thiện việc tổ chức quản lý Nhà nước đối với nông thôn. Nhà nước quản lý nông thôn bằng một hệ thống công cụ quản lý trong đó nổi lên là các công cụ quản lý bằng pháp luật, bằng chính sách và kế hoạch hoá. Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính chất bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nói chung và nông thôn nói riêng. Hệ thống pháp luật của Nhà nước ban hành đều tác động đến nông thôn với mức độ và phạm vi khác nhau. Vì vậy, phương hướng xây dựng hệ thống pháp luật là: tiếp tục điều chỉnh hoàn thiện các luật đã ban hành và bổ sung những luật mới phù hợp với quá trình đổi mới của đất nước nói chung và nông thôn nói riêng theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Cùng với những luật đã ban hành, Nhà nước ban hành các văn bản để hướng dẫn thi hành luật. Nâng cao trình độ và ý thức hiểu biết vào chấp hành pháp luật trong các tổ chức và trong nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật và xử phạt nghiêm minh vi phạm pháp luật. Hệ thống chính sách là hệ thống các phương thức và các phương tiện đồng bộ nhằm phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng cao đời sống của nhân dân trong điều kiện nhất định với hiệu quả cao. Xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ. Những chính sách này vừa mang tính độc lập nhất định vừa mang tính xen kẽ bổ sung lẫn nhau nằm trong một hệ thống chính sách. Xây dựng hệ thống chính sách phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Chính sách kinh tế xây dựng theo hướng tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hoá đi vào tập trung hoá, chuyên môn hoá và thâm canh hoá sản xuất , áp dụng khoa học và công nghệ sinh vật để tăng năng suất, sản lượng và chất lượng có giá trị xuất khẩu cao. Kế hoạch hoá là công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước đối với kinh tế nói chung và đối với nông thôn nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường kế hoạch hoá cho phép Nhà nước điều tiết nền kinh tế để khai thác và sử dụng mọi tiềm năng và nguồn lực nhằm nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế, hạn chế được những biến động rủi ro và tận dụng được cơ may một cách chủ động. Hệ thống kế hoạch hoá trong thời gian tới phải phù hợp với thị trường; với điều kiện tự nhiên, kinh tế của vùng, địa phương; công tác kế hoạch hoá phải mang tính định hướng và đảm bảo tính linh hoạt. Xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nông thôn phải dựa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước; xây dựng các kế hoạch hoá hàng năm, quý, vụ, tháng nhằm cụ thể hoá, bổ sung và điều chỉnh kịp thời để thực hiện có kết quả kế hoạch dài hạn. g. Bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Môi trường sinh thái và bảo vệ cân bằng môi trường sinh thái đang là vấn đề được cả cộng đồng quốc tế quan tâm. Vấn đề môi trường không chỉ được đề cập trong các hoạt động ở khu vực thành thị mà cả nông thôn, không chỉ ảnh hưởng đến lĩnh vực đời sống mà còn tác động mạnh mẽ cả trong lĩnh vực sản xuất và phát triển kinh tế. Do vậy phát triển nông thôn, hiện đại hoá nông nghiệp và đô thị hoá nông thôn phải luôn tính đến việc bảo vệ và cải thiện môi trường. Quản lý môi trường bao gồm: quản lý các hoạt động khai thác tài nguyên, các hoạt động khai thác nông - lâm - ngư nghiệp, quản lý tài nguyên đất, quản lý và bảo vệ môi trường ở các vùng nông thôn và các tác nhân gây ô nhiễm môi trường là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Công tác này đòi hỏi sự tham gia, góp sức của tất cả các ngành, các cấp từ cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp đến toàn thể lực lượng quần chúng nhân dân. Việc xây dựng, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái ở nông thôn được tiến hành tốt trên 3 mặt: sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; xây dựng phát triển thị tứ, thị trấn, các cơ sở công nghiệp, dịch vụ; tổ chức lại điều kiện ăn ở và nếp sống trong gia đình ở nông thôn. h. Quy hoạch nông thôn. Quy trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân đã được khẳng định có hai khâu quan trọng làm tiền đề để xây dựng kế hoạch là: xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược và quy hoạch là căn cứ, phù hợp với nền kinh tế thị trường và đảm bảo quản lý vĩ mô của Nhà nước hay không chính là một nhân tố quan trọng phụ thuộc vào khâu xây dựng chiến lược và quy hoạch. Trong giai đoạn hiện nay xây dựng chiến lược và quy hoạch bao gồm: phân bổ lực lượng sản xuất; sắp xếp đất đai, lao động, các nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật để đạt đến một cơ cấu kinh tế lãnh thổ phát triển một cách cân đối, hợp lý. Đề xuất các bước đi, giải pháp thực hiện, phân công trách nhiệm trong tổ chức, chỉ đạo thực hiện và đề xuất các hướng đi hợp lý phối hợp hành động với các vùng lân cận và những vùng có quan hệ liên quan. 4. Giải pháp phát triển kinh tế nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một quá trình. Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào mức độ đầu tư vật chất, tài chính trong đó vốn đầu tư là tiền đề cần thiết quyết định quá trình chuyển dịch này. Nông thôn là một nơi có tiềm năng dồi dào nhưng nó không thể tự vươn lên được, không thể tự "cất cánh" được nếu không có sự tác động tích cực từ bên ngoài. Bất cứ một sự thay đổi quy mô hay công nghệ sản xuất đều đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Với ưu thế về vốn, trình độ quản lý, trang thiết bị, công nghệ và thị trường sẽ tạo nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế nông thôn. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước vấn đề đầu tư sẽ được thực hiện thông qua hệ thống chính sách tài chính tiền tệ. Đó là công cụ điều tiết của Nhà nước hướng vào mục tiêu kinh tế - xã hội. Đối với nước ta hiện nay chính sách tài chính phải đảm bảo khuyến khích dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, đồng thời vừa phải đảm bảo định hướng cho quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn thực hiện đúng và có hiệu quả. Để đạt được mục tiêu này cần tập trung vào hai lĩnh vực chủ yếu là đầu tư vốn ngân sách và sử dụng công cụ thuế một cách hợp lý nhất. Đối với chính sách tiền tệ đặc biệt là vấn đề đối tượng cho vay và lãi suất vay, đây cũng là vấn đề quan trọng trực tiếp tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Đại đa số dân cư nước ta có thu nhập thấp, họ không có đủ vốn để đầu tư cho sản xuất. Vì vậy muốn có vốn để mở rộng sản xuất họ phải đi vay. Để tránh tình trạng đi vay nặng lãi tất yếu phải có sự tác động của hệ thống tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để nông thôn được vay vốn với thủ tục đơn giản, thời gian vay và lãi suất vay hợp lý. Nói tóm lại tín dụng vừa làm chức năng vận chuyển tiền thành hàng hoá vừa làm chức năng phục vụ sản xuất hàng hoá. Ngoài tổ chức tín dụng Nhà nước cần mở rộng hình thức tín dụng khác của nông dân như: do nhiều hộ góp vốn vào để kinh doanh có hướng dẫn và kiểm soát của Nhà nước, cũng có thể tổ chức lại một số hình thức tín dụng hỗn hợp do nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Hiện nay các hướng đầu tư chính của nước ta là: sản xuất các sản phẩm phi nông nghiệp (trước hết là các hàng may, hàng thủ công truyền thống, các mặt hàng dân dụng..) trên cơ sở tận dụng nguồn lao động dồi dào trong nông thôn để vừa tạo ra sản phẩm tiêu dùng trong nước vừa vươn tơí xuất khẩu. Chế biến nông - lâm - hải sản trên cơ sở đổi mới trang thiết bị, cải tiến công nghệ nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá, hiệu quả kinh tế trong sản xuất. Từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hợp đồng tiêu thụ một số loại sản phẩm cho nông dân nhất là các đặc sản hay sản phẩm có thể xuất khẩu. Để thực hiện các hợp đồng các nhà đầu tư thị trường thường ứng trước cho nông dân một số vật tư, tiền vốn để sản xuất và sau đó là bao tiêu cho các sản phẩm đó... Để thu hút vốn đầu tư về nông thôn Nhà nước cần có chính sách thông thoáng, các địa phương bỏ bớt "lệ làng", tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư, mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp đầu tư cho mở rộng sản xuất. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và có hiệu quả cần phải có sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn. Vì vậy đầu tư và hỗ trợ thông qua các dự án phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn là rất cần thiết. Coi đây là khoản đầu tư để tạo ra môi trường kinh tế cho quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn. Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn cần tập trung vào: giao thông nông thôn, thông tin và bưu chính viễn thông nông thôn, xây dựng các thị trấn, thị tứ và các làng nông thôn văn minh hiện đại... Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn là nhân tố hết sức quan trọng góp phần hình thành các trung tâm, các tụ điểm giao lưu kinh tế và mở rộng sự trao đổi và buôn bán, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn sang sản xuất hàng hoá. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để nắm bắt được cơ hội của thị trường, để tiến hành tổ chức sản xuất, cung ứng các loại sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường. Kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển sẽ tạo ra một cuộc cách mạng mới về sản xuất, về cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác được lợi thế của từng vùng, từng địa phương hình thành sự phân công lao động mới góp phần cải thiện bộ mặt kinh tế và đời sống của dân cư nông thôn. Hiện nay ruộng đất của nước ta sản xuất nông nghiệp quá manh mún, có tới 72 triệu thửa ruộng cho trên 10 triệu hộ nông dân, bình quân hơn 7 thửa một hộ nhưng có hộ có tới 15-20 thửa ruộng. Theo luật đất đai Việt Nam tại hầu hết các địa phương, các hộ nông dân đang tiến hành chuyển đổi ruộng đất cho nhau. Cần kịp thời tổng kết kinh nghiệm chuyển đổi ruộng đất ở các địa phương để đưa ra các đáp ứng yêu cầu chuyển đổi ruộng đất nhằm đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất ở nông thôn và cần sử dụng đất theo hướng sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu của thị trường (như thị trường nguyên liệu cho công nghiệp, thị trường nông sản hàng hoá cho xã hội). Vì vậy đòi hỏi phải hình thành nên những vùng sản xuất tập trung, phát triển mạng lưới, thu gọn và phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở các địa phương. Cần phải nhanh chóng thực hiện việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân theo luật với đầy đủ 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê. Việc quản lý đất đai phải tuân thủ theo Luật đất đai và tập trung vào quản lý theo quy hoạch chung, khắc phục tình trạng về tranh chấp đất đai. Sự xuất hiện của các thành tựu khoa học công nghệ mới có tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cho phép tạo sự phân công lao động mới. Đó cũng là yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn. Những thành tựu mới của cách mạng sinh học và việc ứng dụng các thành tựu đó vào sản xuất đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, khả năng thích nghi rộng gó phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Phát triển và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới tạo ra khả năng nâng cao năng suất lao động công nghiệp, giải phóng một bộ phận lao động ra khỏi nông nghiệp, là cơ sở quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào công nghiệp chế biến cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Để phát triển và ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp nông thôn Nhà nước cần hỗ trợ việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản chế biến công nghệ thông tin... qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và khuyên công. Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp tiêu thụ, phát triển làng nghề ở nông thôn... Tập trung đầu tư nâng cao năng lực các Viện, Trung tâm nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ cho nông nghiệp và nông thôn. Nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định: " Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước". Vì vậy nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội nông thôn. Việc phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cần hướng vào hai vấn đề cơ bản là: nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn cho nguồn nhân lực và nâng cao thể lực nguồn nhân lực. Vì vậy cần phải cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo quốc dân phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự hoạt động của thị trường lao động. Tăng cường đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có cơ chế khuyến khích phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng được xã hội hoá đảm bảo đào tạo nghề cho 1 triệu lao động, đưa tỷ lệ được đào tạo nghề lên 30% vào năm 2010. Đồng thời, thực hiện các biện pháp nâng cao thể lực cho người lao động ở khu vực nông thôn bằng việc cải thiện các điều kiện dinh dưỡng, nhà ở và môi trường để nguồn nhân lực có sức khoẻ tốt đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung là nhằm mục đích sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu thị trường. Vì vậy giải quyết về thị trường là một trong những giải pháp quan trọng nhất để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có hiệu quả. Các giải pháp về thị trường cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Phải hình thành hệ thống thị trường đồng bộ và đảm bảo sự ổn định của thị trường; hình thành những thị trường từ trong nông thôn, biến những nơi này thành trung tâm công nghiệp, cụm công nghiệp thương mại, dịch vụ trong nông thôn; phải đầu tư và làm tốt công tác dự báo thị trường bao gồm cả thị trường trong nước và ngoài nước. Nâng cao sức mua của người nông dân bằng cách hướng dẫn, giúp đỡ nông dân đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị hàng hoá. Mở rộng thị trường trong nước vì thị trường nước ta có nhu cầu lớn, đa dạng, phong phú và đang tăng lên không ngừng. Đó là lợi thế mà nước ngoài muốn chiếm lĩnh. Vì vậy chúng ta phải vươn lên để đáp ứng, phải duy trì mở rộng không để nước ngoài lấn át. Đối với thị trường ngoài nước cũng phải xâm nhập, duy trì và mở rộng bằng nhiều giải pháp thích hợp như: phát triển hợp tác, tham gia hiệp hội ngành hàng, nâng cao chất lượng hàng hoá bằng cách tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ..., có chính sách khuyến khích ở tầm vĩ mô như: chính sách thuế xuất khẩu, bảo hộ sản phẩm xuất khẩu, cung cấp thông tin về thị trường... phù hợp với thông lệ quốc tế. Trên đây là một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế nông thôn, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đất nước theo mục tiêu đã định. C- Kết luận Tại Đại hội Đảng IX đã xác định mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống, vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao". Vì vậy phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, là điều kiện không thể thiếu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội IX của Đảng 2. Nghiên cứu kinh tế số 275 - tháng 4/2001 3. Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Số 9/2001 4. Báo cáo tổng kết 1999 của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 5. Tạp chí kinh tế và phát triển số 38 8/2000 6. Chính sách và các hình thức tổ chức sản xuất trong nông thôn nông thôn Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, Đại học Kinh tế Quốc dân 8/2000 Mục lục Trang Tên đề tài Sự cần thiết và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nhận xét của giáo viên: - Về lý luận: - Về thực tiễn: - Điểm:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35385.doc
Tài liệu liên quan