Cách mạng - bản thân khái niệm ấy đã chứa đựng trong nó tính sáng tạo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên một kỳ tích – thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám - tạo nên một bước ngoặt lịch sử - hiện thên của tính sáng tạo toàn diện và tiêu biểu. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã được ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trong những mốc son chói lọi và hào hùng nhất. Đó là thời khắc biểu thị độ chín thiên tài sáng tạo của một Đảng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Bác. Có thể nói khơi dậy và tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy đến cao nhất chủ nghĩa yêu nước, chủ động nắm bắt thời cơ, tập hợp lực lượng đủ mạnh và biết chọn các loại hình tổ chức thích hợp, giành thắng lợi từng phần tiến đến thắng lợi hoàn toàn là đỉnh cao của sự sáng tạo trong Cách mạng Tháng Tám.
Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng gồm 70 năm qua trên đất nước ta - Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đứng ở vị trí trung tâm của các sự kiện lịch sử vĩ đại, của các biến đổi cách mạng sâu sắc và là người tổ chức và lãnh đạo duy nhất mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sở dĩ có được vinh quang đó là vì:
Đảng là đại biểu trung thành và đầy đủ lợi ích sống còn và nguyện vọng chân chính của giai cấp công nhân, của nhân dân lãnh đạo và của cả dân tộc Việt Nam. Ngoài việc phục vụ nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục đích, lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đảng luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt động của mình, quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân, phải lấy dân làm gốc" Đảng ta luôn luôn tự nhắc nhở rằng tệ quan liên, thời cửa quyền làm cho Đảng xa dời quần chúng và làm suy yếu Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một nguy cơ lớn mà Đảng cầm quyền cần phải tránh. Biện pháp có hiệu lực để thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng là tổ chức cho quần chúng trực tiếp tham gia xây dựng Đảng.
Đảng biết nắm vững và vận dụng sáng tạo cách mạng Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ra đường lối chủ trương độc lập tự chủ, đúng đắn. Cách mạng là sáng tạo, chân lý cụ thể. Quán triệt quan điểm đó Đảng luôn luôn có ý thức vận dụng một cách độc lập và sáng tạo Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, có ý thức kế thừa di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, sản phẩm trí tuệ vào việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác Lênin với thực tiễn đất nước và tinh hoa truyền thống dân tộc, chú trọng kết hợp hài hòa lợi ích cách mạng nước ta với lợi ích cách mạng thế giới, học tập có phê phán kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế. Nhờ đó mà Đảng đề ra được nhiều đường lối chủ trương và chính sách sát hợp, cho phép giải quyết đúng đắn các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra.
18 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2635 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng cách mạng, chọn đúng thời cơ khởi nghĩa của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh cho thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền thống đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất, Dân tộc Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước, đã chiến thắng bao kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đầu thế kỉ XIX, trong quá trình đi xâm lấn, mở rộng thuộc địa, tư bản phương Tây đã để ý tới nước ta. Năm 1958, đế quốc Pháp nổ súng xâm lược nước ta, Triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Pa-Tơ -Nốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó chúng ta là thuộc địa của chúng, cũng kể từ đó nhân dân ta chịu đựng bao đau khổ, lầm than dưới sự bóc lột tận cùng của thực dân Pháp đã làm hằn sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam ý chí kiên cường.
Bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của Cách mạng Việt Nam. Từ đây, Cách mạng Việt Nam đã có đội Tiên phong, bộ tham mưu cầm ngọn cờ lãnh đạo đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Cách mạng tháng Tám là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nó đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm và của phát xít Nhật đồng thời nó còn lật đổ chế độ Phong kiến tồn tại ngót ngàn năm trên đất nước ta.
Khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đưa nước ta từ một dân tộc nô lệ, bị áp bức bóc lột trở thành một đất nước dành độc lập, có chủ quyền. Từ một nước không có tên trong bản đồ thế giới nay có thể tự hào với thế giới về đất nước mình.
Cuộc cách mạng Tháng Tám mở ra cho dân tộc Việt Nam một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Để hiểu sâu sắc về cuộc cách mạng tháng Tám 1945, và sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng em xin chọn đề tài “Sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng cách mạng, chọn đúng thời cơ khởi nghĩa của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám”.
Phần I- Quá trình chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng tám năm 1945
Cao trào Cách mạng 1930 –1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ không phải là hiện tượng tự nhiên, mà là kết quả tất yếu của những điều kiện khách quan và chủ quan trong đời sống xã hội của nước ta.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã chấm dứt thời kỳ ổn định của Chủ nghĩa Tư bản, gây nhiều khó khăn cho Chủ nghĩa Tư bản, vì vậy chúng trút gánh nặng cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các quốc gia và các thuộc địa, tình hình nói trên là nguyên nhân chính và trực tiếp của phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi trên thế giới.
Việt Nam là thuộc địa của Pháp, khủng hoảng kinh tế thế giới và ở chính nước Pháp đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Nước Pháp bị khủng hoảng kinh tế muộn hơn các nước tư bản khác trên thế giới nhưng lại bị sụp đổ nhanh chóng và ngiêm trọng, bởi vậy chúng đã trút tất cả gánh nặng lên giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp và các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam. Bọn thống trị Pháp ra sức bóc lột nhân dân ta làm cho đời sống nhân dân bị đe doạ, điều kiện sống vô cùng khổ cực từ đó đã thúc đẩy nhân dân ta, vùng dậy đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Việc Đảng ra đời là nhân tố quyết định và là nguyên nhân trực tiếp nổ ra cao trào cách mạng 1930-1931. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 4-1930 nhiều cuộc bãi công của công nhân đã nổ ra, phong trào đấu tranh của nông dân cũng lan rộng ở nhiều tỉnh, Phong trào thật sự lớn mạnh bắt đầu từ ngày 1-5, từ nhiều thành phố đến nông thôn trên cả nước đã xuất hiện nhiều truyền đơn, treo cờ Đảng, mít tinh, biểu tình, bãi công. Đặc biệt ở Nghệ An và Hà Tĩnh, lực lượng cách mạng ở nhiều huyện xã đã tự đứng ra quản lý lấy đời sống của mình, đó là một kiểu chính quyền cách mạng của nhân dân theo hình thức Xô Viết.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng của Đảng ta đề ra là đúng đắn, nó đã được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ.
Nó khẳng định trong thức tế quyền lãnh đạo và năng lực của cách mạng, của giai cấp công nhân mà đại biểu là Đảng ta.
Cao trào cách mạng 1930-1931 và phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh nổ ra là cuộc Tổng diễn tập đầu tiên của Cách mạng Việt Nam để tiến hành giành chính quyền trong cả nước. Cao trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm bước đầu về cách mạng. Đó là bài học về kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, về việc kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân.
2. Cao trào dân chủ đông dương 1936-1939:
a. Hoàn cảnh lịch sử
Trên thế giới, chủ nghĩa phát xít -một nền chuyên chính độc tài nhất, tàn bạo nhất, hiếu chiến và sôvanh nhất của bọn tư bản tài chính phản động đã ra đời ở một số nước và có nguy cơ nổ ra chiến tranh phát xít trên phạm vi thế giới.
Trước tình hình đó “Quốc tế Cộng sản họp lần thứ IV ”(tháng 7-1935) chống lại nguy cơ phát xít trên thế giới. Quốc tế Cộng sản đã phân tích tình hình thế giới và đi đến kết luận :
“Kẻ thù nguy hiểm trước mắt lúc này là bọn phát xít, nhiệm vụ chủ yếu lúc này là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình”.
Khi đó ở Việt Nam, bọn cầm quyền tay chân của bọn phát xít Pháp ra sức khủng bố, đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, tình hình đó làm cho nhân dân bao gồm nhiều giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau nhưng đều căm thù sâu sắc bọn thực dân, Tư bản độc quyền Pháp và đều có nguyện vọng chung trước mắt về những quyền lợi dân sinh, dân chủ. Cũng trong giai đoạn này phong trào cách mạng đã được phục hồi sau thời kỳ khủng bố tàn bạo của kẻ thù. Các cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng đã được khôi phục, phát triển và đẩy mạnh hoạt động.
b. Sự lãnh đạo của Đảng
Tháng 7 năm 1936, Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị nhận định: Nhiệm vụ cơ bản của Cách mạng tư sản dân quyền (chống đế quốc, chống phong kiến để dành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân) không hề thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp trong lúc này. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của quần chúng nhân dân lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Do đó, Đảng phải lãnh đạo thành lập mặt trận Dân chủ rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các tôn giáo, các đảng phái. Các đoàn thể chính trị… tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt là chủ nghĩa phát xít và bọn phản động thuộc địa để bảo vệ hoà bình, đòi thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân.
c. Hình thức và phương thức đấu tranh
Phải triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức quần chúng đồng thời củng cố và phát triển các tổ chức bí mật của Đảng. Kết hợp với những hoạt động công khai hợp pháp với hoạt động không hợp pháp, làm cho Đảng liên hệ chặt chẽ với đông đảo quần chúng và tổ chức họ ra đấu tranh để dành chính quyền dân chủ. Như vậy, những vấn đề Đảng nêu ra là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn lúc đó, nhờ đó mà phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển sôi nổi, rộng khắp và trở thành cao trào cách mạng.
d. ý nghĩa lịch sử và thành quả của phong trào
Cao trào dân chủ 1936-1939, có thể coi như cuộc tổng diễn tập lần thứ hai của Cách mạng Việt Nam, chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 bởi vì:
Cao trào dân chủ 1936-1939 nói lên sức sống mãnh liệt của Đảng và của nhân dân ta, sau thời kỳ thoái trào, sau đợt khủng bố tàn bạo của kẻ thù đã nhanh chóng khôi phục được lực lượng và phát triển được phong trào trên quy mô lớn.
Cao trào dân chủ 1936-1939, do Đảng lãnh đạo đã đem lại cho nhân dân ta những thắng lợi cụ thể nhất định, đã buộc giai cấp thống trị phải thực hiện ít nhiều quyền tự do, dân chủ và cải thiện đời sống cho nhân dân. Đây là điều hiếm có trong các thuộc địa đế quốc. Qua thắng lợi đó đã làm cho nhân dân ta tin tưởng và đoàn kết dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. Nếu cao trào 1930-1931, chủ yếu là phong trào của quần chúng công nông, thì cao trào dân chủ 1936-1939, là cao trào cách mạng của đông đảo các lớp quần chúng tham gia, trong đó công nông là cơ sở, với nhiều hình thức hoạt động, đấu tranh phong phú.
3. Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
a. Chính sách cai trị của Pháp
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chiến tranh thế giới thứ hai có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta. Chính phủ Pháp thực hiện chính sách đàn áp các lực lượng Cộng sản và tiến bộ ở trong nước và ở các nước thuộc địa. ở Đông Dương thực dân Pháp điên cuồng tấn công Đảng Cộng Sản Đông Dương và các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo. Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt cuối tháng 9-1939. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt giam, tù đày. Hàng vạn thanh niên bị đưa sang Pháp. Thực dân Pháp tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho quốc phòng, kiểm soát trực tiếp, gắt gao sản xuất và phân phối, xuất khẩu và nhập khẩu. Trừ bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn và tư sản mại bản tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại bởi chính sách phản động của Pháp.
b. Chủ trương, sách lược mới của Đảng
Một tháng sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, ngày 29-9-1939 Trung ương Đảng gửi thông cáo cho các cấp bộ Đảng, vạch rõ cách mạng Đông Dương sẽ tiến đến mục tiêu giải phóng dân tộc, chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời rút vào bí mật và chuyển hướng hoạt động.
* Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (11-1939)
Tháng 11-1939, Ban Chấp hành TW đã họp tại Hoóc Môn, có các đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu… tham dự. Hội nghị nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít quân phiệt tàn bạo, mâu thuẫn chủ yếu gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương; dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng Đông Dương hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động, chống tố cáo, chống lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền XôViết công nông binh bằng khẩu hiệu lập Chính phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định thành lập mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương bao gồm lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ. Về phương pháp cách mạng, Hội nghị nêu ra một số chuyển hướng về tổ chức, xây dựng các đoàn thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng vào đế quốc và tay sai, “chuẩn bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc". Hội nghị đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ.
Đêm 27-9-1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy chiếm đồn Mỏ Nhài. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã giành được thắng lợi nhanh chóng nhưng ngay sau đó đã bị đàn áp. Đó là tín hiệu mở đầu cao trào giải phóng của các dân tộc Đông Dương, mở đầu thời kỳ cách mạng nước ta kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị.
*Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940)
Từ ngày 6 đến 9-11-1940 Hội nghị TW Đảng họp tại Bình Bảng, Từ Sơn Bắc Ninh có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt tham dự. Hội nghị khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị TW Đảng tháng 11-1939; xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát xít Nhật và Pháp. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, phân công đồng chí Trường Chinh làm Quyền Bí thư Trung ương Đảng, quyết định chắp nối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ở ngoài nước. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp bách:
- Một là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới lập căn cứ địa du kích, lấy Bắc Sơn-Vũ Nhai làm trung tâm.
- Hai là, chỉ thị cho xứ uỷ Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện bảo đảm cho khởi nghĩa thắng lợi.
Quyết định chưa được truyền đạt tới Xứ uỷ Nam Kỳ thì ngày 23-11-1940 cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra. ở hầu khắp các tỉnh miền Nam, quần chúng nổi dậy đấu tranh dũng cảm, tiêu biểu là ở Mỹ Tho. Chính quyền của địch ở một số xã, quận tan rã. Chính quyền cách mạng được thành lập, thực hiện một số cải cách dân chủ, dân sinh bảo vệ trị an, xét xử bọn phản động. Lần đầu tiên, Cờ đỏ sao vàng xuất hiện tại một số vùng ở Mỹ Tho và Vĩnh Long. Cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp rất dã man. Gần 6000 người bị bắt và bị giết. Nhiều làng mạc bị ném bom và đốt phá. Một số đồng chí lãnh đạo của Đảng bị bắt và bị xử bắn trước cuộc khởi nghĩa.
Ngày 13-1-1941, binh lính yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Cung đã nổi dậy đánh chiếm đồn Chợ Rạng, kéo về Đô Lương, rồi tiến về Vinh. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt.
Trong vòng ba tháng, ba cuộc khởi nghĩa diễn ra ở cả ba miền Bẵc, Trung, Nam, đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu về khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị ban chấp hành TW Đảng (tháng 5-1941) nhận định: đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương. Kinh nghiệm lớn nhất của các cuộc khởi nghĩa trên là muốn khởi nghĩa thành công phải co đầy đủ các điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi, trên cơ sở cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế diễn ra trong bộ máy thống trị của chủ nghĩa đế quốc và dựa vào cao trào câch mạng đã dâng lên trong cả nước.
*Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941)
Đầu năm 1940, Đồng chí Nguyễn ái Quốc bắt liên lạc với Đảng và chuẩn bị về nước. Ngày 28-1-1941 Người trở về Tổ quốc và ngày 8-2-1941, Người tới Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng).
Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Hội nghị ban chấp TW Đảng đã họp tại Bắc Bó do Đồng chí Nguyễn ái Quốc chủ trì. Từ sự phân tích diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.
Hội nghị khẳng định tính chất đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị TW tháng 11-1939, tập trung mũi nhọn chống đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ, sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp-Nhật, sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Hội nghị quyết định thay tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.
Hội nghị xác định hình thái của khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân.
Hội nghị đưa ra dự báo: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước mới thành công.
Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng, chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng cán bô lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự; tăng thành phần vô sản trong Đảng. Hội nghị đề ra nhiệm vụ giúp đỡ các Đảng bộ Campuchia, Lào và cử ra Ban chấp hành TWchính thức, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
Hội nghị TW Đảng tháng 5-1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy. Cùng với nghị quyết hội nghị TW tháng 11-1939, nghị quyết hội nghị TW tháng 5-1941 có ý nghĩa quyết định đỗi với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
c. Xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền
* Xây dựng lực lượng chính trị
Ngày 6-6-1941, Đồng chí Nguyễn ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi Nhật-Pháp, chỉ ra điều kiện quan trọng để giành chính quyền "Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết".
Cuối tháng 10-1941, Việt Nam Độc lập Đồng minh công bố tuyên ngôn, chương trình và điều lệ. Từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, tự vệ cứu quốc... đã được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng. ở Cao Bằng xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh. ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Việt Minh phát triển mạnh mẽ tại nhiều vùng nông thôn và thị xã.
* Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng
Đảng rất chủ trọng xây dựng các khu an toàn và căn cứ điạ, lập các đội tự vệ vũ trang. Trung đội cứu quốc quân hình thành từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, hoạt động tại Vũ Nhai đã bám sát quần chúng, tiến hành cuộc chiến đấu gian khổ trong 8 tháng, phá được cuộc càn quét quy mô lớn của địch (từ giữa năm 1941). Thông qua mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương ở ngay các trung tâm kinh tế, chính trị.
Để đẩy tới công việc chuẩn bị khởi nghĩa, cuối tháng 2-1943 Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Hội nghị chủ trương mở rộng mặt trận Việt Minh, liên minh với tất cả các Đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh; đẩy mạnh công tác vận động thanh niên, phụ nữ, dân tộc thiểu số và binh lính, chú ý vận động tư sản, địa chủ yêu nước; lập hội Văn hoá cứu quốc.
Hội nghị vạch ra kế hoạch cụ thể về chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phổ biến kinh nghiệm khởỉ nghĩa và chiến thuật du kích, tổ chức huấn luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, công tác vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.
Hội nghị nêu rõ, để làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới, phải làm cho Đảng mạnh mẽ và "bônsêvích hoá" vì chính sách lập mặt trận của Đảng càng rộng rãi thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải vững chắc.
Trong hai năm 1943-1944, phong trào cách mạng ở hai miền Bắc, Trung có bước phát triển mới, ở miền Nam được phục hồi. Tổ chức Việt Minh mở rộng ở các thành thị và nông thôn. Trên cơ sở cao trào cách mạng của quần chúng, từ hai căn cứ địa trung tâm Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai nhiều căn cứ địa liên hoàn đã hình thành nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên. Nhiều đội du kích thoát ly ra đời.
* Chuẩn bị về mặt văn hoá, tư tưởng
Trên mặt trận văn hoá tư tưởng, Đảng ta cũng thu được nhiều thành tựu. Nhiều sách báo của Đảng và Mặt trận Việt Minh được xuất bản. Năm 1943, Đảng đưa ra đề cương văn hoá Việt Nam, vũ trang cho toàn Đảng và những người hoạt động văn hoá yêu nước phương hướng chống lại văn hoá phát xít và phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Hội văn hoá cứu quốc ra đời. Tháng 6-1944, Đảng dân chủ Việt Nam, tập hợp trí thức yêu nước và tư sản tiến bộ được thành lập và gia nhập Mặt trận Việt Minh.
Đầu tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị "Sửa soạn khởi nghĩa". Cuối năm 1944, phong trào cách mạng sôi sục ở nhiều địa phương. ở các căn cứ địa cách mạng, quần chúng đã sẵn sàng nổi dậy. Tháng 10-1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét ở vùng Võ Nhai (Thái Nguyên), đáng lẽ cấp ủy địa phương phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống khủng bố nhưng lại phát động khởi nghĩa vì vậy bị nhiều thiệt hại.
Tháng 7-1944, Liên tỉnh uỷ Cao-Bắc-Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong liên tỉnh. Tháng 10-1944, từ Trung Quốc về tới Bắc Bó, đồng chí Hồ Chí Minh đã quyết định hoãn chủ trương của liên tỉnh uỷ vì điều kiện chưa chín muồi. Ngay sau đó, Người đề ra chủ trương thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tăng cường hoạt động vũ trang tuyên truyền, đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng chính trị, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo được thành lập. Vài ngày sau, đội đã đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt, Nà Ngần, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đánh Nhât, đuổi Pháp.
Phần II- Sự lựa chọn đúng thời cơ của Đảng và chủ tịch Hồ Chí minh
Cùng với sự chuẩn bị chu đáo trong suốt 15 năm (1930-1945) cả về lực lượng và tinh thần Cách mạng Đảng cũng đã chớp đúng thời cơ tạo nên chiến thắng cho cách mạng.
Thời cơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những điều kiện trong nước và bên ngoài, trong đó điều kiện bên trong giữ vai trò quyết định. Trong bất kì trò quyết định một cuộc chiến đấu nào thời cơ tiến công là vô cùng quan trọng. Việc xác định, nắm bắt và phát huy triệt để thời cơ có thể làm nên thắng lợi quyết định, xoay chuyển và làm thay đổi hoàn toàn cục diện chiến tranh. Trong lịch sử chúng ta đã chứng kiến nhiều sự tận dụng thời cơ để giành lấy thắng lợi quyết định như trong CM Tư sản Pháp (1979), cách mạng tháng 10 ở Liên Xô (1917) trong đó trận đại thắng Stalingrat đã làm thay đổi cục diện chiến tranh thế giới. Dân tộc Việt Nam có truyền thống dựng nước và giữ nước nên trong những cuộc chiến đấu với kẻ thù cha ông ta luôn biết cách tận dụng triệt để thời cơ chiến thắng kẻ thù.
Cách mạng Tháng Tám là cuộc tổng khởi nghĩa của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi nhanh chóng trong vòng 15 ngày, trong đó nắm bắt thời cơ hành động là một nhân tố hết sức quan trọng để làm nên chiến thắng. Chúng ta đã thực hiện thời cơ với một quyết tâm rất cao, Hồ Chủ Tịch kêu gọi:
“ Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Câu nói đó của Bác vừa thể hiện thời cơ đã đến và quyết tâm giành độc lập của người dân Việt Nam. Thực tiễn đã chứng minh điều đó.
1. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy giành chính quyền. Từ ngày 14-8, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 18-8, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hoà giành chính quyền ở tỉnh lỵ.
Ngày 17-8, đông đảo nhân dân thành phố Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của mặt trận Việt Minh, đã biến cuộc mít tinh chính quyền bù nhìn ở Nhà hát lớn thành cuộc mít tinh và diễu hành của nhân dân ta, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Theo chủ trương "sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện" của Trung ương, căn cứ thực tế diễn biến ngày 17-8, đêm 17-8, Xứ uỷ Bắc Kỳ cùng với thành uỷ Hà Nội quyết định tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vào ngày 19-8-1945. Sáng 19-8, hàng chục vạn quần chúng nội thành và ngoại thành Hà Nội về quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc míttinh do Việt Minh tổ chức, hô vang các khẩu hiệu:
- Đả đảo chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim!
- Thành lập Chính phủ Cộng hoà nhân dân Việt Nam!- Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh!
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
Sau cuộc míttinh, quần chúng xuống đường biểu tình vũ trang, tiến về các ngả đường đánh chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn, trước hết là phủ Khâm sai, toà thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát. Bạo lực cách mạng và khí thế sục sôi khởi nghĩa của quần chúng đã buộc ngụy quyền đầu hàng và buộc quân Nhật phải để cho nhân dân giành chính quyền làm chủ toàn bộ thành phố.
Thắng lợi của tổng khởi nghĩa ngày 19-8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác nổi dậy giành chính quyền, nhất là Huế và Sài Gòn.
Ngày 23-8, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh uỷ Thừa Thiên, 150.000 nhân dân thành phố Huế và các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy chiếm các công sở của nguỵ quyền triều đình Huế và buộc vua Bảo Đại phải đầu hàng bằng hình thức thoái vị. Chiều 30-8 trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc míttinh hàng vạn người tham gia, vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Đại diện chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố xóa bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam .
Khi được tin Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế thắng lợi, Đảng bộ miền Nam quyết định chọn ngày 25-8 làm ngày khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh còn lại. Ngày 25-8, hơn 1 triệu nhân dân thành phố Sài Gòn và các tỉnh chung quanh biểu tình tuần hành thị uy, hô vang các khẩu hiệu:
- Đả đảo bù nhìn Nguyễn Văn Sâm!
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
- Tất cả chính quyền về tay Việt Minh!
- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
Nhân dân khởi nghĩa chiếm sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện, các bốt, các quận, sở mật thám Catina… ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù đã lãnh đạo 10.000 chiến sỹ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền làm chủ trên đảo.
Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã thành công trên cả nước trong vòng nửa tháng. Ngày 2-9-1945, trong cuộc míttinh lớn của gần 1 triệu người tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố với nhân dân ta và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà độc lập, tự do và khẳng định quyết tâm sắt đá "toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Kể từ đó, ngày 2-9 trở thành ngày Quốc khánh của nước ta.
2. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng
Để đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) đến thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, có ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của đảng ta: đó là các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc; những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước; quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị đảng toàn quốc.
Các Hội nghị Trung ương đảng (11-1939), (11-1940) và nhất là Hội nghị Trung ương VIII (5-1941) đã đề ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Trung ương 11-1939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên". "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập" (2).
Hội nghị Trung ương VIII do Hồ Chí Minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của đảng ta" (3). "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" (4).
Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội nghị Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thì Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập Mặt trận riêng của Việt Nam đó là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và bao gồm các đoàn thể cứu quốc. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách đưa quan điểm, chính sách vào các đoàn thể và hoạt động của Mặt trận và thông qua các đảng viên tham gia Mặt trận và đoàn thể.
Ba là, đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Đảng chủ trương phát triển lực lượng vũ trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng chính trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề về chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt ra và thực hiện ở vùng căn cứ địa cách mạng.
Bốn là, Đảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị Trung ương (11-1939) đó chủ trương: dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể "lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc Tổng khởi nghĩa to lớn"(5).
Các hội nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích tình hình chiến tranh thế giới, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng Đảng để đảng có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đó phát triển mạnh mẽ, Đảng và Mặt trận Việt Minh đã chủ trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm vũ khí đuổi thù chung. Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh. Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944).
Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch sử: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945).
Chỉ thị nêu rõ kẻ thù của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là đánh đuổi phát-xít Nhật. Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Đây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp. Sẵn sàng chuyển sang Tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời cơ cách mạng và cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù hoang mang không rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng căm giận quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết liệt; đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương để đánh Nhật. Đó là sự vận dụng tư tưởng của Mác và Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang phối hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều kiện để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đó là định hướng quan trọng để các Đảng bộ địa phương chủ động phát động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị cũng chủ trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Tháng 4-1945 các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 4-6-1945, thành lập khu giải phóng Việt Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ địa của cách mạng cả nước, hình ảnh của nước Việt Nam mới. Tổ chức Việt Minh phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở căn cứ địa, ở vùng nông thôn mà phong trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là phong trào công nhân, học sinh, sinh viên trí thức. Theo tư tưởng của đề cương văn hóa 1943 của Đảng, tổ chức văn hóa cứu quốc đã tập hợp đông đảo các nhà văn hóa vào trận tuyến đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên Quang. Tại Tân Trào (Tuyên Quang) đó diễn ra Hội nghị toàn quốc của đảng họp ngày 14 và 15-8-1945. Hội nghị của Đảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào cách mạng của toàn dân ta diễn ra sôi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô điều kiện (15-8). Đảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới" (6). Mục đích cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: a) Tập trung-tập trung lực lượng vào những việc chính; b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu đấu tranh của đảng là Phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Hội nghị đảng toàn quốc công bố mười chính sách của Việt Minh và nhấn mạnh chủ trương "Lập nên một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập" (7). Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(8).
Ngày 16-8-1945, Quốc dân đại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn quốc và thi hành mười chinh sách lớn của Việt Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thường trực Ủy ban gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Ủy ban Dân tộc giải phóng là tổ chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Nghị quyết của Quốc dân đại hội nhấn mạnh mục tiêu: "Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập"(9).
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc dân đại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Khi nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng, cần phải thấy rõ tinh thần trách nhiệm cao, sự năng động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương, tức các xứ ủy, tỉnh ủy, huyện ủy và tổ chức Đảng ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa xôi, điều kiện liên lạc khó khăn đã thể hiện điều đó. Vai trò của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, của các Đảng viên kiên trung của Đảng, từ người lãnh đạo cao nhất đến người Đảng viên ở cơ sở, đã bảo đảm cho đảng sự lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất. Bài học về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám là Đảng đã đề ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, đã tập hợp đoàn kết rộng rãi lực lượng của toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, đã lựa chọn và kết hợp đúng đắn các hình thức tuyên truyền, tổ chức và phương pháp đấu tranh thích hợp tạo nên sức mạnh tổng hợp, đó xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, thúc đẩy phong trào, đồng thời dự kiến và chớp đúng thời cơ hành động. Trong việc thực hiện sứ mệnh nặng nề trước dân tộc và lịch sử, Đảng đã rất coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị và tổ chức, rèn luyện phương pháp đấu tranh và cách lãnh đạo. Trong Cách mạng Tháng Tám đã nổi bật năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là bài học quý báu cho nhiệm vụ xây dựng đảng hiện nay và thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay.
Do chưa nhận thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc của Cách mạng Tháng Tám nên một số học giả nước ngoài đã không thấy hết vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng, cuộc cách mạng này nổ ra là do có "sự ăn may", do lúc đó ở Đông Dương có "khoảng trống quyền lực" (Pháp chạy, Nhật hàng, quân Đồng Minh chưa tới) nên Việt Minh mới dễ dàng giành thắng lợi.
Một sự thật hiển nhiên mà nhiều nhà khoa học đã chứng minh là, trong hơn 80 năm đấu tranh chống thực dân Pháp, hàng chục cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt của nhân dân Việt Nam nổ ra nhưng vẫn chưa giành được thắng lợi. Nguyên nhân chủ yếu là do các cuộc đấu tranh đó chưa có một giai cấp tiền phong lãnh đạo, chưa có lý luận cách mạng soi đường, cũng như chưa có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, đủ sức giành thắng lợi trước những kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát-xít. Nhưng, còn một sự thật lịch sử nữa phải được làm rõ là, muốn đưa cách mạng đến thành công, không chỉ cần có một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mà còn cần có một đảng biết vượt qua bao thử thách, gay go, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm để từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược.
3. Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ máu
Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành công, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên thế chủ động chiến lược. Đến nay, nhiều người mới rõ, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đó dự đoán: năm 1945, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ thành công. Chương trình cứu nước của Việt Minh ra đời từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), đã đến tay những chiến sỹ cách mạng ở các địa phương, kể cả sự truyền miệng qua các lao tù. Khi thời cơ đến, khắp nơi đều chủ động đứng lên giành chính quyền địa phương, như các chiến sỹ Ba Tơ đã nổi lên phá ngục tự, lập căn cứ địa cách mạng ngay sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945). Trong Cao trào tiền khởi nghĩa, nhiều xã, huyện và một số tỉnh đã giành được chính quyền trước ngày giành chính quyền ở Hà Nội. Phương châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nắm đúng thời cơ để nổi dậy đã góp phần quyết định vào việc giành được chính quyền ít phải đổ máu. Đây là cả một cuộc đấu trí, đấu dũng của cách mạng Việt Nam với bọn đế quốc, phát-xít. Nếu cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, sẽ bị bọn phát-xít Nhật dập tắt; nếu nổ ra muộn hơn - khi quân Đồng Minh, trong đó có Anh, Pháp và Tàu (Tưởng) vào, thì cũng gặp khó khăn. Việc Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam nhân danh là người đứng về phía Đồng Minh chống phát-xít giành được quyền độc lập, đã nói lên tài vận dụng chiến lược của cách mạng Việt Nam: nắm đúng thời cơ, nổi dậy kịp thời, giành được chính quyền.
Như trên đã chứng minh, mặc dù có thuận lợi khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan mới là nguyên nhân quyết định sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đó là do có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng. Nói cách khác, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối chiến lược, sách lược chủ động và sáng tạo của Đảng.
Kết Luận
Cách mạng - bản thân khái niệm ấy đã chứa đựng trong nó tính sáng tạo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên một kỳ tích – thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám - tạo nên một bước ngoặt lịch sử - hiện thên của tính sáng tạo toàn diện và tiêu biểu. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã được ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trong những mốc son chói lọi và hào hùng nhất. Đó là thời khắc biểu thị độ chín thiên tài sáng tạo của một Đảng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Bác. Có thể nói khơi dậy và tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy đến cao nhất chủ nghĩa yêu nước, chủ động nắm bắt thời cơ, tập hợp lực lượng đủ mạnh và biết chọn các loại hình tổ chức thích hợp, giành thắng lợi từng phần tiến đến thắng lợi hoàn toàn là đỉnh cao của sự sáng tạo trong Cách mạng Tháng Tám.
Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng gồm 70 năm qua trên đất nước ta - Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đứng ở vị trí trung tâm của các sự kiện lịch sử vĩ đại, của các biến đổi cách mạng sâu sắc và là người tổ chức và lãnh đạo duy nhất mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sở dĩ có được vinh quang đó là vì:
Đảng là đại biểu trung thành và đầy đủ lợi ích sống còn và nguyện vọng chân chính của giai cấp công nhân, của nhân dân lãnh đạo và của cả dân tộc Việt Nam. Ngoài việc phục vụ nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục đích, lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đảng luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt động của mình, quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân, phải lấy dân làm gốc" Đảng ta luôn luôn tự nhắc nhở rằng tệ quan liên, thời cửa quyền làm cho Đảng xa dời quần chúng và làm suy yếu Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một nguy cơ lớn mà Đảng cầm quyền cần phải tránh. Biện pháp có hiệu lực để thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng là tổ chức cho quần chúng trực tiếp tham gia xây dựng Đảng.
Đảng biết nắm vững và vận dụng sáng tạo cách mạng Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ra đường lối chủ trương độc lập tự chủ, đúng đắn. Cách mạng là sáng tạo, chân lý cụ thể. Quán triệt quan điểm đó Đảng luôn luôn có ý thức vận dụng một cách độc lập và sáng tạo Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, có ý thức kế thừa di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, sản phẩm trí tuệ vào việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác Lênin với thực tiễn đất nước và tinh hoa truyền thống dân tộc, chú trọng kết hợp hài hòa lợi ích cách mạng nước ta với lợi ích cách mạng thế giới, học tập có phê phán kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế. Nhờ đó mà Đảng đề ra được nhiều đường lối chủ trương và chính sách sát hợp, cho phép giải quyết đúng đắn các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra.
Mục lục
Phần
Trang
Mở đầu
1
Phần I: Quá trình chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng tám năm 1945
1. Cao trào Cách mạng 1930 –1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh
2
2. Cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939
2
3. Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
4
Phần II- Sự lựa chọn đúng thời cơ của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
8
2. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng
11
3. Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ má
14
Kết luận
15
Mục lục
17
Tài liệu tham khảo
18
Tài liệu tham khảo
1. Về cách mạng tháng Tám năm 1945 / Hồ Chí Minh/NXB Chính trị quốc gia 2005.
2. Khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945/ Nguyễn Thanh Tâm/ NXB Chính trị quốc gia 2005.
3. Cách mạng tháng Tám một sự kiện vĩ đại của thế kỷ XX/ NXB Chính trị quốc gia 2005.
4. Cách mạng tháng Tám trong tiến trình lịch sử dân tộc/ NXB Chính trị quốc gia 2005.
5. Cách mạng tháng Tám 1945- Toàn cảnh/ Phan Ngọc Liên/Từ điển bách khoa 2005.
6. Hà Nội – Huế – Sài Gòn tháng 8 – 1945/ Minh Trang, Quốc Quang, Nguyễn Văn Trấn/ NXB Quân đội nhân dân 2004.
7. Đấu tranh vũ trang trong cách mạng tháng Tám/ Nguyễn Anh Dũng/ NXB Khoa học xã hội 1985.
8. Lịch sử cách mạng tháng Tám 1945 / Trịnh Nhu/ NXB Chính trị quốc gia 1995.
9. Giáo trình Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam/ Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12078.doc