Đề tài Sự lựa chọn chính sách tỷ giá của các quốc gia – bài học cho Việt Nam

Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện chính sách tỉ giá linh hoạt với biên độ giao động mạnh hơn phù hợp với mức độ mở cửa của thị trường tài chính và năng lực của kiểm soát của ngân hàng nhà nước tiến tới chính sách tả nổi tỉ giá có kiểm soát cho phù hợp với quá trình hội nhập của đất nước. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng bước mở cửa các giao dịch vốn; thu hẹp và tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam.

doc58 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự lựa chọn chính sách tỷ giá của các quốc gia – bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thời kỳ 1986-1991 chỉ là một phần của bức tranh chung về tỷ giá hối đoái và có thể làm cho nhiều người hiểu không đúng sự thật. Đằng sau nó, một sự phát triển mạnh mẽ hơn đã diễn ra, đó là sự nổi lên của cái gọi là thị trường trao đổi ngoại hối. Ra đời từ đầu những năm 1980 ở Trung Quốc, thị trường này đã được phát triển rất nhanh từ sau năm 1986 dẫn tới sự hình thành một mạng lưới thanh toán dựa vào thị trường ngoại hối trên phạm vi toàn quốc.Cơ sở cho sự tồn tại thị trường này là quyền tự chủ của các doanh nghiệp Trung Quốc cho phép các nhà xuất khẩu được giữ lại một phần ngoại hối nhằm khuyến khích tăng khả năng hoạt động xuất khẩu. Với sự hiện diện của thị trường, tỷ giá hối đoái “có hiệu lực” được các nhà xuất khẩu áp dụng trở thành mức trung bình có trọng lượng hơn so với tỷ giá hối đoái chính thức. Trong khi tỷ giá hối đoái chính thức được cố định, mức tỷ giá trao đổi từng bước được dao động tự do hơn. Biểu 2.2:Tốc độ tăng tỷ giá hối đoái của Trung Quốc Năm Năm sau so với năm trước Năm sau so với năm gốc(1990) 1991 3,85 3,8 1992 7,41 11,5 1993 0,00 11,5 1994 44,83 61,5 1995 -1,19 59,6 1996 0,00 59,6 1997 0,00 59,6 1998 0,00 59,6 1999 0,00 59,6 2000 5,30 51,2 2001 1,53 53,5 2002 12,16 72,1 2003 -5,25 63,1 Cải cách tỷ giá hối đoái ở Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh đồng thời đẩy mạnh những cải cách theo định hướng thị trường đã làm thay đổi về cơ bản quan hệ kinh doanh của các thực thể về kinh tế, vai trò của giá cả cũng như hoạt động tổng thể của nền kinh tế, mặc dù những thay đổi này còn diễn ra chậm chạp. Sự gia tăng mức độ thì trường hoá, tăng trưởng của khu vực ngoại quốc doanh và gia tăng mức độ mở cửa của nền kinh tế là những biểu hiện của những cố gắng lớn lao. Tất cả những điều này đã tạo ra môi trường thuận lợi cho cải cách tỷ giá hối đoái. Bên cạnh các nhân tố nêu trên còn có rất nhiều các nhân tố khác nữa ảnh hưởng đến cải cách tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, sự hình thành một cơ cấu giá cả tương đối hữu hiệu, sự gia tăng cạnh tranh cùng việc củng cố các mối quan hệ với nền kinh tế thế giới và việc phi tập trung hoá những kiểm soát về thương mại của Chính phủ được xem là những yếu tố cơ bản nhất trong tiến trình đổi mới. Cũng như cải cách ở các lĩnh vực khác, những mục tiêu cải cách tỷ giá hối đoái ở Trung Quốc được bộc lộ với mức độ ngày càng rõ nét hơn.Trong những năm cuối thập kỷ 70, mục tiêu chỉ là đưa tỷ giá đồng NDT về sát với tỷ giá thực. Từ giữa thập kỷ 80, cùng với những tiến triển của cải cách, những mục tiêu rõ ràng hơn về cải cách chế độ tỷ giá được định hình. Tháng 9 năm 1985, các cơ quan hữu quan Trung Quốc đã ban hành dự thảo kể hoạch 5 năm lần thứ 7(1986-1990), trong đó tỷ giá hối đoái lần đầu tiên được coi như một đòn bẩy kinh tế, được sử dụng để đẩy mạnh xuất khẩu, mặc dù trong giai đoạn này tính kế hoạc tập trung vẫn còn khá đậm nét trong nền kinh tế. Từ đây đã đưa ra những nhiệm vụ mới cho cải cách tỷ giá là làm cho tỷ giá có vai trò lớn hơn trong phân bổ các nguồn lực. Năm 1991, cơ quan ngoại hối Trung Quốc đã tóm tắt các mục tiêu của cải cách tỷ giá hối đoái: hợp lý hoá mức tỷ giá hối đoái, phát huy vai trò của tỷ giá hối đoái như một đòn bẩy kinh tế, thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và điểu chỉnh sự hợp lý có sự quản lý của Nhà nứơc. Tháng 11/1993, Trung Quốc quyết định thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thống nhất có sự quản lý của Nhà nước dựa trên cung, cầu thị trường và tiến tới biến đồng NDT có khả năng chuyển đổi. Theo các cơ quan hữu quan Trung Quốc, chỉ có trong giai đoạn 1991-1993, đồng NDT mới chính thức chấp nhận áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, mặc dù Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) khi phân loại đã xếp Trung Quốc là nước có chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý từ tháng 10/1987. Nhưng giai đoạn này là đặc trưng cho thời kỳ thả nổi tỷ giá hối đoái. Vượt ra ngoài khuôn khổ của chế độ kết nối, thị trường ngoại hối ở Trung Quốc đã phát triển rất nhanh vào những năm 1990.Cho đến năm 1993 đã có khoảng 80% các giao dịch ngoại hối của Trung Quốc được thực hiện qua thị trường này. Những thử nghiệm trên thị trường ngoại hối chứng minh cơ chế chuyển đổi hữu hiệu cho quá trình tự do hoá quản lý ngoại hối ở Trung Quốc. Nhờ tăng tỷ lệ ngoại hối phân bổ thông qua tương tác giữa cung và cầu trên thị trường, những hoạt động kiểm soát về ngoại hối đã giảm dần. Trong khi đó, các lực lượng thị trường được tính đến nhiều hơn trong các quyết định liên quan đến tỷ giá hối đoái. Kinh nghiệm thực tế cho thấy sự vận động của tỷ gía hối đoái trao đổi vốn vẫn dao động xung quanh mức chi phí trong nước để thu được một đơn vị ngoại tệ thông qua xuất khẩu, đã được Chính phủ Trung Quốc sử dụng để đánh giá những thay đổi trong tỷ giá hối đoái chính thức. Nếu tỷ giá hối đoái chính thức chênh lệch quá lớn so với tỷ giá hối đoái thị trường thì rất nhiều trong số này có thể chạy ra thị trường tự do. Để chấn chỉnh những vấn đề do thị trường tự phát tạo ra,Chính phủ Trung Quốc đã thống nhất hai chế độ tỷ giá hối đoái và thực hiện các cố gắng hướng tới một đồng NDT có khả năng chuyển đổi vào năm 1994.Nhiều cố gắng đã được thực hiện là thống nhất mức tỷ giá hối đoái, chấp nhận mức tỷ giá hối đoái chung thả nổi có quản lý,xoá bỏ chế độ giữ lại ngoại hối, thực hiện chế độ giao nộp ngoại hối, bỏ kế hoạch ngoại hối, cho phép được mua ngoại hối từ một số ngân hàng chỉ định nếu xuất trình đủ các hồ sơ nhập khẩu, ngừng phát hành các loại giấy chứng nhận có ngoại tệ và thành lập thị trường liên ngân hàng. Những cải cách này nhằm thiết lập một tỷ giá hối đoái thống nhất, một chế độ tỷ giá thả nổi và chuyển đổi đồng nội tệ trong tài khoản vãng lai. Thực tế cho thấy việc thiết lập một chế độ tỷ giá thả nổi mức tỷ giá thống nhất là nhân tố để tạo ra một bứơc tiến mạnh trong cải cách. Từ năm 1994, chế độ tỷ giá của Trung Quốc bước vào một giai đoạn mới: được thả nổi dựa trên các nhân tố thị trường. Đáng chú ý là từ năm 1994, Trung Quốc thực hiện một loạt các quy định mới để hỗ trợ thị trường tiền tệ như: xoá bỏ sự gìm giá, tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại hối liên ngân hàng, cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái, cải tiến và hoàn thiện quản lý thu,chi ngoại hối.Ngân hàng Trung ương Trung Quốc thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động về ngoại hối ở các ngân hàng bằng các quy định chỉ một số ngân hàng có toàn quyền hoạt động trong thị trường ngoại hối, được phép chuyển đổi ngoại hối và số lượng chuyển đổi. Đối với các công ty nước ngoài buộc phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang NDT. Các doanh nghiệp Nhà nước phải yêu cầu nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì mức 50% như trước.Nhờ áp dụng những chính sách linh hoạt do vậy đồng NDT được giữ ổn định, mức dự trữ ngoại tệ tăn lên nhanh chóng, làm cơ sở cho những ổn định và phát triển của nền kinh tế Trung Quốc. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của mình trong những năm vừa qua Trung Quốc đang phải đối mặt với áp lực rất lớn từ các nước phương Tây (đặc biệt là Mỹ) về việc thả nổi đồng nhân dân tệ.Các nước này cho rằng trong nhiều năm qua đồng NDT đã bị định giá sai dẫn tới thâm hụt thương mại lớn giữa Trung Quốc với các nước trên. Có thể nói, đây là một việc làm rất nguy hiểm nếu như Trung Quốc quyết đinh thả nổi đồng NDT và có thể dẫn tới sự đổ vỡ của toàn bộ hệ thống ngân hàng và tài chính ở Trung Quốc.Mặc dù vậy trước những sức ép trên ngày 21/7/2005 Trung Quốc đã phải quyết đinh tiến hành nâng giá đồng nhân dân tệ 2,1% ở mức 8,11 nhân dân tệ ăn 1USD.Trong nhiều năm trước tỷ giá đồng NDT luôn giữ ở mức 8,24-8,26 NDT/ USD. Ngân hàng trung ương Trung Quốc cho biết sự điều chỉnh tỷ giá trên đánh dấu sự khởi đầu của một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, đồng thời giảm bớt sự mất cân đối thương mại và kích cầu. Tỷ giá mới của đồng nhân dân tệ sẽ giúp cho chính sách tiền tệ của Trung Quốc độc lập hơn. Trong năm 2006, tỉ giá đồng Nhân dân tệ đã tăng 3,28% so với đồng USD với xu hướng ngày càng tăng, từ mức 0,66% trong quý 1/2006 đến 1,15% trong quý 4/2006. Mức tỉ giá thấp nhất là 7,8141 Nhân dân tệ ăn một USD.Và theo dự kiến của ngân hàng trung ương Trung Quốc: trong năm 2007 đồng nhân dân tệ sẽ tiếp tục tăng giá thêm khoảng 5% so với USD. Trong giai đoạn ngắn hạn, tỉ giá đồng Nhân dân tệ sẽ chịu ảnh hưởng bởi sự lên xuống của tỉ giá đồng USD so với đồng tiền khác. Song về lâu dài, tỉ giá này sẽ phụ thuộc vào tiến trình cải cách tỉ giá hối đoái của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc. Nhưng nhìn chung, đồng Nhân dân tệ sẽ tăng giá một cách ổn định với những bước tăng nhỏ. Chính sách hối đoái của nước này hiện nay là phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đa số vẫn cho rằng, sự nâng giá của đồng Nhân dân tệ như con dao hai lưỡi. Nó sẽ khiến hàng xuất khẩu của Trung Quốc đắt đỏ hơn và do đó sẽ làm giảm sản lượng xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ sẽ rơi vào tình trạng khó khăn, buộc phải cắt giảm việc làm.Nếu đồng Nhân dân tệ buộc phải nâng giá cao hơn, thì nước này có thể sẽ phải đối mặt với tình trạng giảm phát tương tự như Nhật Bản những năm 80, 90. Và đáng nói hơn, cho dù nâng giá đồng Nhân dân tệ thì thặng dư thương mại vẫn không hề giảm. Việc Trung Quốc gia nhập WTO trong thời gian vừa qua đã thúc đẩy nước này nới lỏng các quy định về quản lý ngoại hối. Trong tiến trình thực hiện tự do hoá đồng NDT, các biện pháp đưa ra được thực hiện từng bước và thận trọng vì: 1)Hệ thống tài chính- ngân hàng Trung Quốc còn yếu kém và nhỏ bé, trong khi các doanh nghiệp Nhà nước đang mắc nợ chồng chất chưa nhận thức đầy đủ rủi ro tiềm tàng khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái; 2) Vấn đề giảm giá đồng NDT là vấn đề nhạy cảm cả về kinh tế và tâm lý trên thị trường tài chính trong nước và khu vực , nhất là thị trường tài chính Hồng Kông, sẽ dễ bị tấn công bởi các nhà đầu cơ quốc tế; 3)Sự ổn định kinh tế - xã hội là rất cần thiết khi Trung Quốc đang cần vốn đầu tư của miền Đông để phát triển miền Tây nước này. Do vậy, chính phủ Trung Quốc đã thể hiện rõ quan điểm kiên quyết cải cách hệ thống tài chính - tiền tệ phải theo dần từng bước, đảm bảo có hiệu quả và không để sai lầm về mặt chính sách, bởi lẽ dễ gây bất ổn kinh tế và xáo trộn xã hội.Như vậy khả năng giảm giá đồng NDT ở mức độ lớn là ít có, đồng NDT chỉ có thể giảm ở mức độ nhỏ và ngân hàng trung ương Trung Quốc theo dự kiến sẽ tiếp tục duy trì chế dộ tỷ giá “ thả nổi có quản lý” bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết và thực hiện tự do hoá lãi suất đồng nội tệ.Mục tiêu của Chính phủ Trung Quốclà hướng tới một đồng NDT có khả năng chuyển đổi tự do sang các ngoại tệ khác và ngược lại. PHẦN III: SỰ LỰA CHỌN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM THỰC TRẠNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 1.Các chính sách tỉ giá hối đoái của Việt Nam 1.1 Thực trạng về tỉ giá hối đoái và chính sách tỉ giá hối đoái của Việt Nam trước năm 1990 Trong giai đoạn trước những năm 1990, khi hệ thống XHCN chưa sụp đổ, Việt Nam thuộc hệ thống XHCN với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp vì vậy nhà nước luôn can thiệp mạnh, trực tiếp và toàn diện vào mọi mặt của hoạt động kinh tế - xã hội, và ở đó là chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ngày 25 /11/1955 tỷ giá hối đoái chính thức của Việt Nam lần đầu tiên được công btỉ giá, là tỷ giá quy định giữa đồng Việt Nam (VND) và Nhân dân tệ của Trung Quốc (NDT), trong đó 1 NDT = 1470 VND. Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ 34 mặt hàng tiêu dùng tại Thủ đô và một số tỉnh biên giới hai nước, nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và Nhân dân tệ của Trung Quốc (NDT) là 1 NDT =2 SUR. Từ đó, tỷ giá tính chéo tạm thời giữa VND và SUR là 1 SUR = 735 VND. Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 với tỷ lệ 01 đồng Việt Nam mới bằng 1000 đồng Việt Nam cũ, đã có những điều chỉnh tỷ giá tương ứng với sự thay đổi của mệnh giá đồng tiền và 1 SUR = 0735 VND. Đến đầu năm 1961, tỷ giá giữa VND và SUR được điều chỉnh lại là 1SUR = 3,27 VND do hàm lượng vàng trong đồng Rúp được điều chỉnh tăng 4,44 lần. Từ năm 1955 cho đến 1975, miền Bắc đã thiết lập quan hệ kinh tế - thương mại với trên 40 quốc gia nhưng vẫn chủ yếu là các nước XHCN. Do đó, quan hệ tỷ giá của đồng Việt Nam cũng chủ yếu là xác định với đồng Rúp, còn các đồng tiền chuyển đổi tự do khác thì cơ bản là không xác lập chính thức. Năm 1977, các nước XHCN thỏa thuận thanh toán với nhau bằng tiền Rúp chuyển nhượng (là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khổi với tỷ giá hối đoái được quy định sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được ghi trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm số dư phải bằng 0) có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gram trên mỗi đồng Rúp chuyển nhượng. Bên cạnh tỷ giá trên, Nhà nước còn sử dung tỷ giá kết toán nội bộ 1 Rúp Nga = 5,64 VND, được hình thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở so sánh giá cả hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bằng đồng Rúp và Nhân dân tệ với giá hàng hóa đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm 1955, 1956, 1957. Tỷ giá kết toán nội bộ này dùng để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị kinh tế nhà nước có thu chi ngoại tệ với ngân hàng, tính thu chi Ngân sách Nhà nước khi nhận viện trợ và cấp phát cho các tổ chức kinh tế nhà nước để thanh toán với các đối tác ngoại thương. Tỷ giá kết toán nội bộ này được xác định cố định cho đến năm 1986 mới được điều chỉnh lại là 1 SUR = 18 VND; năm 1987 điều chỉnh lại là 1 SUR = 150 VND; cuối năm 1989 là 1 SUR = 700 VND và cho đến 3/1989 thì hủy bỏ chế độ kết toán nội bộ này. Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1985), thì xuất hiện luồng ngoại tệ Đô la Mỹ (USD) vào ra Việt Nam. Tỷ giá hối đoái chính thức giữa VND và USD đã được xác định một cách chủ quan theo giá hiện hành, chuyển theo tương quan giữa VND và SUR. Năm 1985, 1 SUR = 18 VND và mối tương quan giữa SUR và USD xem như tương đương 1:1, vì vậy tỷ giá hối đoái chính thức giữa VND và USD lúc đó là 1 USD = 18 VND. Cũng từ khi đó, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường USD đã bắt đầu bộc phát một cách mạnh mẽ từ các dòng kiều hối của kiều bào về nước, lượng lớn USD cất trữ từ khi giải phóng miền Nam, và dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới. Mức tỷ giá hối đoái trên thị trường chợ đen được hình thành và vận động theo những tín hiệu của quy luật thị trường và đã có một sự chênh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, đặc biệt là vào năm 1988. Tuy nhiên, sự bất hợp lý trong việc xác lập tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này thực chất là không quan trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì tỷ giá cũng là một loại giá cả, mà bản thân phạm trù giá cả cơ bản là không tồn tại trong nền kinh tế tập trung, bao cấp ngoại trừ việc có ảnh hưởng xấu đến Ngân sách Nhà nước. Trong thời điểm này, giá cả cũng do Nhà nước định ra không theo quy luật cung cầu ở thị trường, nó cũng có sự chênh lệch xa so với giá cả hình thành trên thị trường chợ đen. Chính vì lẽ đó tỷ giá hối đoái cũng chịu chi phối của cơ chế chính sách quản lý kinh tế chung đó. Trong giai đoạn trước 1990, nước ta đã áp dụng tỷ giá hối đoái kết toán nội bộ, trong đó mức tỷ giá hối đoái chính thức thường cố định trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ giá hối đoái thực tế trên thị trường. Chẳng hạn, từ năm 1985 đến năm 1988, theo thị trường thì tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt Nam và Rúp Liên Xô và giữa Đồng Việt Nam và Đô la Mỹ là: 1 SUR = 1500 VND và 1 USD = 3000 VND. Trong khi đó, tỷ giá hối đoái kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu ở mức khoảng: 1 SUR = 150 VND và 1 USD = 225 VND. Từ đó, cứ 1 Rúp Liên Xô (SUR) nhập khẩu thì nhà nước phải bù lỗ một số tiền là 1.350 đồng và 1 USD thì phải bù lỗ 2.775 đồng. Tình hình này đã làm cho những doanh nghiệp, địa phương và ngành nào càng xuất khẩu càng nhiều thì Nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy định thấp, các tổ chức kinh tế và các cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho Ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở Ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực tế này vừa gây thiệt hại cho Nhà nước vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều này lại tác động ngược trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị trường càng diễn biến phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nước thường đứng ra phân phối nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các ngành, đơn vị trong nền kinh tế với giá rẻ (theo tỷ giá chính thức). Như vậy, các ngành, đơn vị đó thu được lợi lớn trong khi Ngân sách Nhà nước thì không thu được chênh lệch giá. Do đó, cách thức xây dựng và điều hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại thương như vậy đã được xem như là một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên những thâm hụt trầm trọng trong Ngân sách Nhà nước ở giai đoạn này. Như vậy, chế độ tỷ giá trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Đây cũng vừa là biểu hiện vừa là kết quả của một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá hối đoái nói riêng, đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung trở thành vấn đề cấp bách lúc đó. 1.2. Thực trạng và chính sách tỉ giá hối đoái của Việt Nam trong thời kì (1990-1997) Việt Nam trong thời kì đổi mới, nền kinh tế chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường. Quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ. Từ quan hệ chủ yếu với các nước XHCN chuyển sang quan hệ với các nước bên ngoài phe XHCN; từ đồng tiền của các nước thuộc khối SEV và Rúp chuyển sang chủ yếu tính toán bằng USD từ năm 1991. Mặt khác, cơ chế thị trường hình thành và khẳng định trên nhiều mặt của đời sống kinh tế, từ giá cả hàng hóa đến hoạt động ngân hàng, thương mại và đầu tư… đã làm cho tỷ giá cố định và cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo kiểu kế hoạch hóa tập trung không còn thích hợp. Tháng 3/1989 chúng ta đã thiết lập hệ thống tỷ giá điều chỉnh theo tín hiệu thị trường có sự can thiệp của Chính phủ. Với sự kiện phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức và thị trường, xóa bỏ cơ bản hệ thống tỷ giá cũ quá phức tạp… thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có những biến chuyển rất căn bản sang cơ chế thị trường, thoát khỏi trạng thái thụ động và trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở. Điều này đã đánh dấu một giai đoạn ngắn của sự “thả nổi” tương đối mạnh trong lịch sử vận động của tỷ giá hối đoái tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc “thả nổi” tỷ giá hối đoái trong thời kỳ này vẫn không phải là tối ưu và đã dẫn tới một số vấn đề sau: - Việc “thả nổi” tỷ giá hối đoái, thiếu tác động điều tiết đủ mạnh của Nhà nước đã làm cho tỷ giá trên thị trường biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá hối đoái vào cuối năm 1991, lúc này 1 USD @ 13.000 VND. Nguyên nhân khác của việc USD tăng giá là do ảnh hưởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của Chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam. - Thời kỳ này, hệ thống các Ngân hàng thương mại ở nước ta hoạt động hết sức yếu ớt, cùng với việc thả lỏng và mất kiểm soát của các tổ chức tín dụng. Kết quả đã tạo những vụ vỡ nợ tín dụng vào cuối năm 1991, đầu năm 1992 đã góp phần duy trì tâm lý ngại nắm giữ đồng tiền Việt Nam và làm giảm khả năng huy động tiết kiệm trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Giai đoạn tiếp theo từ 1992 đến trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Nam Á, để khắc phục hạn chế mất kiểm soát tỷ giá của chính sách ở giai đoạn trước, Chính phủ đã quy định biên độ dao động của tỷ giá so với tỷ giá chính thức được công bố với NHNN (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định rõ biên độ dao động); tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là các đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá ấn định; đồng thời bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do NHNN công bố. Chính sách tỷ giá này được hình thành trên cơ sở thiên về cố định hơn là thả nổi, mặc dù có sự điều tiết (không thường xuyên) của NHNN nhằm vừa khuyến khích xuất khẩu, vừa kiểm soát hợp lý nhập khẩu. Nói chung, chính sách tỷ giá hối đoái này đã đóng góp đáng kể vào thực hiện các mục tiêu đã nêu, nhưng mới chủ yếu thiên về “hướng nội”, nổi bật là khuyến khích tích lũy giá trị dưới dạng nội tệ hơn là ngoại tệ (chủ yếu là đồng USD), thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ nước ngoài đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong nước. - Bên cạnh đó, xu hướng cố định hóa tỷ giá hối đoái từ năm 1992 đến gần nửa cuối 1997 (trước khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Nam Á) cũng góp phần thúc đẩy làn sóng Đô la hóa, khuyến khích đầu cơ ngoại tệ qua Ngân hàng, tăng rủi ro tỷ giá hối đoái và khả năng thanh toán quốc tế. Ngoài ra theo đánh giá về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và ngoại thương của Việt Nam từ cuối năm 1992 đến đầu 1997, tất cả các công trình nghiên cứu cũng như nhận định chung của các nhà kinh tế thì đây là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng Việt Nam. Sở dĩ như vậy, vì trong thời kỳ này, trên thị trường Việt Nam cung vượt cầu về USD (mặc dù đây chỉ là trong ngắn hạn), trong khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa thường xuyên bị neo trong khoảng 10.800 VND/USD đến 11.175 VND/USD từ năm 1992 đến 1997, đã làm cho VND dần dần bị đánh giá quá cao một cách giả tạo so với USD, mặc dù USD trong cùng thời gian đã lên giá khoảng 20% trên thị trường tiền tệ thế giới. Tình trạng này đã làm giảm ý nghĩa mọi sự khuyến khích đối với xuất khẩu, tăng tỷ lệ sản phẩm của cả tiêu dùng nội địa và cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, gây thâm hụt lớn cán cân vãng lai (khoảng 13 – 16% GDP năm 1995, 1996), nợ nước ngoài gia tăng, dự trữ ngoại tệ tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nguy cơ đổ vỡ cán cân thanh toán quốc tế luôn rình rập, báo hiệu khủng hoảng nợ nước ngoài… dẫn đến việc không thể thực hiện được mục tiêu cân bằng ngoại tệ. Có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của Chính phủ trong thời gian này là áp dụng chính sách tỷ giá cố định có điều tiết nhẹ của Nhà nước, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VND theo USD qua một rổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu là USD, DM, FRF, GBP, JPY), trong đó USD chiếm tỷ trọng lớn. Thực tiễn đã chứng tỏ chính sách này chỉ phù hợp với giai đoạn tiền tệ chưa ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ quốc gia còn mỏng. Từ năm 1994 với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, NHNN đã thực hiện một bước chuyển cơ bản về việc điều hành tỷ giá theo cơ chế mới thay thế cho việc thực hiện chế độ đa tỷ giá trước đây. Từ thời điểm này, NHNN bắt đầu công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ với VND theo đó tỷ giá mua bán trên thị trường chỉ được dao động trong biên độ cho phép là ± 0,5% so với tỷ giá chính thức. Mặt khác để khuyến khích các ngân hàng tham gia tích cực hơn trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN cho phép các ngân hàng được điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn và hạn chế đồng Việt Nam bị đánh giá cao, đến 21/11/1996 biên độ giao dịch được nâng lên ± 1%. Hơn nữa, Chính phủ cũng cho thấy sự chú trọng tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách tăng mạnh quỹ dự trữ ngoại tệ, lập quỹ bình ổn giá. Những đổi mới trong chính sách tỷ giá hối đoái trên đã phần nào xóa đi tâm lý găm giữ ngoại tệ, góp phần làm giảm giá USD và tỷ giá được ổn định trong những năm tiếp theo. Như vậy, chế độ tỷ giá trong giai đoạn 1990-1997 là chế độ tỷ giá linh hoạt có điều tiết của Nhà nước, đã phát huy được nhiều mặt tích cực góp phần ổn định nền kinh tế và chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chế độ tỷ giá này cũng bộc lộ nhược điểm là ổn định quá lâu làm cho có cảm tưởng là chế độ tỷ giá cổ định, nó đã không khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu vì đây thực chất là cố định tương đối, nó đã đẩy đồng VND lên giá so với đồng USD, trong khi đồng USD mất giá và tỷ lệ lạm phát hàng năm trong thời kỳ này ở nước ta mặc dù là một con số những vẫn còn caotỉ giá 1.3 Thực trạng về tỉ giá hối đoái và chính sách tỉ giá hối đoái Việt Nam trong thời kì khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á (1997- 1998) Năm 1997, đặc biệt là vào nửa cuối năm, tình hình khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước khu vực Đông Nam Á tăng mạnh, các nước trong khu vực hầu như đã phá giá mạnh đưa đến tình hình khan hiếm ngoại tệ và khó khăn trong xuất khẩu xuất hiện đối với Việt Nam, do đồng Việt Nam lên giá tương đối cao so với các đồng tiền khác trong khu vực. Để tạo sự cân bằng cung - cầu trên thị trường và giảm áp lực căng thẳng ngoại tệ, NHNN đã ban hành Quyết định số 45/QĐ-NH7 27 /02/1997 mở rộng biên độ giao dịch lên ± 5%. Ngay khi mở rộng biên độ giao dịch đồng Việt Nam đã giảm giá 5%, tuy nhiên sức ép giảm giá đồng Việt Nam vẫn cao trong thời điểm này. Đồng thời, để hạn chế tác động của các yếu tố kinh tế, một mặt Chính phủ đã tăng cường công tác thông tin, cho công khai hóa một cách nhanh chóng và chính xác các chỉ số kinh tế quan trọng như: tỷ giá hối đoái chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến động giá vàng… Nhờ vậy mà hạn chế được hoạt động đầu cơ, giảm tâm lý hoang mang. Mặt khác, Chính phủ cũng thông qua nhiều hình thức, tốc độ, mức can thiệp để thế hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và dập tắt nguy cơ bùng nổ trở lại lạm phát nói riêng. Trong giai đoạn tiếp theo là từ tháng 7/1997 đến đầu năm 1999, trước ảnh hưởng tăng dần của cuộc khủng hoảng, đồng Việt Nam vẫn bị đánh giá tương đối cao khoảng 10 – 40% so với các đồng tiền khác trong khu vực. Lúc này bản thân việc điều chỉnh các mức biên độ không thôi chưa đủ tạo chuyển biến lớn về điều hành tỷ giá hối đoái để thích ứng với tình hình mới. Thực chất điều chỉnh tỷ giá bằng cơ chế công bố tỷ giá chỉ đạo của NHNN gắn với biên độ quy định là nhằm tránh công khai phá giá tiền tệ về danh nghĩa (điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái danh nghĩa)… Việc áp dụng biên độ giao dịch cho phép các NHTM áp dụng khá linh hoạt tỷ giá hối đoái thực tế tùy thuộc tình hình tiền tệ và mục tiêu chính sách kinh tế chung. Còn tỷ giá hối đoái danh nghĩa vẫn thường xuyên được cố định (tính đến cuối năm 1997) trong khoảng 10.890 – 11.175 VND/USD). Tuy nhiên, theo kinh nghiệm nhiều nước, nếu quá ỷ lại vào biên độ tỷ giá, thay vì điều chỉnh hợp lý tỷ giá hối đoái chính thức, việc điều hành của NHNN sẽ cứng nhắc về kỹ thuật và ít có tác dụng khi tình hình tiền tệ bất ổn sẽ buộc NHNN thường xuyên phải điều chỉnh biên độ này. Điều này vô hình dung tạo kẽ hở lợi dụng cho các lực lượng thị trường. Các NHTM đua nhau giao dịch theo tỷ giá sát trần mà NHNN khó kiểm soát trạng thái ngoại hối của họ. Hơn nữa, các nguồn ngoại tệ trong và ngoài luồng chính thức thường xuyên hòa trộn nhau, đầu cơ chênh lệch tỷ giá kiếm lời nảy sinh. Các hiện tượng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ đã gây căng thẳng giả tạo đối với cung cầu ngoại tệ và làm phức tạp hóa quản lý ngoại hối của Nhà nước, phần nào có nguyên nhân từ sự bất cập của cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái chưa thích ứng với hiện trạng VND ở xu hướng bị đánh giá cao quá mức. Một tính toán vào đầu năm 1998 đã cho thấy NHNN thông qua tỷ giá chính thức thấp (11.175 VND/USD) và biên độ không chế ± 10% đã buộc các NHTM phải giao dịch với tỷ giá ở mức tối đa (sát trần) mà vẫn thấp hơn ± 10% so với thực tế (vì chưa tính tương quan sức mua của USD). Sự bất hợp lý này chỉ giải quyết bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Việc nới rộng thêm nữa biên độ giao dịch tỷ giá là hết sức nguy hiểm. Nhận thức nguy hiểm đó, NHNN Việt Nam đã quay trở lại điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính thức tăng lên 5,6% từ 11.175 lên 11.800 VND/USD. Bước cải tiến này vừa có lợi về mặt thanh toán đối ngoại đã giảm bớt mức độ VND bị đánh giá quá cao, vừa tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường liên Ngân hàng và thị trường tự do. Xét cả về mức chênh lệch giữa 2 loại tỷ giá của 2 thị trường và chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ đã có những bước điều chỉnh hợp lý. So với tốc độ trượt giá VND lâu nay thì rủi ro tỷ giá hối đoái nói chung đã ở mức thấp xa so với nhiều năm trước đây tạo điều kiện tốt cho kinh doanh ngân hàng, ổn định tâm lý người gửi tiền, các nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Trong nước xuất hiện cung cầu ngoại tệ căng thẳng trở lại sau một số tháng áp dụng Quyết định 37/1998/QĐ-TTG. Doanh số mua bán ngoại tệ giảm 4 – 5% so với cùng kỳ. Bởi vậy, vào 7/8/1998, NHNN đã tiếp tục phá giá 9,2% đồng Việt Nam thông qua việc thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ từ ± 10% xuống ± 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức từ 11.815 lên 12.998 VND/USD (Quyết định số 267/1998/QĐ-NHNN7). Theo Quyết định này, tỷ giá chính thức do NHNN công bố vào 7/8/1998 là tỷ giá đóng cửa của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vào cuối 6/8/1998. Điều này có nghĩa là tỷ giá chính thức giữa VND và USD đã được NHNN ấn định trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nên tỷ giá chính thức sẽ phản ánh sát hơn tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Sau đó, loại trừ những biến động đột xuất do tâm lý sốc ban đầu, tỷ giá hối đoái giao dịch trên thị trường chính thức không vượt quá 14.000 VND/USD như dự đoán. Quy định mới này đã thúc đẩy thị trường ngoại tệ liên ngân hàng giao dịch sôi động hơn, một số hình thức mua bán ngoại tệ theo hợp đồng cam kết mua bán ngay, giao dịch kỳ hạn hoặc hoán đổi được áp dụng. Nhiều doanh nghiệp, ngân hàng chủ động hơn cân đối nhu cầu ngoại tệ, bước đầu giải tỏa tâm lý găm giữ, đầu cơ ngoại tệ… Thực tế, mỗi sự thay đổi của tỷ giá chính thức đều có những tác động nhất định trong đời sống kinh tế và đôi khi NHNN cũng rơi vào tình trạng muốn điều chỉnh tỷ giá chính thức cho phù hợp với thực tế nhưng lại rất khó khăn vì không tính toán cân nhắc kỹ sẽ dẫn đến những biến động bất thường trên thị trường. Nếu điều chỉnh hàng ngày sẽ gây tâm lý bất ổn, còn giữ “cứng” quá lâu khi điều chỉnh rất dễ gây biến động đột ngột. Cơ chế này rõ ràng là không phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường và thông lệ quốc tế. Bởi vậy, việc thay đổi cách xác định mức tỷ giá chính thức là cần thiết. 1.4 thực trạng về tỉ giá hối đoái và chính sách tỉ giá hối đoái thời kì sau khủng hoảng tài chính tiền tệ (1999- nay). Từ 26/2/1999, tỷ giá hối đoái chính thức được NHNN công bố hàng ngày, được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Đây là một sự thay đổi về cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp với quy luật thị trường vì tỷ giá chính thức theo cách xác định mới có “căn cứ” là mức tỷ giá bình quân thực tế của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, một thị trường chiếm đến khoảng 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường. Những ưu điểm nổi bật của cách thức xác định tỷ giá mới này có thể phân tích theo một số khía cạnh sau: Thứ nhất: Việc thay đổi về cơ chế quản lý điều hanh tỷ giá đã tạo quyền chủ động cho các NHTM trong việc tự quy định tỷ giá giữa VND với các ngoại tệ khác (không phải là USD). Thứ hai: Tỷ giá NHNN công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên Ngân hàng, điều này phản ánh tỷ giá của VND được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản ánh tương đối khách quan sức mua của VND so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được vai trò kiểm soát của Nhà nước. Thứ ba: Với cơ chế điều hành tỷ giá mới xuất phát từ cung cầu ngoại tệ giữa các ngân hàng, nên gần gũi hơn với tỷ giá thị trường tự do và như vậy những biến động để có thể tạo ra khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM sẽ khó có thể xảy ra. Thứ tư: Cơ chế điều hành tỷ giá trước đây làm nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp thường xuyên không được đáp ứng khiến nhiều doanh nghiệp phải lao đao khi phải đối mặt với các nhu cầu thanh toán đến hạn với nước ngoài. Còn với cơ chế mới thì bản thân tỷ giá tự nó đã được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay nói cách khác chính nhu cầu của các doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung và cầu đều được thỏa mãn. Thứ năm: Để giữ tỷ giá ổn định hoặc điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu nào đó, cơ chế mới cho phép NHNN chỉ việc điều chỉnh cung hoặc cầu ngoại tệ bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại tệ vào và như vậy tất cả đều hết sức tự nhiên, giảm bớt tâm lý hoang mang dao động. Thứ sáu: Tỷ giá hối đoái trong cơ chế mới được hình thành trên thị trường mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hòa nhập của nền kinh tế nước ta vào cộng đồng kinh tế thế giới. Như vậy, có thế thấy cơ chế điều hành tỷ giá mới của NHNN không chỉ khắc phục được những hạn chế của cơ chế cũ mà còn phù hợp với một nền kinh tế mở như điều kiện của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc xác định tỷ giá chính thức là mức bình quân giữa tỷ giá mua và bán mà lại là tỷ giá bình quân của ngày giao dịch gần nhất trước đó thì trên cả bình diện lý thuyết lẫn thực tế vẫn chưa phải là một cơ sở vững chắc để tỷ giá chính thức thực sự có ý nghĩa kinh tế. Nói cụ thể hơn thì cách xác định tỷ giá chính thức như vậy mới chỉ làm cho tỷ giá chính thức trở thành cơ sở hợp lý hơn trong việc dùng để tính thuế xuất, nhập khẩu, thực hiện các thống kê… chứ chưa thể xem là một tỷ giá hối đoái có giá trị thực trên thị trường. Hơn nữa, cách xác định đó còn gây nên một bất lợi có thể dự đoán trước: Nếu trong một ngày giao dịch nào đó, tình hình thị trường có những đột biến về cung cầu, thì do bị ràng buộc bởi biên độ với tỷ giá là bình quân giữa mua và bán mà lại là của ngày giao dịch gần nhất trước đó, chắc chắn sẽ làm cho giao dịch trên thị trường ngày hôm đó bị đình trê, đóng băng. Từ đó tác động tiêu cực trở lại đến các giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng và lại tiếp tục tác động xấu đến các giao dịch trên thị trường chính thức của ngày kế tiếp, dẫn đến khủng hoảng thị trường. Từ đó có thể nói rằng: Sự ràng buộc tỷ giá trên thị trường theo một biên độ với tỷ giá chính thức là một mức tỷ giá được xây dựng dựa trên những thông số nào đó của một ngày quá khứ là một đặc trưng không có sự thay đổi so với trước 26/2/1999. Một trong những minh chứng về tính bất hợp lý của hình thức điều hành tỷ giá như vậy là trong khi thị trường tiền tệ quốc tế luôn trở nên sôi động vào những lúc thị trường có những biến động, thì thị trường ngoại tệ chính thức của Việt Nam lại trở nên mờ nhạt, buồn tẻ. những Thực tế, vận động của tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ chính thức cũng cho thấy sau khi thay đổi cách công bố tỷ giá chính thức là mức trung bìn của tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, thì trong giai đoạn đầu tỷ giá mua của các Ngân hàng là thấp hơn tỷ giá chính thức, còn tỷ giá bán là cao hơn tỷ giá chính thức. Nhưng chỉ đến cuối tháng 3/1999 (tức là gần một tháng sau thay đổi cách xác địn tỷ giá chính thức) thì tỷ giá mua và bán của Ngân hàng luôn cao hơn tỷ giá chính thức. Như vậy tình hình đã quay trở lại như trước khi thay đổi cách xác định tỷ giá chính thức, chỉ khác là mức chênh lệch không cao bằng trước đó vì biên độ đã bị thu hẹp quá mức (± 0,1%). Điều này chứng tỏ rằng việc thay đổi cách xác định tỷ giá chính thức trên được xem là sự thay đổi về cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp nhưng vẫn chưa phải là những cải cách cơ bản để có thể xóa đi những bất hợp lý của cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá hối đoái đã có từ trước. Hơn nữa, về lâu dài nếu không tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh các giải pháp bổ trợ cho cách điều hành tỷ giá hối đoái mới, có thể phát sinh một số vấn đề khó khăn. Tâm lý đón chờ phá giá VND vẫn luôn thường trực, gắn liên với cách tính toán và công bố tỷ giá giao dịch bình quân của NHNN, khiến tỷ giá thực tế của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng luôn ở xu hướng tăng thêm với mức được phép là 0,1%, tạo thành cấp số lũy thừa liên tục mũ n của hệ số 1,001 là khá lớn. Để tránh xu hướng này, NHNN phải trực diện chịu áp lực thị trường khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng, mà khả năng dự trữ ngoại tệ rất mỏng manh. Do thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng chưa phát triển hoàn hảo nên bản thân lượng dự trữ bỏ ra để can thiệp hết sức hạn hẹp của NHNN nhằm kiểm soát dao động của tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hẹp tương ứng. Theo đó xét cả về mức độ và quy mô vận hành thì cơ chế điều hành mới vẫn còn độ cứng nhắc khá cao. Với khó khăn đã nêu, việc công bố tỷ giá bình quân của NHNN sớm muộn phải quay trở lại mức ấn định chủ quan theo hướng cố định và giảm dần (không khác với cách tính toán và công bố tỷ giá danh nghĩa). Vì bản thân việc bỏ neo tỷ giá danh nghĩa vào lúc thị trường biến động phức tạp khiến NHNN sẽ mất quyền chủ động kiểm soát tỷ giá thực tế. Việc bỏ hẳn ấn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa còn đưa đến khó khăn nhất định trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế như: cán cân vay, trả nợ nước ngoài, cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh tế, thu chi ngân sách… Đặc biệt là sẽ khó tính toán các mức lãi suất danh nghĩa hàng năm, trong khi chính sách lãi suất rất cần ổn định lúc này để khuyến khích đầu tư. Chế độ tỷ giá hiện hành nếu xét về thực chất thì được coi là gần với cái gọi là tỷ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh với một thực tế là các công cụ can thiệp còn nhiều yếu kém thuần túy mang tính kinh tế thì dù muốn hay không cũng phải được hỗ trợ thêm bởi các công cụ hành chính phi kinh tế khác. Nhưng khi đó ít nhiều cũng sẽ vi phạm các quy luật thị trường hay ít nhất cũng làm cản trở và hạn chế tác động tự điều chỉnh của các lực lượng thị trường. Do đó, sự tồn tại song song của thị trường chợ đen với thị trường chính thức không bị kiểm soát bởi các công cụ hành chính, sẽ là nơi mà các lực lượng thị trường được phát huy tối đa tác dụng và tác động tự điều chỉnh của chúng theo cung cầu thị trường là một điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy mà tỷ giá hình thành trên thị trường chợ đen cũng sẽ là một trong những dữ liệu giúp đánh giá tính hợp lý của mức tỷ giá cũng như các can thiệp điều chỉnh trên thị trường chính thức. Hiện nay, chúng ta đang áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái bán thả nổi gần như cái gọi là “cố định nhưng có thể điều chỉnh”, do vậy vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái khi có những mất cân bằng kinh tế vĩ mô là một vấn đề luôn cần phải chú trọng. Từ 26/02/1999, khi việc công bố tỷ giá chính thức trước đó bị bãi bỏ, tỷ giá chính thức được xác định là mức bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Bằng cách xác định tỷ giá hối đoái chính thức như vậy, thì việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái buộc NHNN phải dùng các công cụ để can thiệp vào thị trường ngoại tệ chứ không còn có thể đơn giản là điều chỉnh bằng cách công bố lại tỷ giá chính thức như giai đoạn trước 26/02/1999. Do đó, sự phân tích để thấy rõ năng lực hiện có của các công cụ có thể sử dụng trong hoạt động can thiệp, nhất là các công cụ thuần túy mang tính kinh tế, để có thế sử dụng các công cụ một cách có hiệu quả là thực sự có ý nghĩa trong lúc này. Tóm lại, nếu nhìn một cách tổng thể, quá trình cải cách chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong suốt thời gian qua là phù hợp với quá trình cải cách nền kinh tế nói chung và quá trình cải cách lĩnh vực tài chính - tiền tệ nói riêng. Từ chính sách đa tỷ giá mang nặng tính bao cấp, thoát ly hoàn toàn với cơ chế thị trường đã được chuyển sang một chính sách tỷ giá vận hành dựa trên cơ sở thị trường. Chính sách tỷ giá hối đoái đó đã góp phần kiềm chế được lạm phát, thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, góp phần loại trừ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Nam Á. Đặc biệt, với cơ chế tỷ giá hối đoái chính thức và giới hạn biên độ giao dịch đã tạo điều kiện cho NHNN điều tiết được thị trường, hạn chế được các cú sốc và các ảnh hưởng tiêu cực của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Mặt khác, cơ chế tỷ giá hối đoái chính thức và quy định biên độ giao dịch còn giúp cho NHNN thành công trong việc hướng dẫn sự kinh doanh ngoại tệ của các NHTM phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và hạn chế được những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối. Sự thành công này đã gây không ít ngạc nhiên cho các nhà kinh tế nước ngoài. 2.Chính sách tỉ giá hối đoái của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Một chính sách tỉ giá đúng đắn sẽ tạo điều kiện tốt cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Song vấn đề đặt ra là chính sách tỉ giá nào thì phù hợp đối với nền kinh tế Việt Nam. Chính sách tỉ giá thả nổi hoàn toàn hay chính sách tỉ giá cố định, hay thả nổi có sự quản lí của nhà nước. Chính sách tỉ giá hối đoái có tác động lớn đến việc kiềm chế lạm phát ở mỗi quốc gia. Nhưng tỉ giá hối đoái tác động và chịu tác động của nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: cán cân thanh toán quốc tế, thương mại, xuất nhập khẩu, thu chi ngân sách, nợ nước ngoài, mức sống của người dân. Vì vậy tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể mà lựa chọn cho mình một chính sách tỉ giá hối đoái phù hợp nhằm phát triển kinh tế đất nước. Mỗi chính sách đều có những ưu và nhược điểm riêng do vậy nếu lựa chọn được một chính sách tỉ giá hối đoái phù hợp cho từng giai đoạn phát triển chúng ta sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm của từng chính sách. Hiện nay ở Việt Nam vẫn có nhiều quan điểm về lựa chọn một chế độ tỉ giá hối đoái phù hợp trong điều kiện nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã có nhiều nước theo đuổi chính sách tỉ giá dựa theo một đồng tiền mạnh như USD. Chính sách đô la hoá đã trở thành một phương thuốc đối với một số nước Mĩ La Tinh. Hơn ai hết chính sách tiền tệ có thể giúp họ thoát khỏi sự sụp đổ về tiền tệ (tức là không phải phá giá đồng tiền). Tuy nhiên chính sách này cũng không thể giúp họ sự sụp đổ về tài chính, hệ quả của việc chính phủ không đủ tiền để chi tiêu. Sự khủng hoảng nợ của Argentina là một minh chứng rõ nhất cho vấn đề này. Đồng thời cũng có một số nước ủng hộ chính sách thả nổi hoàn toàn. Thế nhưng chính sách này có phải là hoàn hảo? Khi nghiên cứu một cách kĩ càng tất cả các chính sách tỉ giá đang được áp dụng trên thế giới thì thấy không có một chế độ tỉ giá nào là hoàn hảo cả. Chế độ tỉ giá hối đoái thả nổi như đã phân tích ở trên nó cũng có những ưu và nhược điểm riêng của nó. Đặc biệt là sự biên động mạnh trên thị trường có thể gây khủng hoảng đối với nền kinh tế. Và trong điều kiện nước ta hiện nay khi chúng ta đang trong tình trạng lạm phát cao, nền kinh tế với khoảng 90% là nhập khẩu nguyên vật liệu, nhiên liệu, các nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất thì việc áp dụng một chế độ tỉ giá với những biến động lớn của thị trường sẽ gây ra những cú sốc đối với nền kinh tế vì nó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của chúng ta đối với hàng nhập khẩu. Mặt khác chúng ta đang kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Nếu tỉ giá biến động mạnh sẽ gây tâm lí lo ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc giữ một tỉ giá hối đoái ổn định và “neo” tỉ giá trong thời gian qua là phù hợp. Và mục tiêu của chúng ta trong thời gian tới là phải ổn định chính sách tỉ giá hối đoái, chính sách tiền tệ. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể cố định tỉ giá hối đoái. Vì tỉ giá hối đoái cũng là một loại giá cả do đó nó phải được vận động theo quy luật của thị trường. Hay việc “neo” tỉ giá một cách quá cứng trong thời gian dài cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và đến nền kinh tế. Do đó để ổn định kinh tế trong thời gian tới chúng ta sẽ áp dụng chính sách tỉ giá linh hoạt. Nghĩa là ổn định tỉ giá và cho phép biến động nhẹ dựa trên cơ sở thị trường. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào chính sách quản lí tài chính và tiền tệ, chính sác tỉ giá của ngân hàng nhà nước. 3. Bài học kinh nghiệm trong lựa chọn chính sách sách tỉ giá hối đoái và giải pháp thực hiện thành công chính sách tỉ giá hối đoái ở nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.1 Bài học kinh nghiệm Qua những nghiên cứu về mặt lí luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới cho chúng ta một số bài học kinh nghiệm trong việc lựa chọn và thực thi chính sách tỉ giá trong điều kiện Việt Nam ra nhập WTO: Một là: Không có một chính sách tỉ giá hối đoái nào là hoàn hảo. Sự lựa chọn một chế độ tỉ giá hối đoái phù hợp cho mỗi nền kinh tế phụ thuộc vào hàng loạt các nhân tố khác nhau bao gồm cả bên trong và bên ngoài nền kinh tế như: các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: lạm phát, thương mại, xuất khẩu, thâm hụt ngân sách, mức sống của người dân, lãi suất, nợ nước ngoài, thói quen của người dân… Hai là: Không tồn tại một chế độ tỉ giá duy nhất nào phù hợp cho tất cả các nước trong mọi thời điểm.Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước trong mỗi thời kì mà có những chính sách tỉ giá hối đoái khác nhau. ĐỒng thời với các nước đang đối mặt với lạm phát cao có thể lựa chọn chinh sách tỉ giá cố định với tư cách là mỏ neo danh nghĩa trong một chương trình chống lạm phát (như Malaysia trong thời kì khủng hoảng tài chính tiền tệ các nước Đông Nam Á). Tuy nhiên đây cũng chỉ là một giải pháp tình thế còn khi lạm phát đã được đẩy lùi thì giải pháp này xem ra không còn hiệu quả nhất là trong điều kịên hội nhập kinh tế quốc tế như Việt Nam hiện nay. Do đó cần có chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt hơn nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế và kiềm chế lạm phát, song chúng ta cũng không thể thả nổi tỉ giá trong giai đoạn này mà cần có một cơ chế quản lí thích hợp tránh nguy cơ khủng hoảng tiền tệ. Ba là: Trong khi lựa chọn chế độ tỉ giá cần lưu ý một nguyên tắc là sẽ không có một quốc gia nào có thể thực hiện đồng thời cả ba mục tiêu: hội nhập hoàn toàn vào thị trường tài chính quốc tế, duy trì sự ổn định tỉ giá hối đoái, duy sự độc lập về tiền tệ.Một nước chỉ có thể chọn hai trong số ba mục tiêu nêu trên. Bốn là: Qua thực tế phát triển kinh tế của một số nước trên thế giới cho thấy “neo” tỉ giá mềm hay không cố định không phải là sự lựa chọn khả thi cho các nước mở cửa cho lưu chuyển luồng vốn quốc tế. Các yếu tố kinh tế chính trị tạo ra sự khó khăn trong áp dụng các chính sách tỉ giá hối đoái trung gian với một mức tỉ giá “neo”. Và kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy tính khả thi của chính sách tỉ giá hối đoái thả nổi có quản lí. Năm là: Trên thực tế tồn tại nhiều chế độ tỉ giá hối đoái dựa trên 3 chế độ tỉ giá hối đoái cơ bản đó. Song nhà nước sẽ xem xét tỉ giá hối đoái thường xuyên nhằm có điều chỉnh hợp lí để ổn định và phát triển kinh tế. 3.2. Giải pháp thực hiện thành công chính sách tỉ giá ở nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện chính sách tỉ giá linh hoạt với biên độ giao động mạnh hơn phù hợp với mức độ mở cửa của thị trường tài chính và năng lực của kiểm soát của ngân hàng nhà nước tiến tới chính sách tả nổi tỉ giá có kiểm soát cho phù hợp với quá trình hội nhập của đất nước. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng bước mở cửa các giao dịch vốn; thu hẹp và tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Thứ hai: sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ thị trường tiền tệ; đồng thời, phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, áp dụng đầy đủ các thiết chế và chuẩn mức quốc tế về quản trị ngân hàng. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Nâng cao chất lượng tín dụng, khả năng sinh lời, xử lý nhanh nợ đọng, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức an toàn; tăng vốn tự có của các ngân hàng thương mại đạt chuẩn mực quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho dân cư và doanh nghiệp tiếp cận với các sản phẩm và tiện ích ngân hàng. Thứ ba: thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với các cam kết quốc tế của nước t tỉ giá. Thứ tư: hình thành môi trường pháp luật về tiền tệ, tín dụng minh bạch và công khai. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi và phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật và ngăn chặn việc hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng. Thứ năm: Ngân hàng nhà nước cần điều chỉnh một cách linh hoạt lượng tiền cung ứng vào nền kinh tế. Cần có biện pháp thận trọng nhằm hạn chế “tiền ra” làm tăng lượng tiền nội tệ trong lưu thông gây sức ép tăng giá và gia tăng lạm phát. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh. Có nhiều ngân hàng nước ngoài tham gia kinh doanh các dịch vụ tín dụng, ngân hàng tài chính do đó để hệ thống ngân hàng có thể cạnh tranh đứng vững trên thị trường thì ngân hàng nhà nước cần lới lỏng biên độ giao động của tỉ giá hối đoái, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại niêm yết tỉ giá cạnh tranh hơn đồng thời đảm bảo tính khách quan của tỉ giá. Sử dụng linh hoạt thị trường mở nhằm cung ứng hợp lí đồng nội tệ ra nền kinh tế. Thứ sáu: Ngân hàng nhà nước cần tính toán lãi suất triết khấu giữa đồng Việt Nam và đồng USD sao cho phù hợp nhằm tránh tình trạng đô la hoá. Xử lí linh hoạt chính sách lãi xuất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Đồng thời cũng thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trong nước nhằm cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31888.doc
Tài liệu liên quan