Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về lý luận lẫn thực tiễn cho ta thấy một điều không thể phủ nhận rằng: giai cấp công nhân là một giai cấp tiên tiến, có vai trò to lớn trong lịch sử phát triển của thế giới, là một lực lượng xã hội tiên phong trong công cuộc cải tạo khoa học công nghệ vào sản xuất của xã hội. Hiểu được rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận thức đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.
Mặt khác, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một nội dung quan trọng đối với giai cấp công nhân nên nó rất cần được xã hội và nhất là Đảng cộng sản chú trọng, tạo điều kiện hoàn thành một cách tốt nhất.
20 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1842 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản- cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên? Sở dĩ như vậy vì đây chính là hai vị trí phân biệt giai cấp công nhân với các giai cấp khác trong xã hội. Họ phải kiếm được việc làm và họ phải kiếm được việc làm khi họ bán được sức lao động.
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân có sự khác nhau. Hai khái niệm về hai giai cấp này khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công cụ sản xuất để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh; sản phẩm của nông dân mang tính chất cá nhân và công cụ sản xuất của họ còn thô sơ. Còn giai cấp công nhân có khác: công cụ sản xuất hiện đại; mỗi công nhân là một mắt khâu của công việc sản xuất; sản phẩm của họ mang tính chất xã hội.
Giai cấp công nhân cũng khác với vô sản lưu manh. Đó là giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất, họ tồn tại được là nhờ bị bóc lột giá trị thặng dư. Còn giai cấp tư sản, họ có nhiều tư liệu sản xuất nhưng lại không có sức lao động, họ phải thuê giai cấp công nhân và bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để tồn tại. Đây chính là hai mặt của một vấn đề.
Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân lại là những người lao động tự do, những người bán sức lao động để sống, họ là những người làm công ăn lương (hay làm thuê), là lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau của thế kỷ XX, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Từ dự kiến của C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo có nhiều biến đổi. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt xa trình độ văn minh công nghiệp trước đây, sự xã hội hoá và phân công lao động xã hội mới, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại; các hình thức bóc lột giá trị thặng dư ... đã làm cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại không còn giống với những mô tả của C.Mác trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhưng giai cấp công nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ mệnh lịch sử của mình trong xã hội tư bản hiện đại; những thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân mà C.Mác đã phát hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có nhiều thay đổi to lớn. Bên cạnh lực lượng công nhân truyền thống, xuất hiện công nhân trình độ tự động hoá với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên cạnh những ngành công nghiệp truyền thống, xuất hiện công nhân hoạt động ở lĩnh vực dịch vụ. Thực tế, ở các nước tư bản, công nhân trong các ngành dịch vụ này chiếm 50% đến 70% lao động.Tuy nhiên, điều này không hề làm giảm vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế và ngay cả tỷ trọng của giai cấp công nhân trong dân cư. Bởi vì những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp vẫn là công nhân xét cả trên hai thuộc tính về giai cấp công nhân. Mặt khác, bên cạnh trình độ thấp của giai cấp công nhân truyền thống đã xuất công nhân có trình độ cao, có xu hướng “tri thức hoá” và cũng ngày càng tiếp thu thêm đông đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc dù vậy, bản chất về giai cấp công nhân cũng không hề thay đổi. Nếu trước kia, công nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán cả sức lao động chân tay và lao động trí óc, giá trị ngày càng lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng dư theo chiều sâu. Giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi về tài sản. Phần lớn, họ không còn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay trắng, mà họ đã có một số tư liệu sản xuất phụ có thể cùng gia đình làm thêm; một số công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu ở xí nghiệp. Tuy vậy nhưng nó cũng không làm thay đổi toàn bộ lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, họ vẫn bị bóc lột dưới những hình thức khác nhau.
Giai cấp công nhân hiện nay không những trong lĩnh vực công nghiệp mà trong mọi ngành nghề khác nhau, có trình độ sản xuất khác nhau của nền công nghiệp hiện đại. Họ là những người trực tiếp đứng máy, không nằm trong dây truyền sản xuất tự động, không kiểm tra hoạt động máy móc ... mà đó là những chuyên gia trực tiếp chăm lo nghiên cứu, sáng chế để không ngừng cải tiến máy móc nhằm nâng cao chất lợng sản phẩm, năng suất lao động. Họ là những người hoạt động ở các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ cho sản xuất như bưu điện, viễn thông, giao thông vận tải,... Họ còn là những người lao động làm thuê trong các ngành dịch vụ đang trở thành những ngành công nghiệp thực sự như du lịch, ngân hàng, thông tin ... Đó còn là những nhân viên thừa hành làm công ăn lương phục vụ cho hệ thống quản lý của các công ty.
Đối với giai cấp công nhân ở thời kỳ đế quốc ta còn thấy bộ phận làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân. Xét về tư cách giai cấp, họ còn là những người làm chủ, nhng xét về góc độ cá nhân, những người này vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, do đó họ vẫn mang hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân. Do vậy họ vẫn nằm trong giai cấp công nhân.
Tóm lại, căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân, ta có thể nói: những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân, còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo giục, văn hoá, dịch vụ( không liên quan đến sản xuất công nghiệp) ... là những người lao động nói chung, họ đang được thu hút vào các tổ chức công đoàn nghề nghiệp nhưng họ không phải là công nhân.
Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân trở thành giai cấp nắm chính quyền, thành giai cấp thống trị nhưng không thành giai cấp bóc lột, họ có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu hoá.
Sau khi xoá bỏ được mọi giai cấp, giai cấp công nhân sẽ không còn nữa. Lúc đó, công nhân sẽ như mọi lao động được giải phóng, đều có điều kiện phát triển tự do và toàn diện.
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai tiêu chí trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
II. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Nội dung
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các
hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp, để giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã hội
hoá cao với quan hệ sản xuất cũ, giữa giai cấp thống trị với giai cấp lao động phải phát triển từ hình thái kinh tế xã hội thấp đến cao.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao động: là người sáng tạo chân chính ra lịch sử; là người có vai trò quyết định sáng tạo công cụ sản xuất, giá trị thặng dư, chính trị xã hội. Khi trong xã hội còn tồn tại giai cấp bóc lột trong một phương thức sản xuất với điều kiện phương thức sản xuất đó còn giữ vị trí tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, là giai cấp trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ xã hội cũ; xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận:
Một là: giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất cả các xã hội trước để lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện mâu thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng quan hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân.
Ba là: việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp, điều đó không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội và giải phóng con người vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân lao động, với dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột. Hay nói cách khác, nội dung tổng quát sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.
Ph.Ăngghen viết:” Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy- đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại ”. Còn Lênin đã chỉ rõ:” Điểm chủ yếu trong học thuyết của C.Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung thực chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở đây chính là:
Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất lao động thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, thoả mãn nhu cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Do đó nó cần phải được thực hiện một cách lâu dài, gian khổ, trải qua từng bước cụ thể. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất; xây dựng chế độ công hữu là quá trình phù hợp nhưng phải dần dần từ từ.
Tại sao phải xoá bỏ chế độ tư hữu? Sở dĩ như vậy vì đây là cơ sở của chế độ người bóc lột người; biểu hiện cao nhất của chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất là sở hữu tư bản chủ nghĩa do đó phải xoá bỏ chế độ tư hữu; sau khi xoá bỏ chế độ tư hữu thì mới thiết lập chế độ công hữu tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với yêu cầu sản xuất; đây cũng là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại chế độ xã hội mới vì thế cũng rất cần phải xoá bỏ chế độ tư hữu này. Chính C.Mác đã nói: ”những người cộng sản có thể tóm tắt lực lượng của mình bằng một công thức là xoá bỏ chế độ tư hữu”.
Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống trị trong xã hội. Đó là phải đập tan chính quyền tư sản; xây dựng chính quyền nhà nước(nền chuyên chính vô sản): thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, giữ vai trò quan trọng là công cụ xây dựng xã hội mới, là kiểu nhà nước: nhà nước nửa nhà nước và nhà nước tự tiêu vong.
Trong lĩnh vực xã hội đó là: phải tiến hành xoá bỏ giai cấp bóc lột; phải tiến hành xoá bỏ giai cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. ở đây xoá bỏ giai cấp bóc lột với tư cách là giai cấp chứ không xoá bỏ các cá nhân vì họ có thể là những cá nhân có ích trong xã hội mới.
Có thể nói nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm bốn sự nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội, dân tộc; sự nghiệp giải phóng người lao động; và sự nghiệp giải phóng con người. Đây chính là nấc thang phát triển trong sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải được thực hiện trên toàn thế giới.Và để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, nên những người cộng sản phải kiên trì, không nóng vội, nó phải đợc tiến hành hai giai đoạn: tập trung lực lượng để giành chính quyền và tập trung lực lượng để xây dựng chế độ xã hội mới.
Trong giai đoạn đầu, giai cấp công nhân và chính đảng của mình tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền của cách mạng vô sản. Các bước đấu tranh đó gồm: thiết lập một chính đảng cộng sản, đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách lược, mục tiêu, phương hướng, biện pháp, giải pháp…;liên minh giai cấp công nhân, nông dân, xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng; tạo tình thế như điều kiện khách quan trên thế giới và trong nước…Khi cách mạng vô sản thắng lợi sẽ đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản; xoá bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (bản chất là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất); kế thừa có chọn lọc tri thức văn hoá truyền thống dân tộc và tri thức văn hoá thời đại.
Trong giai đoạn hai, khi đã giành được chính quyền – thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội: Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải tiếp tục đấu tranh giai cấp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với mục đích là giữ vững chính quyền cách mạng (xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa):Về chính trị, quyền lực nhà nước thể hiện ý chí của dân. Nhà nước vô sản có hệ thống chính trị gồm Đảng cộng sản, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong công tác đối nội và đối ngoại sẽ sử dụng bạo lực trấn áp thù trong giặc ngoài. Về kinh tế, mục đích là đạt được năng suất lao động cao, nguyên tắc phân phối là làm theo năng lực, hưởng theo lao động; sử dụng các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản nhà nớc, sở hữu tư nhân. Do đó cần nắm vững cơ chế Đảng cộng sản lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân lao động làm chủ dựa trên pháp luật của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (nguyên tắc tập trung dân chủ). Về văn hoá tư tưởng: kế thừa có chọn lọc tri thức văn hoá truyền thống dân tộc, kết hợp với tri thức văn hoá của nhân loại (khoa học kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế tri thức), và định hướng xã hội là định hướng tư tưởng cá nhân. Về quân sự, xây dựng chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh quốc gia. Về ngoại giao, phát triển quan hệ song phương, đặt vấn đề dân tộc và lợi ích là trên hết Vì vậy đường lối đặt ra phải phù hợp với quy luật khách quan, hợp lòng dân, chống thù trong giặc ngoài và mọi âm mưu diễn biến hoà bình của đế quốc.
2. Những điều kiện khách quan
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, về mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.
a.Về địa vị kinh tế xã hội:
Dới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân, thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản thân sự phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng người lao động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động…
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ phận tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất mà giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thế, ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao (mà giai cấp công nhân là đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà giai cấp tư sản là đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể khắc phục được nếu không xoá bỏ đợc chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Sự vận động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Như vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế tri thức.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối sản phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Họ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư sản (bị bóc lột trong quá trình sản xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều sâu).
Giai cấp công nhân hiện nay ở các nớc tư bản có đời sống vật chất cao vẫn bị bóc lột, bần cùng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công nhân có cổ phần, tức là đã ra nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản xuất đó là công nhân tư bản nhân dân nhưng con số này vẫn còn rất khiêm tốn. Còn ở các nớc tư bản phá triển, công nhân bị bóc lột cao hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% và sự chênh lệch giàu nghèo cũng khá cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là thực sự cách mạng vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện cho lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao, và nó lao động trong nền đại công nghiệp với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại và sản xuất ra tuyệt đại của cải cho xã hội.
Từ địa vị giai cấp công nhân và giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động đã tạo điều kiện cho giai cấp công nhân đoàn kết với giai cấp khác, đi đầu trong công cuộc đấu tranh để thực hiện quá trình giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Họ có khả năng đoàn kết giai cấp khác (tất cả giai cấp vô sản) vì giai cấp công nhân: có cùng lợi ích cơ bản, thống nhất nhau do bị bóc lột giá trị thặng dư; cùng tồn tại trong một môi trường sản xuất nh nhau có tính chất công nghiệp thậm chí dịch vụ; có cùng tư bản trong nước và quốc tế bóc lột; có cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch sử tiêu diệt tư sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b.Về đặc điểm chính trị, xã hội:
Do những đặc điểm về kinh tế chính trị xã hội của giai cấp công nhân: từ địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân, điều đó cũng quy định những đặc điểm xã hội chính trị của giai cấp công nhân, do vậy giai cấp công nhân có vai trò sứ mệnh cao cả. Những đặc điểm đó là:
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất: Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa– phương thức sản xuất tiên tiến nhất và là lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hoá cao.
Giai cấp công nhân luôn đi đầu trong các cuộc cách mạng và làm cách mạng cho đến khi thắng lợi. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản, nhưng phù hợp với lợi ích, khát vọng giải phóng của nhân dân lao động. Do đó giai cấp công nhân càng có đủ điều kiện, khả năng trở thành lực lượng tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong công cuộc xoá bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, tính triệt để đó được thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế xã hội: Về kinh tế, lợi ích của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản, họ là những người không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho các nhà tư bản và bị áp bức bóc lột nặng nề. Vì thế, họ phải đứng thực hiện cuộc cách mạng vô sản thành công, đa họ từ địa vị của người làm thuê trở thành người làm chủ bản thân, và làm chủ xã hội. Về xã hội, khi làm cách mạng, giai cấp công nhân đa cách mạng đến thành công, đập tan nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai cấp vô sản. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân còn được thể hiện ở chỗ nó được vũ trang bởi hệ tư tưởng tiên tiến là học thuyết Mác – Lênin được đội ngũ tiên phong của nó là Đảng cộng sản lãnh đạo.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức kỷ luật cao: Điều kiện sản xuất tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, cơ cấu tổ chức sản xuất chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân hiện đại tính tổ chức và kỷ luật cao, tác phong công nghiệp; trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản thống trị, giai cấp công nhân phải đoàn kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính cách mạng cao vì cách mạng đòi hỏi đúng thời điểm, thời cơ thuận lợi mới có thể thành công.
Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế: Gắn với nền công nghiệp hiện đại, chẳng những giai cấp công nhân có trình độ xã hội hoá ngày càng cao ở mỗi nước mà còn có mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Giai cấp công nhân ở các nước tư bản nói chung đều có địa vị kinh tế xã hội giống nhau. Vì vậy họ có mục tiêu đấu tranh chung là xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, không còn tình trạng người áp bức bóc lột người. Mặt khác, giai cấp tư sản cũng là một lực lượng quốc tế và để duy trì địa vị thống trị của mình, giai cấp tư sản luôn thực hiện sự liên minh trên phạm vi quốc tế để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Do đó muốn hoàn thành sự nghiệp giải phóng, giai cấp công nhân phải đoàn kết lại, đấu tranh trên phạm vi toàn quốc tế. Bản chất quốc tế đó thể hiện trước hết ở việc giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân, dân tộc mình hoàn thành nhiệm vụ tự giải phóng. Lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân không tách rời mà gắn bó mật thiết với lợi ích chân chính của dân tộc mà giai cấp công nhân làm đại diện.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió. Bên cạnh những điều kiện khách quan quy định, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn có nhiều quan điểm nhằm phê phán giai cấp công nhân cùng với sứ mệnh lịch sử của họ:
Thứ nhất, ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội và một số người cơ hội xét lại đang phủ nhận thuyết Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo họ giai cấp công nhân ngày càng “teo đi“, đã “tan biến” vào các giai cấp, tầng lớp xã hội khác: địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân đã thay đổi nhiều, phần đông trong giai cấp này đã trung lưu hoá…Nhưng thực tế đã chứng minh đó là ý kiến hoàn toàn sai lầm, vì giai cấp công nhân hiện nay có sự biến đổi về số lượng, dịch chuyển vào các giai cấp khác, nhưng chất lượng không thay đổi. Quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa dù có hiện đại hoá đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn không ngừng tái sinh ra quan hệ tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa đang diễn ra hết sức gay gắt. Giai cấp tư sản đã và đang tìm mọi cách để điều chỉnh các quan hệ tư bản chủ nghĩa nhằm cứu vãn chế độ thống trị của chúng. Chúng có thể đạt được một số thành tựu và kết quả nào đấy nhưng vẫn không sao khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản. Dù nơi này hay nơi khác, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn có khả năng phát triển, nhưng phải thường xuyên đương đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp thường xuyên không tránh khỏi của hàng chục triệu người. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách nặng nề, nhưng bức tranh toàn cảnh của sự phát triển lực lượng sản xuất thế giới vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.
Thứ ba, hiện nay, giai cấp công nhân đã, đang và sẽ phấn đấu trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội, nắm quyền lực nhà nước bằng nhiều con đường khác nhau. Bởi lẽ đây là lực lượng duy nhất đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến. Giai cấp công nhân là người đại diện cho lợi ích và quyền lực của nhân dân, của nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, phải chăng, hiện nay trong các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân không còn bị bóc lột như trước, đã “trung lưu hoá” và có cổ phần trong xí nghiệp, cho nên giai cấp công nhân không có tinh thần cách mạng nh trước, không còn có thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa Mác- Lênin không quan niệm một giai cấp có khả năng lãnh đạo cách mạng vì nó nghèo khổ nhất. Mưu toan đem sự nghèo khổ để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự xuyên tạc trắng trợn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự thực, ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ trong giai cấp công nhân đã được cải thiện. Một bộ phận công nhân đã có mức sống cao hơn. Song điều đó không có nghĩa là công nhân ở các nước đó không bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể. Một số công nhân có cổ phần, cổ phiếu trong công ty nhưng điều đó không hề làm thay đổi một sự thật là toàn bộ tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản. Do đó giai cấp công nhân về cơ bản vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, và bị bóc lột nhiều hơn trước.Vì vậy mà giai cấp tư sản chỉ bớt một phần lợi nhuận (chính là việc cho công nhân mua cổ phần, cổ phiếu) để cải thiện đời sống công nhân. Và thực tế thì đời sống của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển vẫn còn nhiều tình trạng nghèo khổ, thất nghiệp, thiếu nhà ở, mù chữ, đời sống bấp bênh.
Thứ năm, cũng có quan điểm cho rằng, luận điểm của Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trước đây có thể đúng nhưng không có đúng trong thời đại ngày nay. Theo họ thì thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của “kinh tế tri thức”, do đó tri thức mới là lực lượng tiên phong, có vai trò lãnh đạo cách mạng. Tất nhiên, trí thức có vai trò quan trọng trong mọi thời đại.Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, vai trò trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song, trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân. Bởi lẽ: Trong xã hội trí thức chỉ là một tầng lớp đặc biệt và không thuần nhất. Trí thức chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Nó không đại biểu cho một phương thức sản xuất nào, không là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Do đó, không có hệ tư tưởng riêng, không thể là người lãnh đạo cách mạng. Mặt khác, tri thức không có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Dới chế độ tư bản, trí thức cũng làm thuê nhưng được giai cấp tư sản đào tạo và một bộ phận đợc ưu đãi.Trí thức không phải là tầng lớp có tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân. Thực tế lịch sử cho thấy cha bao giờ có tầng lớp trí thức nào có thể thay thế một giai cấp để lãnh đạo cách mạng.Trí thức bao giờ cũng là trí thức của một giai cấp nhất định và thường là của giai cấp thống trị xã hội.
Từ sự phân tích về địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm xã hội chính trị của giai cấp công nhân, chính đó là những cơ sở khách quan để khẳng định giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh để thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa và từng bớc xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra chính Đảng của mình, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản, thực hiện quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
III. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đảng cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, trải qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác. Yếu tố có ý nghĩa quyết định sự chuyển biến về chất là sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân. Sự thâm nhập đó dẫn đến sự hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân. Sau khi ra đời, Đảng cộng sản với vai trò là người tiếp tục sự nghiệp kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân trên quy mô lớn hơn nhằm giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra chính Đảng của mình để lãnh đạo thì cuộc đấu tranh mới có thể đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn.
Đảng cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân.Mục đích và lợi ích của Đảng và của giai cấp công nhân là thống nhất. Không có Đảng cộng sản – hạt nhân chính trị của phong trào công nhân, bản thân giai cấp công nhân không thể trở thành lực lượng chính trị độc lập, cũng không thể trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Đảng cộng sản là người đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc. Trong phạm vi một nớc đồng thời cũng vì lợi ích chung của phong trào cộng sản và quốc tế. Chính vì vậy, giai cấp công nhân dới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra được cơ sở thống nhất tư tưởng và hành động, phát huy tư cách là người lãnh đạo trong đấu tranh chống áp bức bóc lột xây dựng xã hội mới.
Sức mạnh để chiến thắng giai cấp tư sản và mọi kẻ thù khác, không phải chỉ là ở số lượng và ở tinh thần chiến đấu của giai cấp công nhân mà chủ yếu là ở trình độ tổ chức và giác ngộ chính trị của nó. Điều đó được thể hiện tập trung ở chính Đảng- một tổ chức bao gồm những ngời ưu tú nhất, giác ngộ chính trị xã hội cao, có tinh thần đấu tranh kiên quyết nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy Đảng cộng sản luôn là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và của toàn xã hội.Đảng có nhiệm vụ sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, phân tích đúng đắn hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai đoạn cách mạng, đề ra mục tiêu, phương hớng, đường lối, chính sách đúng, phù hợp với yêu phát triển khách quan của đất nước. Đồng thời Đảng giáo dục, tổ chức, lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân thực hiện công cuộc xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng thành công chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
IV.Cách mạng xã hội chủ nghĩa với việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trong quá trình giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, phải thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ cách mạng xã hội sang cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa khi điều kiện vật chất và tinh thần cho sự thay đổi đó đã ở mức độ nhất định, khi đã hoàn thành tình thế cách mạng.Bản chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng tiến hành tất cả cuộc cách mạng xã hội, mang tính chất toàn diện, triệt để, lâu dài. Thể hiện: xoá bỏ tận gốc chế độ người bóc lột ngời, xoá bỏ phân chia giai cấp áp bức giai cấp và bóc lột giai cấp; vì được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực xã hội từ cơ sở hạ tầng tới kiến trúc thượng tầng, từ sinh hoạt vật chất đế sinh hoạt tinh thần, nên đây là cuộc cách mạng lôi cuốn đợc đông đảo quần chúng nhân dân, đem lại quyền lợi cho số đông nhân dân lao động, như Lênin đã từng nói: ”cách mạng xã hội chủ nghĩa là ngày hội quần chúng”; đây là cuộc cách mạng mang tính chất lâu dài, gian khổ và phức tạp vì nó mới và chưa có trong lịch sử, do đó phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, vừa bổ xung…
C.Mác và Ph.Ăngghen coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình liên tục và nhấn mạnh quá trình liên tục, nhưng được chia làm hai giai đoạn: giành chính quyền và chuyển lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai ông đã đặt hy vọng nhiều vào điều kiện nổ ra của cách mạng xã hội chủ nghĩa: nổ ra ở những nước tư bản phát triển và thắng lợi đồng loạt ở các nớc tư bản phát triển. Với những nước chậm phát triển theo C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu về vấn đề này coi đó là một bộ phận của cách mạng vô sản. Nếu cách mạng xã hội nổ ra ở những nước này thì giai cấp công nhân cần làm : phải biết kết hợp giữa phong trào công nhân với phong trào nông dân, đồng thời kết hợp với lực lượng tư sản để chống phong kiến (tức là lật đổ hình thái kinh tế xã hội cũ và thay thế vào đó là hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn) bằng đấu tranh giai cấp hay cách mạng xã hội chủ nghĩa; trong khi kết hợp tư sản đánh phong kiến, giai cấp công nhân phải ủng hộ mọi phong trào dân chủ, đồng thời độc lập về mặt đường lối, phải hớng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân phải lôi kéo được lực lượng và phát triển lực lượng; trong khi đi với giai cấp tư sản đánh chế độ phong kiến, giai cấp công nhân phải độc lập đường lối, chỉ có thể liên minh tạm thời với giai cấp phong kiến.
Còn với Lênin, ông đã phân tích điều kiện cụ thể nước Nga và đa ra quan điểm phát triển tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen. Những quan điểm đó là:
Thứ nhất:cách mạng dân chủ tư sản phải do giai cấp công nhân lãnh đạo do giai cấp công nhân vì yếu tố thời đại chi phối như giai cấp tư sản đã mất vai trò lãnh đạo, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc làm kìm hãm sự phát triển của lịch sử ; mặt khác, giai cấp công nhân đã trưởng thành, là điểm hoàn toàn mới so với C.Mác và Ph.Ăngghen.
Thứ hai: lực lượng cách mạng gồm các giai cấp ,tầng lớp khác trong xã giai cấp tiên tiến nhất vì mục tiêu của họ gắn liền với việc thủ tiêu một cách triệt để chế độ phong kiến. Giai cấp vừa và nhỏ có tinh thần dân chủ, là lực lượng lừng khừng cấu kết phong kiến chống cách mạng, hạn chế tiêu cực, phát triển tích cực.
Thứ ba: cách mạng dân chủ tư sản phải được tiến hành cụ thể rồi tiến ngay vào cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng có mối liên hệ biện chứng, không có bức tường thành nào ngăn cách.
Có thể nói cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Trên lĩnh vực chính trị: cách mạng xã hội chủ nghĩa làm Đảng cộng sản lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đập tan chính quyền cũ để thành lập chính quyền của dân, do dân và vì dân, da nhân dân lên vị trí làm chủ. Sau khi có chính quyền, chính quyền nhà nớc vô sản cần tập trung xây dựng đời sống chính trị, khẳng định và mở rộng quyền lực nhân dân, khắc phục hạn chế về dân chủ, nâng cao ý thức dân chủ cho nhân dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ công hữu tư nhân tư liệu sản xuất cao nhất là sở hữu tư bản chủ nghĩa, nhằm mục tiêu đa người lao động làm chủ trong quá trình sản xuất; xoá bỏ hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa, thành lập công hữu tư liệu sản xuất…đưa người lao động lên vị trí làm chủ; tạo điều kiện để kết hợp giữa tư liệu sản xuất và người lao động; cải thiện điều kiện làm việc của người lao động và điều kiện sinh hoạt vật chất của họ; tập trung phát triển lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động.
Trên lĩnh vực văn hóa: tạo sự chuyển biến trong phương thức và nội dung sinh hoạt tư tưởng để ảnh hưởng tới sự phát triển; kế thừa, nâng cao, phát triển giá trị truyền thống văn hoá dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; xây dựng nền văn hoá mới theo lập trường của giai cấp công nhân là giải phóng con người về mặt tinh thần.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đấu tranh xoá bỏ xã hội tư bản và từng bớc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình đó chỉ được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì: nguyên nhân sâu xa dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản, đó là mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, mà quan hệ sản xuất này đã trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Biểu hiện về mặt chính trị xã hội của mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản- đây là mâu thuẫn đối kháng và không thể điều hòa, mâu thuẫn này trực tiếp dẫn đế cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì một mặt những mâu thuẫn trên phát triển càng gay gắt, đồng thời xuất hiện thêm những mâu thuẫn mới đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa, phụ thuộc, giữa đế quốc với đế quốc. Tất cả những mâu thuẫn đó càng đẩy nhanh tới sự chín muồi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin đã chỉ rõ: “chủ nghĩâ đế quốc là đêm trước, là phòng chờ của cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải diễn ra một cách tự phát, mà nó là kết quả của quá trình đấu tranh giai cấp lâu dài, gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại sự thống trị của giai cấp tư sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ diễn ra ở những nơi có tình thế cách mạng. Tình thế cách mạng là biểu hiện của sự chín muồi của những điều kiện khách quan. Có tình thế cách mạng vẫn chưa đủ mà cần phải có những nhân tố chủ quan, bao gồm sự lãnh đạo của Đảng tiên phong và tinh thần, hành động cách mạng của quần chúng. Nh vậy, đỉnh điểm của sự chín muồi của những nhân tố khách quan và chủ quan sẽ đưa đến thời cơ cách mạng. Giai cáp công nhân thông qua Đảng tiên phong của mình chọn đúng thời cơ phát động quần chúng đứng lên dùng bao lực cách mạng để lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và các thế lực phản động giành lấy chính quyền nhà nước, thiết lập chuyên chính vô sản, mở đường cho công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình bao gồm việc lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản và dùng chuyên chính vô sản để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là quy luật phổ biến của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Nh vậy, giai cấp công nhân sau khi tiến hành thành công cách mạng xã hội chủ nghĩa tức là sẽ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Chính vì vậy mà cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là nội dung hành động quan trọng nhất trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công thì giai cấp công nhân mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
V. Những biện pháp để củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
Với một Đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Vì vậy, để tăng cường và củng cố sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thì chính giai cấp công nhân phải thành lập ra chính Đảng của mình. Trong đó, giai cấp công nhân và chính từng cá nhân mỗi công nhân cần phải thường xuyên vươn lên, trởng thành về các mặt: tư tưởng, chính trị, lập trờng giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật, tay nghề…Mặt khác, giai cấp công nhân cần phải liên minh với các giai cấp, tầng lớp khác trong việc xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng và xã hội văn minh. Ngày nay, trong tiến trình phát triển của lịch sử thế giới ngày càng có nhiều biến động. Vì vậy giai cấp công nhân cần không ngừng giác ngộ lý luận cách mạng, nâng cao cảnh giác trong mọi tình huống; đồng thời cần tổ chức các công tác đối nội và đối ngoại một cách hợp lý, vừa mở rộng quan hệ quốc tế, vừa giao lưu với các tinh hoa văn hoá nhân loại phục vụ xây dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân cũng phải có sự đoàn kết nhất trí cao trong quá trình lãnh đạo của mình, tạo sự thống nhất giữa các giai cấp trong xã hội. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân cũng cần phải khắc phục mọi khó khăn trong mọi tình hình, không ngừng nâng cao năng lực cả về chuyên môn lẫn văn hoá xã hội.
Chơng II. Luận cứ thực tiễn
Để minh chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, ta sẽ xét trên tình hình thực tế của nước ta.
Gia cấp công nhân Việt Nam là một trong những bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế, nhưng do điều kiện ra đời và hoàn cảnh lịch sử nước ta nên nó còn mang những đặc điểm riêng. Đó là:
Thứ nhất: giai cấp công nhân Việt Nam còn non trẻ, ra đời từ những năm đầu của thế kỷ XX ở một nước nửa thuộc địa phong kiến. Đó là giai cấp thuần nhất về tư tưởng, sớm tập trung về lực lợng, không có tầng lớp công nhân quý tộc, sớm tổ chức được chính Đảng của mình. Giai cấp công nhân Việt Nam đợc kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, hơn nữa nó lại bị ba tầng áp bức nặng nề nên có tinh thần cách mạng.
Thứ hai: giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ khăng khít, thường xuyên, chặt chẽ với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức.
Thứ ba: giai cấp công nhân Việt Nam sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng tháng Mười Nga của chủ nghĩa Mác- Lênin, không bị chi phối bởi chủ nghĩa cơ hội, sớm gắn bó với phong trào công nhân Quốc tế.
Những đặc điểm trên đây của giai cấp công nhân Việt Nam đã có ảnh hưởng to lớn tới việc thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn của nó. Bởi vì:
Do đặc điểm tập trung, sớm thống nhất cả về tư tưởng, tổ chức, sớm tổ chức được chính Đảng của mình, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin nên nó đã nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tiên phong của dân tộc, đã xây dựng được cương lĩnh chính trị và đường lối cách mạng đúng đắn ngay từ buổi đầu, vì vậy luôn giữ vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Do có quan hệ mật thiết và gắn bó với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức nên giai cấp công nhân Việt Nam sớm tập hợp, đoàn kết và không ngừng phát huy sức mạnh của cả dân tộc trên nền tảng liên minh Công- Nông- Trí thức.
Do gắn bó với phong trào công nhân quốc tế và sớm tiếp thu tư tưởng Mác- lênin nên giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm kết hợp và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Do không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội Quốc tế III nên giai cấp công nhân Việt Nam luôn giữ vững được tinh thần thống nhất về tư tưởng, đoàn kết về tổ chức, vững vàng về chính trị, kiên cường và triệt để trong phong trào đấu tranh cách mạng.
Chính vì những lẽ trên nên giai cấp công nhân Việt Nam thông qua chính Đảng của mình đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành triệt để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đa cả nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó đối với dân tộc cũng là sự đóng góp vào phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân toàn thế giới.
Tuy nhiên do sinh ra và trởng thành ở nước nông nghiệp lạc hậu. Bị áp bức bóc lột nặng nề nên giai cấp công nhân Việt Nam còn có những hạn chế như: trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp chưa cao, tác phong, tập quán, thói quen, tâm lý còn ảnh hưởng nặng nề của người sản xuất nhỏ. Hiện nay theo thống kê, số lượng công nhân nước ta có 10,2 triệu trên tổng số 80 triệu dân, trong đó có 1,8 triệu công nhân trong doanh nghiệp nhà nước. Còn trình độ học vấn có: 62% có trình độ trung học phổ thông; 28% có trình độ phổ thông cơ sở; 5% có trình độ tiểu học và 0,32% không biết chữ. Chính những hạn chế đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Ngày nay giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo nhân dân ta tiến lên sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Điều đó đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam cần khắc phục nhanh chóng những hạn chế của mình, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng, chất lượng, không ngừng nâng cao trình độ tư duy, trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn… chỉ có như vậy mới đáp ứng đợc đòi hỏi của thực tiễn, mới hoàn thành đợc sứ mệnh đối với dân tộc.
Với những đặc điểm như trên nên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những nội dung khác so với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới nói chung. Sứ mệnh lịch sử đó được thể hiện trong từng giai đoạn khác nhau của lịch sử.
Trong giai đoạn trước khi giành độc lập cả nớc, giai cấp công nhân cùng với toàn dân tộc đứng lên làm cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, thông qua đội ngũ tiên phong của mình để giành chính quyền, thiết lập chính quyền nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lãnh đạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước tiến hành xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng quần chúng nhân dân lao động khỏi tình trạng áp bức bất công, xây dựng cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội, phát triển y tế, văn hoá giáo dục…
Trong giai đoạn hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp và dịch vụ công nghiệp thuộc các doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã hay thuộc khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài. Họ hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng cộng sản Việt Nam đợc vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Chính vì thế, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân Việt Nam phải được phát triển về số lượng và chất lượng, vươn lên khắc phục những hạn chế, từng bước đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại biểu đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “tri thức hoá công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới…”
C.Kết luận
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về lý luận lẫn thực tiễn cho ta thấy một điều không thể phủ nhận rằng: giai cấp công nhân là một giai cấp tiên tiến, có vai trò to lớn trong lịch sử phát triển của thế giới, là một lực lượng xã hội tiên phong trong công cuộc cải tạo khoa học công nghệ vào sản xuất của xã hội. Hiểu được rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận thức đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.
Mặt khác, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một nội dung quan trọng đối với giai cấp công nhân nên nó rất cần được xã hội và nhất là Đảng cộng sản chú trọng, tạo điều kiện hoàn thành một cách tốt nhất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10886.doc