Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, kế toán là một trong những công cụ quản lý kinh tế quan trọng. 15 năm qua, cùng với quá trình cải cách và đổi mới kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện. Sau 15 năm đổi mới, tiềm lực kinh tế và tài chính của đất nước đã được tăng cường, chính trị, xã hội ổn định. Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, giữ vững định hướng XHCN: Nền tài chính quốc gia, hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường đã được tạo lập và phát triển. Tài chính đã từng bước làm tốt vai trò động viên, phân phối nguồn lực, quản lý, kiểm soát và giám sát vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đó là những thành tựu đáng khích lệ và đã tạo đà quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở đất nước ta.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự phát triển và hoàn thiện của chế độ kế toán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
loạt các văn bản kế toán cho các nghành kinh tế. Công tác kế toán vận hành trong nền kinh tế có hiệu quả hơn, đảm bảo tính thống nhất chế độ kế toán trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế tạo điều kiện từng bước lập lại trật tự kỷ cương trong công tác kế toán; trình độ cán bộ kế toán được nâng cao tiếp cận được chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế.
Hiện nay và trong những năm tới, Bộ tài chính sẽ tiến hành những công việc có tính chất nền tảng, chiến lược hơn. Đó là phải tạo ra một mô hình có tính hệ thống tổng thể về tổ chức bộ máy các cơ quan chức năng, các tổ chức nghề nghiệp, hệ thống khuôn khổ pháp lý, các chế độ thể lệ, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán và đội ngũ những người làm kế toán, kiểm toán thích ứng với đòi hỏi mới của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Theo kế hoạch, từ năm 2000 đến năm 2003 sẽ nghiên cứu, soạn thảo Luật kế toán thay thế Pháp lệnh Kế toán và Thống kê. Sau 10 năm thực hiện, pháp lệnh kế toán và thống kê đã không còn phù hợp. Việc hoà nhập hai loại hạch toán kế toán và hạch toán thống kê trong pháp lệnh là không hợp lý, kém hiệu lực kinh tế thị trường. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp lệnh chưa bao quát, chưa đầy đủ và không phù hợp với tình hình phát triển của đất nước sau 10 năm đổi mới theo đường lối của Đảng; Hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam đang được nghiên cứu, soạn thảo và sẽ ban hành áp dụng từng bước đáp ứng yêu cầu phản ánh và quản lý hoạt động kinh tế, tài chính các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay và phải đảm bảo yêu cầu:
Thông tin do kế toán cung cấp là cơ sở tin cậy để nhà nước điều hành nền kinh tế vi mô, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, của các nghành, các khu vực, thành phần kinh tế và các tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Đáp ứng được những nhu cầu sử dụng thông tin kinh tế tài chính của các đối tượng khác nhau, đa dạng trong nền kinh tế;
Bao quát được các hoạt động kinh tế vốn có trong nền kinh tế thị trường và phải tuân theo những nguyên tắc, chuẩn mực kế toán chung được thừa nhận của nền kinh tế thị trường, làm cho kế toán trở thành "ngôn ngữ" thống nhất không chỉ đối với một quốc gia, mà còn mang tính chất khu vực và toàn cầu.
Nhằm tạo sự thống nhất trong phản ánh thực trạng tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh cũng như việc cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính cần thiết khác, làm rõ thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh ở doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo một chuẩn mực chung, trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh theo một thước đo chung có khả năng so sánh các thông tin kinh tế, tài chính cung cấp trong nền kinh tế giữa các doanh nghiệp.
Đồng thời cần tiếp tục cụ thể hoá chế độ kế toán một số nghành đặc thù như kế toán ngân hàng, các tổ chức tín dụng, kế toán thị truờng chứng khoán …, chế độ bảo quản lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán. Sớm đưa Hội đồng quốc gia về kế toán vào hoạt động, làm tham mưu và tư vấn cho Chính phủ về lĩnh vực kế toán.
2) Góp phần hoàn thiện pháp chế Xã hội chủ nghĩa:
Nội dung những vấn đề chủ yếu được thảo luận và quyết nghị tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X, một lần nữa chứng minh Nhà nước ta tiếp tục tiến bước mạnh mẽ trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện pháp chế XHCN. Đó là nền pháp chế tiên tiến, nhất quán mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: Phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đồng thời giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường.
Xét tổng thể, pháp chế gồm hai mặt:
Một là, hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành và có hiệu lực thi hành, như các bộ luật, sắc luật, pháp lệnh,nghị định, thông tư, quyết định… của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hai là, việc tổ chức thực hiện, đảm bảo hiệu lực thực tế của các văn bản pháp luật đó.
Hai mặt này là hai bộ phận hữu cơ trong một chỉnh thể, có quan hệ tương tác, thúc đẩy lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Nếu hệ thống các văn bản pháp luật (còn thường được gọi là khung pháp lý) chưa thật hoàn hảo, mà công tác tổ chức thực hiện tốt thì vẫn có thể đạt hiệu quả khá trong đời sống kinh tế xã hội, đồng thời còn góp phần sớm điều chỉnh, bổ khuyết những bất cập về cơ chế chính sách, luật pháp. Nguợc lại, với một hệ thống khung pháp lý khi hoàn chỉnh, ưu việt mà việc tổ chức thực thi không nghiêm, kém tự giác và hiệu lực, thì tình trạng vi pham pháp luật, tham nhũng, tiêu cực vẫn có đất phát triển. Những thành tích vừa đạt được trong phong trào cả nước sôi nổi hưởng ứng thư của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu kêu gọi thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, tiêu cực, cho thấy việc tăng cường pháp chế XHCN có vai trò then chốt trong công tác này.
Liên hệ vào lĩnh vực của chúng ta cũng thấy rõ hai khía cạnh. Phần lớn trong những mô hình quản lý, kinh doanh tốt và trong những cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực thành công đều có vai trò công tác kế toán và kiểm toán. Những cũng đáng tiếc là, trong không ít vụ việc sai phạm cũng đều hiện diện trách nhiệm kế toán trưởng, kế toán viên. Đau buồn hơn là có những trường hợp, khi vui vẻ tiêu xài, chi phí, ăn chia, kế toán trưởng chỉ là một thành viên nho nhỏ, nhưng khi vỡ lở thì phải gánh chịu hầu hết trách nhiệm với những hình phạt nặng nề. Kiểm nghiệm lại thực tế những vụ vi phạm pháp luật, có những trường hợp kế toán chủ động thực hiện hoặc tham gia, nhưng rất nhiều trường hợp là do bị động, ép buộc, bất khả kháng. Trong nhiều nguyên nhân của hiện tượng tiêu cực đó, có phần do pháp chế nói chung và khung pháp lý nói riêng chậm được đổi mới và thiếu đầy đủ, đồng bộ.
Giờ đây, cùng với cả nước, giới kế toán, kiểm toán chúng ta có thêm điều kiện tích cực tham gia tiến trình hoàn thiện pháp chế XHCN. Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường pháp chế XHCN là sự nghiệp hệ trọng và lâu dài, tích cực tham gia vào sự nghiệp này vừa là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi công dân, vừa vì sự vẻ vang và lợi ích của chính những người gắn bó cuộc đời với nghề kế toán và kiểm toán.
3) Kế toán Việt Nam trong tiến trình cải cách hội nhập:
3.1) Các việc đã làm và kết quả đạt được trong tiến trình đổi mới:
Ban hành Pháp lệnh kế toán và thống kê (1988), văn bản pháp lý đầu tiên và là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở Việt Nam. Với Pháp lệnh này kế toán Việt Nam đã dần đi vào nề nếp, phục vụ tốt cho kiểm kê, kiểm soát các nguồn lực.
Xây dựng và ban hành hệ thống kế toán thống nhất áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế (1995). Hệ thống kế toán mới đã thoả mãn và phục vụ tốt yêu cầu của giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đồng thời thoả mãn yêu cầu hội nhập, mở cửa từng bước với khu vực và quốc tế. Các nguyên tắc, thông lệ và chuẩn mực quốc tế về kế toán đã được nghiên cứu, chọn lọc, cân nhắc và vận dụng; khuôn mẫu các báo cáo tài chính, phương pháp trình bày các báo cáo tài chính về cơ bản đã phù hợp với các thông lệ quốc tế; Có thể nói, cho đến nay những khác biệt giữa kế toán Việt Nam với kế toán các nước không nhiều. Nếu có khác đó là do các khuôn khổ pháp lý và các quy định, quy chế tài chính của các quốc gia.
Từ năm 1987 đến nay,Việt Nam đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được lựa chọn và áp dụng các hệ thống kế toán phổ biến của các nước, không bắt buộc phải áp dụng hệ thống kế toán Việt Nam. Và chỉ từ 1/1/2001, các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mới buộc phải tuân thủ các quy định về kế toán Việt Nam. Trường hợp đặc biệt chưa áp dụng được phải được Bộ tài chính Việt Nam chấp thuận bằng văn bản.
Đã hình thành hoạt động kiểm toán độc lập (1991), kiểm toán Nhà nước (1994) và kiểm toán nội bộ (1998). Các hoạt động tư vấn và dịch vụ kế toán đã hình thành và được phép hành nghề trong các công ty Nhà nước và tư nhân.Nghề kiểm toán đã hình thành và phát triển mạnh ở Việt Nam, cả 6 công ty kiểm toán quốc tế lớn đã được phép hoạt động ở Việt Nam từ năm 1991 dưới hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với công ty kiểm toán Việt Nam. Đến nay ở Việt Nam đã có 19 công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán cùng nhiều chi nhánh và văn phòng đại diện hoạt động trong cả nước, cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn thuế, quản trị kinh doanh kiểm toán cho các công ty và các dự án.
Chức danh kiểm toán viên hành nghề độc lập (CA, CPA) đã được thừa nhận. Chính phủ Việt Nam đã thành lập Hội đồng thi tuyển kiểm toán viên quốc gia. Từ năm 1994, Hội đồng đã tổ chức thi tuyển cho hàng nghìn lượt người và đã cấp chứng chỉ trúng tuyển kiểm toán viên cấp Nhà nước cho gần 400 người (cả người Việt Nam và người nước ngoài).
Các tổ chức nghề nghiệp kế toán đã được thành lập và hoạt động khá hiêu quả.
_ Câu lạc bộ kế toán trưởng: Thành lập năm 1989, hiện có 700 hội viên là kế toán trưởng doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp trong cả nước.
_ Hội kế toán Việt Nam (VAA): Được thành lập từ năm 1994 với sự tham gia của hàng nghìn hội viên là các kế toán viên, kiểm toán viên và nhà quản lý kinh tế, cán bộ giảng dạy các trường ĐH kinh tế. Nhiều Phân hội, Chi hội kế toán các nghành, lĩnh vực và địa phương đã hoạt động có hiệu quả.
Hội đồng quốc gia về kế toán (National Council For Accountancy) đã được thành lập vào năm 1999, làm nhiệm vụ tư vấn cho Bộ trưởng tài chính về kế toán, kiểm toán.
Đã công bố 10/33 chuẩn mực kiểm toán. Đang tích cực soạn thảo, hoàn thiện và chuẩn bị công bố tiếp các chuẩn mực kế toán quốc gia (VAS) và chuẩn mực kiểm toán quốc gia (VAS).
3.2) Những công việc đang và sẽ tiếp tục triển khai:
Xây dựng và ban hành Luật kế toán Việt Nam, tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán, kiểm toán của Việt Nam. Đây cũng là đòi hỏi hội nhập và tự do hoá tài chính.
Soạn thảo và công bố các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc gia. Vấn đề này đã và sẽ triển khai khẩn trương trong một lô trình chặt chẽ.
Thiết lập hệ thống kế toán Nhà nước (cũng có thể là hệ thống Tổng kế toán Quốc gia).
Nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực của Hội kế toán Việt Nam và Hội đồng Quốc gia về kế toán, từng bước đảm nhiệm các chức năng huấn luyện, đào tạo, kiểm tra và giám sát hành nghề đạo đức nghề nghiệp của kế toán viên và kiểm toán viên; Hướng dẫn chuẩn mực kế toán và kiểm toán.
Tích cực chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập quốc tế và tự do hoá tài chính.
Cho đến nay, đã có 5 công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài đang hoạt động trong thị trường kế toán, kiểm toán Việt Nam. Thị trường này sẽ được mở cửa hơn nữa, thể hiện qua các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký hoặc đang đàm phán:
_ Không hạn chế các công ty nước ngoài tham gia góp vốn liên doanh hoặc thành lập công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ kế toán và kiểm toán. Để được hoạt động, các công ty phải có ít nhất 5 thành viên (người Việt Nam hoặc người nước ngoài) có chứng chỉ kiểm toán viên độc lập do Bộ tài chính Việt Nam cấp hoặc các tổ chức nghề nghiệp nước ngoài cấp được Bộ tài chính thừa nhận và phải có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam trên 1 năm.
_ Trong vòng 3 năm đầu thực hiện cam kết, việc cấp thẻ hoạt động cho các công ty sẽ được xem xét từng trường hợp cụ thể. Bộ tài chính sẽ quyết định số lượng các nhà cung cấp dịch vụ được cấp phép căn cứ vào tình hình phát triển của Việt Nam. Nhưng từ năm thứ 4 trở đi, việc cấp phép dựa trên cơ sở đánh giá chủ quan theo nhu cầu thị trường. Sau đó sẽ được thay thế bằng hệ thống các tiêu chí cấp phép rõ ràng và minh bạch.
_ Về phạm vi hoạt động, trong vòng 2 năm đầu, các công ty kế toán có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai và các dự án nước ngoài tài trợ cho Việt Nam. Nhưng từ năm thứ 3 trở đi, phạm vi hoạt động của các công ty sẽ được mở rộng.
Có thể nói rằng, hệ thống kế toán Việt Nam đã và đang được tiếp tục hoàn thiện phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Việt Nam sẵn sàng mở cửa đón nhận các dịch vụ kế toán và kiểm toán từ nước ngoài.
3.3) 10 năm thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê (1989-1999) :
3.3.1) Những việc đã làm:
Tổ chức quán triệt nội dung Pháp lệnh kế toán và thống kê cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp, kế toán các nghành, các cấp và đơn vị cơ sở.
Giai đoạn 1 (Từ năm 1988 đến năm 1995) thực hiện đổi mới và hoàn thiện hệ thống chế độ kế toán thao cơ chế bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, đảm bảo cho Pháp lệnh sớm đi vào thực tiễn cuộc sống nền kinh tế quốc dân đang bắt đầu đổi mới theo cơ chế thị trường.
Giai đoạn 2 cải cách căn bản hệ thống kế toán Việt Nam theo cơ chế hạch toán kinh doanh và chủ yếu cho doanh nghiệp Nhà nước, bước đầu chuyển sang kế toán theo cơ chế thị trường nhiều thành phần.
Thực tế các nghành, các cấp và các địa phương đã tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện Pháp lệnh kế toán - thống kê và hướng dẫn thi hành.
Thực hiện từng bước mở cửa, hội nhập với quốc tế và khu vực về kế toán và kiểm toán.
_ Tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tập huấn, khảo sát thực tế nước ngoài về công tác và tổ chức kế toán, kiểm toán, tiếp xúc sâu rộng với chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán quốc tế, cho phép hàng trăm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện kế toán theo chuẩn mực quốc tế.
_ Đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về kế toán lần thứ nhất ở Việt Nam vào tháng 1/1997;
_ Đã mở cửa cho phép 6 công ty kiểm toán quốc tế lớn nhất thế giới và một số công ty khác vào hoạt động ở Việt Nam;
_ Đã gia nhập tổ chức liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và hiệp hội kế toán ASEAN (AFA).
3.3.2) Kết quả bước đầu:
Đã xây dựng và đưa vào vận hành trong nền kinh tế quốc dân hệ thống kế toán doanh nghiệp phù hợp từng bước phát triển của nền kinh tế thị trường và đang thực hiện có hiệu quả trong mọi doanh nghiệp, tổ chức.
Bước đầu quản lý thống nhất chế độ kế toán trong các lĩnh vực, Các thành phần kinh tế.
Chất lượng và kỹ thuật kế toán đã đáp ứng và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và cơ chế quản lý Nhà nước.
Đã tạo lập được tiền đề, điều kiện để từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong công tác kế toán, kiểm toán.
Trình độ (Về chính sách, chế độ và năng lực cán bộ) đã được nâng cao rõ rệt, đã tiếp cận đuợc phần lớn chuẩn mực và thông lệ kế toán, kiểm toán quốc tế, từng bước được công nhận.
Đã hình thành và đưa vào hoạt động 18 công ty kế toán, kiểm toán với trên 1300 nhân viên chuyên nghiệp, 344 kiểm toán viên đủ trình độ hành nghề.
Đã hình thành và đưa vào hoạt động hội kế toán Việt Nam (VAA), CLB kế toán trưởng, tiến đến thành lập Hội đồng kế toán quốc gia.
3.3.3) Những tồn tại chủ yếu:
Về mặt văn bản pháp luật:
_ Việc hoà lẫn hai loại hạch toán kế toán và hạch toán thống kê trong một văn bản là không hợp lý và kém hiệu lực.
_ Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh là chưa bao quát, chưa đầy đủ và không phù hợp với tình hình đã phát triển.
_ Nhiều hoạt động mới phát sinh trong nền kinh tế chưa được đề cập như: Đầu tư nước ngoài, hành nghề tự do, tổ chức nghề nghiệp…
_ Nhiều nguyên tắc thông lệ kế toán của nền kinh tế thị trường chưa được đề cập trong Pháp lệnh: chuẩn mực kế toán, nguyên tắc kế toán dồn tích, hoạt động liên tục, thận trọng, dự phòng…kế toán tài chính, kế toán quản trị, niên độ kế toán 12 tháng tròn, cá nhân hành nghề tự do, tổ chức nghề nghiệp về kế toán…
_ Nhiều quy định về kế toán và kiểm toán không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần: kiểm tra kế toán (kiểm toán), chức năng kế toán trưởng, nguyên tắc bố trí cán bộ kế toán, quản lý Nhà nước về kế toán, các thuật ngữ (Xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh…).
Tồn tại trong thực hiện pháp lệnh:
_ Hầu hết các sai phạm về kế toán dẫn đến các sai phạm về kinh tế tài chính đều tập trung từ gian lận về chứng từ kế toán: chứng từ giả, sửa chữa chứng từ, lập khống, hợp thức hoá, hai loại chứng từ cho cùng một nghiệp vụ…
_ Vi phạm về mở sổ, khoá sổ, ghi chép không kịp thời, sai lệch, ghi sổ không dựa trên chứng từ kế toán, để ngoài sổ sách tài sản, vốn; Sửa chữa tẩy xoá tuỳ tiện, đặc biệt là mở 2, 3 loại sổ để dấu diếm, đối phó từng người sử dụng…
_ Về báo cáo tài chính tồn tại chủ yếu là chậm chạp, lập không dựa theo sổ sách kế toán, số liệu báo cáo điều chỉnh tuỳ thuộc mục đích báo cáo…
_ Công việc kiểm tra kế toán bị xem nhẹ đến mức hầu như không còn cần hoạt động kiểm tra kế toán định kỳ hoặc đột xuất…
Những tồn tại về kế toán trưởng:
Nhờ có Pháp lệnh kế toán thống kê, kế toán trưởng doanh nghiệp đã được quan tâm hơn từ việc đào tạo cơ bản, được bổ nhiệm chính thức, được hưởng lương và các quyền lợi vật chất, tinh thần tuơng đương với phó giám đốc doanh nghiệp, được xã hội thừa nhận.Tuy nhiên càng phát triển theo cơ chế thị trường thì quy định về kế toán trưởng đang có những tồn tại sau:
_ Chức năng của kế toán trưởng không còn phù hợp:
+ Chức năng của kế toán trưởng là giúp Giám đốc tổ chức, chỉ đạo, thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê, thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế,đồng thời làm nhiệm vụ kiểm soát về kinh tế tài chính của Nhà nước tại xí nghiệp.
+ Chức năng trên không còn đúng trong điều kiện giao vốn, giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp; trong doanh nghiệp còn trưởng phòng kế toán, Trưởng phòng tài chính, Trưởng phòng (ban) kiểm toán nội bộ; Ban kiểm soát của HĐQT, có Giám đốc tài chính; Cơ chế thủ trưởng không nhất thiết phải đăng ký chữ ký của kế toán trưởng khi mở tài khoản ở ngân hàng… vai trò kế toán trưởng không được coi trọng…
_ Việc đào tạo, bồi dưỡng kế toán trưởng không đựơc thực hiện thường xuyên hoặc bị coi nhẹ.
4) Chuẩn mực kế toán và khả năng soạn thảo, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam :
4.1) Chuẩn mực kế toán và sự cần thiết phải soạn thảo, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam :
Chuẩn mực kế toán được hiểu như những quy định về các phương pháp kế toán được áp dụng đối với tất cả các báo cáo tài chính nhằm đưa ra sự đánh giá hoàn toàn trung thực cà khách quan về tình trạng và các hoạt động tài chính của một đơn vị kinh doanh.
Các chuẩn mực này đề cập đến phương pháp hạch toán, đánh giá, thuyết minh và trình bày trong lĩnh vực kế toán.
Các chuẩn mực kế toán ngày càng được áp dụng một cách rộng rãi trên toàn thế giới. Trong nền kinh tế toàn cầu, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tại các quốc gia trên thế giới phát triển thành các công ty "đa quốc gia" và bản thân các quốc gia đó cũng đang hướng tới một môi trường thương mại tự do hơn và mang tính cạnh tranh hơn.
Một trong các kết quả tất yếu của qua trình toàn cầu hoá ngày càng tăng của các doanh nghiệp, tăng nguồn vốn đầu tư… là nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao về tính nhất quán của các chuẩn mực kế toán và được áp dụng trên phạm vi toàn cầu.
Trong khi chúng ta ủng hộ việc hài hoà các chuẩn mực kế toán quốc tế thì vẫn có nhiều lý do để nghiên cứu, soạn thảo, duy trì và phát triển các chuẩn mực kế toán của mỗi quốc gia, ít nhất thì điều đó cũng đúng và rất đúng với Việt Nam. Tất nhiên cũng đúng với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đó là vì:
_ Mỗi quốc gia có hoàn cảnh kinh tế, chính trị - xã hội và cơ chế kinh tế không hoàn toàn giống nha, thậm chí có thể có sự khác biêt lớn.
_ Bản thân các chuẩn mực quốc tế về kế toán mang tính chất "toàn cầu" nên khó lòng mà đúng hết và phù hợp hết với hoàn cảnh của một quốc gia cụ thể.
Xây dựng, duy trì và phát triển các chuẩn mực kế toán Việt Nam, hài hoà với chuẩn mực kế toán quốc tế và phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam là việc làm tất yếu trong quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới.
Việc xây dựng phát triển các chuẩn mực kế toán nhằm thoả mãn và thích hợp với hàng loạt nhu cầu của những người lập báo cáo tài chính và sử dụng thông tin tài chính là một nhiệm vụ không thể được trì hoãn hoặc được tiến hành một cách uể oải.
Với những kinh nghiệm thu thập được tại các quốc gia đang phát triển, Việt Nam không những phải xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia mà còn cần thiết và có thể phải tham dự vào quá trình hoàn thiện các chuẩn mực kế toán quốc tế.Điều đó sẽ mang lại nhiều sự đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển các thông lệ kế toán quốc tế.
4.2) Nguyên tắc soạn thảo, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam:
Cần phải tham khảo và vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế hiện hành. Điều này sẽ giảm nhẹ gánh nặng cho Việt Nam, vừa phù hợp với xu hướng hội nhập chung vào nền kinh tế thế giới, vừa phù hợp với mục tiêu cao cả của Liên đoàn kế toán quốc tế và Uỷ ban soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế là "Tăng cường và phát triển kế toán, kiểm toán trên phạm vi toàn thế giới theo các chuẩn mực hài hoà".
Những kinh nghiệm của chúng ta trong soạn thảo chuẩn mực kiểm toán cho thấy rõ, việc tham khảo và vận dụng các chuẩn mực quốc tế không chỉ ở nội dung của chuẩn mực mà còn bao gồm cả hình thức trình bày và công bố các chuẩn mực nữa. Mỗi quốc gia không cần thiết phải "sáng tác" thêm trong hình thức trình bày các chuẩn mực.Tất cả các chuẩn mực quốc tế về kế toán mới ban hành hoặc đã được sửa đổi đều là nền tảng trong quá trình xây dựng và phát triển những chuẩn mực kế toán quốc gia. Đó là kinh nghiệm và bài học tốt của nhiều nước đang phát triển ở Châu á và trên thế giới.
Nội dung các chuẩn mực kế toán Việt Nam phải phù hợp các quy định Pháp luật về hệ thống kế toán, không được trái ngược với các quy định này, thực tế hiện nay rất khó chi chúng ta trong quá trình biên soạn vì Pháp lệnh kế toán thống kê ban hành đã lâu và nhiều nội dung không còn phù hợp, trong khi Luật kế toán đang trong quá trình nghiên cứu soạn thảo để trình Quốc hội phê chuẩn. Vì vậy quá trình soạn thảo các chuẩn mực kế toán phải gắn chặt với quá trình soạn thảo Luật kế toán và phải phù hợp với những định hướng lớn khi soạn thảo Luật kế toán Việt Nam.
Nội dung các chuẩn mực kế toán Việt Nam phải dựa trên nền tảng của mô hình kế toán động (gần với mô hình kế toán Mỹ, Anh) và kế thừa những thành quả của hệ thống kế toán Việt Nam.
Quá trình soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán Việt Nam phải nắm vững và chú ý các đặc thù của nước ta:
_ Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước có vai trò to lớn trong quản lý nền kinh tế nói chung, lĩnh vực kế toán và kiểm toán nói riêng. Vì vậy Nhà nước phải có vai trò quan trọng trong soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán cũng như kiểm toán.
_ Các tổ chức nghề nghiệp về kế toán như Hội kế toán Việt Nam (VAA) còn chưa đủ mạnh vì chưa thực sự là một hội nghề nghiệp của các chuyên gia kế toán.Hội đồng quốc gia về kế toán còn đang trong quá trình hình thành… Vì vậy, cần phải có sự kết hợp giữa các yếu tố pháp lý và yếu tố nghề nghiệp trong quá trình soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán.
_ Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là một nền kinh tế thị trường đang trong qúa trình phát triển và hoàn thiện. Nhiều nội dung trong hoạt động kinh tế còn chưa phát sinh hoặc còn chưa trở thành phổ biến. Đặc điểm này sẽ chi phối đến thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn các chuẩn mực để soạn thảo.
_ Nội dung các quy định sẽ tạo thành các chuẩn mực kế toán Việt Nam là tổng hoà các quy định về chế độ kế toán, chính sách và chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp. Đây là một khác biệt cơ bản đối với các nước.
Đặc điểm này dự báo soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam là hết sức phức tạp, không giống với việc soạn thảo các chuẩn mực kiểm toán. Đặc điểm này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị liên quan cũng như cách làm thích hợp trong biên soạn, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam.
Quá trình hình thành hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam cần phải tham khảo, vận dụng quy trình soạn thảo,ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế, tận dụng được trí tuệ, năng lực rộng rãi của các chuyên gia, các nhà quản lý doanh nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp…Các quy trình và kinh nghiệm này, nếu được áp dụng một cách phù hợp sẽ đảm bảo chất lượng của các chuẩn mực đựơc công bố và đạt được hiệu quả cao trong quá trình biên soạn chuẩn mực.
Việc ban hành các chuẩn mực kế toán cần phải thiết lập một khuôn mẫu "linh hoạt " và nội dung các chuẩn mực kế toán phải thích hợp với tất cả các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế và quy mô doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của Singapo, Thái Lan cũng như nhiều nuớc trong khu vực chỉ rõ vào giai đoạn đầu của quá trình xây dựng chuẩn kế toán là thiết lập và xây dựng một khuôn mẫu cho việc "lập báo cáo khác nhau", theo đó phụ thuộc vào các tiêu thức khác nhau, một doanh nghiệp cụ thể sẽ được miễn trừ trình bày một bộ phận nhất định của báo cáo tài chính, đặc biệt là các đơn vị kinh doanh có quy mô nhỏ và hoạt động kinh doanh ít phức tạp.
III> Phương hướng, giải pháp hoàn thiện:
1) So sánh giữa hệ thống kế toán Việt Nam (VAS) và các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) trường hợp báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Một quan điểm hiện nay đang được chú ý một cách rộng rãi tại Việt Nam đó là hệ thống các chuẩn mực kế toán toàn diện là rất cần thiết để hoàn thành việc cải cách hệ thống kế toán Việt Nam. Những chuẩn mực kế toán Việt Nam này vừa phải thống nhất với các chuẩn mực kế toán quốc tế, vừa phải đáp ứng những yêu cầu của Việt Nam.
Trong một số trường hợp, VAS bao gồm những điều khoản tương tự, hoặc ít nhất cũng rất gần với những yêu cầu của IAS. Một trường hợp được đề cập là báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Trong IAS số 7, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một phần không thể tách rời trong báo cáo tài chính. Tương tự như vậy, một bộ các mẫu báo cáo tài chính quy định trong Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995, cũng bao gồm việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tuy rằng cho đến nay điều đó cũng chưa phải là bắt buộc.
Một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép người sử dụng các báo cáo tài chính đánh giá khả năng của doanh nghiệp tạo ra các nguồn tiền tệ và nhu cầu của doanh nghiệp về việc sử dụng những nguồn tiền tệ này.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đo khả năng của doanh nghiệp và các kết quả hoạt động kinh doanh trên phương diện thu nhập và chi phí. Có một mức độ chủ quan đáng kể trong việc xác định các khoản thu và chi (chẳng hạn dự phòng…). Báo cáo lưu chuyển tiền tệ loại trừ mọi khả năng sử dụng những đánh giá chủ quan bằng cách thay các khoản thu và chi bằng các luồng tiền tệ. Thu và chi là những khái niệm kế toán rất dễ chịu ảnh hưởng của các cách hiểu khác nhau. Trong khi đó, tiền và các luồng tiền tệ lại là những yếu tố khách quan có thể định lượng.
Qua trao đổi với các chuyên gia về kế toán tại Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp đang phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Rất nhiều chuyên gia kế toán Việt Nam đều cho rằng không thể lập một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo quy định của VAS, điều này giải thích tại sao Bộ tài chính không quy định việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một nội dung bắt buộc trong VAS.
Dựa vào các kinh nghiệm để kiểm tra giả thuyết rằng không thể lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo quy định của VAS, có thể lập một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ dựa trên những dữ liệu trích từ một bài tập tình huống trong cuốn sách viết về kế toán quốc tế và dựa vào hướng dẫn chi tiết trong Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT. Kết luận thu được từ việc làm này là có thể lập một Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo VAS, với điều kiện là phải có một số thay đổi nhỏ trong các quy định. Những thay đổi này được trình bày chi tiết trong đoạn sau:
Khó khăn đầu tiên trong quy định hiện hành của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong VAS có liên quan đến thuế thu nhập.
_ Trong phương pháp trực tiếp, thuế và các khoản phải trả cho ngân sách Nhà nước được ghi trong mã số 06 thuộc phần lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD. Điều này là chính xác.
_ Trong phương pháp gián tiếp thu nhập thuần trước thuế thu nhập được chuyển thành lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động SXKD qua một quy trình cân đối phức tạp. Do quy trình cân đối bắt đầu với thu nhập thuần trước thuế thu nhập, thuế phải trả được hạch toán ở đâu đó trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên mẫu Báo cáo lưu chuyển tiền tệ lại không quy định chỗ nào để hạch toán việc nộp thuế. Có hai cách để giải quyết vấn đề này:
+ Một số người đề nghị rằng thuế đã trả được hạch toán theo như cách hạch toán tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp, trong phần lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính (mã số 36). Họ lập luận rằng trong các doanh nghiệp Nhà nước, không có sự khác biệt về khái niệm giữa thuế và tiền lãi trả cho nhà đầu tư, và trong cả hai trường hợp này, tiền đều được trả cho Nhà nước. Lập luận này là thiếu sót vì 3 lý do sau:
. Thứ nhất, nó không đề cập đến trường hợp của các liên doanh và các công ty tư nhân, khi thuế được trả cho Nhà nước và cổ tức trả cho các cổ đông tư nhân.
. Thứ hai, ngay cả trong các doanh nghiệp Nhà nước, thuế và lợi tức trả cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp không có cùng một bản chất. Nhà nước, với tư cách là cơ quan cầm quyền của một quốc gia, thu thuế thu nhập từ tất cả các thực thể kinh doanh thuộc sở hưu Nhà nước và tư nhân, kinh doanh trong và ngoài nước. Trong các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước thu cổ tức với tư cách giới hạn là chủ sở hữu một doanh nghiệp.Hai vai trò này không lẫn với nhau.
. Thứ ba, hạch toán thuế đã trả như là luồng tiền ra từ hoạt động tài chính sẽ dẫn đến những chênh lệch trong việc trình bày Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp và gián tiếp. Theo phương pháp trực tiếp, thuế được nêu trong phần lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD, tronh khi đó theo phương pháp gián tiếp, thuế lại được hạch toán trong các lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính.
+ Giải pháp cho vấn đề này khá hiển nhiên. Thuế đã trả phải được hạch toán như là một yếu tố riêng biệt của lưu chuyển tiền tệ, ngay sau mục những thay đổi trong vốn lưu động trong phần lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD. Đây chính là cách hạch toán thuế trong IAS số 7. Nói cách khác việc hợp nhất lưu chuyển tiền tệ của lợi tức trước thuế từ hoạt động SXKD có thể bắt đầu từ thu nhập thuần sau thuế thu nhập, thay vì thu nhập thuần trước thuế thu nhập, với một điều chỉnh tương ứng cho bất kỳ một sự tăng hoặc giảm nào trong thuế phải trả thuộc tiểu mục những thay đổi trong vốn lưu động. Đây chính là cách lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung tại Mỹ. (US GAAP) (SFAS 95).
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến sự nhầm lẫn có lên quan đến mã số 05 trong phần lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD theo phương pháp gián tiếp. Mã số 05 được coi là "lãi hoặc lỗ do đánh giá lại tài sản và chuyển đổi ngoại tệ". Trong VAS và rất tình cờ là trong các chuẩn mực kế toán quốc tế, các tài sản được đánh giá lại bằng cách tăng giá trị của chúng trong bảng cân đối kế toán và ghi có khoản dự phòng đánh giá lại trong phần tài sản của bảng cân đối kế toán (Mã số 412 trong VAS). Việc đánh giá lại không được hạch toán trong kết quả hoạt động SXKD và do vậy không làm ảnh hưởng đến lợi tức trước thuế. Điều này dẫn đến việc đánh giá lại không thể coi là một điều chỉnh để cân đối lợi tức trước thuế trong lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD.
Thứ ba, chúng ta hãy xem lại mã số 05. Điều chỉnh này cũng không được coi là bao gồm "lỗ và lãi từ việc chuyển đổi ngoại tệ". Trong VAS và đặc biệt là trong thông tư số 44-TC/TCDN ngày 8/7/1997, đã phân biệt rõ giữa lỗ và lãi từ việc chuyển đổi ngoại tệ đã thực hiện với chưa thực hiện (chênh lệch tỷ giá). Chênh lệch tỷ giá đã thực hiện được hạch toán trong kết quả SXKD. Lãi và lỗ do việc chuyển đổi ngoại tệ chưa thực hiện đối với tài sản và công nợ mang tính chất tiền ngắn hạn được phản ánh trong BCĐKT ở TK 413.Lãi do việc chuyển đổi ngoại tệ chưa thực hiện đối với tài sản và công nợ mang tính chất tiền dài hạn cũng được phản ánh trong BCĐKT ở TK 413 trong khi đó lỗ do việc chuyển đổi ngoại tệ chưa thực hiện đối với tài sản và công nợ mang tính chất tiền dài hạn lại được tính trong kết quả SXKD như là các chi phí tài chính. Dựa vào các điều trên :
_ Lãi và lỗ do chuyển đổi ngoại tệ đã thực hiện không nên hạch toán trong mã số 05 như là một điều chỉnh để cân đối lợi tức trước thuế trong lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD vì theo định nghĩa chênh lệch tỷ giá đã thực hiện sẽ dẫn đến việc tăng hoặc giảm trong lưu chuyển tiền tệ.
_ Chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện không làm tăng luồng tiền ra hoặc vào và như vậy trên lý thuyết nên hạch toán trong mã số 05. Tuy vậy, vì chỉ có lỗ do chuyển đổi ngoại tệ chưa thực hiện đối với tài sản và công nợ mang tính chất tiền dài hạn là được hạch toán trong kết quả hoạt động kinh doanh, nên chỉ những chênh lệch chưa thực hiện này là được ghi trong mã số 05. Lãi do chuyển đổi ngoại tệ chưa thực hiện đối với tài sản và công nợ mang tính chất tiền dài hạn và cả lỗ và lãi do chuyển đổi ngoại tệ chưa thực hiện đối với tài sản và nợ mang tính chất tiền ngắn hạn đều được hạch toán trong tài sản, như vậy không làm ảnh hưởng đến lợi nhuận thuần, do đó không nên ghi trong phần điều chỉnh để cân đối lợi tức trước thuế trong lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD.
Nhận xét cuối cùng có liên quan đến tác động của thay đổi tỷ giá đối với lưu chuyển tiền tệ ghi bằng ngoại tệ và cả lượng tiền có trong ngoại tệ đầu năm. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta giả thuyết rằng công ty chỉ có một tài sản, một tài khoản ngoại tệ bằng USD, trong đó chỉ có 1 USD vào đầu năm và 1 USD vào cuối năm. Công ty không có hoạt động gì trong suốt năm. Do vậy sẽ không có bất kỳ luồng tiền ra hoặc vào nào trong năm. Tuy nhiên nếu tỷ giá USD/VND thay đổi trong năm, rõ ràng là lượng tiền bằng VND trong BCĐKT đầu năm và cuối năm sẽ khác nhau. Sự thay đổi này không thể giải thích bằng một luồng tiền ra hoặc vào vì công ty không có bất kỳ một hoạt động nào. Phải giải quyết điều khó hiểu này như thế nào ?
_ Trước hết, lưu chuyển tiền ghi bằng ngoại tệ phải được chuyển đổi trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, sử dụng tỷ giá sấp xỉ tỷ giá thực tế phổ biến tại ngày lưu chuyển. Trên thực tế, điều này có nghĩa là tỷ giá trung bình cho cả kỳ.
_ Thứ hai, tác động của thay đổi tỷ giá với lượng tiền có trong ngoại tệ được thể hiện riêng biệt với lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD, tài chính, đầu tư và bao gồm những chênh lệch mà lưu chuyển tiền tệ đã hạch toán theo tỷ giá chuyển đổi vào cuối kỳ.
Trên đây là những điểm mà quy định về Báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 cần làm sáng tỏ, sửa đổi hoặc hoàn thiện. Những thay đổi với quy mô hạn chế này sẽ đảm bảo rằng không một công ty nào hoạt động tại Việt Nam lại không thể lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ dù theo phương pháp trực tiếp hay gián tiếp. Những thay đổi nhỏ này cũng sẽ làm cho quy định của Việt Nam phù hợp với quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế.
2) Vướng mắc và kiến nghị khi áp dụng chế độ kế toán Việt Nam tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
2.1) Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán:
Về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kế toán,kiểm toán đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hơn 10 năm qua, ngay từ khi bắt đầu có hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo Luật ĐTNN tại Việt Nam (1988) cho đến nay,Quốc hội và Chính phủ đã qun tâm thích đáng, đã đưa ra các quy định cụ thể trong luật và nghị định nhằm tạo hành lang pháp lý về công tác kế toán, kiểm toán đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Bộ tài chính với chức năng, nhiệm vụ của mình đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác kế toán, kiểm toán: Pháp lệnh kế toán và thống kê, Nghị định số 25 HĐBT ngày 18/03/1989 về Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước. Đay là những văn bản pháp lý cao nhất về công tác kế toán mà các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam phải tuân thủ. Bên cạnh đó Bộ tài chính đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác kế toán đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN thích ứng trong từng giai đoạn.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam và do chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam còn có những điểm khác biệt với chuẩn mực kế toán quốc tế, công tác kế toán, kiểm toán áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam có những quy định riêng. Tại Điều 37, chương IV-Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: "Doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh áp dụng chế độ kế toán Việt Nam.Trường hợp cần áp dụng chế độ kế toán thông dụng khác thì phải được Bộ tài chính chấp thuận. Chế độ khấu hao TSCĐ thực hiện theo quy định của Chính phủ. Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam hoặc công ty kiểm toán độc lập khác được phép hoạt động tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về kiểm toán.Báo cáo tài chính phải được gửi cho cơ quan tài chính và cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN".
Bộ tài chính đã ban hành thông tư số 60/TC/CĐKT ngày 1/9/1997 và thông tư số 155/1998/TT/BTC ngày 8/12/1998, trong đó yêu cầu các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thực hiện công tác chuyển đổi từ chế độ kế toán nước ngòai trước đây sang áp dụng theo chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam.Điểm mốc chuyển đổi sẽ là ngày 31/12/2000. Đây là một công việc cần thiết và phải thực hiện, nhất là sau hơn 10 năm chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
2.2) Chỉ đạo và thực hiện công tác kế toán đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN:
2.2.1) Thuận lợi:
Về văn bản chỉ đạo, hướng dẫn:
Đã có các văn bản chỉ đạo mang tính pháp lý tạo hành lang pháp lý về công tác kế toán đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN thực hiện theo Luật ĐTNN tại Việt Nam như: Luật ĐTNN tại Việt Nam, Các thông tư số 60, 155…Tuy nhiên các văn bản pháp lý này cũng cần phải bổ sung, sửa đổi để có thể chỉ đạo có hiệu quả công tác kế toán, kiểm toán đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Về xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán : Bộ tài chính đã và đang triển khai các kế hoạch nghiên cứu, soan thảo để dần từng bước ban hành các chuẩn mực kế toán Việt Nam làm cơ sở hoàn thiện chế độ kế toán Việt Nam phù hợp với hệ thống chuẩn mực quốc tế về kế toán.
Về hướng dẫn thực hiện chế độ kế toán: Đối với doanh nghiệp áp dụng chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam, đã có chế độ kế toán doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn bổ sung, là văn bản hướng dẫn cụ thể về các nội dung: Chứng từ kế toán,tài khoản kế toán…là văn bản hướng dẫn doanh nghiệp cụ thể thực hiện công tác kế toán theo đúng quy định hiện hành.
Sắp tới, Bộ tài chính sẽ xem xét chấp thuận từng trường hợp cụ thể cho doanh nghiệp được áp dụng chế độ kế toán nước ngoài nếu phù hợp với quy định tại điểm 2.2, Mục 2 của Thông tư số 155 ngày 8/12/1998.
2.2.2) Vướng mắc, khó khăn:
Có thể đánh giá những vướng mắc khó khăn hiện nay đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN khi chuyển đổi thực hiện theo chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam trên hai mặt chủ yếu sau:
Hệ thống chế độ kế toán và các chế độ tài chính doanh nghiệp quy định chưa đồng bộ, thiếu sự thống nhất giữa các loại doanh nghiệp thuộc sở hữu khác nhau (Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh); Chế độ kế toán doanh nghiệp còn có những điểm khác biệt với hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, bên cạnh việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của luật thuế và các quy đinh pháp luật khác,kế toán còn phải phản ánh đúng thực trạng tài chính và kết quả hoạt động SXKD theo chuẩn mực kế toán, trên cơ sở đó phân chia kết quả kinh doanh đúng đắn cho các bên góp vốn. Do đó hệ thống chuẩn mực về kế toán và hệ thống chế độ kế toán cần giải quyết được tương đối toàn diện về các hoạt động, hoặc giao dịch kinh tế trên thực tế có nảy sinh làm căn cứ để doanh nghiệp ghi nhận và xử lý các nghiệp vụ này. Tuy nhiên hiện nay chế độ kế toán doanh nghiệp và các chế độ tài chính doanh nghiệp chưa đồng bộ và thiếu sự thống nhất giữa doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã làm nảy sinh nhiều vướng mắc chưa được giải quyết thỏa đáng, như:
_ Hạch toán chênh lệch tỷ giá ngoại tệ.
_ Đánh giá lại tài sản, bảo toàn vốn theo vốn góp bằng ngoại tệ trên giấy phép đầu tư.
_ Lập và hạch toán khoản lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi…
_ Trình bày các chi phí trả trước dài hạn và ngắn hạn trên BCĐKT.
_ Xác định doanh thu trả trước.
_ Tài khoản tiền gửi cho phép số dư có (Ngân hàng cho phép).
_ Các vấn đề liên quan đến viêc xác định và hạch toán chi phí, thu nhập tài chính, bất thường.
_ Các vấn đề liên quan đến quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, xác định chi phí đưa vào BCĐkế toán hoặc đưa vào BCKQKD bao gồm: Quyết toán đầu tư XDCB, xác định nguyên giá TSCĐHH, vô hình, chi phí phân bổ dài hạn…
_ Sủ dụng các tài khoản để phản ánh các trường hợp mua vào, chi phí và tính giá thành theo phương pháp định mức.
_ Nhượng bán phần vốn góp của bên góp vốn…
Chương trình phần mềm kế toán của Việt Nam xây dựng chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện các nội dung công tác kế toán ở doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nhất là đảm bảo mối liên quan giữa kế toán tài chính với kế toán quản trị và các công tác quản lý hoạt động SXKD trên một chương trình thống nhất và có hiệu quả.
2.2.3) Hướng giải quyết các khó khăn, vướng mắc:
Để các doanh nghiệp có vốn ĐTNNcó thể chuyển đổi sang thực hiện chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam một cách thuận lợi, giảm bớt nảy sinh các vướng mắc do chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu các quy định phù hợp và thích ứng với các vấn đề cần giải quyết mang tính chuẩn mực thì điểm mấu chốt cơ bản là phải xây dựng được hệ thống chuẩn mực kế toán. trước mắt có thể tiếp tục sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc, hoặc các phương pháp kế toán vừa phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế nước ta giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở này giúp doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam phản ánh trung thực thực trạng tài chính và kết quả hoạt động theo chuẩn mực kế toán, đồng thời đảm bảo tuân thủ các luật thuế hiện hành.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chưa xây dựng được hoàn chỉnh hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, thì riêng đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN, cần ban hành thông tư hướng dẫn về các vấn đề hiện đang chưa được giải quyết, đồng thời, có thể hệ thống hoá các vấn đề cơ bản đã đựơc giải quyết tại một văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng chế độ kế toán Việt Nam với doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Đối với việc phát triển chương trình phần mềm kế toán cần có các quy định thích hợp về chế độ sổ kế toán cho thực hiện cơ giới hoá tính toán.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà các nước trong khu vực đang áp dụng nhiều chính sách cải cách kinh tế làm tăng sức hấp dẫn cuả môi trường đầu tư nhằm thoát ra cuộc khủng hoảng, để tăng cường khả năng cạnh trạnh thu hút vốn ĐTNN của Việt Nam,ngoài những cải cách nhằm giảm bớt và tiến tới loại bỏ những rủi ro mang tính chủ quan gây thiệt hại cho lợi ích của nhà ĐTNN, việc quan tâm đúng mức đến cải cách công tác kế toán cũng sẽ đóng góp một phần không nhỏ.
Hy vọng, trong thời gian tới, với việc triển khai xây dựng Luật kế toán, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam và hoàn thiện, bổ sung chế độ kế toán doanh nghiệp, cung các văn bản huớng dẫn công tác kế toán đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN, công tác kế toán ở doanh nghiệp có vốn ĐTNN sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào công tác quản lý và thúc đẩy phát triển hoạt động ĐTNN taị Việt Nam.
3) Cải cách hệ thống kế toán Việt Nam đến năm 2010:
3.1) Mục tiêu:
Tiếp tục đổi mới hệ thống kế toán Việt Nam từ hệ thống kế toán bước đầu tiếp cận với kế toán kinh tế thị trường, chủ yếu cho doanh nghiệp Nhà nước, sang hệ thống kế toán của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước - Một hệ thống kế toán được coi là công cụ hạch toán kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục đổi mới hệ thống kế toán và tổ chức hoạt động kế toán Việt Nam phù hợp với kinh nghiệm và thông lệ kế toán phổ biến được quốc tế thừa nhận. Kế toán phải trở thành công cụ hội nhập, có tiếng nói chung, có thể xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ kế toán, thực hiện vi tính hoá hầu hết các đơn vị kế toán và các phần hành kế toán, bảo đảm yêu cầu cung cấp kịp thời, nhanh chóng, chính xác và đầy đủ nhất mọi thông tin tài chính và một phần lớn các thông tin quản trị doanh nghiệp.
3.2) Hướng cải cách hệ thống kế toán Việt Nam đến năm 2010:
Tạo dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho công việc và nghề nghiệp kế toán, kế toán Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
_ Ban hành Luật kế toán Việt Nam, thay thế Pháp lệnh kế toán - thống kê ngày 20/5/1988.
_ Ban hành và công bố Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia Việt Nam.
_ Ban hành và công bố Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
_ Tiếp tục cụ thể hoá chế độ kế toán một số nghành đặc thù, mới.
_ Từng bước hoàn thành hệ thống kế toán Nhà nước.
_ Hoàn chỉnh quy chế quản lý Nhà nước về kế toán, kiểm toán.
_ Hình thành và phát triển các phương pháp nghiệp vụ kỹ thuật kế toán, kiểm toán.
Cải cách, hình thành và phát triển các tổ chức chuyên môn, nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán phù hợp sự phát triển nền kinh tế thị trường, nâng cao dần vai trò chức năng của các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, thay thế dần một phần chức năng quản lý Nhà nước về kế toán của các cơ quan Nhà nước.
_ Thành lập Hội đồng kế toán quốc gia Việt Nam.
_ Duy trì và phát triển hoạt động của Hội kế toán Việt Nam (VAA); Câu lạc bộ kế toán trưởng; Thành lập Chi hội kiểm toán, các Trung tâm đào tạo kế toán, kiểm toán, quản lý hành nghề kế toán viên, kiểm toán viên được thừa nhận;
_ Phát triển về số lượng, chất lượng các công ty kế toán, kiểm toán.
_ Phát triển đội ngũ chuyên gia kế toán, kiểm toán; cho phép cá nhân hành nghề tự do về kế toán, kiểm toán, dịch vụ, tài chính…
_ Phát triển và đưa vào hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ.
_ Phối hợp với các Trường Đại học để hoàn thành và nâng cao chất lượng đào tạo.
kết luận
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, kế toán là một trong những công cụ quản lý kinh tế quan trọng. 15 năm qua, cùng với quá trình cải cách và đổi mới kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện. Sau 15 năm đổi mới, tiềm lực kinh tế và tài chính của đất nước đã được tăng cường, chính trị, xã hội ổn định. Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, giữ vững định hướng XHCN: Nền tài chính quốc gia, hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường đã được tạo lập và phát triển. Tài chính đã từng bước làm tốt vai trò động viên, phân phối nguồn lực, quản lý, kiểm soát và giám sát vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đó là những thành tựu đáng khích lệ và đã tạo đà quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở đất nước ta.
Như vậy, cùng với sự đi lên của đất nước, hệ thống kế toán nói chung và chế độ kế toán nói riêng ngày càng phải được hoàn thiện, Bộ tài chính cần sớm ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam phù hợp với hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế phổ biến được đa số các quốc gia thừa nhận.
Trên đây là những hiểu biết của em về quá trình hoàn thiện và phát triển của chế độ kế toán Việt Nam. Em rất mong được Thầy giúp đỡ thêm để em có thể hiểu biết sâu hơn về vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy.
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2001
Sinh viên
Khúc Thu Phương
tài liệu tham khảo
Văn bản pháp quy.
Sách:
1. Hệ thống chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp.
2. Hướng dẫn thực hành chế độ kế toán mới.
3. Những quy định về kế toán và kiểm toán.
4. Cơ sở lý luận phân tích kinh tế XHCN.
5. Đổi mới quản lý kinh tế ở Việt Nam.
6. Các quy định pháp luật về kế toán thống kê.
7. Hệ thống hoá văn bản pháp luật về kế toán doanh nghiệp.
8. Kế toán doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Tạp chí, báo:
1. Tạp chí Kế toán.
2. Tạp chí Kiểm toán.
3. Tạp chí Kinh tế phát triển.
4. Tạp chí Quản lý Nhà nước.
5. Thời báo kinh tế.
Chuẩn mực kế toán quốc tế.
mục lục
Nội dung Trang
Lời nói đầu
I> Vai trò của kế toán trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp…………..1
1. Tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán……………………………1
2. Vai trò, vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý………………2
3. Chuyên nghành kế toán, chìa khoá của sự ổn định và duy
trì kinh tế ở các nước đang phát triển……………………………………………3
4. Tầm cao kế toán Việt Nam trong thiên niên kỷ mới……………………….4
II> Sự phát triển và hoàn thiện của chế độ kế toán Việt Nam……………....5
1. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi chế độ
kế toán Việt Nam………………………………………………………………...5
2. Góp phần hoàn thiện pháp chế XHCN……………………………………..7
3. Kế toán Việt Nam trong tiến trình cải cách hội nhập……………………...8
3.1. Các việc đã làm và kết quả đạt được trong tiến trình đổi mới…………...8
3.2. Những công việc đang và sẽ tiếp tục triển khai………………………….9
3.3. 10 năm thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê………………………….10
4. Chuẩn mực kế toán và khả năng soạn thảo, ban hành và
công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam…………………………………………12
4.1. Chuẩn mực kế toán và sự cần thiết phải soạn thảo,
ban hành và công bố chuẩn mực kế toán Việt Nam……………………………13
4.2. Nguyên tắc soạn thảo, ban hành và công bố
chuẩn mực kế toán Việt Nam…………………………………………………..13
III> Phương hướng, giải pháp hoàn thiện…………………………………...15
1. So sánh giữa hệ thống kế toán Việt Nam (VAS) và các chuẩn
mực kế toán quốc tế (IAS) trường hợp Báo cáo lưu chuyển tiền tệ……………15
2. Vướng mắc và kiến nghị khi áp dụng chế độ kế toán
Việt Nam tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài……………………..19
2.1. Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán………………….19
2.2. Chỉ đạo và thực hiện công tác kế toán đối với các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN……………………………………………………20
3. Cải cách hệ thống kế toán Việt Nam đến năm 2010…………………….22
3.1. Mục tiêu………………………………………………………………..22
3.2. Hướng cải cách hệ thống kế toán Việt Nam đến năm 2010…………...23
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35150.doc