Nhà nước thực hiện kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô và vi mô như đặt kế hoạch hoá trong sự gắn bó với chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó với quy hoạch tổng thê và phân bố lực lượng sản xuất, lấy kinh tế thị trường làm đối tượng để kế hoạch hoá vĩ mô thông qua hệ thống chi tiêu cân đối lớn định hướng trong từng thời kì. Tổ chức tốt thông tin, dự báo tình hình trong nước và thế giới về các mặt có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh cho các chủ thể doanh nghiệp.
Nhà nước thực hiện chính sách tài chính quốc gia: Xây dựng môt chính sách tài chính quốc gia lành mạnh, trên cơ sở thu đúng và chi đúng, trên cơ sở thu đủ và chi đủ, thống thất thu dưới mọi hình thức. Khắc phục có hiệu quả những lãng phí, tệ tham nhũng mang tính phổ biến và trầm trọng hiện nay. Khắc phục tình trạng bội chi tiến tới thực hiện một ngân sách thăng bằng thu chi.
22 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự so sánh giữa nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Luôn có vô vàn những yếu tố có thể tác động đến sự phát triển đi lên của một đất nước, cả về trực tiếp lẫn gián tiếp. Trong đó việc lựa chọn phuơng hướng và cách thức phát triển luôn là một điều cực kì quan trọng, mang tính quyết định đến tương lai và tiền đồ của dân tộc. Chính vì thế, mỗi cơ quan đầu não của từng quốc gia trên thế giới đã phải rất cân nhắc để có thể đưa ra được đường lối phát triển đúng đắn nhất dựa trên cơ sở vật chất và điều kiên thực tiễn của mỗi quốc gia đó. Và việc này đã tạo nên một thế giới muôn màu sắc trong phương diện phát triển đất nước với rất nhiều những xu thế hội nhập, đường lối cải cách rất khác nhau của từng dân tộc. Điển hình như chính sách mở cửa vào những năm 90 của thế kỉ trước đã đưa nền kinh tế Trung Quốc bước sang một giai đoạn phát triển phồn thịnh mới, hay là chính sách kinh tế mới NEP giai đoạn 1921-1925 cũng đã đưa Liên Xô thoát khỏi khủng hoảng lúc bấy giờ. Đấy chính là tầm quan trọng của việc đưa ra những chính sách đúng đắn trong từng thời điểm để phát triển một đất nước. Từ đó Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã lấy “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” làm nòng cốt để đưa đất nước lên một tầm cao mới. Đó là con đường phát triển tất yếu phù hợp với những điều kiện khách quan vốn có. Và cũng xác định rằng, việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, vươn lên một nền kinh tế hiện đại, sánh ngang với các quốc gia phát triển trên thế giới, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN
I, Những quan niệm về nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thực chất là hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ đó là những hoạt động trao đổi, mua bán các loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường thì nền kinh tế đo được gọi là nền kinh tế thị trường. Nó là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó: các quan hệ giữa cá nhân và các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán các loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình phát triển sản xuất xuất hiện đều được tiền tệ hoá. Các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quan lí, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua bán, là hàng hoá. Ngoài ra khi nói về khái niệm kinh tế thị trương thì chúng ta còn có hai quan điểm khác nhau nữa được đưa ra trong hội thảo về “Kinh tế thị trường và định hưỡng xã hội chủ nghĩa” do hội đồng lí luận trung ương tổ chức.
Một là, xem “Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu; lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế.
Hai là, xem Kinh tế thị trường là một loại kinh tế - xã hội – chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không chỉ là cá nhân riêng lẻ, đó còn là những tập đoàn người, những giai cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này nhưng lại có thể có hại cho tầng lớp, giai cấp khác.
Tóm lại: Kinh tế thị trường là một trong những phương thức tồn tại của nền kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện thông qua quan hệ hàng hoá - thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá và vì thế nó hoàn toàn khác với kinh tế tự nhiên – là nền kinh tế quan hệ dưới dạng hiện vật, chưa có trao đổi.
II, Điều kiện hình thành và các bước phát triển của kinh tế thị trường.
a, Những điều kiện cơ bản để hình thành kinh tế thị trường.
_ Thứ nhất là phải tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá nên những điều kiện để phát triển kinh tế hàng hoá chính là điều kiện để phát triển kinh tế thị trường.
_ Thứ hai là phải dựa trên cơ sở tự do kinh tế, sản xuất và kinh doanh. Trong một nền kinh tế thị trường có nhiều người cùng sản xuất một loại sản phẩm và ngược lại, mỗi đơn vị sản xuất và người tiêu dùng cần nhiều loại sản phẩm hàng hoá khác nhau. Vì vậy việc tự do lựa chọn mối quan hệ bán hàng giữa các chủ thể kinh tế, tự do trao đổi mua bán là hết sức cần thiết cho quá trình giải phóng sức sản xuất và điều hoà lợi ích giữa người mua và người bán. Sự tự do mua bán còn thể hiện tập trung qua giá cả hình thành trên thị trường tuân theo sự chi phối của các quy luật kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá theo giá cả thị trường – giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán, là sự gặp gỡ giữa cung và cầu, là biều hiện của quy luật giá trị. Nói đến kinh tế thị trường thị phải nói đến sự tự do cạnh tranh hay nói đúng hơn tự do là môi trường của kinh tế thị trường, là quy luật của kinh tế thị trường. Cạnh tranh đòi hỏi người sản xuất phải tích cực, năng động, nhạy bén như phải thường xuyên đổi mới kĩ thuật, công nghệ và phương pháp tổ chức sản xuất để đạt hiệu quả cao nhất.
_ Thứ ba là nền kinh tế phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định được thể hiện ở sự phát triển các ngành kinh tế thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật cùng với hệ thống tiền tệ, phương tiện để lưu thông hàng hoá. Sự tăng cường sức mạnh các lĩnh vực công nghiệp nông nghiệp và thương nghiệp cùng các ngành sản xuất khác khẳng định sự chiến thắng của kinh tế thị trường đối với sản xuất nhỏ. Dựa trên cơ sở mạnh mẽ của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra nhanh chóng, cơ cấu kinh tế có sự biến đổi to lớn, sự phát triển của thị trường được mở rộng. Lĩnh vực trao dổi không còn bị hạn chế trong từng vùng mà hình thành thị trường thống nhất trên pham vi cả nước. Hệ thống các thị trường sản phẩm tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền tệ được xác lập và hoạt động đồng bộ. Giá trị của đồng tiền ổn định, khối lượng tiền tệ đủ nhu cầu cần thiết cho việc lưu thông hàng hoá, có hệ thông phục vụ tiền tệ (ngân hang thương mại, quỹ tín dụng, thị trường ngoài tệ, thị trường chứng khoán) là vô cùng cần thiết để nền kinh tế vận động trôi chảy. Đồng thời hệ thống lưu thông hàng hoá là không thể thiếu được
Sự hình thành và phát triển của các điều kiện trên đây luôn gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hộ nói chung và của sản xuất trao đổi hàng hoá nói riêng. Kinh tế thị trường chỉ có thể được xác lập và phát triển trên cở sở mở rộng và làm sâu sắc không ngừng những điều kiện đó.
b, Các bước chuyển biến của nền kinh tế thị trường.
Kinh tế hàng hoá ra đời từ nền kinh tế hàng hoá tự nhiên thay thế và đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong lịch sử nó đã phát triển qua các loại hình: kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường hỗn hợp gắn liền với ba bước biến chuyển sau:
_ Bước chuyển từ nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc lên kinh tế hàng hoá giản đơn. Bước chuyển này gắn liền với sự phát triển của quá trình phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong suốt quá trình tồn tại của nền kinh tế hàng hoá giản đơn đã diễn ra 3 lần phân công lao động xã hội lớn: lần 1 tách chăn nuôi khỏi trồng trọt, lần 2 tách công nghiệp ra khỏi nông nghiệp, lần 3 tách thương nghiệp ra khỏi các ngành sản xuất vật chất khác. Như vậy phân công lao động xã hội đã tách sự lệ thuộc của người lao động sản xuất với tự nhiên và chuyển thành sự phụ thuộc giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Phân công lao động xã hội đã thực sự là cơ sở của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Và đặc trưng cơ bản của giai đoạn sản xuất hàng hoá giản đơn là dựa trên cơ sở kĩ thuật thủ công tương ứng với văn minh nông nghiệp, tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, cơ cấu kinh tế là nông nghiệp - thủ công nghiệp; tính chất hàng hoá của sản phẩm chưa hoàn toàn phổ biến.
_ Bước chuyển từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn lên nền kinh tế thị trường tự do. Từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVII ở nước Anh và một số nước châu Âu diễn ra qua trình qúa độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Đó là thời kì tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản châu Âu thương nghiệp và đặc biệt là ngoại thương phát triển mạnh. Các lí thuyết kinh tế của trường phái trọng thương đã góp phần quan trọng vào quá trình chuyển biến nền kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường tự do. Sau khi tích luỹ được một số lượng tiền lớn, các nhà kinh doanh tập trung sức phát triển thị trường dân tộc theo nguyên tắc tự do kinh tế. Trong thời kì này, vốn được đầu tư để phát trỉên các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, nông nghiệp và công nghiệp nặng nhằm tạo ra tiềm lực của nền kinh tế thị trường. Việc tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí, kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất, tín dụng đã phát triển ở một trình độ nhất định, các thị trường đất đai và thị trường lao động được xác lập là chỗ dựa cho sự phát triển kinh tế thị trường.
_ Bước chuyển từ nền kinh tế thị trường tự do lên kinh tế thị trường hỗn hợp. Kinh tế thị trường hỗn hợp là hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá mà ở đó các chức năng cơ bản của nền kinh tế sản xuất cái gì, bằng cách nào, cho ai đều được xử lí trên nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước. Sự phát triển của kinh tế thị trường diễn ra trong những năm 40-50 của thế kỉ XX đến nay nó gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại. Cho đến nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều hoạt động theo nền kinh tế thị trường hỗn hợp gắn với các điều kiện: sự xuất hiện của sở hữu nhà nước, thị trường chững khoán, tham gia phân công lao động quốc tế, đặc biệt là sự xuất hiện vai trò mới của nhà nước – vai trò quản lí vĩ mô đối với kinh tế thị trường.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là dựa trên kĩ thuật điện tử tin học gắn với nền văn minh hậu công nghiệp hay văn minh trí tuệ, tồn tại các hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu cổ phần, sở hữu quốc tế, dựa trên cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, vận động theo cơ chế kinh tế hỗn hợp, cơ chế thị trường và sự quản lí vĩ mô của nhà nước.
III, Sự so sánh giữa nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Có nhiều điểm giống và khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Trước hết xét về sự giống nhau của chúng xuất phát từ tính khách quan. Cả hai kiêu kinh tế thị trường này đều sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các quy luật khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ Đồng thời, cả nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều là các nền kinh tế hôn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước và các nền kinh tế là không giống nhau. Không có một nền kinh tế nào thuần tuý chỉ vận hành theo cơ chế thị trường.
Còn sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp của nhà nước và sự can thiệp này là do bản chất của nhà nước quyết định. Được thể hiện rõ qua những điểm sau:
_ Về chế độ tư hữu, cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Còn cơ chế thị trường trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu. Trong đó, chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân, vai trò chủ đạo của nề kinh tế nhà nước. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tạp thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng thực hiện.
_ Về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lí, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự quản lí của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Còn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự can thiệp của nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiên mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
_ Về cơ chế vận hành, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích xã hội chủ nghĩa theo phương châm nha nước điều tiết vĩ mô. Và ngược lại, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hoạt động dưới sự quản lí của Đảng tư sản cầm quyền.
_ Về mối quan hệ tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện phát triển nền kinh tế hàng hoá mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới.
_ Về phân phối thu nhập, sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ dừng lại ở mức độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng bình đẳng trong xã hội. Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau: Thứ nhất là kết hợp vấn đề xã hội, đảm bảo cho các chủ thể kinh tế có được lợi nhuận cao, tạo điều kiện kinh tế chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Thứ hai là kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc kinh tế hàng hoá như phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Và thứ ba là điều tiết phân phối thu nhập, tức là nhà nước cần có chinh sách giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Mặt khác, có biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng của toàn xã hội.
Có một xu hướng đáng lưu ý là tuy nhà nước xã hội chủ nghĩa đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hoà lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau để giảm bớt mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh tế. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là do sự chi phối điều tiết của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, của lợi ích giai cấp nên sự điều tiết của nhà nước còn có nhiều bất cập. Sự can thiệp của nhà nước nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển và công bằng chỉ có thể thực hiện được với một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa.
IV, Phát triển kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
a, Những ưu thế của Việt Nam để phát triển nền kinh tế thị trường.
Đất nước ta đang tồn tại đầy đủ các điều kiện cần thiết để phát triển nền kinh tế thị trường. Phân công lao động đang phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Nhiều ngành nghề mới ra đời, đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật kết tinh trong sản phẩm cao như điện tử, tin học Bên cạnh đó, các ngành nghề truyền thống vẫn được chú trọng phát triển. Các sản phẩm của các ngành đang từng bước khẳng định được thương hiệ của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây chính là những thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển này đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. Lao động Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể cả về chất lẫn lượng. Đồng thời tình trạng lao động cũng được phân bố lại một cách hợp lí giữa các ngành, các vùng. Lao động Việt Nam cũng đã vươn ra thị trường thế giới và thực tế đã chứng minh được những ưu thế của mình. Và đó chính là những mặt ưu thế của Việt Nam để có thể phát triển thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa.
b, Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay, nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết tận dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở trình độ tương đối cao ở các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét. Hơn thế nưa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một sô ít nước lớn hay là một số tập đoàn quốc gia đối với các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì thế, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhưỡng chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra “chủ nghĩa tư bản xã hội”, “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “Nhà nước phúc lợi chung” , tức là phải có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xã hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
_ Phân công lao động với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi mà còn được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển và sự đa dạng đó được thể hiện rõ ở tính phong phú đa dạng và chất lượng ngày càng cao của các sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
_ Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Đo đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thể hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
_ Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật quản lí, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
_ Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn rất cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải tuân theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy khi kinh tế thị trường tồn tại ở nước ta là một tất yếu khách quan thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ được.
Thực tế đã cho thấy Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kĩ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lí tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời của cả dân tộc Việt. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? thì đó là câu hỏi lớn và cực kì hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hộ kiểu Xô Viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã mang lại cho nước ta nhiều thành quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kì đất nước có chiến tranh. Nhưng càng về sau, mô hình này càng bộc lộ những khuyết điểm, và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Và khi đã nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại đội đã đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trọng thời kì quá độ; về cơ cấu kinh tế, thừa nhậ sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng kết hợp lợi ích cá nhân cùng lợi ích tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, phát hiện, đấu tranh tư tưởng, kêt tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
V, Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
a, Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường.
Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Thiết lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là chúng ta không chỉ quan tâm phát triển kinh tế đơn thuần mà còn phải chú trọng đến các vấn đề xã hội, thực hiện đồng thời mục tiêu tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Phấn đấu thực hiện làm cho dân giàu nước mạnh với thực hiện dân chủ và công bằng xã hội.
b, Về chế độ sở hữu.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến một nền kinh tế với sự đa dạng về các hình thức sở hữu. Vì thế, đa dạng hoá sở hữu là vấn đề tất yếu va do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Từ sự đa dạng về các hình thức sở hữu dẫn đến đa dạng các thành phần kinh tế và các thành phần kinh tế này vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau.
c, Về quan hệ phân phối.
Chính sự đa dạng về các hình thức sở hữu dẫn đến tồn tại nhiều hình thức phân phối. Không như nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy phân phối theo tư liệu sản xuất và theo vốn là chủ yếu, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chủ yếu thực hiện phân phối theo lao động, ngoài ra còn có nhiều hình thức phân phối khác như: phân phối theo nguồn lực, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua quỹ phúc lợi xã hội và tập thể.
Nhà nước phải có chính sách điều tiết sao cho phù hợp để đảm bảo tính công bằng cũng như làm giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập trong xã hội.
d, Về vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Định hướng xã hội chủ nghĩa được đảm bảo bởi sự lãnh đạo của Đảng và quản lí của Nhà nước. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Đây vừa là điều kiện vừa là nội dung để phân biệt sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường củ nước ta với kinh tế thị trường của các nước ta bản chủ nghĩa trên thế giới.
e, Về xu hướng phát triển.
Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại, coi trọng việc kết hợp vai trò thúc đẩy sự ra đời các nhân tố của kinh tế thị trường và vai trò quản lí vĩ mô của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường hiện đại.
Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với phát triển giáo dục, văn hoá và nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đa bản sắc dân tộc.
Kinh tế thị trường nước ta phát triển theo xu hướng mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹ lãnh thổ quốc gia.
Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa quy luật phát triển tuần tự với quy luật phát triển nhảy vọt.
Từ các đặc trưng trên có thể nói: quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình tiến tới thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Từng bước phát triển kinh tế và hướng tới một xã hội hiện đại và tốt đẹp, trong đó được làm chủ, nhân ái, có văn hóa và trình độ, không có áp bức bóc lột, mọi người đều được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I, Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
a, Những thành tựu đạt được.
Xuất phát từ những nhận định đúng đắn về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước đi sáng suốt, đề ra những chính sách phù hợp. Chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu, là bằng chứng xác thực nhất cho sự lựa chon đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng khích lệ to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp.
Kinh tế tăng trưởng khá, văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân đang từng bước được cải thiện, tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, hệ thống chính trị được củng cố, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quố tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả khả quan.
Cụ thê, thông qua việc thực hiện các chiến lược 10 năm từ 1991 đến 2000, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng như:
_ Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất đang từng bước phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần hình thành. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang ngày càng phát huy vai trò chủ đạo nền kinh tế của mình.
_ Quan hệ đối ngoại cũng ngày càng mở rộng góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng bước đầu của nền kinh tế. Không những tăng về kim ngạch xuất khẩu mà còn thu hút được một lướng lớn vốn, công nghệ và kinh nghiêm quản lí từ các nước bạn.
_ Không chỉ trong kinh tế, các mặt văn hoá xã hội, y tế giáo dục cũng đều được quan tâm rõ rệt nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
b, Thực trạng còn kém phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Tuy đa đạt những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng ta vẫn chưa thoát khỏi vị thế là một nước nghèo, kém phát triển. Sức cạnh tranh của hàng hoá còn yếu, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, kĩ thuật công nghệ lạc hậu. Việc chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn, dân số và việc làm luôn là những vấn đề gay gắt. Phân công lao động xã hội chưa phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Sự phát triển sản xuất hàng hoá vẫn còn khá chênh lệch giữa các vùng và các ngành. Bộ máy tổ chức cán bộ còn cồng kềnh và nhiều bất cập gây chồng chéo và lãng phí. Thực lực kinh tế còn yếu kém nên chưa tạo ra sức hút mạnh mẽ tới các nhà đầu tư nước ngoài. Vẫn còn có nơi có lúc tư duy còn chịu ảnh hưởng của cơ chế cũ, gây khó khăn cản trở sự phát triển của các chủ thể kinh tế, chưa thực sự bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh.
Những yếu kém kể trên một phần là do nhiều nguyên nhân, trước hết là do điều kiện khách quan: nước ta chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh trước đó làm cho nền kinh tế bị tàn phá nặng nề mà không chỉ trong một thời gian ngắn ma khôi phục được. Tuy nhiên, nguyên nhân chính là do những hậu quả của cơ chế cũ để lại, mà khuyết lớn thuộc về công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành.
II, Những giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
a, Tập trung xây dựng và tu bổ lại các cơ sở hạ tầng.
Phát triển kết cấu hạ tầng đảm bảo sự giao lưu thông suốt trong mọi thời tiết trong các tuyến giao thông huyết mạch, các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm miền núi. Trong từng vùng, vấn đề thông tin liên lạc được đáp ứng theo nhu cầu phát triển. Đầu tư xây dựng mới theo hướng đồng bộ, hiện đại các công trình giao thông tại các cửa khẩu, các hành lang quan trọng tới cửa khẩu nội địa, tại các vùng kinh tế trọng điểm, tuyến trục Bắc Nam. Mở rộng và nâng cấp sân bay quốc tế và các sân bay khác. Cải tạo và mở rộng cảng, phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ, phát triển và nâng cấp mạng lưới điện.
b, Đẩy mạnh quá trình phân công lao động.
Phân công lao động xã hội là của sản xuất hàng hoá, của phát triển thị trường. Vì vậy quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Ở nước ta, đẩy mạnh phân công lao động xã hội cũng đồng nghĩa với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, công nghiệp hoá ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu. Để thực hiện chiến lược này, cần phải phân công lao động để phát triển những ngành, những lĩnh vực mà đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất, thúc đây xuất khẩu. Trước mắt đó là các ngành: nông nghiệp, công nghiệp dệt may, công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản; công nghiệp lắp ráp điện tử và một số lĩnh vực khác. Thông qua việc xuất khẩu và phát triển những hàng hoá này cần tranh thủ nhập được những công nghệ và kĩ thuật sản xuất hiện nay. Điều đó cho phép vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa từng bước đổi mới trình độ lao động trong nước phù hợp với trình độ quốc tế và khu vực.
c, Về cách mạng khoa học kĩ thuật.
Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài. Chọn giải pháp kĩ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu, tận dụng có hiệu quả các chính sách hiện có sau những năm xây dựng trước đây. Cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá các kĩ thuật và công nghệ truyền thống phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tranh thủ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài, thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị. Gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới. Ưu tiên nghiên cứu, ứng dụng tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp điện tử và tin học, công nghệ sinh học, công nghiệp chế tạo và gia công vật liệu. Chú trọng đúng mức các hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản. Tăng đầu tư bằng nhiều nguồn vốn cho việc nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học, phát triển giáo dục và đào tạo, có cơ chế bồi dưỡng và bảo vệ nhân tài.
d, Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Đối với thị trường hàng hoá và tiêu dùng dịch vụ thì phải tăng quy mô tiêu dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng phong phú và chất lượng ngày càng cao. Việc phát triển thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ đòi hỏi phải tăng dung lượng thị trường, tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, chữa bệnh cho nhân dân. Cần khai thác thế mạnh của đất nước về đất đai, rừng, biển, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến để có nguồn cung hàng ngày lớn để đáp ứng nhu cầu. Đồng thời cùng với số lượng phải chú ý đến chủng loại phong phú và nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao. Từng bước giảm giá cả hàng tiêu dung và dịch vụ: giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá và tằng khối lượng sản phẩm cung ứng trên thị trường.
Còn đối với thị trường các yếu tố sản xuất như: thị trường vốn, thị trường sức lao động và thị trường các điều kiện vật chất khác cho quá trình sản xuất. Muốn thực hiện tái sản xuất mở rộng thì vốn và tư liệu sản xuất cần nhận được một phần bổ sung từ giá trị thặng dư, tài sản phải được tham gia vào phân chia lợi nhuận.
Bên canh đó, ta cần phải thực hiện công bằng giữa các loại thị trường: Cần xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, chuyển chúng sang quan hệ hàng hoá thị trường một cách hoàn toàn. Có nghĩa toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ đều được mua bán trên hai thị trường một cách tự do.
Cần phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính, mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá cả thị trường lên xuống mất ổn định. Nhà nước cần phải có lực lượng hàng hoá dự trữ và có biện pháp ổn định tiền tệ.
e, Mở rộng kinh tế đối ngoại.
Thu hút ngày càng nhiều vốn và công nghệ hiện đại của các nước thông qua vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá để tránh lệ thuộc, nhưng cần ưu tiên hơn cho khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh trong xuất nhập khẩu, trong phân công và hợp tác quốc tế về lao động. Coi trọng việc đào tạo người có năng lực và bản lĩnh để sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài, để nhận chuyển giao công nghệ mới của nước ngoài không mắc những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra.
Tiếp tục phát triển thị trường ngoài nước, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương như phải thực hiện xuất siêu, muốn vậy cần phải xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu. Khuyến khích phát triển công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu hút được giá trị cao cho hàng xuất khẩu, cho chính sách bảo hộ hợp lí để khuyến khích các ngành kinh tế trong nước phát triển thu hút công nghệ - khoa học kĩ thuật từ bên ngoài; ngăn chặn nhập những hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng.
f, Vai trò kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô và vi mô như đặt kế hoạch hoá trong sự gắn bó với chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó với quy hoạch tổng thê và phân bố lực lượng sản xuất, lấy kinh tế thị trường làm đối tượng để kế hoạch hoá vĩ mô thông qua hệ thống chi tiêu cân đối lớn định hướng trong từng thời kì. Tổ chức tốt thông tin, dự báo tình hình trong nước và thế giới về các mặt có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh cho các chủ thể doanh nghiệp.
Nhà nước thực hiện chính sách tài chính quốc gia: Xây dựng môt chính sách tài chính quốc gia lành mạnh, trên cơ sở thu đúng và chi đúng, trên cơ sở thu đủ và chi đủ, thống thất thu dưới mọi hình thức. Khắc phục có hiệu quả những lãng phí, tệ tham nhũng mang tính phổ biến và trầm trọng hiện nay. Khắc phục tình trạng bội chi tiến tới thực hiện một ngân sách thăng bằng thu chi.
Không chỉ có vậy, Nhà nước còn thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Ngân sách trung ương trên cơ sở thực hiện tốt việc điều hoà lưu thông tiền, khống chế và kiềm toả lượng tiền phát hành góp phần ổn định kinh tế, giá cả; không chế và kiềm toả lam phát ở mức bình thường, đề phòng và ngăn chặn những hiện tượng tái phát. Củng cố sức mua của đồng tiền Việt, để có thể trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Phân định rõ chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước và chức năng của sản xuất kinh doanh. Đầu tư và phát triển nhanh thị trường chứng khoán.
Còn đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước phải chi phối và hướng hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đi theo định hướng xác định. Nắm các ngành thuộc kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất kinh doanh. Đối với các ngành kinh tế phải nắm được những mặt hàng thuộc quốc tế dân sinh, mang tính công cộng. Phân biệt doanh nghiệp Nhà nước với sở hữu hỗn hợp của các doanh ngiệp liên doanh, liên kết, công ty cổ phần. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm căn cứ đánh giá và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường dự trữ quốc gia và tạo một ngân sách và kho bạc Nhà nước lành mạnh.
Về hệ thống thuế: Nhà nước phải có được những chính sách thuế đúng đắn để có tác dụng tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, khuyến khích sản xuất, ngăn chặn những tác động tiêu cực trong nền kinh tế, điều tiết sản xuất và tiêu dùng, thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
Một lần nữa em xin bày tỏ ý kiến của mình về quyết định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vô cùng đúng đắn và hợp với hoàn cảnh của nước ta hiện nay. Trong xu thế hội nhập ngày nay, việc một đất nước không có nền kinh tế thị trường phát triển sâu rộng thì hoàn toàn đồng nghĩa với việc đất nước đó sẽ bị cô lập bởi thế giới của hàng hoá trao đổi, của hoạt động cạnh tranh thị trường. Chính vì thế, việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quyết định phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu khách quan. Nó giống như việc chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản khi chủ nghĩa tư bản đến thời kì suy thoái. Đây sẽ là thế kỉ phát triển của kinh tế tri thức, của thị trường hàng hoá phát triển toàn diện, và chỉ có nước nào làm tốt những công tác đó mới có thể tự cho mình cái quyền phát ngôn trên hội nghị thế giới.
Về phần em, một sinh viên đại học năm thứ nhất, em hy vọng nhà nước sẽ có nhiều chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho chúng em có thể vừa học lí thuyết vừa thực hành, được tiếp cận với nền kinh tế thị trường đa dạng ở trong nước và nước ngoài, để chúng em tiếp tục trau dồi kiến thức và sau này có thể đem ra để phục vụ sự nghiệp dựng xây đất nước.
Em xin cảm ơn thầy cô đã đọc bài viết trên và em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp vô cùng quý báu của thầy cô để giúp em hoàn thiện tư tưởng và tự tin hơn trên con đường nghiên cứu và học tập của mình./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin
2. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần VIII, IX, X.
3. Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa_ NXB thống kê 1995
5. Một số bài tiểu luận xuất sắc của các anh, chị khoá trước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7388.doc