Mặc dù tỷ giá tác động đến xuất nhập khẩu, nhưng xuất nhập khẩu lại là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Khi tỷ giá tăng lên có thể sẽ gây ra:
- Xuất khẩu tăng làm tổng cầu trong nước tăng lên bởi xuất khẩu là một bộ phận của tổng cầu AD = C + I + G + (EX - IM)
Do đó, nó có thể gây ra hai ảnh hưởng:
+ Cầu tăng trong khi cung chưa tăng sẽ đẩy giá lên gây nên tình trạng lạm phát.
+ Nếu nền kinh tế vẫn còn nhiều nguồn lực có thể phát huy thì giá tăng sẽ kích thích sản xuất và làm cung tăng. Do đó, sản lượng sẽ dần tăng lên trong khi lạm phát sẽ giảm xuống.
- Nhập khẩu đắt đỏ làm cho giá cả hàng nhập và giá cả hàng hoá có tỷ trọng nguyên liệu nhập ngoại cao rơi vào tình trạng trở nên đắt hơn làm cho mặt bằng giá thành bị đẩy lên dẫn đến lạm phát. Giá cao sẽ khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu và từ đó sẽ tăng sản lượng.
Kết quả, lạm phát có thể xảy ra mà sản lượng cũng có thể tăng. Mức độ lạm phát cao hay thấp là phụ thuộc vào khả năng tăng sản lượng sản xuất. Nếu sản lượng tăng nhiều thì lạm phát giảm. Nếu sản lượng tăng ít thì lạm phát tăng.
Ngược lại, khi tỷ giá giảm có thể gây ra thiểu phát (deflation) và suy giảm sản lượng. Tác động của tỷ giá đến sản lượng và lạm phát như vậy còn phụ thuộc vào thực trạng nền kinh tế, tính co dãn của cung cầu xuất nhập khẩu. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái ổn định hay biến động còn ảnh hưởng đến hoạt động có liên quan đến ngoại tệ như vay nợ nước ngoài, đầu tư. và do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu và toàn bộ nền kinh tế.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự tác động của tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất nhập khẩu và các biến số kinh tế vĩ mô khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
*****
Tỷ giá hối đoái xưa nay vốn dĩ là một thế giới bí ẩn, bất trắc. Sự vận động của nó thường vượt ra ngoài dự đoán và khả năng chế ngự của Nhà nước. Nó là giao điểm giữa các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước, tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng tác động đến nhiều biến số kinh tế khác nhau và nhất là hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách tỷ giá hối đoái do vậy rất nhậy cảm , như một con dao hai lưỡi, có thể đem lại "sự thần kỳ kinh tế" nhưng cũng có thể đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng.
Việt Nam với xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế, nhất là trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ được coi là những điều tất yếu. Tuy nhiên, với những diễn biến hết sức phức tạp như những năm gần đây, với nề kinh tế mở, thì tác động của nền kinh tế - tài chính thế giới qua con đường tỷ giá diễn ra rất nhanh, có ảnh hưởng lớn đến chiến lược phát triển kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu. Trong khi đó bài học của các nước NICs (các nước công nghiệp mới) cho thấy, Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá (CNH - HĐH) chỉ thành công khi nó được "nuôi dưỡng" bằng xuất khẩu. Hơn nữa, Việt Nam đang đi những bước đi đầu tiên trên cả lý luận và thực tiễn trong việc điều hành tỷ giá hối đoái trong chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu phục vụ CNH - HĐH đất nước, do đó, việc nghiên cứu tỷ giá hối đoái và tác động của nó tới hoạt động xuất nhập khẩu đối với chúng ta là điều rất cần thiết.
Mục lục
Lời nói đầu
Mục lục
Chương I: Những vấn đề về tỷ giá hối đoái và tác động của nó đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Tỷ giá hối đoái...............................................................................
Khái niệm.......................................................................................
1.1. Tỷ giá hối đoái là gì...................................................................
1.2. Thực chất về tỷ giá hối đoái.......................................................
Các loại tỷ giá hối đoái...................................................................
2.1. Tỷ giá hối đoái giao ngay và tỷ giá hối đoái kỳ hạn..................
2.2. Tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái thị trường............
2.3. Tỷ giá hối đoái yết trực tiếp và tỷ giá hối đoái yết gián tiếp.....
2.4. Tỷ giá hối đoái tính chéo...........................................................
Xác định tỷ giá hối đoái ................................................................
3.1. Ngang giá vàng .........................................................................
3.2. Đồng giá lãi suất.......................................................................
3.3. Quy luật một giá và thuyết đồng giá sức mua...........................
3.4. Xác định tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung - cầu tiền tệ..........
Các chế độ tỷ giá hối đoái..............................................................
4.1. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định hoàn toàn..................................
4.2. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định có điều chỉnh............................
4.3. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn...................................
4.4. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết.................................
Các phương pháp chủ yếu điều chỉnh tỷ giá hối đoái.....................
5.1. Lãi suất chiết khấu.....................................................................
5.2. Nghiệp vụ thị trường hối đoái....................................................
5.3. Quỹ bình ổn hối đoái.................................................................
5.4. Phá giá tiền tệ.............................................................................
5.5. Nâng giá tiền tệ..........................................................................
Chương II: Sự tác động của tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất nhập khẩu và các biến số kinh tế vĩ mô khác.
Tỷ giá hối đoái tác động đến xuất nhập khẩu................................
Mối tương quan giữa tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu................
Tỷ giá hối đoái tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô khác:
lãi suất, lạm phát và sản lượng.......................................................
Kết luận..............................................................................................
Tài liệu tham khảo.............................................................................
Trang
1
2
3
3
3
3
3
4
4
5
5
5
6
6
6
7
9
10
10
12
12
12
13
13
14
15
15
15
16
16
17
17
19
20
Chương I
những vấn đề lý luận chung về tỷ giá hối đoái
và tác động của nó đến xuất nhập khẩu
Tỷ giá hối đoái
Khái niệm
Tỷ giá hối đoái là gì
Về hình thức, tỷ giá hối đoái là giá cả đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia; là hệ số của một đồng tiền này sang đồng tiền khác, được xác định bởi mối quan hệ cung - cầu trên thị trường tiền tệ.
Về nội dung, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ, phát sinh trực tiếp từ tiền tệ, quan hệ tiền tệ (sự vận động của vốn, tín dụng....) giữa các quốc gia.
Tỷ giá đồng Yên Nhật và của đô la Mỹ so với đồng Việt Nam ngày 05/09/2001 như sau:
1 USD = 119.83 JPY
1 USD = 15.000 VND
Như vậy, tỷ giá hối đoái thể hiện quan hệ về giá trị tiền tệ giữa hai đồng tiền khác nhau.
Thực chất về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù nằm trong phần giao của 2 lĩnh vực: lĩnh vực tài chính tiền tệ và lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Chính vì thế xuất hiện các cách nhìn nhận sau:
Tỷ giá hối đoái là một loại giá đặc biệt của một loại hàng hoá đặc biệt.
Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt. Như vậy, đã là hàng hoá thì phải có giá trị, tức là do hao phí lao động xã hội tạo ra, nhưng tiền tệ ngày nay tức là tiền giấy không phản ánh hao phí lao động xã hội tạo ra mà nó lại đại diện cho một lượng giá trị khác, được xã hội gán cho và cộng nhận, với sự bảo đảm của chính phủ. Đây cũng chính là một trong những lí do cơ bản gây nên hiện tượng tiền giấy mất giá hay "lạm phát" (lạm phát là giá trị của tiền giấy bị sụt giảm, thể hiện ở việc cùng một lượng tiền nhưng mua được ngày càng ít hàng hoá hơn).
Giá trị sử dụng của tiền tệ chính là khả năng tiền tệ thực hiện các chức năng của nó: làm phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ, phương tiện đầu tư và kinh doanh kiếm lời.
Tỷ giá hối đoái là giá cả của tiền tệ, trong khi tiền tệ là đơn vị tính giá cả của mọi loại hàng hoá và dịch vụ, do đó tỷ giá còn được gọi là "giá của giá". Tỷ giá có tầm ảnh hưởng hết sức rộng lớn, trước hết là tới tất cả các loại giá có liên quan và sau đó ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tỷ giá hối đoái là cầu nối quan trọng giữa nền kinh tế trong nước và nền kinh tế thế giới.
Trong quá trình hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, dù là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá hay hoạt động đầu tư, du lịch, viện trợ,.. đều cần đến những giao dịch tiền tệ. Đơn vị xuất khẩu bán hàng ở nước ngoài thu ngoại tệ về cần đổi lấy nội tệ để quay vòng tiếp tục sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư muốn đổi lãi bằng nội tệ ra ngoại tệ để chuyển lợi nhuận về nước.... Và cơ sở để tiến hành những giao dịch tiền tệ này chính là "giá của tiền tệ" hay "tỷ giá hối đoái".
Một cách khái quát hơn, các quốc gia trên thế giới đều khác nhau về nhiều mặt. Có những điểm khác biệt thúc đẩy hợp tác và hội nhập kinh tế, nhưng lại có những khác biệt cản trở quá trình đó, chẳng hạn như việc mỗi quốc gia chỉ dùng một đồng tiền riêng của mình. Tuy nhiên, có nhiều cách để vượt qua cản trở này: các quốc gia phấn đấu để đồng tiền của mình có thể mua bán hàng hoá trên toàn thế giới hoặc việc hình thành đồng tiền chung trong khu vực như đồng EURO. Song có một phương pháp rất cổ điển, đã thúc đẩy hợp tác kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ trong suốt những năm qua - đó là phương pháp dùng tỷ giá hối đoái để chuyển đổi các đồng tiền của các nước khác nhau. Tỷ giá hối đoái đã là cơ sở để tạo ra một thước đo giá trị chung giữa các nước trên thế giới, thúc đẩy sự hợp tác và phát triển giữa các quốc gia.
Tỷ giá hối đoái là phương tiện chuyển đổi các đồng tiền và thể hiện tương quan giá trị giữa các đồng tiền đó. Do vậy, tỷ giá hối đoái còn thể hiện tương quan thực lực kinh tế giữa các quốc gia.
Các loại tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giao ngay và tỷ giá hối đoái kỳ hạn (Spot and Forward Rate)
Tỷ giá hối đoái giao ngay là tỷ giá yết cho những giao dịch thực tế diễn ra tại thời điểm yết giá và việc thanh toán được thực hiện chậm nhất sau 2 ngày.
Ví dụ: tỷ giá giao ngay USD/VND là 15.000 vào ngày 05/10/2001 áp dụng cho các giao dịch ngoại tệ trong ngày và việc thanh toán được thực hiện chậm nhất vào ngày 07/10/2001.
Tỷ giá hối đoái kỳ hạn là tỷ giá hối đoái ấn định cho một giao dịch ngoại tệ sẽ diễn ra trong tương lai.
Ví dụ: Tỷ giá giao ngay USD/VND là 14.95 0 vào ngày 05/09/2001. Tỷ giá kỳ hạn 30 ngày ấn định ngày hôm đó là 14.990 nhưng được tiến hành thanh toán vào 30 + 2 ngày sau tức ngày 07/10/2001. Tỷ giá kỳ hạn thường có sự chênh lệch với tỷ giá giao ngay. Mức chênh lệch này phản ánh dự đoán của thị trường về xu thế biến động tỷ giá.
Tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái thị trường
ở nhiều nước, ngân hàng trung ương nước đó can thiệp vào việc xác định tỷ giá hối đoái và ấn định mức tỷ giá giao dịch hàng ngày. Tỷ giá đó được gọi là tỷ giá chính thức. Tuy nhiên, các giao dịch thực tế trên thị trường có thể dựa trên một tỷ giá khác được xác định trên cơ sở cung cầu trên thị trường. Tỷ giá đó gọi là tỷ giá hối đoái trên thị trường.
Tỷ giá hối đoái chính thức là tỷ giá do ngân hàng trung ương công bố và ấn định còn tỷ giá hối đoái thị trường là tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường.
Tỷ giá hối đoái yết trực tiếp và tỷ giá hối đoái yết gián tiếp
Tỷ giá hối đoái yết trực tiếp là tỷ giá được yết trên cơ sở tính giá trị một đơn vị nội tệ theo ngoại tệ. Hình thức yết giá này thường được sử dụng ở Anh - Mỹ nên còn được gọi là yết giá kiểu Anh - Mỹ. Tỷ giá này được ký hiệu là e.
Ví dụ: Tại Anh người ta yết GBP/USD = 1,6669 còn tại Mỹ người ta yết USD/GBP = 0,5999.
Tỷ giá hối đoái yết gián tiếp là tỷ giá được yết trên cơ sở tính giá trị một đơn vị ngoại tệ theo nội tệ. Tỷ giá này được ký hiệu là E.
Ví dụ: Tại Việt Nam ta yết USD/VND = 14.980
(Nếu yết giá trực tiếp sẽ là: VND/USD = 1/14.980 = 0.0000667)
Tỷ giá hối đoái tính chéo (Cross Rate)
Trên thực tế, không phải tỷ giá giữa 2 đồng tiền nào cũng được yết giá trên thị trường ngoại tệ và thị trường hối đoái mà chủ yếu là tỷ giá của các đồng tiền với các đồng tiền mạnh (hard curency) như USD, GBP, FRF, JPY, DEM... tỷ giá giữa các đông tiền yếu (soft currency) thường không được yết giá do tính kém chuyển đổi (inconvertibility) của chúng. Tuy nhiên trong thực tế, đôi khi người ta lại cần tính toán tỷ giá giữa các đồng tiền này, chẳng hạn giữa Baht và Đồng Việt Nam. Khi đó người ta sử dụng tỷ giá tính chéo.
Tỷ giá tính chéo giữa 2 đồng tiền được xác định dựa trên cơ sở so sánh tỷ giá của chúng với một đồng tiền thứ 3 (thường là một đồng tiền mạnh).
Chẳng hạn nếu: USD/VND = 14.890 và USD/Baht = 40 thì tỷ giá tính chéo Baht/VND = 14.890/40 = 372,25
Ngoài những khái niệm trên, còn có một số loại tỷ giá khác như tỷ giá mua, tỷ giá bán, tỷ giá Big - Mac, tỷ giá chuyển khoản, tỷ giá Tom - next,...
Xác định tỷ giá hối đoái
Qua việc xác định trên, khi trình bày các khái niệm về tỷ giá hối đoái, chúng ta có thể để ý thấy rằng có nhiều loại tỷ giá hối đoái khác nhau cũng như giá trị của chúng cũng có thể không giống nhau. Và có thể ta cũng sẽ băn khoăn là tại sao và làm thế nào các ngân hàng trung ương ấn định tỷ giá chính thức? Thị trường quyết định tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn như thế nào? Tại sao tỷ giá USD/VND ngày 05/09/2001 lại là 14.950 chứ không phải 11.000 hay 17.000? Làm sao để xác định tỷ giá trao đổi giữa 2 loại tiền tệ? Trên thực tế người ta đã từng dùng nhiều phương pháp để xác định tỷ giá.
Ngang giá vàng
Để hiểu về ngang giá vàng, trước hết chúng ta cần nhớ lại rằng trước kia phương tiện trao đổi và thanh toán chính là vàng, lúc đầu là vàng thỏi (bullion), sau là tiền vàng đúc. Sau đó, tiền giấy ra đời thay thế cho vàng song vẫn được gắn giá trị vào vàng. Đó là chế độ bản vị tiền vàng (Gold Standard).
Ví dụ: 1 USD = 0,888671 gram vàng trong khi 1 GBP = 2,488281 gram vàng. Người ta đã lợi dụng ngay đặc điểm gắn giá trị của các đồng tiền vào vàng để xác định tỷ giá hối đoái.
Ngang giá vàng (gold parity) là phương pháp xác định tỷ giá hối đoái dựa trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đơn vị tiền tệ mỗi nước.
Giả định ta có hai loại đồng tiền là A và B. Tỷ giá này được xác định theo công thức sau:
Hàm lượng vàng trong 1 đơn vị tiền A
Tỷ giá hối đoái =
(Đồng tiền A/Đồng tiền B) Hàm lượng vàng trong 1 đơn vị tiền B
2,488281
Như vậy với ví dụ trên thì tỷ giá GBP/USD = = 2,8
0,888671
Ngày nay, phương pháp tính tỷ giá này ít được áp dụng.
3.2. Đồng giá lãi suất (Interest Parity)
Để hiểu phương pháp đồng giá lãi suất, trước hết chúng ta hãy xem xét ví dụ về 2 đồng tiền: D (nội tệ) và F (ngoại tệ). E, F lần lượt là tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn giữa 2 đồng tiền. RD và RF lần lượt là lãi suất (theo năm) của 2 đồng tiền. Nếu bắt đầu bằng 1 đồng D chúng ta sẽ có 2 phương án:
Phương án 1: Gửi 1 đơn vị đồng tiền D lấy lãi sau 1 năm thu được (1+ RD) đồng tiền D
Phương án 2:
Chuyển tiền D sang đồng tiền F theo tỷ giá giao ngay E được (1xE) đồng tiền F.
Gửi lấy lãi (1xE) đồng tiền F sau 1 năm thu được E(1+ RF) đồng tiền F.
Chuyển E(1+ RF) đồng tiền F sang đồng tiền D theo tỷ giá kỳ hạn F được E(1+ RF)/F đồng tiền D.
Nếu E(1+ RF)/F > (1+ RD) thì rõ ràng gửi tiền bằng tiền F có lãi hơn. Do số người muốn gửi tiền bằng đồng F tăng lên, lãi suất sẽ giảm xuống để cân đối nguồn vốn. Chỉ đến khi E(1+ RF)/F = (1+ RD) thì gửi tiền bằng đồng tiền D có lợi hơn và gây ra làn sóng chuyển từ đồng F sang đồng D gửi lấy lãi. Tương tự, dòng di chuyển này chỉ dừng lại khi lãi suất của hai phương án cân bằng. Hay:
E(1+ RF)/F = (1+ RD) E(1+ RF) = F(1+ RD)
Điều kiện này gọi là điều kiện ngang giá tiền lãi. Nó cho rằng trong điều kiện các nguồn vốn được chu chuyển tự do, lãi suất được hình thành trên cơ sở cung cầu thị trường và bỏ qua các chi phí giao dịch thì lãi suất ở mọi nơi trên thế giới đều như nhau. Từ đó, người ta xây dựng phương pháp đồng giá lãi suất để xác định tỷ giá hối đoái trên cơ sở cho rằng tỷ giá phải ddược xác định để đảm bảo sự đúng đắn của quy luật đồng giá lãi suất. Khi đó, tỷ giá được xác định bởi công thức:
1 + RD E - Eo RD - RF
E = Eo x hay =
1 + RF Eo 1 + RF
Trong đó E là tỷ giá tại thời điểm nghiên cứu (cần tính), Eo là tỷ giá tại thời điểm gốc. Từ công thức trên ta cũng thấy biến động tỷ giá phụ thuộc vào tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền. Vì tỷ giá có thể biến động ngay khi có sự thay đổi lãi suất, xác định tỷ giá theo đồng giá lãi suất được xem là cách xác định tỷ giá hối đoái ngắn hạn.
3.3. Quy luật một giá và thuyết đồng giá sức mua.
Tương tự như đối với đồng giá lãi suất, để hiểu quy luật một giá chúng ta hãy xem xét giá cả của một mặt hàng là gạo ở 2 quốc gia có 2 đồng tiền lần lượt là D và F. Giá gạo tính bằng 2 đồng tiền lần lượt là PD và PF. Tỷ giá F/D là E. Nếu căn cứ vào đồng tiền D, bạn có 2 phương án chọn:
Phương án 1: Mua 1 kg gạo bằng đồng D hết PD
Phương án 2: Mua 1 kg gạo bằng đồng F hết PF tức là phải bỏ ra (PFxE) đồng tiền D.
Nếu (PFxE) < PD, mua gạo bằng đồng F sẽ rẻ hơn. Các nhà buôn lập tức đổ xô vào mua gạo tại nước F. Kết quả, giá gạo F tăng lên cho đến khi (PFxE) = PD .
Ngược lại nếu (PFxE) > PD, mua gạo bằng đồng D sẽ có lợi, các nhà buôn lập tức chuyển sang ma gạo ở nước D đẩy giá gạo ở đây lên đến khi (PFxE) = PD.
Nói tóm lại, do hoạt động kinh doanh của các nhà buôn, giá gạo tương đối tại hai quốc gia sẽ luôn cân bằng. Đó cũng là nội dung quy luật 1 giá. Quy luật này phát biểu rằng trên các thị trường cạnh tranh hoàn hảo, không có các chi phí giao dịch và vận tải, gia cả tương đối (giá tính theo cùng một loại tiền tệ) là như nhau đối với mọi loại hàng hoá giống nhau, bất kể chúng được sản xuất ở nước nào. Do đó, nếu giá gạo ở 2 nước là PD và PF thì tỷ giá hối đoái E phải được xác định bằng: E= PD / PF để đảm bảo quy luật 1 giá đúng với gạo.
Dựa trên cách tiếp cận của quy luật 1 giá, Ricardo và nhiều nhà kinh tế đã đưa ra lý thuyết đồng giá sức mua (Purchasing Power Parity). Lý thuyết này phát biểu rằng, tỷ giá hối đoái giữa 2 đồng tiền bằng tỷ số giữa các mức giá của giá hàng hoá 2 nước. Thuyết này tính toán sức mua của các đồng tiền thông qua giá cả của giá hàng hoá ở mỗi nước, sau đó so sánh chúng với nhau:
Sức mua của đồng nội tệ
E=
Sức mua của đồng ngoại tệ
Tính toán tỷ giá hối đoái theo cách này gọi là đồng giá sức mua tuyệt đối (PPP tuyệt đối).
Một hàm ý khác của thuyết đồng giá sức mua là đồng giá sức mua tương đối (PPP tương đối). PPP tương đối cho rằng sự thay đổi theo tỷ lệ phần trăm trong tỷ giá hối đoái giữa 2 đồng tiền trong bất kỳ một điều kiện nào cũng bằng mức chệnh lệch giữa các thay đổi tỷ lệ phần trăm trong mức giá giữa các quốc gia. Nghĩa là:
(E - Eo) / Eo = (CPID - CPIF) / CPIF
E CPID Eo x CPID
= hay E =
Eo CPIF CPIF
Trong đó:
Eo : tỷ giá tại thời điểm chọn gốc
E : tỷ giá tại thời điểm nghiên cứu
CPID : chỉ số giá trong nước
CPIF : chỉ số giá nước ngoài
Công thức trên được gọi là công thức Ricardo - Cassel (do David Ricardo và Gustav Cassel cùng đưa ra trong tác phẩm của mình). Công thức này gợi ý rằng nếu chúng ta biết tỷ giá hối đoái tại một thời điểm lý tưởng là gốc thì ta có thể xác định được tỷ giá tại một thời điểm khác qua các mức gia 2 nước. Tỷ giá được xác định theo phương pháp này tạm gọi là tỷ giá hối đoái đồng giá sức mua (PPP). Cũng từ công thức Ricardo - Cassel, chúng ta có thể xác định được tỷ giá trong đó bỏ qua yếu tố lạm phát. Tỷ giá đó gọi là tỷ giá thực (Real exchange rate hay effective rate) còn tỷ giá hối đoái được yết hàng ngày là tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Tỷ giá hối đoái thực được xác định bởi công thức:
CPIF
ER = EN x
CPID
Trong đó ER là tỷ giá hối đoái thực, EN là tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Mặc dù lý thuyết đồng giá sức mua đã nêu bật được những nhân tố quan trọng nằm đằng sau sự vận động của tỷ giá hối đoái nhưng nó cũng thể hiện là một phương thức phức tạp và chưa hoàn thiện. ở chỗ:
Bao giờ cũng tồn tại chi phí giao dịch, vận chuyển hàng hoá. Do đó, không có gì bảo đảm giá của cùng một sản phẩm lại như nhau ở mọi nơi.
Do có những hàng rào ngăn trở nên mậu dịch và lưu thông hàng hoá không hoàn toàn tự do. Do vây, thị trường không thể điều hoà giá cả trên phạm vị thế giới.
Các mặt hàng ở các nước khác nhau cũng không giống nhau.
Các điều kiện thu thập dữ liệu, số liệu và lựa chọn khác nhau; ngoài ra còn các sai số thống kê làm cho các kết quả thu được mất tính chính xác và không đủ điều kiện so sánh.
3.4. Xác định tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung - cầu tiền tệ
Với những nhược điểm của phương pháp đồng giá lãi suất và đồng giá sức mua. Ngang giá vàng được coi là biện pháp có hiệu quả, song chỉ có tác dụng dưới chế độ bản vị vàng. Khi tiền giấy tách ra khỏi vàng, việc so sánh qua vàng trở nên không thể thực hiện được. Giá trị tiền giấy biến động liên tục và buộc việc xác định tỷ giá phải dựa trên những căn cứ mới. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta không biết xác định tỷ giá hối đoái như thế nào, thì tỷ giá vẫn cứ tồn tại trong các giao dịch trên thị trường: nó được xác định theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ.
Cầu về tiền của một nước xuất hiện trên thị trường ngoại hối khi người dân hay chính phủ nước khác muốn sử dụng tiền của nước đó để thanh toán, dự trữ hay đầu cơ.
Cung về tiền của một nước xuất hiện trên thị trường ngoại hối khi người dân hay chính phủ nước đó muốn sử dụng tiền của nước khác cho mục đích giao dịch, dự trữ hay đầu cơ.
Và tỷ giá được xác định trên thị trường ngoại tệ trên cơ sở cân bằng giữa cung và cầu tiền tệ.
Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái do thay đổi quan hệ cung cầu cũng giống như các hàng hoá thông thường khác. Khi cầu cao hơn cung, lập tức tỷ giá tăng lên để phân phối được lượng cung hạn chế. Do vậy, bất cứ tác động tăng cầu hay giảm cung nào cũng có tác động làm cho tỷ giá tăng lên. Khi cung cao hơn cầu tỷ giá bị kéo xuống để phân phối hết lượng cung thừa. Do vậy, bất cứ tác động nào làm tăng cung hay giảm cầu đều có tác động kéo tỷ giá xuống.
* Các yếu tố cấu thành cung - cầu ngoại tệ:
Cung ngoại tệ tạo thành từ các nguồn sau:
Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ra nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài:
+ Các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
+ Các nguồn vốn vay ODA và vay nợ thương mại.
+ Các nguồn đầu tư gián tiếp qua các tài sản tài chính.
Các nguồn đầu cơ, giao dịch phi thương mại.
Nguồn tiền ròng từ nước ngoài qua con đường kiều hối, viện trợ không hoàn lại.
Cầu ngoại tệ hình thành từ các nguồn sau:
Thanh toán cho hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu.
Đầu tư nước ngoài:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
Chu chuyển ngoai tệ ròng dưới hình thức chuyển lợi nhuận về nước, trả lãi...
Dự trữ, đầu cơ, giao dịch.
Các chế độ tỷ giá hối đoái.
Chế độ tỷ giá hối đoái là khái niệm dùng để chỉ cách thức xác định và quản lý tỷ giá hối đoái hay mức độ và hình thức can thiệp tỷ giá của nhà nước. Nhà nước có thể lựa chọn giữa không can thiệp, can thiệp khi cần và ấn định tỷ giá cố định. Do nhà nước có thể có các hình thức can thiệp khác nhau mà có nhiều chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau.
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định hoàn toàn.
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái trong đó các chính phủ cam kết duy trì khả năng chuyển đổi của đồng tiền tại một mức giá cố định nào đó.
Trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định các chính phủ sẽ đứng ra xác định tỷ giá hối đoái và tìm cách bảo vệ mức tỷ giá này.
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định chỉ tồn tại trong thực tế vào hai thời kỳ là thời kỳ bản vị vàng (gold standard) và thời kỳ chế độ bản vị vàng - đô la (chế độ tỷ giá hối đoái Bretton Woods).
Chế độ tỷ giá hối đoái bản vị vàng quốc tế:
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới đều áp dụng chế độ bản vị vàng. Mỗi nước duy trì một lượng dự trữ vàng và đồng thời đổi đơn vị tiền tệ của nó để lấy một lượng vàng nhất định. Thông qua chế độ bản vị vàng, các nền kinh tế trên thế giới giữ cho tỷ giá hối đoái không thay đổi.
Trong chế độ tỷ giá này, tỷ giá hối đoái được xác định trên cơ sở ngang giá vàng. Vì hàm lượng vàng của các đồng tiền không thay đổi cho nên tỷ giá ngang giá vàng nói chung là cố định. Tỷ giá thực tế trên thị trường chỉ giao động rất ít xung quanh ngang giá vàng vì chúng bị giới hạn bởi điểm vàng. Giới hạn lên xuống của tỷ giá hối đoái là ngang giá vàng cộng hay trừ chi phí vận chuyển vàng. Điểm cao nhất của tỷ giá gọi là điểm xuất vàng vì vượt quá giới hạn này thì vàng sẽ chạy ra nước ngoài. Điểm thấp nhất của tỷ giá gọi là điểm nhập vàng vì vượt quá giới hạn này vàng bắt đầu chảy vào trong nước. Do đó, trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá được giữ ổn định, đồng tiền không mất giá. Tỷ giá trong thời điểm này được tự động điều chỉnh không cần có sự can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, khi các chính phủ không còn tuân thủ nguyên tắc phát hành tiền có đảm bảo bằng vàng, lượng tiền giấy phát hành quá lớn gây ra tình trạng mất giá đồng tiền. Chế độ bản vị vàng sụp đổ kéo theo chế độ tỷ giá cố định bản vị vàng.
Chế độ bản vị vàng - đô la (chế độ Bretton Woods):
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, để thiết lập trật tự kinh tế mới, Mỹ và các nước đồng minh họp tại Bretton Woods vào tháng 7/1944 thoả thuận xây dựng một chế độ tỷ giá hối đoái mới gọi là chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods đồng thời thành lập quỹ tiền tệ thế giới (International Monetary Fund) để quản lý việc thực hiện tỷ giá hối đoái này. Đồng đô la, do sức mạnh chính trị và kinh tế của Mỹ được đặt vào trung tâm của hệ thống tỷ giá này với giá trị được gắn với một hàm lượng vàng nhất định: 1 USD = 0,888671 gram vàng (vì thế còn gọi là chế độ bản vị vàng - đô la). Các đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng với USD và không được phép biến động quá ±1% tỷ giá hối đoái đăng ký chính thức tại quỹ. Các ngân hàng thành viên phải ra tay can thiệp để tỷ giá hối đoái không biến động quá mức giới hạn này.
Ví dụ: Trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng, 1 USD = 5,55 FRF.
Như vậy, chế độ tỷ giá hối đoái này, thực chất vẫn coi vàng làm bản vị và vẫn sử dụng ngang giá vàng để xác định tỷ giá hối đoái, trong đó USD chính là cầu nối giữa các đồng tiền khác với vàng. Vì sức mạnh kinh tế của Mỹ dần dần bị suy giảm, cán cân thanh toán thường xuyên thâm hụt, nợ nước ngoài tăng làm cho đồng đô la bị mất giá nghiêm trọng. Nạn đầu cơ đô la ồ ạt làm cho các nước đồng minh không còn khả năng can thiệp để giữ vững tỷ giá hối đoái của động đô la như đã cam kết. Do đó, năm 1973 tổng thống Nixon phải tuyên bố chấm dứt chế độ tỷ giá hối đoái Bretton Woods đã tồn tại trong vòng 29 năm. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định một lần nữa lại sụp đổ.
Hiện nay, không còn quốc gia nào trên thế giới duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định hoàn toàn.
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định có điều chỉnh (Pegging hay Crawling Pegging)
Một chế độ tỷ giá hối đoái gần với chế độ tỷ giá hối đoái cố định hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái cố định có điều chỉnh.
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định có điều chỉnh là chế độ tỷ giá hối đoái trong đó các chính phủ chủ trương can thiệp ổn định tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn và có điều chỉnh trong dài hạn khi cần thiết.
Thực chất của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định là cam kết của chính phủ cho phép cung ứng tiền tệ điều chỉnh đến mức đủ để đảm bảo tỷ giá hối đoái cân bằng được duy trì ở mức công bố. Như vậy, nó đảm bảo được sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và ngăn ngừa các chấn động kinh tế, tạo ra môi trường ổn định cho sản xuất và kinh doanh, giữ vững lòng tin vào các chính sách của nhà nước.
Thông thường, các nước đang phát triển hay thi hành chế độ tỷ giá hối đoái này và họ chỉ tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái khi có những biểu hiện mất cân đối cán cân thương mại, suy giảm sức cạnh tranh quốc tế hoặc theo định kỳ nhằm kích thích xuất khẩu và bảo hộ hàng hoá trong nước.
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn
Đối lập với tỷ giá hối đoái cố định hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn.
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái trong đó các chính phủ để mặc cho thị trường tự do xác định tỷ giá hối đoái thông qua các biến động cung cầu.
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có ưu điểm là cho phép các nhà hoạt động chính sách tiền tệ theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau như ổn định việc làm hoặc giá cả. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá này hầu như mang tính lý thuyết. Do tầm quan trọng của tỷ giá, hầu hết các chính phủ đều ít nhiều có can thiệp vào việc xác định và điều hành loại giá cả đặc biệt này.
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết là chế độ tỷ giá hối đoái trong đó các chính phủ để cho các lực lượng thị trường xác định tỷ giá trong ngắn hạn và chỉ can thiệp vào trong dài hạn khi cần thiết.
Chế đô tỷ giá này tương đối linh hoạt và do vậy thường được áp dụng ở các nước có nên kinh tế thị trường phát triển.
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định có điều chỉnh và chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết là hai chế độ được áp dụng phổ biến trong thực tế. Sự khác nhau duy nhất giữa chúng là mức độ can thiệp của chính phủ vào quá trình hình thành tỷ giá. Mặc dù đôi khi các chính phủ có thể tuyên bố là họ thi hành chính sách nào đi nữa thì việc phân chia xem nước nào sử dụng tỷ giá nào là việc rất khó. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết tỏ ra linh hoạt hơn, phản ánh đúng hơn các quan hệ thị trường và ngăn ngừa các biểu hiện mất cân đối trong nền kinh tế. Song nó kém ổn định, dễ gây ra những hoảng loạn, giảm khả năng kiềm chế lạm phát cũng như cho tăng trưởng và phát triển. Do mỗi chế độ tỷ giá hối đoái đều có những ưu và nhược điểm của nó nên việc lựa chọn được đúng chế độ tỷ giá phù hợp trong từng thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi nó sẽ ảnh hưởng đến nhiều biến số kinh tế vĩ mô và nói rộng ra là toàn bộ nền kinh tế. Do đó, một sự lựa chọn sai lầm có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Các phương pháp chủ yếu điều chỉnh tỷ giá hối đoái
Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng đã chấm dứt cơ chế tự điều tiết tỷ giá hối đoái. Bởi tỷ giá ảnh hưởng tới nhiều biến số kinh tế vĩ mô khác nhau, hầu hết các chính phủ phải ít nhiều can thiệp vào tỷ giá hối đoái nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Muốn vậy, họ phải sử dụng các công cụ can thiệp tỷ giá hối đoái.
Lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là lãi suất thông qua đó ngân hàng trung ương cho vay chiết khấu hay tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương mại. Khi lãi suất chiết khấu giảm xuống, các ngân hàng sẽ vay chiết khấu nhiều hơn. Vì nguồn vốn vay bây giờ rẻ hơn nên lãi suất cho vay của các ngân hàng giảm xuống. Lãi suất của hàng loạt các tài sản chính cũng giảm theo. Do đó, ngân hàng trung ương có thể vận dụng công cụ lãi suất chiết khấu để điều chỉnh lãi suất thị trường. ở điều kiện bình thường, lãi suất được thiết lập đảm bảo sự cân bằng mức lãi dòng giữa trong nước và ngoài nước. Khi ngân hàng trung ương nâng cao mức lãi suất chiết khấu, lãi suất thị trường tăng lên. Gửi tiền trong nước trở nên có lợi tạo ra dòng vốn ồ ạt chảy vào trong nước. Cung ngoại tệ tăng và tỷ giá theo đó giảm xuống. Ngược lai, khi muốn tăng tỷ giá hối đoái, ngân hàng trung ương giảm lãi suất trong nước so với lãi suất bên ngoài. Luồng vốn chảy ra ngoài gây áp lực về cầu ngoại tệ và kéo tỷ giá lên.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất lên tỷ giá chỉ mang ý nghĩa gián tiếp. Tỷ giá phụ thuộc vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong khi lãi suất bị giới hạn bởi tỷ suất lợi nhuận bình quân. Hơn nữa, đôi khi lãi suất kông phải là mục tiêu của nhà đầu tư mà là tính an toàn vốn (đặc biệt khi đang xảy ra khủng hoảng tài chính chính tiền tệ). Mặt khác, ở nhiều quốc gia có những qui định hạn chế chu chuyển vốn. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chính sách lãi suất hầu như không có ảnh hưởng đến tỷ giá.
Vào thời kỳ 1971-1973, lãi suất ở thị trường New York cao gấp 1,5 lần thị trường London và gấp 3 lần thị trường Frankfurk nhưng vốn vẫn không chảy vào Mỹ mà lại chuyển sang Đức và Nhật. Lý do là trong thời kỳ này, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu lửa, kinh tế Mỹ sa sút nghiêm trọng tạo ra nguy cơ mất giá đồng đô la. Rủi ro hối đoái tăng lên quá cao đẩy lùi mọi ý tưởng mạo hiểm. Gần đây nhất, để đối phó với cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực, các chính phủ Thái Lan, Indonesia... đều đồng loạt nâng cao lãi suất nhằm giữ ổn định tỷ giá. Nhưng trước sự hủng hoảng lòng tin của dân chúng và các nhà đầu tư cũng như sự lo ngại về mất giá đồng tiền nên tỷ giá hối đoái của các đồng tiền khu vực vẫn tiếp tục tăng vọt. Lãi suất tăng vọt trên mức lợi nhuận bình quân còn gây ra tình trạng khó khăn cho các doanh nghiệp muốn vay vốn và tình hình hoảng loạn trên thị trường tài chính do các nhà đầu tư ồ ạt bán ra các chứng khoán có lãi suất thấp. Dẫu vậy, lãi suất vẫn là công cụ ưa thích và có hiệu quả của các chính phủ, đặc biệt trong tình hình đồng bản tệ bị mất giá mạnh.
Nghiệp vụ thị trường hối đoái
Dường như có một cách đơn giản hơn để các chính phủ tác động vào tỷ giá hối đoái: tham gia trực tiếp vào thị trường với vai trò là người bán hoặc người mua. Khi cung nhỏ hơn cầu, gây sức ép tăng tỷ giá, chính phủ có thể bán ra ngoại tệ nhằm tăng cung để giữ vững tỷ giá hối đoái, chính phủ cũng có thể mua ngoại tệ vào để tăng cầu và kéo tỷ giá lên. Khi muốn thay đổi tỷ giá, các chính phủ chỉ việc lựa chọn nên đứng bên cung hay bên cầu (đứng bên cung khu muốn giảm tỷ giá và đứng bên cầu khi muốn tăng tỷ giá). Hoạt động an thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương vào thị trường ngoại tệ thông qua mua bán gọi là nghiệp vụ thị trường hối đoái.
Can thiệp theo hình thức này có thuận lợi là có thể tiến hành bất kỳ lúc nào, tuỳ thuộc vào quyết định của ngân hàng trung ương và lượng dự trữ ngoại tệ hiện có. Đồng thời can thiệp theo phương pháp này cũng có độ chính xác cao, có thể tác động liều lượng nhỏ và tiến hành nghiệp vụ ngược khi có dấu hiệu can thiệp quá mạnh
Tuy nhiên phương pháp này cũng bộc lộ một số khó khăn như:
Để có hiệu quả, đặc biệt là khi có khủng hoảng, thì tỷ giá cần phải có lượng ngoại tệ rất lớn cũng như phải có thực lực kinh tế. Điều này khó có thể đáp ứng ở nhiều nước đang phát triển.
Việc can thiệp bằng nghiệp vụ thị trường hối đoái ảnh hưởng đến lượng cung tiền nội địa. Khi bán ngoại tệ, nội tệ bị thu về gây giảm cung tiền và tạo bất lợi cho sản xuất và thanh toán, đồng thời làm giảm tổng cầu hàng hoá. Ngược lại, khi ngân hàng mua vào ngoại tệ, nó đưa vào lưu thông thêm một lượng nội tệ làm tăng cung tiền và gây ra lạm phát. Để ngăn ngừa những biến động trong cung tiền do can thiệp hối đoái, ngân hàng trung ương phải tiến hành hoạt động trung hoà
Trung hoà (Neutrialization) là nghiệp vụ thị trường tự do giữa tiền và chứng khoán trong nước nhằm mục đích điều tiết lượng cung tiền khỏi những ảnh hưởng do những hoạt động can thiệp tỷ giá của ngân hàng trung ương.
Nghiệp vụ can thiệp hối đoái gắn liền với các nghiệp vụ trung hoà gọi là can thiệp vô hiệu (Uncertain Interference). Can thiệp hối đoái không gắn liền với các nghiệp vụ trung hoà gọi là can thiệp hữu hiệu (Certain Interference).
Quỹ bình ổn hối đoái
Quỹ bình ổn hối đoái là hình thức tạo nguồn vốn tập trung đủ lớn cho hoạt động can thiệp vào thị trường ngoại hối của ngân hàng trung ương. Quỹ này có thể lấy từ các nguồn:
Phát hành trái phiếu kho bạc bằng nội tệ và dùng số tiền này mua ngoại tệ khi muốn nâng cao tỷ giá. Số ngoại tệ thu được sẽ dùng để bán ra khi muốn ổn định tỷ giá và thu hồi lại các trái phiếu kho bạc đã ban hành.
Dùng dự trữ vàng để lập quỹ.
Thực chất can thiệp của quỹ cũng giống như can thiệp bằng nghiệp vụ thị trường hối đoái có trung hoà.
Phá giá tiền tệ
Phá giá tiền tệ là sự nâng cao tỷ giá hối đoái chính thức mà các chính phủ cam kết duy trì. Khái niệm phá giá chỉ được dùng trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định hoàn toàn hoặc chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh. Đó là sự đánh giá sụt giá trị đồng bản tệ sau một thời kỳ tương đối ổn định nhằm kích thích xuất khẩu, giảm nhập khẩu và cải thiện cán cân thanh toán.
Nâng giá tiền tệ
Nâng giá tiền tệ là sự đánh giá sụt tỷ giá hối đoái mà các chính phủ muốn duy trì. Nâng giá tiền tệ thường dùng khi có bội chi cán cân thanh toán, lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn. Giải pháp này rất ít được thực hiện.
Chương II
Sự tác động của tỷ giá hối đoái đến hoạt động
xuất nhập khẩu và các biến số kinh tế vĩ mô khác
Tỷ giá hối đoái tác động đến xuất nhập khẩu
Tỷ giá hối đoái mang chức năng điều tiết đắc lực của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, tỷ giá hối đoái được sử dụng như một công cụ để so sánh về mặt giá trị của chi phí sản xuất của một xí nghiệp nào đó với giá cả thị trường của thế giới, nó phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại của một nước trong một thời kỳ nhất định. Vì thế thông qua việc biểu hiện tương quan giá trị đồng tiền của các nước khác nhau mà tỷ giá hối đoái có một vai trò quan trọng đối với quá trình trao đổi ngang giá và cùng với nhiều nhân tố khác nó tác động tới tương quan giữa hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của các hàng hoá các nước. Quan hệ này có thể diễn tả một cách cơ bản như sau:
Tỷ giá hối đoái thực sự là một loại giá đặc biệt, nó có thể được coi là giá của tiền hay giá ngoại tệ. Giá này càng cao thì nội tệ càng giảm, giá càng thấp thì nội tệ càng tăng. Tuy nhiên, phải tính chuyển đổi theo sự tăng, giảm giá của từng đồng tiền tức là tỷ giá sức mua tương đương. Xuất khẩu là hoạt động bán, nhập khẩu là hoạt động mua, trong bất kỳ hoạt động mua bán nào cũng cần có một loại giá, ở đây giữa việc xuất khẩu và nhập khẩu thì loại giá cần quan tâm hơn hết là tỷ giá. Chúng ta càng thấy rõ hơn được mối quan hệ này ở thí dụ sau:
Giả sử một chai Hennessy giá 60 FRF (Franc). Nếu tỷ giá GBP/FRF là 5 thì một chai COGNAC Hennessy sẽ có giá 60/5 = 12 GBP. Nếu đồng Franc đột ngột mất giá so với đồng bảng Anh (GBP) và tỷ giá bây giờ là GBP/FRF = 6 thì một chai Hennessy sẽ có giá chỉ là 60/6 = 10 GBP tại Anh. Dĩ nhiên, người Anh sẽ nhận thấy điều này và sẽ mua nhiều rượu Pháp hơn thay thế cho WHISKY Scotland hay RUM Italia,... Trong khi đó, với chiếc xe Rolls Royce có giá 30.000 GBP sẽ có giá tới 30.000 x 6 = 180.000 FRF. Và lúc này người Pháp sẽ giảm nhập ô tô xuống. Nói tóm lại, khi tỷ giá tăng thì xuất khẩu có xu hướng tăng trong khi nhập khẩu có xu hướng giảm. Tất nhiên biến động tỷ giá ở đây là biến động sức mua thực tế đã loại trừ lạm phát chứ không phải là tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Biểu đồ biểu diễn sự tác động của tỷ giá tới xuất nhập khẩu:
Lo La
TGHĐ
KNXNK
B
Ro
A
I E
P
Trục tung biểu thị tỷ giá hối đoái (ngoại tệ/bản tệ), các điểm càng xa gốc thì đồng bản tệ càng giảm giá.
Trục hoành biểu thị kim ngạch xuất nhập khẩu.
Đường E biểu thị cho xuất khẩu. E cắt trục tung ở điểm A: là điểm giới hạn, nếu tỷ giá thấp hơn điểm đó thì xuất khẩu sẽ lỗ (tương ứng với đồng bản tệ giá cao thì lĩnh vực xuất khẩu sẽ lỗ). Lúc đó, tỷ giá xuất khẩu (tỷ lệ giữa số ngoại tệ thu được và chi phí bằng nội tệ đã bỏ ra) sẽ lớn hơn tỷ giá hối đoái.
Đường E được giới hạn bởi La, trên trục kim ngạch xuất khẩu, có nghĩa là dẫu đồng nội tệ có giảm giá nhiều thì kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt được tối đa là La mà thôi, điểm La là kim ngạch xuất khẩu tiềm năng.
Đường I biểu thị cho nhập khẩu, I cắt trục tung tại điểm B. Tỷ giá hối đoái (ngoại tệ/nội tệ) cao hơn điểm B thì ở nước đó sẽ không còn nhập khẩu (do chi phí quá cao, nước đối tác bị lỗ lớn). Lúc đó tỷ giá hối đoái lớn hơn tỷ giá nhập khẩu (tỷ lệ giữa số ngoại tệ bỏ ra để mua hàng nhập khẩu và số tiền bản tệ thu được khi bán hàng nhập khẩu trong nước). Như vậy, khoảng cách AB là khoảng cách biến thiên của tỷ giá hối đoái, luôn thoả mãn công thức sau:
Tỷ giá xuất khẩu < Tỷ giá hối đoái < Tỷ giá nhập khẩu.
Đường E cắt đường I tại P có tung độ Ro. Tức là với tỷ giá hối đoái Ro thì kim ngạch xuất khẩu bằng kim ngạch nhập khẩu và cán cân thương mại cân bằng.
Như vậy, đồng nội tệ càng có giá trị cao so với ngoại tệ thì xuất khẩu càng giảm, nhập khẩu càng tăng và ngược lại.
Mối tương quan giữa tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu
Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu là mối quan hệ hai chiều. Xuất khẩu là hành vi hàng xuất khẩu chuyển hoán thành ngoại tệ. Nhập khẩu ngược lại là hành vi ngoại tệ đó chuyển hoá thành hàng nhập khẩu. Toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu của một nước kết hợp với nhau trong một chu kỳ khép kín, chu kỳ này có dạng:
Nội tệ
Hàng nhập khẩu
Hàng xuất khẩu
Ngoại tệ
Như vậy, như đã trình bày trong phần "Xác định tỷ giá hối đoái do quan hệ cung cầu ngoại tệ", thì một trong những nguồn cung ngoại tệ quan trọng là lượng ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu và một lượng cầu ngoại tệ quan trọng là cầu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Do đó, việc tăng hay giảm xuất khẩu (nhập khẩu) có ảnh hưởng lớn đến cung (cầu) ngoại tệ và dẫn đến ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô khác: lãi suất, lạm phát và sản lượng.
* Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến lãi suất
Khi người dân muốn gửi tiền ở ngân hàng, họ đứng trước quyết định nên gửi tiền bằng nội tệ hay ngoại tệ. Với những mức lãi suất cho trước, nếu tỷ giá tăng mạnh tức là đồng nội tệ giảm giá mạnh đến mức lãi suất tiền gửi nội tệ không đủ bù đắp cho sự mất giá đó, người dân sẽ đồng loạt rút nội tệ trong hệ thống ngân hàng để chuyển thành ngoại tệ, do đó sẽ xảy ra sự khan hiếm nội tệ trong hệ thống ngân hàng, buộc họ phải tăng lãi suất nội tệ.
Ngược lại, nếy tỷ giá giảm nhanh hay ngoại tệ mất giá mạnh đến mức lãi suất tiền gửi ngoại tệ không đủ bù đắp sự mất giá đó, người dân sẽ đồng loạt rút ngoại tệ ở ngân hàng chuyển thành nội tệ, gây ra sự khan hiếm ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
* Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến lạm phát và sản lượng (GDP)
Mặc dù tỷ giá tác động đến xuất nhập khẩu, nhưng xuất nhập khẩu lại là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Khi tỷ giá tăng lên có thể sẽ gây ra:
Xuất khẩu tăng làm tổng cầu trong nước tăng lên bởi xuất khẩu là một bộ phận của tổng cầu AD = C + I + G + (EX - IM)
Do đó, nó có thể gây ra hai ảnh hưởng:
+ Cầu tăng trong khi cung chưa tăng sẽ đẩy giá lên gây nên tình trạng lạm phát.
+ Nếu nền kinh tế vẫn còn nhiều nguồn lực có thể phát huy thì giá tăng sẽ kích thích sản xuất và làm cung tăng. Do đó, sản lượng sẽ dần tăng lên trong khi lạm phát sẽ giảm xuống.
Nhập khẩu đắt đỏ làm cho giá cả hàng nhập và giá cả hàng hoá có tỷ trọng nguyên liệu nhập ngoại cao rơi vào tình trạng trở nên đắt hơn làm cho mặt bằng giá thành bị đẩy lên dẫn đến lạm phát. Giá cao sẽ khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu và từ đó sẽ tăng sản lượng.
Kết quả, lạm phát có thể xảy ra mà sản lượng cũng có thể tăng. Mức độ lạm phát cao hay thấp là phụ thuộc vào khả năng tăng sản lượng sản xuất. Nếu sản lượng tăng nhiều thì lạm phát giảm. Nếu sản lượng tăng ít thì lạm phát tăng.
Ngược lại, khi tỷ giá giảm có thể gây ra thiểu phát (deflation) và suy giảm sản lượng. Tác động của tỷ giá đến sản lượng và lạm phát như vậy còn phụ thuộc vào thực trạng nền kinh tế, tính co dãn của cung cầu xuất nhập khẩu. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái ổn định hay biến động còn ảnh hưởng đến hoạt động có liên quan đến ngoại tệ như vay nợ nước ngoài, đầu tư... và do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu và toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận
Tỷ giá hối đoái là một lĩnh vực đặc biệt có liên quan đến các hoạt động kinh tế đối ngoại và cả chính sách kinh tế đối nội nhất là đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Do vậy, tỷ giá hối đoái có tầm quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó cần phải được quản lý một cách linh hoạt phù hợp với từng hoàn cảnh và thời điểm thực tiễn. Thành công trong việc quản lý tỷ giá hối đoái sẽ tạo đà cho nhiều lĩnh vực kinh tế phát triển trong đó hoạt động xuất nhập khẩu là trọng tâm.
Tỷ giá hối đoái là một công cụ mạnh trong chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, do vậy việc thực hiện cần phải có sự thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng. Ngoài ra cần phải không ngừng đúc rút kinh nghiệm trong quá trình quản lý trong nước cũng như những bài học từ nhiều quốc gia để phục vụ thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước.
*********
Tài liệu tham khảo:
Kinh tế học quốc tế: Lý thuyết và chính sách (Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld), NXB Chính trị quốc gia - 1996.
Tỷ giá hối đoái - Phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh (Chủ biên: PGS. PTS. Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ), NXB Tài chính - 1996.
Kinh tế vĩ mô (N. Gregory Mankiw), NXB Thống kê - 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29317.doc