Đề tài Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở VN

Lênin đã đưa ra các hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản Nhà nước áp dụng đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội - từ một nưới tiẻu nông. Và Lênin đã áp dụng nó vào nước Nga XôViết bước đầu đã đem lại một số thành công. Nhưng theo Lênin đây là hình thức mới, nên cần có nhiều thời gian thử nghiệm và rút ra kinh nghiệm để hoàn thiện về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội thong qua gia giai đoạn tư bản chủ nghĩa hay từ một nước kém phát triển thì việc áp dụng các hình thức chủ của nghĩa tư bản Nhà nước là cần thiết. Tuy nhiên từ kết quả thục hiện hình thức kinh tế tư bản Nhà nước cho thấy, chúng ta phải nhận thức rõ hơn lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, cần phải rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn thực hành chế độ này ở nước ta, cũng như các nước trên thế giới. phát triển những hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước để áp dụng ở nước ta một cách hiệu quả nhất.

doc31 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 963 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta "phải lợi dụng CNTBNN là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lượng sản xuất lên"(1). và điều đó "sẽ đưa chúng ta đén chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất" (1). Và thực tế thực hiện nước Nga cho thấy việc "du nhập" được chủ nghĩa tư bản góp phần cải thiện nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân, nông dân, nền đại công nghiệp Xô Viết sẽ được khôi phục. Việc phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chóng tính tự phát tiểu tư bản và tư bản chủ nghĩa - là "kẻ thù lớn nhất, nguy hiểm nhất đối với nước Nga hiện nay". Tự phát triển tư bản chủ nghĩa là kẻ thù của các biện pháp kinh tế của chính quyền Xô Viết. Và việc để để tình trạng phát triển vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mỗi nguy hại lớn nhất đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong. Thông qua chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức được nền sản xuất lớn. Việc "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ nước ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại. Đặc biệt việc phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước tức là phát triển các xí nghiệp công nghiệp lớn qua đó phục hồi được giai cấp công nhân - phục hồi được giai cấp vô sản và tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, vì chiến tranh, vì bị phá sản nên đã bị mất tính giai cấp, nghĩa là bị đẩy ra ngoài con đường tồn tại của giai cấp mình và không còn tồn tại với tư cách là giai cấp vô sản nữa. Từ đó, chúng ta thấy rõ; thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước như vậy là "điều có lợi và cần thiết", "đang mong đợi" trong điều kiện của chính quyền Xô Viết. 2. Vai trò của CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Xã hội cộng sản chỉ có thể xuất hiện một cách tự nhiên khi những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội được chuẩn bị một cách đầy đủ nhất, một "phòng chờ" cho chủ nghĩa xã hội đã sẵn sàng. Điều này VI.Lênin có nhận định "Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội mà giữa nó với chủ nghĩa xã hội, không có nấc thang trung gian..." (1) Theo Lênin CNTBNN là sản phẩm của sự can thiệp tích cực của Nhà nước vào hoạt động kinh tế trong các xí nghiệp tư bản. ở các nước tư bản phát triển, CNTBNN tồn tại dưới hình thức nhà nước tư sản sử dụng để tăng thêm vụ lợi ích của giai cấp tư sản dân tộc. ở các nước tư bản phát triển, chủ nghĩa tư bản Nhà nước tồn tại dưới hình thức Nhà nước tư sản sử dụng để tăng thêm sức mạnh kinh tế của mình nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản dân tộc. ở các nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước nằm trong tay giai cấp vô sản và những đỉnh cao của nền kinh tế thì nằm trong tay xã hội chủ nghĩa vì vậy CNTBNN của chúng tôi khác về căn bản so với CNTBNN ở những nước có chỉnh phủ tư sản. Lênin khẳng định: Sự khác biệt chính là ở chõ Nhà nước của chúng tôi không đại diện ở cho giai cấp tư sản, mà đại diện cho giai cấp vô sản". Với những điều kiện đó, CNTBNN dưới sự kiểm kê, kiểm soát và sự hỗn hợp về vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sẽ hướng sự hoạt động của các doanh nghiệp theo "tay lái" của Nhà nước. Là sản phẩm của sự phát triển lịch sử, CNTBNN dưới góc độ kinh tế là kinh tế tư bản Nhà nước đạt đến một trình độ phát triển cao, làm xuất hiện các nhân tố với tư cách là tiền đề mà thiếu nó tức thiếu "phòng chờ" cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, không có kỹ thuật tư bản được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức Nhà nước mạnh có năng lực quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường, không có giai cấp công nhân tiên tiến lớn mạnh, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được. Hơn nữa khi so sánh kinh tế tư bản Nhà nước trong cơ cấu các thành phần kinh tế. Lênin cho rằng kinh tế tư bản Nhà nước có trình độ cao hơn nhiều so với kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và gần với chủ nghĩa xã hội hơn các thành phần kinh tế khác. Chính vì lẽ đó lênin coi, CNTBNN là sản phẩm tất yếu, là một "bước tiến" là cái "không đáng sợ" trong sự phát triển lịch sử đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn lạc hậu" (1). Về nội dung có thể hiểu CNTBNN qua các mặt sau: - Sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế. - Các hình thức kinh tế quá độ dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa CNTBNN với nền kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. - Việc sử dụng có chọn lọc những thành tựu khoa học - công nghệ và chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ, khoa học kinh tế và quản lý kinh tế ở các nước tư bản tiên tiến. - Việc coi trọng lơi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế tông qua việc Nhà nước vận dụng cơ chế thị trường với tư cách là động lực kinh tế của sự phát triển kinh tế quốc dân. Từ các khía cạnh trên có thể CNTBNN quan niệm sự hình thành và phát triển CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNTBNN, về nội dung gắn liền với ba mức độ: ở mức độ cao và toàn diện nhất, CNTBNN được quan niệm như là một hình thức kinh tế - xã hội quá độ. ở mức độ hẹp và thấp hơn, CNTBNN được quan niệm là một chính sách, một công cụ mà Nhà nước XNCN dùng để điều tiết và quản lý hoạt động của các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư bản tư nhân thời kỳ quá độ lên XNCN. - Dưới góc nhìn kinh tế, CNTBNN được quan niệm là các hình thức kinh tế trung gian quá độ. Các hình thức này dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. 3/ Lênin cũng nêu ra các hình thức CNTBNN áp dụng ở nước Nga lúc bấy giờ. a/ Tô nhượng là chính quyền Xô Viết ký hợp đồng với nhà tư bản. Theo hợp đồng ấy, nhà tư bản được sử dụng một vài thứ: nguyên liệu hầm mỏ, xí nghiệp, quặng hay thậm chí một công xưởng riêng biệt. Chính quyền Nhà nước XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình: nhà máy, vật liệu, hầm mỏ. Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết là người thuê tư liệu sản xuất XHCN và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho Nhà nước XHCN một phần sản phẩm tô nhượng, là hình thức kinh tế hai bên cùng có lợi; Nhà tư bản thu được lợi nhuận bất thường", siêu ngạch, hoặc có được loại nguyên họ không tìm được hoạc khó tìm được bằng cách khác. Chính quyền Xô Viết có lợi; lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên. Theo Lênin khi thực hiện tô nhượng cần phải chú ý các điểm sau: - Chúng ta "phải cố lợi dụng lòng tham của" nhà tư bản nhân tô nhượng, để phát triển sản xuất. - Nhà tư bản tô nhượng phải có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài đây được Lênin coi là "cơ sở của chính sách tô nhượng". - Người nhận tô nhượng phải bán thêm cho chính quyền Xô Viết (nếu có yêu cầu) từ 50 - 100% sản phẩm của xí nghiệp. - Phương cách trả lương cho công nhân bằng ngoại tệ, bằng phiếu đặc biệt thay bằng tiền Xô Viết... được quy định rõ trong hợp đồng tô nhượng. - Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho người nước ngoài trong các xí nghiệp tô nhượng được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người đó với nhà tư bản nhận tô nhượng. - Riêng đối với chuyên gia có trình độ cao của Nga, nếu các xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phải được sự đồng ý của các cơ quan Nhà nước Trung ương. - Phải tôn trọng luật pháp nước Nga vẽ các tiêu chuẩn điều kiện lao động, kỳ hạn phát lượng, về quy tắc khoa học và kỹ thuật... b/ Hợp tác xã tư bản sản xuất là xí nghiệp hợp tác xã. Đặc trưng của các xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống hoặc là tổ chức bao gồm nhiều tiêu biểu nghiệp chủ. Nó khác với các xí nghiệp tư nhân ở chỗ hợp tác xã là những xí nghiệp tâp thể, là một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước. c/ Hình thức đại lý uỷ thác Lênin coi hình thức này là hình thức thứ ba. Theo hình thức này Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. d/ Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Hình thức này cũng giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng thuê là tư bản trong nước. e/ Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ và những ngưòi nông dân này phải nộp tô cho Nhà nước (30% số than khai thác được). Hình thức này trực tiếp tạo ra việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống nông dân. g/ Công ty hợp doanh là các Công ty được thành lập theo thể thức tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài và một phần là của chính quyền Xô Viết. Loại hình này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp. 4- Để thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước không làm thay đổi căn bản chế độ XHCN - theo Lênin - phải có hai điều kiện: một là, chính quyền Nhà nước phải nằm trong tay gia cấp công nhân và Nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước; hai là Nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Người nói: chủ nghĩa tư bản Nhà nước ấy không đáng sợ vì "chủ nghĩa tư bản ấy sẽ chịu sự kiểm soát, sự giám sát của Nhà nước. Nếu Nhà nước công nhân nắm lấy công xưởng, nhà máy và đường sắt thì chúng ta không sợ gì chủ nghĩa tư bản ấy". (1) - "Chính sách kinh tế mới không thay đổi cái gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga - Xô Viết và cũng không thể thay đổi được gì chừng nào mà chính quyền còn ở trong tay công nhân" (1). Như vậy vấn đề ở chỗ nhà nước XHCN phải kiểm soát, ngăn chặn bất cứ tư bản nào vượt ra khỏi khuôn khổ chủ nghĩa tư bản Nhà nước và phải làm cho nó phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Như đã nói ở phần trước, chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới chế độ XHCN là chủ nghĩa tư bản Nhà nước đặc biệt, dưới sự kiểm kê, kiểm soát và sự hỗn hợp về vốn Nhà nước và các doanh nghiệp sẽ hướng các doanh nghiệp theo: "tay lái" của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước công nhân phải đưa ra những khuôn khổ, theo dõi, giám sát sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Nhưng theo Lênin như vậy vẫn chưa đủ - Khi thực hành chính sách tô nhượng Lênin nhắc nhở ". Nếu chính quyền Xô Viết đem tô nhượng phần lớn tài sản của mình thì như vậy là hoàn toàn khờ daị, như vậy không phải là tô nhượng nữa mà là quay trở lại chủ nghĩa tư bản" (1). Nhà nước phải nắm những ngành kinh tế những khu vực kinh tế quan trọng để điều tiết nền kinh tế. Nhà nước phải nắm lấy thương nghiệp, "điều tiết việc mua bán và lưu thông hàng hoá, tiền tệ". Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một hình thức mới của đấu tranh giai cấp, chứ không phải hoà bình giai cấp. Trong báo cáo về Tô nhượng Lênin viết" bất cứ người dân tô nhượng nào cũng vẫn là nhà tư bản, và nó sẽ cố gắng phá hoại chính quyền Xô Viết". Và Lênin cũng lưu ý: "người nhận tô nhượng phải có trách nhiệm cải thiện đời sống của công nhân trong xí nghiệp tô nhượng... các điều kiện về lương, về sinh hoạt vật chất, về thuê mướn... phải quy định rõ trong hợp đồng tô nhượng". Sao cho phù hợp với pháp luật nước Nga. Tức Nhà nước phải bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, ngay cả khi sự điều tiết của Nhà nước thành công. Như vậy, với hai điều kiện: một là, chính quyền Nhà nước nắm trong tay giai cấp vô sản và Nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, hai là, Nhà nước nắm các đỉnh cao kinh tế, thì việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước là không đáng sợ, không làm thay đổi được bản chất của Nhà nước XHCN - nước Nga Xô Viết. 5- Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thời Lênin. Sự thực hành NEP thời Lênin đã mang lại những kết quả lớn. Đến tháng 11 năm 1922 (khoảng hơn 1 năm thực hành chế độ này), Lênin đã trình bầy khái quát những thành tựu của NEP nói chung và chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng như sau: Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp công nhân, từ chỗ đói kém, một bộ phận rất lớn trong nông dân bất bình, đến chỗ trong vòng 1 năm, nông dân chẳng những đã thoát khỏi được nạn đói, mà còn nộp được thuế lương thực hàng trăm triệu Put. Từ những cuộc bạo động mang tính chất phổ biến 1921, nông dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển, đời sống của công nhân được cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa. Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn, nhưng đã có sự thay đổi nhất định, lý do là không có những khoản cho vay lớn hàng mấy trăm triệu đô la. Chính sách tô nhượng thì hay thật nhưng cho đến lúc ấy (1922) vẫn chưa có một tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Không hy vọng vay được ở các nước giầu có, vì các nước đế quốc vẫn đang muốn bóp chết Nhà nước XHCN non trẻ. Tuy nhiên, nhờ chính sách kinh tế mới mà thu được một số vốn lớn hơn 20 triệu rúp vàng (nhờ thương nghiệp mà có vốn ấy). Điều quan trọng nữa là tiết kiệm về mọi mặt, kể cả những chi phí về trường học để cứu vãn công nghiệp nặng. Riêng về chính sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước, qua các tài liệu và sự đánh giá cho dến năm 1924, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga Xô Viết những tác dụng tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt khai thác dầu) đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhượng cùng các Công ty sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương Tây. Thông qua các hoạt động của các công ty hợp doanh, những người cộng sản Nga còn có thể thực sự học cách buôn bán điều mà bấy giờ Lênin thường nói là hiện vụ rất quan trọng. Hoat động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp Nhà nước Xô Viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp XHCN, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá, tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liên quan hệ trao đổi công nông nghiệp, thành thị - nông thôn... Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô Viết. Nó góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế nước Nga sau chiến tranh. Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu ban đầu đặt ra của Lênin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp. Nguyên nhân quan trọng nhất là chủ nghĩa tư bản đế quốc vẫn tìm cách bóp chết chính quyền Xô Viết, vì thế sự hợp tác, đầu tư của tư bản nước ngoài vào Liên Xô, không đạt sự mong muốn. Và trong những năm 1923, 1924 tỷ trọng của chủ nghĩa tư bản Nhà nước với tư cách là một thành phần, một hình thức kinh tế, trong tổng sản phẩm của cả nước chỉ chiếm có 1%. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới sản xuất được khối lượng của sản phẩm trị giá 35,1 triệu rup. Tuy nhiên, kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã thực sự là một phần đặc trưng của NEP và nhờ NEP mà chính quyền Xô Viết đã giữ được những vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng tiến lên được. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi sinh và phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô Viết. II- Sự vận dụng lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam. 1/ Sự cần thiết và khả năng ứng dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta. Như đã nói ở phần trước chủ nghĩa tư bản Nhà nước là phương thức "là "con đường" chắc chắt và có thể nói và duy nhất có thể chọ đối với các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ chiếm đa số, tức đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta phải thực hiện một bước quá độ khó khăn và lâu dài, xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tính tất yếu khách quan của việc ứng dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta thể hiện ở các điểm sau: a/ Do yêu cầu của sự vận dụng quy luật qua hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở một nước nông nghiệp lạc hậu. Chúng ta đi lên CNXH từ xuát phát điểm thấp, từ nền "tiểu sản xuất". Vì vậy rất khó khăn và "không thể" thành công nếu nước ta đi trực tiếp lên lên CNXH. Thực tế sụp đổ củ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã cho thấy điều đó, còn về mặt lý luận chúng ta khong thể đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội nếu không có "một tấm gương" của một nước đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, và sự giúp đỡ của giai cấp vô sản tiên tiến của nước đó và trên thế giới. Vì thế chúng ta phải đi lên chủ nghĩa xã hội bằng mô hình hay con đường gián tiếp, mà các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước là hình thức "quan trọng, quá độ" thiếu hoặc không qua các hình thức trung gian có tính chất quá độ này thì sản xuất nhỏ không thể lên chủ nghĩa xã hội được. Có thể giải thích nôm na là: chủ nghĩa xã hội là sản phẩm tất yếu bậc cao hơn chủ nghĩa tư bản. và đối với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội, chưa qua chủ nghĩa tư bản như nước ta thì việc áp dụng kinh tế tư bản Nhà nước là một "tất yếu", kinh tế tư bản Nhà nước là "một hình thức kinh tế tư bản đặc biệt áp dụng đối với các nước chủ nghĩa xã hội. Thực tế thực hành ở nước Nga cho thấy kinh tế tư bản Nhà nước hoàn toàn phù hợp với lực lượng sản xuất của nước Nga - một nước tiểu nông lúc bấy giờ. Nhờ đó mà phát triển được lực lượng sản xuất và góp phần đáng kể vào thành công của NEP. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong điều kiện một nền kinh tế kém phát triển lực lượng sản xuất hết sức lạc hậu. Không thể có sự nhảy vọt về vật chất của lực lượng sản xuất, nếu không nhanh chóng công nghiệp hoá để có sơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo sự quá độ nói trên. Dưới góc nhìn lịch sử công nghiệp hoá là nhiệm vụ của chủ nghĩa tư bản và lẽ ra theo con đường phát triển tuần tự sẽ phát phải trải qua. Nhưng để giảm bớt những đau khổ có thể xẩy ra, nếu phải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức con đường rút ngắn đáng kể về thời gian phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn này buộc phải sử dụng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đặc dưới sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước để xây dựng nền công nghiệp lớn - cơ sở vật chất của công nghiệp xã hội mà thiếu nó thì chủ nghĩa chỉ là sự không tưởng Hơn nữa, để chủ nghĩa xã hội hoàn toàn chiến thắng chủ nghĩa tư bản khi mà chủ nghĩa tư bản đã đạt trình độ hiện đại. Muốn hiện đại hoá rộng rãi các hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Như đã biết sự nghiệp công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn, mà do yêu cầu của thời đại, nước ta thực hiện công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá tức sự nghiệp công nghiệp hoá của chúng ta phải gắn liền với việc trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại dựa trên những sản phẩm mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại mà các nước chủ nghĩa tư bản đi đầu về khoa học kỹ thuật. Như vậy, việc áp dụng kinh tế tư bản Nhà nước sẽ thu hút được nguồn vốn lớn, cùng với khoa học kỹ thuật hiện đại, cũng như kinh nghiệm quản lý của nhà tư bản một cách nhanh nhất và chắc chắn nhất. Nhờ đó mà phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất. c/ Do nhu cầu xây dựng định hướng XHCN của nền kinh tế hàng hoá. Với điểm xuất phát thấp về trình độ xã hội hoá sản xuất, lại chịu ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp kìm hãm, không thể chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc phát triển kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường tức phát triển quanhệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, và sự tồn tại và phát triển quan hệ sản xuất đó khó có thể ngăn cản được tính tự phát TBCN và điều đó có thể ngăn cản được tính tự phát TBCN và điều đó lại liên quan đến nhu cầu định hướng XHCN của nền kinh tế. Để đảm bảo sự định hướng XHCN của nền kinh tế hàng hoá nhất thiết phải hướng các quan hệ sản xuất TBCN vào con đường CNTBNN làm "mắt xích trung gian" nối liền sản xuất nhỏ với CNXH; phải "dung nạp" TBCN trong và ngoài nước hoạt động dưới sự kiểm kê kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước, thông qua các kình thức KTTBNN. Một hình thức gắn với hình thức kinh tế Nhà nước và hợp tác. Bằng cách đó, một mặt sẽ nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN ở bên trong nền kinh tế và mặt khác cho phép sử dụng tốt nhất những thành quả phát triển của nhân loại (khoa học - công nghệ và kinh tế thị trường) vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. d/ Do yếu cầu thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, mục tiêu "dân giầu, nước mạnh", "xã hội công bằng văn minh" và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mục tiêu trên tăng trưởng và phát triển bền vững ở một nước kém phát triển là rất khó khăn. Nhưng không tăng trưởng không phát triển bền vững thì không thể thực hiện mục tiêu "dân giầu, nước mạnh:, "xã hội công bằng văn minh" và CNXH được. ở nước ta việc thực hiện những mục tiêu trên gặp phải hai khó khăn chủ yếu là thiếu vốn và do chưa có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đất nước trong hàng chục năm không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Tuy nhiên bắt đầu từ năm 1994 khả năng tích luỹ nội bộ đã xuất hiện nhưng không nhiều, nói cách khác là ở mức không đáng kể. Qua 10 năm đổi mới theo quan điểm thực hiện nhất quán chính sách nền kinh tế nhiều thành phần và "mở" cả trong lẫn ngoài qua huy động vốn trong nước, nhất là thông qua đầu tư trực tiếp (FDI) và viện trợ chính thức của chính phủ (ODA), nước ta đã đạt nhịp độ tăng trưởng ổn định và liên tục qua nhiều năm từ 1991 - 1995 với mức tăng trưởng bình quân của 3 năm này là 8,5%/năm, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội; lòng tin của nhân dân và định hướng XHCN ngày một tăng lên, con đường XHCN ngày một rõ hơn. Những thành tựu đó phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân nhờ vận dụng các hình thức liên doanh, liên kết và hợp tác đầu tư sản xuất kinh doanh. Điều đó đã chứng tỏ, việc áp dụng các hình thức KTTBNN, thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài, sẽ tạo ra được khối lượng việc làm lớn cho người lao động, đồng thời tăng nhanh sản lượng của nền kinh tế, nhờ đó cải thiện đời sống người lao động. Nhưng quan trọng hơn được kiểm kê kiểm soát của Nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc KTTBNN, Nhà nước XHCN bảo vệ lợi ích cho người lao động, từ đó bảo đảm côg bằng xã hội, hạn chế khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Nhờ đó củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước vào con đường XHCN. Như vậy, có thể thấy việc mở rộng và phát triển các hình thức KTTBNN là giải pháp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để thực hiện yêu cầu của mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, mục tiêu "dân giầu, nước mạnh", "xã hội công bằng văn mình và CNXH ở nước ta. e/ Do nhu cầu phải biết lợi dụng các lợi thế so sánh để nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Như đã biết, do sự tác dộng của quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế các nước tham gia vào quá trình này vừa có sự kìm chế, cạnh tranh với nhau, lại vừa phụ thuộc vào nhau để hình thành bnền kinh tế thế giới, hoạt động thông qua các hình thức kinh tế đối ngoại phong phú, đa dạng. Ngày nay, không một nước nào dù lớn và giầu đến đâu cũng không thể tự mình giải quyết được tất cả các yêu cầu về kinh tế nước mình. Bất cứ nước nào muốn tách khỏi nền kinh tế thế giới, đều là tự sát. Do hoàn cảnh địa lý, nước ta nằm ở vùng vành đai Thái Bình Dương thuộc Châu á - một khu vực đang phát triển năng động nhất thế giới hiện nay và sẽ rõ nhất trong các thập kỷ đầu thế kỷ 21. Chính vì vậy Việt Nam cần phải khai thác triệt để và có hiệu quả những lợi thế so sánh trong quá trình hội nhập với cộng đồng thế giới và khu vực để tiếp nhận ngoại lực bổ sung cho nội lực. Nước ta có một số tài nguyên quý giá là một thị trường không phải nhỏ, đặc biệt là sự ổn định về chính trị là điều bất cứ ổn định về chính trị, là điều bất cứ nhà kinh tế nào cũng phải để tâm tới. Nhưng việc tìm ra phương thức hội nhập như thế nào để các nước có sự khác hẳn với nước ta về tư tưởng, chế độ chính trị xã hội vẫn chấp nhận hội nhập với nước ta là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Phương thức hội nhập đó chỉ có thể thực hiện thông qua các hình thức KTTBNN với tính cách là một kiểu liên minh kinh tế với tư bản tài chính ở các nước tiên tiến như Lênin đã dự báo và mong muốn trước đây. KTTBNN là hình thức duy nhất, thích hợp nhất liên kết với tư bản tư nhân. Trong điều kiện chuyên chính vô sản. Bằng cách làm đó, cũng chính là để bắc "những chiếc cầu nhỏ vững chắc" từ nền kinh tế kém phát triển nước ta nối liền với nền sản xuất lớn tiên tiến của thế giới và khu vực, đưa nước ta lên CNXH. Từ những phân tích ở trên chúng ta cần thiết và có đầy đủ khả năng để áp dụng KTTBNN. Và CNTBNN là "phương thức" là "con đường" ngắn nhất, chắc chắn nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn, đưa nước ta đi lên CNXH. 2/ Những hình thức cụ thể của KTTBNN đang vận dụng ở nước ta. Thứ nhất: Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước. Đây là hình thức các Công ty công tư hợp doanh mà Lênin đã nói đến trong NEP. ở nước ta trong thời kỳ nói cải tạo đối với công nghiệp tư doanh ở miền Bắc trước đây, hình thức nói trên thường tồn tại dưới hình thức tổ chức kinh tế "công tư hợp doanh". Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc cải tạo công thương nghiệp tư doanh làm xuất hiện một số "công tư hợp doanh" thương nghiệp. Nhìn chung các hình thức "Công ty hợp doanh" xuất hiện ở cả hai miền Nam, Bắc trải qua hai thời kỳ khác nhau, song đều nằm trong khuôn khổ của mô hình "kinh tế chỉ huy tập trung" nên về thực chất đã biến các tổ chức và hoạt động của công tư hợp doanh thành tổ chức quốc doanh. Từ ngày đổi mới nền kinh tế với tính cách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và "mở cửa" hình thức liên doanh liên kết này thường được hướng vào lực lượng kinh tế tư nhân và tổ chức kinh tế nước ngoài thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp. Trong khi đó, việc phát triển hình thức này đối với lực lượng kinh tế tư nhân trong nước có phần bị lãng quên hay chưa chú ý đúng mức. Điều này có nguyên nhân khách quan và chủ quan là: lực lượng kinh tế tư nhân trong nước sau nhiều năm bị xoá bỏ vừa được khôi phục, tức lực lượng nhỏ, trình độ quản lý còn thấp, cần có thời gian phát triển về vốn và kinh nghiệm để có đủ lực lượng hợp tác, liên doanh, liên kết với Nhà nước. Qua gần 10 năm đổi mới, cho đến nay, lực lượng kinh tế tư nhân ở nước ta, nhờ sự hoạt động của quy luật tích tụ và tập trung vốn bằng nhiều con đường và nhiều nguồn gốc khác nhau, tiềm năng của lực lượng kinh tế này đã có bước phát triển đáng kể. Tiềm năng kinh tế tư nhân thể hiện rõ nhất qua chỉ tiêu về vốn kinh doanh. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy : so với khi thành lập, vốn đầu tư ban đầu của một chủ doanh nghiệp tư nhân, bình quân chung của cả nước đến nay tăng 92% (gần 2 lần). Số công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn điều lệ 300 triệu đồng khi thành lập chiếm 32,2% đến nay chỉ còn 22,3% . Số công ty có vốn điều lệ từ 1 - 5 tỷ đồng, khi mới thành lập chỉ chiếm 11,05% đến nay đã tăng lên 22,08% (tăng lên gấp đôi) trong đó Hà Nội từ 14,04% lên 30%, Hải Phòng từ 8% lên 15,7% và ở thành phố Hồ Chí Minh từ 10,3% lên 17,07%. Tiềm năng của kinh tế tư nhân còn thể hiện ở nhu cầu, chương trình phát triển như: nhu cầu tăng quy mô và ngành nghề, nhu cầu gọi thêm vốn trong nước và gọi vốn nước ngoài. Về lĩnh vực hoạt động tính đến nay trong cả nước có khoảng 26% công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và 3% trong lĩnh vực khách sạn du lịch. Các con số tương ứng của các doanh nghiệp tư nhân lần lượt là 23% và 12%. Tiềm năng này cần được thu hút và hình thức hợp tác liên doanh liên kết. Thực hiện điều này có kết quả là biểu hiện rõ việc biết lợi dụng sức mạnh của các thành phần kinh tế trong nước đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nền kinh tế thị trường theo quan điểm mới. Nhà nước cần có biện pháp, và chính sách, nhất là chính sách kinh tế, được ban hành hợp lý, hợp tình. Nếu đối với lực lượng kinh tế tư nhân nước ngoài, Nhà nước đã có pháp luật chính sách ưu đãi và thông thoáng, thì chí ít đối với lực lượng kinh tế tư nhân trong nước cũng như vậy hoặc có thể ưu tiên và thông thoáng hơn. vì dẫu sao cái mà tư nhân được lợi hơn nước ngoài vẫn là cái lợi có khả năng tạo ra nội lực cho nền kinh tế dân tộc. Bằng cách đó Nhà nước khuyến khích kinh tế tư nhân trong nước vì lợi ích kinh tế và lòng "yêu nước" mà nhanh chóng tiếp nhận hình thức này trong thời gian tới ở nước ta. Thứ hai: tiếp tục mở rộng và phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài. Đây là hình thức liên doanh theo tỉ lệ vốn có mức độ khác nhau giữa Nhà nước và tư nhân, việt kiều và các tổ chức kinh tế nước ngoài, được tổ chức dưới tên gọi là các xí nghiệp liên doanh. Hình thức này xuất hiện trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế và được thực hiện thông qua đầu tư trực tiếp hình thành các trung tâm công nghiệp mới với kỹ thuật công nghệ cao. Theo niêm giám thống kê năm 1994, số dự án đầu tư được cấp giấy phép tính đến cuối năm 1994 là 1.170, với tổng số vốn đầu tư là 122000430,4 triệu USD và tổng vốn pháp định là 6.376.441,9 triệu USD trong đó: từ năm 1988 đến cuối năm 1990 lần lượt là 213 dự án, 794.213,7 triệu USD vốn đầu tư và 1.007,978 triệu USD vốn pháp định. Qua số liệu trên cho thấy động thái và nhịp điệu phát triển thu hút đầu tư nhanh chủ yếu là từ năm 1991 đến nay. Nhìn chung cho đến nay các dự án được phân bố tập trung nhiều ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng ... riêng thành phố Hồ Chí Minh tính đến tháng 6/1995 đã có 409 dự án được cấp giấy phép hoạt động có hiệu lực với tổng số vốn đăng ký đầu tư 5.013.079,911 USD (với 29 nước) trong đó phía nước ngoài góp 78,8%, phía Việt Nam 23,2%. Về quy mô của các dự án thời gian hoạt động. Thời gian hoạt động từ 10 năm: tổng dự án 30 trong đó số vốn dưới 1 triệu USD là 14 dự án; vốn từ 1 - 10 triệu USD là 10 dự án, vốn 10 triệu USD trở lên là 6 dự án. - Thời gian hoạt động từ 10 - 20 năm: tổng dự án 291, trong đó các con số tương ứng như trên lần lượt là 91,123 và 27 dự án . - Thời gian hoạt động trên 20 năm: tổng số dự án là 38, trong đó các con số tương ứng lần lượt là 2,7 và 29 dự án. Các dự án nói trên ở thành phố Hồ Chí Minh được phân bố chủ yếu qua hình thức liên doanh, diễn ra trong lĩnh vực thương nghiệp khách sạn, nhà hàng và công nghiệp chế biến. Hà Nội các dự án đầu tư nước ngoài mặc dù chưa nhiều (còn thấp xa so với thành phố Hồ Chí Minh) nhưng được phân bố tập trung vào việc hình thành các khu công nghiệp tập trung như: khu công nghiệp "Sài đồng - Gia lâm" khu công nghiệp "Nam cầu Thăng Long" và khu công nghiệp "Đông Anh", cùng với Hải Phòng và Quảng Ninh hình thành tam giác kinh tế kỹ thuật công nghệ cao. Một số dự án khác được đầu tư qua lĩnh vực khách sạn du lịch. Một số tỉnh thành phố khác hình thức liên doanh cũng được thực hiện, mặc dù số lượng chưa nhiều. Cho đến nay việc triển khai các dự án đã đưa lại kết quả: một số trung tâm công nghiệp kỹ thuật cao và một số lĩnh vực khác, nhất là khách sạn và du lịch qua hình thức liên doanh vốn nước ngoài bước đầu hình thành, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động; làm thay đổi bộ mặt đất nước theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tuy nhiên việc thực hiện hình thức này trong thời gian qua triển khai còn chậm, so với yêu cầu đặt ra. Có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về thủ tục giấy tờ với nhiều cơ quan đầu mối thẩm định và xét duyệt dự án; có nguyên nhân về năng lực điều hành và quản trị. Theo Lênin, tô nhượng là một giao kèo một sự liên kết, một liên minh giữa chính quyền Nhà nước Xô Viết, nghĩa là Nhà nước vô sản, với CNTBNN chống lại thế lực tự phát tư hữu. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. Họ kinh doanh theo phương thức tư bản là nhà tư bản. Họ thoả thuận với chính quyền Nhà nước theo các điều khoản: 1) người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp nhận tô nhượng ... sao cho đạt tới mức sống trung bình của người nước ngoài. 2) Đồng thời có tính đến năng suất lao động của công dân Nga; 3) Người nhận tô nhượng phải nhập từ nước ngoài vào cho công nhân trong xí nghiệp tô nhượng những hàng hoá cần thiết cho đời sống của họ bán với giá không được cao". 4)Đồng thời, nếu chính phủ của nước cộng hoà liên bang xã hội chủ nghĩa Xô Viết Nga yêu cầu thì ngoài số lượng sản phẩm để cung cấp cho công nhân trong các xí nghiệp tô nhượng, những người nhận tô nhượng phải nhượng lại một phần hoặc toàn bộ sản phẩm. 5) Những người nhận tô nhượng phải tôn trọng pháp luật nước Nga, chẳng hạn các đạo luật về điều kiện lao động, về kỳ hạn phát lương... phải ký hợp đồng với công đoàn. 6) Người nhận tô nhượng phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học kỹ thuật phù hợp với pháp luật nước Nga và của nước ngoài. 7) Về vấn đề người nhận tô nhượng nhập thiết bị máy móc từ nước ngoài tới thì xử lý theo quy tắc giống như quy định ở điều 4; 8) Vấn đề trả lương cho công nhân trong các xí nghiệp tô nhượng trả bằng ngoại tệ, bằng phiếu đặc biệt hay bằng Xô Viết sẽ được quy định theo sự thoả thuận riêng trong từng hợp đồng; 9) Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân, nhân viên nói trên; 10) Theo sự thoả thuận với các cơ quan của chính phủ của nước Cộng hoà liên bang XHCN Xô Viết Nga, có thể cho người nhận tô nhượng quyền mời những chuyên gia có trình độ cao trong số công nhân ở Nga, các điều kiện tuyển dụng trong từng trường hợp phải được sự đồng ý của các cơ quan chính quyền trung ương; Nhưng lợi dụng bên Việt Nam thiếu vốn thiếu năng lực bên đầu tư nước ngoài đã vi phạm trên một số khía cạnh như: mua chuộc cán bộ quản lý và cán bộ đối tác. Đầu tư chui, chèn ép hà khắc công nhân Việt Nam (năm 1994 đã có 26 vụ đình công của công nhân) mua bán bất động sản trái phép, lừa đảo, trốn thuế, ép giá gia công, gia tăng đầu tư thiết bị ... Mặc dù đây là sự trả giá cho sự dốt nát, yếu kém của ta. Như Lê nin đã nói tới khi thực hành chính sách tô nhượng ở nước Nga. Nhưng cùng với thời gian chúng ta phải nhanh chóng khắc phục những điểm yếu của ta. Việc giải quyết thoả đáng những hạn chế này sẽ tạo điều kiện để tiếp tục mở rộng hình thức liên doanh với nước ngoài một cách có hiệu quả trong thời gian tới ở nước ta. Thứ ba: Về hình thức tô nhượng, mà thực chất là hình thức xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài được hình thành trong các khu chế xuất Hình thức này ở nước Nga trước đây dưới thời Lênin có đưa ra, nhưng do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, ít được sự hưởng ứng của các nhà tư bản nước ngoài nên hình thức này thực hiện không đáng kể. ở một số nước khác, nhất là Trung Quốc, hình thức này được thực hiện dưới hình thức xí nghiệp có vốn nước ngoài 100% thông qua việc hình thành các khu chế xuất, đã thu được những thành công nhất định, song không phải không có chỗ không thành công ... ở nước ta loại hình xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong các khu chế xuất hiện đang còn rất mới mẻ, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Trên tinh thần đó, đối tượng đầu tư, ngành được khuyến khích đầu tư, các hình thức đầu tư, những chính sách ưu đãi và việc quản lý Nhà nước đối với khu chế xuất. Đến nay cả nước được chính phủ cho phép hình thành 6 khu chế xuất : (thành phố Hồ Chí Minh 2, Cần Thơ 1, Quảng Nam - Đà Nẵng 1, Hà Nội 1 và Hải Phòng 1). Mục tiêu của việc hình thành khu chế xuất là : a) Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước. b) giải quyết công ăn việc làm và thông qua đó mà đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. c) Du nhập kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. d) Tạo nguồn hàng xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, góp phần thúc đẩy sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới và khu vực. e) Tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. g) Thúc đẩy nền kinh tế nội địa có mũi nhọn đột phá phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, khu chế xuất được quy định là khu công nghiệp chuyên môn sản xuất phục vụ xuất khẩu với chế độ tự do thuế quan và tự do mậu dịch. Qua gần 4 năm thực hiện hình thức này cho thấy, nhiều dự án khu chế xuất chưa hoàn tất về thủ tục, sự đối tác tham gia chưa nhiều, lại chưa ổn định, nên việc triển khai còn chậm, chưa được nhiều. ở thành phố Hồ Chí Minh hai khu chế xuất Linh Trung và Tân Thuận đã được triển khai bước đầu đã đem lại một số kết quả (nhất là khu chế xuất Tân Thuận) tính đến 30/9/95, khu chế xuất Tân Thuận đã có 115 công ty đăng ký đặt cọc thuê đất với tổng số vốn đầu tư 340742491USD và với 105 ha diện tích đất được thuê. Có 16 xí nghiệp đi vào hoạt động, 8 xí nghiệp đang sản xuất thử, 16 xí nghiệp đang xây dựng. Đã có 3223 lao động được tuyển dụng, 246 nhân viên quản lý kỹ thuật và công nhân lành nghề. Có 7 xí nghiệp đã xuất khẩu với kim ngạch xuất 30 triệu USD... Trong khi đó khu chế xuất Linh Trung mới có 3 xí nghiệp đã cấp giấy phép. Mặc dù việc triển khai khu chế xuất ở một vài nơi có đưa lại một số kết quả nhất định nào đó, song nhìn chung việc phát triển còn chậm so với dự kiến ban đầu. Hiện đang nổi lên một số vấn đề làm ảnh hưởng đến nhịp độ triển khai khu chế xuất như: thủ tục xuất vào nội địa và từ nội địa nhập vào khu chế xuất còn quá chậm, rườm rà, rắc rối, việc tính giá thuê đất còn cao, kết cấu hạ tầng chưa đảm bảo, kinh nghiệm quản lý khu chế xuất còn kém, việc chọn đối tác thiếu chính xác... Những khó khăn và chưa thành công của việc triển khai hình thức khu chế xuất ở nước ta, cùng với sự ra đời của khu chế xuất trên thế giới và ở các nước Châu á, mà sự thành công của nó mới khoảng 20%, trong khi đó nhiều khu chế xuất không thành công. Tình hình đó làm nẩy sinh một số nhận thức trái ngược nhau: - Có ý kiến cho rằng khu chế xuất, mặc dù là một kinh nghiệm tốt (nếu làm được nhưng ngày nay vai trò của nó đã có chiều hướng giảm xuống khi xu hướng quốc tế hoá và mở cửa nền kinh tế hình thành . Từ đó, họ hoài nghi khả năng thành công của khu chế xuất ở nước ta. Cùng nhóm với ý kiến trên, một số người cho rằng không nên áp dụng rộng rãi việc phát triển các khu công nghiệp tập trung kỹ thuật cao. - Có ý kiến khác cho rằng, khu chế xuất vẫn còn có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng hiện nay. Họ khẳng định việc triển khai xây dựng các khu chế xuất vừa qua, vẫn là chủ trương đúng. Theo họ không nên vì khó khăn và nhịp độ triển khai chậm của các khu chế xuất mà phủ nhận vai trò của nó, trái lại phải sớm tìm cách khắc phục khó khăn, sửa chữa những hạn chế, tiếp tục đưa hình thức này đi vào thực tiễn trong thời gian tới ở nước ta. - Thứ tư: Thực hiện hình thức cho thuê thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh nghiệp thuộc khu việc kinh tế Nhà nước. Đây là một hình thức thực hiện thông qua hợp đồng, được ký kết giữa Nhà nước với lực lượng kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Hợp đồng này cũng giống như hợp đồng của hình thức tô nhượng trong khu chế xuất. Sự khác nhau giữa chúng được phân biệt ở chỗ: a)Thời gian ký hợp đồng ngắn hơn so với hình thức tô nhượng. b) Nếu hình thức tô nhượng đối tượng thuê chủ yếu là thuê quyền sử dụng đất đai, thì hình thức này áp dụng cho các đối tượng hầm mỏ, khu rừng, xí nghiệp, cửa hàng... trong một thời gian nhất định. Những đối tượng này thường là những đối tượng mà Nhà nước không có khả năng nắm hoặc nếu để Nhà nước kinh doanh sẽ không có hiệu quả và cũng để Nhà nước tập trung vốn vào những ngành, khâu mặt hàng then chốt cần nắm, đã được phân loại sau khi tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước . Thứ năm : Hình thức gia công đặt hàng. Hình thức này thường áp dụng đối với các ngành sản xuất vật chất, ngành mà hàm lượng lao động sống đòi hỏi nhiều. Nó là hình thức khá phù hợp với nước ta, một nước có tỉ lệ gia tăng dân số và gia tăng lao động còn cao, công ăn việc làm hiện đang là sức ép cần giải toả. Hình thức gia công đặt hàng có thể thực hiện theo 2 chiều: các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam nhận gia công cho kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Hình thức này khá phát triển ở nước ta hiện nay, đặc biệt trong ngành dệt may và điện tử, hoặc kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài nhận gia công cho các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam . Thứ sáu : Hình thức đại lý Đây là hình thức thường áp dụng trong các ngành nhất là ngành dịch vụ (hiểu theo nghĩa rộng). Nó bao gồm đại lý mua, đại lý bán, đại lý về các dịch vụ khác giữa các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam với các tổ chức kinh tế tư nhân trong và ngoài nước trong những thời hạn nhất định. Hình thức này cũng được thực hiện theo hai chiều như đã trình bày ở hình thức thứ năm đã nói ở trên trong nền kinh tế nước ta hiện nay, sản xuất nhỏ phân tán chủ yếu thì hình thức kinh tế này đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời tạo ra một lượng lớn việc làm cho người lao động. Trên đây là một số hình thức chủ yếu thường được sử dụng nhất. Trong đời sống thực tế, các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước, các hình thức của CNTBNN diễn ra rất phong phú và đa dạng. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ thực tiễn luôn biến động để điều chỉnh các hình thức ít hoặc không còn thích hợp, tìm tòi sáng tạo thêm các hình thức mới có hiệu quả hơn để vận dụng vào thực tiễn nước ta. Tuy nhiên, cho dù lựa chọn và ứng dụng hình thức nào cũng phải đảm bảo cho phù hợp các quan điểm làm cơ sở cho sự lựa chọn đã được xác định. 3. Phương hướng và những điều kiện để vận dụng có hiệu quả hình thức TBNN ở nước ta. a) Hệ quan điểm làm cơ sở cho việc mở rộng các hình thức kinh tế TBNN. Thứ nhất: phải thông qua thực trạng vận dụng các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời gian qua, nhất là từ thời kỳ đổi mới nền kinh tế ở nước ta, có tính đến những kinh nghiệm thành công và chưa thành công gắn với điều kiện mới của thời đại (vừa là cơ hội thuận lợi vừa là thách thức) tìm ra các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước có thể vận dụng thích hợp với điều kiện nước ta. Nói cách khác, phải có quan điểm mới và toàn diện, xem xét cả trước mắt và lâu dài, để lựa chọn các hình thức : đồng thời vừa làm, vừa phát hiện các hình thức mới hữu hiệu có thể vận dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ở nước ta. Thứ hai: Việc vận dụng, phát triển và mở rộng các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước phải đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng bền vững, gắn tăng trưởng với giữ gìn độc lập chủ quyền và bản sắc văn hoá dân tộc. Gắn phát triển với phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết đúng đắn mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi của hai bên người lao động và người sử dụng lao động, trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, đảm bảo phát triển theo đúng mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh và XHCN. Thứ ba : Quá trình phát triển và mở rộng các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước phải đảm bảo khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xây dựng thành công, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành và phát triển, đủ sức hoà nhập vào nền kinh tế thế gới và nền kinh tế trong khu vực. b) Những điều kiện đảm bảo sự thành công của việc mở rộng và phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước Tính hiện thực, tính hiệu quả và tính định hướng của mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đối với các hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được vận dụng ở nước ta, khi các điều kiện sau đây được đảm bảo : 1. Tăng cường thực lực kinh tế của Nhà nước theo hướng: - Nắm giữ được những n gành, khâu then chốt, trọng yếu nhất của nền kinh tế quốc dân. - Hệ thống ngân sách, ngân hàng thuộc khu vực kinh tế nhà nước được vững mạnh đủ sức thúc đẩy tăng trưởng bền vững và kiềm chế được lạm phát theo mức dự kiến của từng thời kỳ. - Lực lượng dự trữ quốc gia về vật tư, hàng hoá, chiến lược được đảm bảo đủ để Nhà nước dập được các cơn sốt do tình trạng tự phát của thị trường gây ra. - Tỷ lệ vốn thuộc sở hữu Nhà nước trong các hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được phát triển theo hướng tăng thêm tỷ trọng trong cơ cấu sở hữu hỗn hợp về vốn. Làm như vậy sẽ tăng cường sức mạnh kinh tế Nhà nước để kinh tế Nhà nước làm tốt vai trò điều tiết nền kinh tế - một trong những điều kiện quan trọng nhất để áp dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước . 2. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được giữ vững Điều kiện này phải được coi là điều kiện chính trị tiên quyết để đất nước có một bộ tham mưu có khả năng lãnh đạo, tổ chức đảm bảo giải quyết các mâu thuẫn của thời kỳ quá độ, theo định hướng XHCN. Muốn vậy, Đảng phải thực sự trong sạch, đảng viên và nhất là cán bộ phải thực sự có trí tuệ và năng lực. 3. Xây dựng được Nhà nước pháp quyền XHCN: Mà quyền lực của nó thể hiện ở sự điều tiến kinh tế thị trường bằng pháp luật với tính chất thực sự là của dân, do dân và vì dân. Đây là điều kiện tiến quyết để bảo đảm các mục tiêu đề ra và CNXH. Muốn vậy phải đẩy mạnh cải cách Nhà nước về hành chính, xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đổi mới kế hoạch hoá, tăng cường năng lực của cơ quan luật pháp, hành pháp và tính nghiêm minh của các cơ quan tư pháp. 4. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập chủ quyền dân tộc: Với việc mở rộng kinh tế đối ngoại: tạo môi trường chính trị, kinh tế, xã hội thuận lợi (kết cấu hạ tầng, ổn định chính trị, hệ thống luật pháp, chính sách thuế chính sách giá đất đai, thủ tục xét duyệt thẩm định...) cho các chủ thể kinh tế tham gia các hình thức kinh tế của CNTBNN. c/ Từ những nhận định trên, phương hướng khi vận dụng tư tưởng của Lênin về CNTBNN, cần xem xét vân dụng nó vừa như là một sách lược kinh tế của Nhà nước vô sản vừa như là một thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, một kiểu tổ chức kinh tế. Vận dụng CNTBNN như một sách lược kinh tế. Trước hết để sử dụng CNTBNN như phương tiện để thực hiện sự định hướng XHCN. Để hướng nền kinh tế tư nhân, cá thể ở nước ta ngày càng phát triển - vào con đường CNTBNN cần giải quyết những vấn đề sau: Một là: Không nên e ngại, mà tạo điều kiện cần thiết để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa. Cần chủ động tạo điều kiện, tạo môi trường và bằng nhiều hình thức, thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản nước ngoài. Hai là, Hướng sự phát triển của kinh tế tư bản theo con đường CNTBNN dưới các hình thức thích hợp, thông qua sự kiểm kê, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước bằng các công cụ quản lý vĩ mô (đặc biệt là các chính sách tài chính và tiền tệ) và bằng lựclượng kinh tế trong tay Nhà nước (kinh tế quốc doanh). Ba là, Nhà nước ta cần được củng có vững chắc thực sự là Nhà nước, của dan, do dân và vì dân. Nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế nhằm điều tiết nền kinh tế. Vận dụng CNTBNN như một thành phần kinh tế một kiểu tổ chức kinh tế. Với tính cách một pham trù kinh tế, CNTBNN là hệ thống các qua hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước vô sản, đại biểu cho sở hữu toàn dân, cho lợi ích xã hội, với một bên là nàh tư bản; là hệ thống các quan hệ hợp đồng giữa các Nhà nước vô sản và nhà tư bản, Hệ thống quan hệ đó được thiết lập dưới những hình thức kinh tế nhất định. ở nước ta, trong quá trình đổi mới cũng đang hình thành những hình thức của CNTBNN. Sự thu hút vốn đầu tư của nước ngoài đang tạo nên những khu chế xuất do nước ngoài đầu tư, những doanh nghiệp hay công ty liên doanh giữa Nhà nước với tư bản nước ngoài. Những hình thức như vậy sẽ được mở rộng, với sự tăng đầu tư nước ngoài vào ta. Chúng không chỉ là những hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mà đi liền với nó là thu hút công nghệ tiên tiến, do đó góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đạt hoá đất nước. Tuy nhiên xét về lâu dài cần nghiên cứu các định mức độ hợp lý của đầu tư nước ngoài vào ta và tăng dần tỷ lệ vốn đầu tư từ trong nước. Các hình thức liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân được hình thành và phát triển. Các hình thức gia công, đại lý đã được áp dụng cả Nhà nước đang được làm thử và triển khai. Hợp tác xã cổ phần rất đáng được nghiên cứu. Những hình thức trên tạo điều kiện để Nhà nước điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân theo định hướng XHCN. Đối với các đầu tư nhân không tham gia các hình thức trên, Nhà nước cần tăng cường kiểm kê, kiểm soát, để hoạt động của chúng phù hợp với luật pháp và quy định của Nhà nước, hạn chế những hành vi tiêu cực. III- Kết kuận Lênin đã đưa ra các hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản Nhà nước áp dụng đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội - từ một nưới tiẻu nông. Và Lênin đã áp dụng nó vào nước Nga XôViết bước đầu đã đem lại một số thành công. Nhưng theo Lênin đây là hình thức mới, nên cần có nhiều thời gian thử nghiệm và rút ra kinh nghiệm để hoàn thiện về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội thong qua gia giai đoạn tư bản chủ nghĩa hay từ một nước kém phát triển thì việc áp dụng các hình thức chủ của nghĩa tư bản Nhà nước là cần thiết. Tuy nhiên từ kết quả thục hiện hình thức kinh tế tư bản Nhà nước cho thấy, chúng ta phải nhận thức rõ hơn lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, cần phải rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn thực hành chế độ này ở nước ta, cũng như các nước trên thế giới. phát triển những hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước để áp dụng ở nước ta một cách hiệu quả nhất. Tài liệu tham khảo 1- V.I. Lê nin: Bàn về thuế lương thực - Toàn tập NXB Tiến Bộ Mascơa: 1987 Tr 43 2- V.I. Lênin. Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị. Toàn tập NXB Tiến Bộ Mascơva: 1994 Tr 44 3- Vũ Hữu Ngoan " Mấy vấn đề chủ nghĩa tư bản Nhà nước" NXB Chính trị quốc gia 1995 4- Tạp chí cộng sản, số 8 tháng 7/1995 5- Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Giai đoạn II) 6- Đảng cộng sản Việt Nam - văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB Chính trị quốc gia - 1995

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV620.doc
Tài liệu liên quan