Biến đổi khí hậu đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia do những ảnh hưởng
hiện nay và hiểm họa trong tương lai đối với xã hội loài người. Các hiện tượng khí hậu
dị thường và thiên tai liên tục diễn ra ở nhiều vùng trên thế giới. Các nhà khoa học từ
lâu cũng đã lên tiếng cảnh báo hiểm họa nghiêm trọng này nhưng chỉ cho đến gần đây,
loài người mới thấy được ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ môi trường và thực hiện
cuộc chiến thực sự chống lại sự biến đổi khí hậu.
Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng cường các biện pháp
nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và huy động sự tham
gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện pháp khuyến khích các
nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Theo nghiên cứu mới nhất của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là quốc gia đang phát
triển thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Á từ sự biến
đổi khí hậu này. Bởi vậy, việc xây dựng chiến lược quốc gia nhằm đối phó và thích
ứng với sự biến đổi khí hậu của Việt Nam là một việc làm cấp thiết trong thời gian tới.
Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia biên soạn Tổng luận “TÁC
ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIẾN”
nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu có
cách nhìn bao quát hơn về nguy cơ biến đổi khí hậu tòan cầu, từ đó đưa ra các quyết
sách hợp lý nhằm thích ứng và đối phó với xu thế này.
58 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2203 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và sự dâng cao nước biến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đai
bị bạc màu và khô cằn, vì sinh kế người dân buộc phải tìm cách khai thác tài nguyên
biển và ven bờ, phá huỷ các hệ sinh thái có giá trị cực quỳ quan trọng như rừng ngập
mặn, cỏ biển, rạn san hô, bãi triều… Vì vậy, việc mất đi một phần rất lớn quỹ đất trồng
do biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, cùng quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa
sẽ đặt Việt Nam trước một thách thức rất nghiêm trọng.
Nuôi trồng thuỷ sản
Có thể nói, trong số những lợi ích mà biển mang lại, kinh tế thuỷ sản chiếm vị trí
đặc biệt quan trọng, đan xen giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thuỷ sản đóng
vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và cải thiện sinh kế cho các cộng đồng dân cư
sống ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Năm 2007, tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản cả năm 2007 đạt 3.752 triệu USD, tăng 4% so với kế hoạch, tăng 12%
so với cùng kỳ năm 2006. Cùng với sản lượng khai thác, sản lượng nuôi trồng thuỷ
sản, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, nhìn chung cũng tăng so với cùng kỳ năm ngoái.
Hết tháng 1/2008, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 120 ngàn tấn, tăng 5% so với kế
hoạch, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2007.
Biến đổi khí hậu đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế ở các vùng
ven biển Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven biển được coi là ngành có tăng
trưởng quan trọng, có giá trị xuất khẩu cao và cũng là ngành chịu nhiều thiệt hại nhất
do biến đổi khí hậu.
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như áp thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc phát triển của ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản ở các vùng
ven biển Việt Nam. Chỉ tính riêng năm 2006, hai cơn bão Chanchu và cơn bão
Xangsane đã ảnh hưởng trực tiếp và gây thiệt hại nặng nề cho ngành chế biến thuỷ sản
các tỉnh ven biển miền Trung: 3.974 ha đầm nuôi cá, tôm bị ngập kéo theo 494 tấn cá
tôm bị phá huỷ, 951 tầu thuyền đánh cá bị chìm, ước tính thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng.
Tháng 11/2007, do ảnh hưởng của bão số 7, áp thấp nhiệt đới trên biển Đông và ảnh
hưởng của gió mùa Đông-Bắc hoạt động mạnh đã làm hạn chế các hoạt động khai thác
thuỷ sản. Tại các tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Khánh Hoà, Phú Yên, đây là
những nơi có sản lượng nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá biển, nhuyễn thể, cua, ghẹ
lớn. Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu thay đổi trong thời gian vừa qua, mưa nhiều
43
khiến cho dịch bệnh phát triển, nguồn nước thay đổi nhanh khiến cho các đối tượng
nuôi khác như tôm hùm, rong sụn tại một số địa phương như Khánh Hoà, Phú Yên bị
chết, gây thiệt hại nặng nề cho người dân.
Ở Việt Nam có tới 58% dân cư vùng ven biển có sinh kế chủ yếu dựa và nông
nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải
sản, 10.000 người chế biến hải sản và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên quan
đến nghề cá. Một điểm đáng được quan tâm đối với cộng động dân cư ven biển là đa
số những người làm nghề đánh bắt thủy sản là những người nghèo trong xã hội. Do
sản lượng đánh bắt tự nhiên giảm, nền tảng kinh tế của mọi cộng đồng dân cư ven biển
không được ổn định. Từ đó phát sinh những vấn đề xã hội mà chính quyền ở các địa
phương giải quyết. Sản xuất nông nghiệp lượng lương thực giảm sẽ đẩy giá bán cao
lên, số người nghèo gia tăng, người suy dinh dưỡng ngày càng nhiều... Việt Nam sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn trong việc đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
như xóa đói nghèo.
2.3.5. Đa dạng sinh học và hệ sinh thái
Đối với nước ta, mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn/các
hệ sinh thái đất ngập nước của các đồng bằng lớn nhất cả nước. Đây cũng là nơi sinh
sống của các cộng đồng dân cư lâu đời (hiện có tỷ lệ đói nghèo cao), vùng có tiềm
năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất và các sinh cảnh tự nhiên của nhiều loài bản địa
bao gồm cả các khu bảo tồn thiên nhiên, sinh quyển.
Từ lâu ở Đồng bằng sông Cửu Long đã hình thành và phát triển các hệ sinh thái tự
nhiên rừng Tràm U Minh, hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, hệ sinh thái nông
nghiệp. Tại đây có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, vườn chim, sân chim... rất hấp dẫn
cho du lịch sinh thái. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng ngập mặn ở các tỉnh Cà Mau, Kiên
Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre... Ngoài vai trò sản xuất nông nghiệp
và thuỷ sản, các vùng đất ngập nước còn đóng vai trò quan trọng trong thiên nhiên và
môi trường như lọc nước thải, điều hoà dòng chảy (giảm lũ lụt và hạn hán), điều hoà
khí hậu địa phương, chống xói lở bờ biển (do hệ thống rễ chằng chịt, có tác dụng giảm
năng lượng sóng), ổn định mức nước ngầm cho những vùng sản xuất nông nghiệp, tích
luỹ nước ngầm, là nơi trú chân của nhiều loài chim di cư quý hiếm, là nơi giải trí, du
lịch rất giá trị… Các vùng này đã và đang đóng vai trò quan trọng trong công cuộc
phát triển kinh tế và xã hội. Kết quả nghiên cứu năm 2007 cho thấy, trong cơn bão lớn
năm 2005, một số rừng ngập mặn được trồng có các thành phần khác nhau có tác dụng
làm giảm sóng bão kết hợp với triều cường, bảo vệ đê biển và bờ biển rất có hiệu quả.
Cơn bão số 2 (31/12/2005) với sức gió cấp 10 (89 - 102 km/h) đã phá vỡ đê bằng bê
tông kiên cố Cát Hải (Hải Phòng), nhưng tuyến đê làm bằng đất ở xã Bằng La, huyện
Đồ Sơn nhờ có rừng ngập mặn bảo vệ nên vẫn an toàn. Năng lượng sóng khi vượt qua
rừng đã làm giảm 77 - 83% vào các thời điểm khác nhau trong ngày mưa bão. Cũng tại
khu vực này, khi cơn bão số 7 (27/9/2005) với sức gió cấp 12 (118 - 133 km/h) năng
lượng sóng đã giảm từ 85 - 87% khi xuyên qua rừng. Hệ số suy giảm sóng trong cơn
bão số 7 sau khu rừng bần là 77 - 83%.
44
Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao đe dọa nhiều nhất đến các hệ sinh thái
vùng ven bờ như hệ sinh thái đất ngập nước, rừng ngập mặn, cỏ biển và rạn san hô.
Mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ tác động mạnh đến các hệ
sinh thái này do làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn của nước và mức độ ô
nhiễm. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới đối với các sinh cảnh tự nhiên quan
trọng ở Việt Nam, dựa trên những kịch bản nước biển dâng trong bản đồ các sinh cảnh
tự nhiên chủ chốt, cứ 1m nước biển dâng lên có thể ảnh hưởng tới 78 (27%) sinh cảnh
tự nhiên ở những mức độ nhất định, bao gồm 46 (33%) khu bảo tồn, 9 (23%) các vùng
có đa dạng sinh học chủ chốt và 23 (21%) khu vực cả bảo tồn và sinh cảnh chủ chốt.
Độ lớn của những tác động tiềm tàng này đang tăng lên từ ¼ đến 1/3 tất cả các vùng
sinh cảnh tự nhiên then chốt ở Việt Nam có thể bị tác động bởi mực nước biển dâng.
Những khu vực này bao gồm phần lớn các khu bảo tồn và đề nghị bảo tồn hiện nay
của Việt Nam vì các khu bảo tồn này thương tập trung trên các đảo và khu vực bờ
biển. Thậm chí mực nước biển dâng cao 1m cũng sẽ tác động đến hầu hết các sinh
cảnh tự nhiên then chốt. Rõ ràng là đa dạng sinh học Việt nam đang phải đối mặt với
cuộc khủng hoảng khi nước biển dâng. Không chỉ ở các vùng ven biển, các tác động
khi nước biển dâng sẽ kéo dài từ Đồng bằng sông Cửu Long qua Việt Nam sang tới
Campuchia và đi sâu 180 km vào đất liền. Ở miền Bắc, lớp địa tầng đá vôi ngâm nước
sâu rộng khiến cho nước mặn xâm nhập vào sâu trong đất liền như Khu bảo tồn thiên
nhiên Vân Long ở Ninh Bình và một số nơi khác. Điều đó sẽ ảnh hưởng xấu tới đa
dạng sinh học, nhiều loài có ý nghĩa kinh tế và khoa học chết hoặc di cư, mất nguồn
cung cấp thực phẩm.
Việt Nam vốn nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, hàng năm phải hứng chịu
nhiều cơn bão và triều cường. Trước đây, nhờ có các dải rừng ngập mặn tự nhiên và
được trồng ở các vùng cửa sông, ven biển nên đê điều ít khi bị vỡ. Nhưng những năm
gần đây, do việc phá rừng ngập mặn để trồng lúa, nuôi tôm, cuộc sống của cộng đồng
ven biển ngày càng bị đe dọa. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, bão
và triều cường là hai trong số sáu tác động đến hệ sinh thái rừng ngập mặn gồm nhiệt
độ, lượng mưa, gió mùa đông bắc và hoạt động của con người. Nước biển dâng cao
nhất trong những ngày có mưa bão kết hợp triều cường, gây ra thiệt hại to lớn về tài
sản của cộng đồng ven biển, làm cho bờ biển bị xói lở, kể cả những vùng có các dải
rừng ngập mặn phòng hộ. Triều cường còn đưa cát vào bờ, làm cho các loài cây ngập
mặn có rễ thở trên mặt đất bị vùi lấp và chết đứng. Nước biển dâng tạo điều kiện cho
một số loài cây ngập mặn xâm lấn nội địa, giảm diện tích sản xuất nông nghiệp (như ở
Quảng Bình và miền Tây Nam Bộ). Nhiều loài động thực vật nước ngọt biến mất và
thay vào đó là các loài nước lợ. Nước biển dâng cũng ngăn cản sự bồi tụ của các bãi
triều, ngăn cản sự tái sinh tự nhiên của các loài cây ngập mặn tiên phong như mắm,
bần chua. Tại Tp.Hồ Chí Minh, trong thời gian gần đây triều cường gây ngập nhiều
khu dân cư trong đó có nguyên nhân là hầu hết các kênh rạch có những dải dừa nước
và nhiều loài cây ngập mặn khác như bần, mắm, su trang ở các quận Nhà Bè, Phú
Xuân, Bình Chánh bị chặt phá và lấp đất để xây dựng.
45
Ngoài những ảnh hưởng đến suy giảm đa sinh học, nguy cơ nhấn chìm và phá huỷ
cơ sở hạ tầng và suy giảm tiềm năng du lịch ở các vùng ven biển cũng là một vấn đề
quan trọng. Hiện nay, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta, với hàng triệu
người tham gia và kiếm sống nhờ du lịch. Biến đổi khí hậu mà hệ quả là nước biển
dâng cao sẽ nhấn chìm và phá huỷ cơ sở hạ tầng du lịch, từ đó làm giảm lượng khách
tìm đến và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của hàng triệu người, trong đó đa phần là
người nghèo. Theo số liệu của Ủy ban Nhân dân Huyện Giao Thuỷ, Nam Định, kể từ
cơn bão số 5 năm 2005 đến năm đầu năm 2008, tại khu vực bờ biển Bạch Long - Giao
Thủy và Khu du lịch thị trấn Quất Lâm mực nước biển đã dâng lên 20cm. Trước năm
2005, mực nước biển hầu như không tăng, thế nhưng từ năm 2005, biểu mực nước
biển dâng lên rõ rệt. Đặc biệt, mỗi lần thủy triều lên, mực nước dâng cao tràn qua
đường khu du lịch ở thị trấn Quất Lâm, Chính quyền địa phương đã phải tổ chức tôn
cao đường trong khu du lịch từ 20 - 50cm và xây bờ chắn sóng. Hậu quả của mực
nước dâng cao 20cm đã phá hủy toàn bộ môi trường và cây cối trong khu vực, ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, du lịch và môi trường của huyện.
2.3.6. Giao thông và cơ sở hạ tầng
Theo đánh giá của IPCC, do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, có khả năng
mực nước biển sẽ dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21, nếu Việt Nam không nhanh chóng
xây dựng và nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống đê biển để ứng phó, thì hàng năm có đến
40.000km2 vùng ven biển sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề, trong đó 90% diện tích đồng
bằng sông Cửu Long bị ngập hoàn toàn, thiệt hại về tài sản lên tới 17 tỷ USD.
Hệ thống đê biển đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo phát triển bền vững
dải đất ven biển, có nhiệm vụ ngặn mặn giữ ngọt, bảo vệ tính mạng và tài sản của
người dân, là tấm lá chắn hữu hiệu nhằm ngăn chặn những tác động bất lợi từ biển.
Các nguy cơ mới về biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao sẽ đe doạ đến sự tồn tại
các của công trình phòng thủ vô cùng quan trọng này. Đến nay cả nước đã có 2.800km
đê biển thuộc 28 tỉnh đã và đang phát huy hiệu quả trong công tác phòng chống thiên
tai, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương có biển phát triển kinh tế-xã hội, riêng
hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận hầu như chưa có đê biển. Tuy nhiên, hệ thống đê
biển của Việt Nam hầu hết đắp bằng đất, nền đất yếu, người dân chủ động xây dựng
thiếu sự quy hoạch thống nhất và khoa học và chỉ có khả năng chống đỡ được những
cơn bão từ cấp 9 trở xuống. Nhiều tuyến đê biển, sông hiện vẫn chưa đủ khả năng
phòng chống thiên tai, khi chịu triều cường và bão thường bị thiệt hại lớn. Các tuyến
kè cũng chưa khép kín, nhiều đoạn còn thiếu cầu, cống. Do đó chưa chủ động trong
tiêu úng, tiêu phèn, hạn chế hiệu quả ngăn mặn, giữ ngọt cho nuôi trồng thủy sản và
kết hợp giao thông biển.
Từ sau năm 2005, đê biển đã được tập trung tu bổ khá nhiều. Tuy nhiên do kinh phí
còn hạn hẹp nên mới tập trung tu bổ những đoạn đê bị vỡ và những tuyến đê xung yếu.
Đến năm 2007, hầu hết các tuyến đê sông ở Bắc và Trung Bộ căn bản đã đủ sức chống
được lũ, tuy nhiên, hệ thống đê biển vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập, nhất là trước
46
những cơn bão lớn. Hệ thống đê biển thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ tuy đã được đầu tư
nâng cấp thông qua các Dự án PAM 4317, PAM 5325, OXFAM của nước ngoài tài trợ
nhưng mới đủ sức chống đỡ với gió bão cấp 9 và khi thủy triều ở mức trung bình.
Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, kinh phí chỉ riêng để xây dựng, gia cố
518 km đê biển và 326 kè sông của 13 tỉnh thành từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang đã là
10.000 tỷ đồng. Số tiền này cũng tương đương với tổng thiệt hại bão số 6 năm 2006
tàn phá nặng nề các tỉnh miền Trung.
Với Việt Nam, các hệ thống cảng biển đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
quốc gia. Hệ thống cảng biển nước sâu hiện nay ở vùng ven biển miền Trung Việt
Nam còn là cửa ngõ lớn qua các trục hành lang Đông Tây, nối liền miền Trung Việt
Nam với các nước tiểu vùng sông Mêkông, nối Việt Nam với các nước châu Á - Thái
Bình Dương và thế giới. Hiện nay, trên 24 tỉnh thành vùng duyên hải Việt Nam có 266
cảng biển lớn nhỏ. Hơn nữa, Việt Nam còn là nước có nhiều tiềm năng về dầu khí
trong khu vực. Hiện nay công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam
đã được tiến hành cả trên đất liền và vùng thềm lục địa (tập trung tại vùng biển Đông
Nam và Tây Nam Việt Nam). Mực nước biển dâng cao sẽ đe dọa đến các cơ sở hạ tầng
có ý nghĩa quan trọng này.
Mực nước biển dâng cao kèm theo mưa bão lớn hơn có thể sẽ gây ngập lụt các
tuyến đường sắt ở vùng duyên hải, sân bay, phá huỷ cầu cống và hệ thống ống dẫn. Tại
nhiều nơi, các công trình cơ sở hạ tầng như giao thông, đê biển, cống ngăn mặn…
được xây dựng căn cứ vào các dữ liệu thời tiết lịch sử và không còn phù hợp trong
điều kiện khí hậu, vì vậy nguy cơ tổn thất là rất lớn. Điều này đã được chứng minh sau
các trận nước biển dâng kèm theo mưa bão trong vài năm trở lại đây ở miền Trung.
2.3.7. Nước sạch và vệ sinh môi trường
Biến đổi khí hậu liên quan đến mực nước biển dâng còn ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khoẻ của dân cư sống tại các vùng ven biển Việt Nam. Tăng cường độ thiên tai
như bão và lũ lụt, sẽ đe doạ tính mạng người dân và có thể dẫn đến nhiều tử vong hơn,
nguy cơ bùng phát dịch bệnh là không thể tránh khỏi, nhất là các sự bùng phát dịch
bệnh liên quan đến nước sạch và vệ sinh môi trường như tiêu chảy, sốt xuất huyết, đau
mắt…
Năm 2007, ảnh hưởng của tàn dư bão số 6 kết hợp với gió đông hoạt động mạnh đã
gây ra mưa lớn nhất là trong mùa lũ. Các trận lũ khủng khiếp tại các tỉnh miền Trung
đã gây thiệt hại lớn về kinh tế xã hội và môi trường, làm ảnh hưởng đến hàng nghìn hộ
dân địa phương. Do mưa lũ liên tiếp nên hệ thống các đê bao, đê ngăn mặn, đê kè
sông, biển và kênh mương bị sạt lở, nhiều tuyến đường giao thông, công trình, di tích
lịch sử bị bùn đất vùi lấp. Thêm vào đó, do ngập lụt trong thời gian dài, các loại phân
bón, thuốc trừ sâu, chất thải từ các nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi, các chất thải
khác… bị rửa trôi, xuống hồ ao, sông suối trôi nổi khắp nơi gây ô nhiễm môi trường.
Các công trình cấp nước sạch tập trung bị hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp bị ô nhiễm
gây khó khăn cho việc xử lý nước, cung cấp nước sạch cho nhân dân.
47
III. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG VỚI SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
VÀ MỰC NƯỚC BIỂN DÂNG CAO Ở VIỆT NAM
Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã chứng kiến và các nhà khoa học trên khắp thế
giới đã liên tục báo động về những biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Thích
ứng và giảm nhẹ tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra đã trở thành vấn đề cấp
bách, đòi hỏi sự tham gia của tất cả cộng đồng thế giới. Dưới sự hỗ trợ của Hiệp định
Khung Quốc tế về Thay đổi Khí hậu (UNFCCC), một số công việc đã được bắt đầu
cho Chương trình Hành động Thích ứng Quốc gia. Những hành động này bao gồm
cả việc tăng cường xác định các hoạt động ưu tiên, bao gồm cả thích ứng đối với
nước biển dâng ở các nước kém phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ mới có 8 quốc
gia đang phát triển đã xây dựng đầy đủ Chương trình Hành động Thích ứng Quốc gia
Bănglađét, Bhutan, Comoros, Djibouti, Malawi, Mauritania, Niger và Samoa.
Không chỉ các nước nghèo bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng cao, các quốc gia đang
phát triển khác cũng bị ảnh hưởng lớn. Nước biển dâng trong khoảng từ 1-3m có thể
trở thành hiện thực. Nhưng cho đến nay, rất ít các bằng chứng cho thấy cộng đồng quốc
tế quan tâm thích đáng đến việc quy hoạch phân bố dân cư và cơ sở hạ tầng ở các nước
đang phát triển.
Không phải cho đến bây giờ, Chính phủ Việt Nam mới quan tâm đến vấn đề khí
hậu và nước biển dâng cao hiện nay. Có thể kể ra một số sự chuẩn bị cụ thể của Việt
Nam trước tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở cấp quốc tế, Việt Nam đã ký và phê
chuẩn Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu và trở thành một bên
của Công ước ngày 25/09/2005. Mặc dù Việt Nam không thuộc các nước phải tuân
thủ lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính, song Việt Nam vẫn có thể chủ động xây
dựng kế hoạch hành động phù hợp ngay từ bây giờ để tránh những tổn thất trực tiếp
cũng như những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế- xã hội và sự phát triển bền
vững của quốc gia. Ở cấp quốc gia, Việt Nam đã lồng ghép chống biến đổi khí hậu
vào Luật bảo vệ môi trường, các chương trình như Chương trình nghị sự Agenda 21
của Việt Nam, Chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và ven biển, Kế hoạch
hành động quốc gia về đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu Chiến lược quốc gia
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020…
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã được chỉ định là Cơ quan đầu mối Quốc gia về các
hoạt động có liên quan đến việc thực hiện Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về
Biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto, Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn và Nghị
định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn; Thành lập cơ quan đầu mối về
Cơ chế phát triển sạch là một trong ba cơ chế của Nghị định thư Kyoto phục vụ phát
triển bền vững tại Việt Nam thông qua các dự án phát triển sạch .
Gần đây nhất, ngày 3/12/2007, Chính phủ đã có Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP
giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan
xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, kêu
gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho chương trình này và trình Thủ tướng Chính
48
phủ trong quý II/2008. Mục tiêu chung của Chương trình là chú trọng đến nâng cao
nhận thức về biến đổi khí hậu và xây dựng chính sách của Việt Nam trong giảm nhẹ và
thích ứng với biến đổi khí hậu, lồng ghép vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội,
chiến lược phát triển ngành, địa phương và các cam kết quốc tế. Chương trình Mục
tiêu Quốc gia về vấn đề này phải đáp ứng được mục tiêu trước mắt, vừa đáp ứng được
mục tiêu lâu dài, mang tính toàn diện, tổng thể.
Trước nguy cơ ảnh hưởng và cảnh báo về biến đổi khí hậu và nước biển dâng,
Việt Nam cần làm gì để ứng phó với hiểm họa này. Các hành động trước mắt và
lâu dài cần được xem xét và cân nhắc kỹ nhằm thích ứng và giảm nhẹ những tác
động bất lợi cho nền kinh tế và đời sống con người. Tại Hội thảo về Biến đổi khí
hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam diễn ra tháng 2/2008, các nh à
khoa học và các nhà quản lý đã đề xuất 8 giải pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu của Việt Nam gồm:
1) Chấp nhận tổn thất: Phương pháp thích ứng này là phản ứng cơ bản “không
làm gì cả”.
2) Chia sẻ tổn thất: Chia sẻ tổn thất giữa cộng đồng dân cư, bảo hiểm.
3) Làm thay đổi nguy cơ: giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
4) Ngăn ngừa các tác động: Thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động
của biến đổi khí hậu và bất ổn của khí hậu.
5) Thay đổi cách sử dụng: biến đổi khí hậu khiến các hoạt động kinh tế không
thể thực hiện thì có thể thay đổi cách sử dụng.
6) Thay đổi/chuyển địa điểm: thay đổi/chuyển địa điểm của các hoạt động
kinh tế.
7) Nghiên cứu: phát triển công nghệ mới và phương pháp mới về thích ứng.
8) Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Phổ biến kiến thức
thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc
thay đổi hành vi.
Dựa trên kinh nghiệm của các nước đã triển khai kế hoạch quốc gia và thực
tiễn ở Việt Nam, có thể đề xuất một số nhóm giải pháp như sau.
3.1. CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH
Vấn đề biến đổi khí hậu vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài, phức tạp
và liên quan đến tất cả các ngành, trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Vì thế, để
thực hiện được mục tiêu ứng phó và giảm nhẹ tác động tiêu cực của biến đổi khí
hậu đối với nước ta, việc xây dựng các chương trình quốc gia và công tác chỉ
đạo thực hiện cần được nghiên cứu, trao đổi ở tất cả các cấp, các vùng, các lĩnh
vực (tài nguyên nước, đất, môi trường và các hệ sinh thái…) và trong tất cả các
ngành, quan trọng, nhất là năng lượng, giao thông, công nghiệp, nông lâm
nghiệp, thuỷ sản, du lịch, tài nguyên và môi trường.
49
Hộp 4. Nội dung, nhiệm vụ đề cương Chương trình hành động giảm thiểu và thích
ứng với biến đổi khí hậu ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT)
Mục tiêu:
- Dự báo các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các lĩnh vực của ngành NN&PTNT.
- Nâng cao nhận thức của các bên liên quan về biến đổi khí hậu.
- Xây dựng chính sách chiến lược và giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, chú trọng
các giải pháp công trình công trình và phi công trình, giải pháp sinh học và phi sinh
học...nhằm bảo tồn tài nguyên di truyền, phát huy hiệu quả và an toàn hạ tầng cơ sở nông
nghiệp và nông thôn, góp phần đảm bảo an ninh luong thực và phát triển bền vững.
- Ðẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực điều phối và năng lực khoa học công
nghệ góp phần giảm thiểu và thích nghi với biến đổi khí hậu.
- Ðề ra những nhiệm vụ cụ thể, xác định trách nhiệm của Bộ, nghành, địa phương và cộng
đồng trong việc xây dựng và thực hiện chương trình hành động giảm thiểu và thích ứng
với biến đổi khí hậu. Xác định nguồn vốn và cơ chế quản lý vốn.
* Nông nghiệp và nông thôn:
i) Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu và biện pháp thích ứng; ii) Quy hoạch các vùng dân
cư ven biển; iii) Chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phương thức trồng lúa và các loại cây
trồng khác, chọn tạo giống chịu hạn, chịu lũ và chịu mặn; iv) Nghiên cứu phương pháp
bảo tồn phù hợp thông qua sử dụng; v) Cải tiến phương pháp xử lý chất hữu cơ; vi) Tuyên
truyền nâng cao nhận thức cộng đồng trong chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
* Lâm nghiệp:
i) Nghiên cứu cơ sở khoa học đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với vác hệ sinh
thái rừng; ii) Nghiên cứu các loại cây trồng phù hợp, các chính sách chi trả cho dịch vụ
môi trường; iii) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cảnh báo; iv) Quy hoạch sử dụng đất
bền vững, quy hoạch hợp lý 3 loại rừng, quy hoạch các khu bảo tồn; v) Phát triển, quản lý
bền vững 16,2 triệu ha rừng, trồng rừng phòng hộ ven biển.
* Thuỷ lợi:
i) Nâng cấp hệ thống đê và công trình bảo vệ những khu vực quan trọng; Trồng rừng bảo
hộ đê biển; ii) Tăng cường năng lực dự báo; iii) Ứng dụng các giải pháp khoa học công
nghệ phù hợp trong quy hoạch, vận hành và quản lý công trình; iv) Đề xuất các giải pháp
tiết kiệm nước; v) Tăng cường công tác quản lý rủi ro, thiên tai, quản lý ô nhiễm.
* Thuỷ sản:
i) Xây dựng hệ thống thông tin nghề cá; ii) Xây dựng đê quai mới ở những nơi cần thiết;
iii) Xây dựng chính sách hỗ trợ ngư dân, xác định ngư trường mới. Đẩy mạnh thực hiện
chính sách tài chính tín dụng cho người nghèo; iv) Tăng tính thích ứng và phục hồi cho
người dân địa phương; v) Khai thác và tận dụng kiến thức và kinh nghiệm bản địa; vi)
Nâng cao nhận thức cho các cấp, đào tạo nguồn nhân lực; vii) Xây dựng các khu bảo tồn,
tạo giống mới, tái tạo nguồn lợi, hệ thống phòng trừ dịch bệnh.
Nguồn: Hội thảo “Hướng tới Chương trình Hành động của Ngành Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu”, Hà Nội, 1/2008
50
Các ngành và các địa phương liên quan, nhất là các vùng đồng bằng ven biển, cần
xem xét và tính đến các thông tin về biến đổi khí hậu và nước biển dâng vào các quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn như lồng ghép các chiến lược
quản lý tổng hợp vùng ven biển. Quản lý tổng hợp vùng ven biển là giải pháp được
nhiều quốc gia phát triển có biển áp dụng, coi đây là biện pháp tích ứng rất phù hợp để
đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao. Việc áp dụng và phát huy những
thành quả về quản lý tổng hợp vùng ven biển chắn chắn sẽ có những hiệu quả tích cực
đối với Việt Nam-quốc gia đang phát triển có tới hơn 3.000km đường bờ biển.
Các quy hoạch về hoạt động phát triển vùng ven biển phải không được làm tăng
tính tổn thương trước mực nước biển dâng. Nhà nước cần xem xét các kế hoạch di dời,
tái định cư, xây dựng các biện pháp ứng phó khẩn cấp.trong các điều kiện thiên tai do
biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Các chính sách hỗ trợ cho các vùng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, đặc biệt là đối với người nghèo. Quy hoạch chiến lược đê biển ứng phó
với nước biển dâng. Quy hoạch nuôi trồng thuỷ hải sản. Xây dựng các mô hình thích
ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu tuỳ theo từng khu vực như vùng Đồng
bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Đông
Nam Bộ… dựa trên đặc điểm địa lý, tự nhiên, dân cư, xã hội, tình hình phát triển kinh
tế - xã hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong các năm tới của các địa
phương, cũng như những giải pháp mà địa phương đã thực hiện để hạn chế hậu quả
xấu của biến đổi khí hậu. Quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên nước điều hòa, chia sẻ và
cân đối nguồn nước giữa các lưu vực, có kế hoạch phù hợp trong quản lý hoạt động
của các hồ chứa nước ở thượng lưu nhằm điều tiết dòng chảy cho vùng hạ lưu, hạn chế
xâm nhập mặn.
Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên & Môi trường nên phối hợp với các bộ, ngành
liên quan thực hiện Xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật, tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện cho phù hợp Công ước về Biến đổi khí
hậu, Nghị định thư Kyoto và Cơ chế Phát triển sạch (CDM). Trong thời gian tới, biến
đổi khí hậu ngày càng lớn dẫn đến thiên tai tăng, cho nên Việt Nam cần phải tăng
cường hành động hơn nữa trong lĩnh vực này, các cơ quan chức năng trong nước phải
phối hợp chặt chẽ với nhau, với các tổ chức quốc tế để thực hiện tốt những biện pháp
lồng ghép ứng phó với diễn biến của khí hậu, đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý Nhà
nước liên quan đến biến đối khí hậu, xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, văn
bản quy phạm pháp luật, tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện cho phù hợp Công ước về
biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và CDM; hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật hệ
thống trạm quan trắc, tăng cường công tác giám sát biến đối khí hậu; tăng cường công
tác điều tra cơ bản tình hình biến đổi khí hậu, xây dựng Kịch bản biến đối khí hậu thế
kỷ 21 tại Việt Nam với độ tin cậy cao làm cơ sở cho việc đánh giá tác động của biến
đối khí hậu và xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đối khí hậu;
xây dựng, tổ chức và điều phối các hoạt động thực hiện Công ước Khí hậu, Nghị định
thư Kyoto và CDM trong các ngành năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây
dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý chất thải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội tại Việt Nam; củng cố và hoàn thiện cơ quan đầu mối thực hiện Công ước Khí
51
hậu, Nghị định thư Kyoto, Công ước Viên về việc bảo vệ tầng ôzôn và Nghị định thư
Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn tại Việt Nam.
3.2. KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Các kết luận khoa học chính là cơ sở cho việc hoạch định các quy hoạch, chiến lược
và chính sách cho sự phát triển bền vững. Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên & Môi
trường đã thành lập các nhóm chuyên gia bao gồm các cán bộ, chuyên gia, nhà khoa
học của các đơn vị có liên quan của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành,
cơ quan, tổ chức, viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm nghiên cứu liên quan
trong nước để thực hiện các nghiên cứu, dự án về biến đổi khí hậu; xây dựng các Kịch
bản biến đổi khí hậu tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2070; xây dựng và đánh giá các
phương án giảm nhẹ khí nhà kính và đề xuất các biện pháp ứng phó với biến đổi khí
hậu, hoàn thành và gửi Thông báo quốc gia lần thứ nhất về biến đổi khí hậu của Việt
Nam cho Ban Thư ký Quốc tế UNFCCC; kiểm kê khí nhà kính ở Việt Nam và đang
thực hiện Thông báo Quốc gia lần thứ hai. Trong thời gian tới, Nhà nước cần đầu tư
thích đáng cho các chương trình nghiên cứu nhằm giảm nhẹ và thích ứng với những
tác động của biến đổi khí hậu, các chương trình nghiên cứu và đánh giá tính tổn
thương của các hệ sinh thái, các vùng ven biển, xây dựng các kịch bản ngập lụt ở các
vùng cửa sông, ven biển thấp, các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam cho giai
đoạn 2010-2100. Các chương trình cần được kết nối với các chương trình quốc tế và
khu vực để có thể tiếp nhận thành quả nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu có uy tín
trên thế giới và tiếp nhận sự trợ giúp quốc tế. Cần xây dựng các cơ chế hợp tác về
chuyển giao công nghệ nhằm thúc đẩy R&D, xóa bỏ những rào cản trong quá trình
chuyển giao công nghệ như thủ tục, quyền sở hữu trí tuệ, tài chính…
Tiếp tục nghiên cứu các ảnh hưởng của những biến động thời tiết, gián tiếp tác động
đến nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn, tăng xói lở do ảnh hưởng do nhiệt độ,
lượng mưa, bão và lũ. Nghiên cứu về ảnh hưởng của ENSO đến chế độ thời tiết và đặc
trưng khí hậu ở nhiều vùng của Việt Nam.
Tiếp tục triển khai nghiên cứu khoa học và hoàn thiện công nghệ theo hướng khai
thác và ứng dụng công nghệ mới trong các lĩnh vực dự báo bão, sóng biển, dự tính
thuỷ triều, nước dâng do bão. Tăng cường đổi mới và nâng cấp trang thiết bị phục vụ
cho các mô hình dự báo để tạo ra các thông tin đủ tin cậy có thể phục vụ cho công tác
xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới
trong khai thác ảnh vệ tinh, viễn thám trong giám sát và quan trắc môi trường biển.
Nâng cấp và mở rộng hệ thống trạm quan trắc, cảng dự tính thuỷ triều, trạm khí tượng
hải văn ở vùng ven biển và hải đảo.
Nghiên cứu khoa học công nghệ mới không chỉ giúp giảm phát thải khí gây hiệu
ứng nhà kính (có tác động lâu dài) mà còn giúp kịp thời, chủ động ứng phó với quá
trình biến đổi của khí hậu, giảm tác động bất lợi đến đời sống kinh tế - xã hội, đồng
thời tận dụng được những cơ hội thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế mới mà môi
trường mang lại.
52
Để ứng phó với mực nước biển đang dâng cao, bên cạnh việc quy hoạch lại đất đai,
tài nguyên nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường và triển khai áp dụng các công
nghệ quan trắc, giảm thiểu ô nhiễm, phòng chống và cảnh báo thiên tai phải thực hiện
đo đạc độ lún tại các vùng nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng bởi mực nước biển. Kết hợp đo
được độ lún và đo mức nước biển dâng để xây dựng một kịch bản chuẩn cho riêng
Việt Nam.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nghiên cứu và tìm ra các giống cây trồng mới chịu
mặn và hạn hán, tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên nước, triển khai các hệ thống
tưới tiêu tiết kiệm nước và phân bổ lượng nước hợp lý. Thay đổi cơ cấu cây trồng
nông nghiệp thích ứng với môi trường.
Nghiên cứu tiêu chuẩn đê biển và giải pháp kỹ thuật đê biển. Nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ phục vụ củng cố, bảo vệ các tuyến đê, kè biển và cửa sông, xử lý xói
lở. Củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, đê sông tạo thành các tuyến đê khép kín, kết
hợp với làm đường giao thông vành đai ven biển nhằm bảo vệ dân sinh, cơ sở hạ tầng
phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Tăng cao các tiêu chuẩn thiết
kế của các hệ thống đê này để có thể chống chịu được với bão lớn (cấp 9-12) kết hợp
với triều cường và có tính đến tương lai nước biển dâng. Trồng cây dọc theo các tuyến
đê để chắn sóng và gia cố đê.
3.3. TÀI CHÍNH
Nhiều quốc gia trên thế giới có rất nhiều nguồn quỹ phục vụ cho các cơ chế làm
sạch toàn cầu. Việt Nam chưa dành đủ sự quan tâm cần thiết và chưa có kế hoạch tốt
đối phó với vấn đề này. Do đó, chưa tận dụng được nguồn vốn toàn cầu sẵn có. Theo
các chuyên gia nước ngoài, hiện nay Việt Nam đang bị tụt lại so với các nước trong
khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan trong việc tiếp cận các nguồn quỹ dành
cho các hoạt động chống lại ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và phát triển sạch. Để tiếp
cận những nguồn vốn đó, Việt Nam cần có một kế hoạch tốt và một cam kết mạnh mẽ.
Xây dựng danh mục các dự án và hành động ưu tiên để đầu tư.
Trong lĩnh vực môi trường, đã có nhiều hình thức tài chính hỗ trợ cho việc triển
khai các hoạt động bảo vệ môi trường như Chương trình Tín dụng xanh do các ngân
hàng tại Việt Nam cung cấp, Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam, Quỹ Tín dụng Xanh
do Chính phủ Thuỵ Sĩ tài trợ, Quỹ DANIDA của Chính phủ Đan Mạch, Chính phủ Hà
Lan, Quỹ Môi trường toàn cầu, Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra còn có rất nhiều chương
trình, dự án hợp tác quốc tế khác triển khai các hoạt động nghiên cứu và thích ứng với
biến đổi khí hậu huy động từ nhiều nguồn phi chính phủ, tư nhân khác. Cần đa dạng
hóa các hình thức cho vay, hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất ưu đãi, tài trợ hoặc cho vay
có hoàn trả; thế chấp tài sản để thực hiện các chương trình, đề án, dự án thử nghiệm,
nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
xóa đói giảm nghèo...Trong tương lai, Việt Nam có thể thành lập các quỹ thích ứng
với biến đổi khí hậu để tài trợ cho các dự án về thích ứng với biến đổi khí hậu.
Gần đây, việc nghiên cứu các tác động của biến đổi khí hậu ở các vùng ven biển
miền Trung và hai Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đã được khởi
53
xướng với nhiều dự án nghiên cứu bắt đầu triển khai. Cần tiếp tục triển khai nhiều dự
án thích ứng với biến đổi khí hậu ở những nơi phải hứng chịu nhiều thiệt hại và người
dân còn nghèo. Các hoạt động của dự án nên tập trung ở cấp địa phương và được gắn
kết hoặc lồng ghép với những dự án hỗ trợ đang được triển khai của các nhà tài trợ và
các Tổ chức phi chính phủ quốc tế dành cho các các cộng đồng về lĩnh vực sẵn sàng và
ứng phó với hạn hán, lũ lụt và bão với mục tiêu là tạo cho người dân nguồn sinh kế
bền vững.
Các giải pháp tài chính mới có thể giúp con người đối mặt với các rủi ro do biến đổi
khí hậu như bảo hiểm, bảo trợ xã hội, y tế và giáo dục. Mức bảo hiểm xã hội ở các
nước giàu thường rất cao, trong khi người nghèo ở các nước đang phát triển đều không
có. Bảo hiểm rủi ro do biến đổi khí hậu có thể là một tấm lá chắn giúp những người bị
ảnh hưởng có thể đương đầu với rủi ro mà không làm mất đi các cơ hội phát triển.
3.4. NÂNG CAO NĂNG LỰC, GIÁO DỤC VÀ TRUYỀN THÔNG
Biện pháp quan trọng khác nữa là cần nâng cao nhận thức của cộng đồng về khí hậu
và biến đổi khí hậu ở Việt Nam để có cách thích ứng với biến đổi khí hậu (sống chung
với bão, lũ,...). Với người dân địa phương ở một số nơi dễ tổn thương nhất thì vấn đề
biến đổi khí hậu vẫn là một chuyện quá xa vời, vì vậy cần tăng cường tổ chức các buổi
nói chuyện, trao đổi cho người dân để họ nhận thức được khí hậu không phải là vấn đề
‘hàn lâm’ mà thực tế nó có tác động rất lớn đến cuộc sống, là mối đe dọa trực tiếp đến
sức khỏe và cuộc sống của con người. Qua những hoạt động này, nhận thức và sự hiểu
biết của người dân về các vấn đề biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ tăng lên và góp phần
thay đổi hành vi của họ với môi trường như tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng
và tài nguyên nước, bảo vệ rừng ngập mặn, trồng và bảo vệ các loại rừng phòng hộ
ven biển…Đây có thể coi là những bước ban đầu để chuẩn bị năng lực cho người dân
ở những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất.
Các hoạt động nhằm đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà ra quản lý, các nhà
hoạch định chính sách và ra quyết định ở các cấp địa phương cũng cần được đẩy
mạnh. Củng cố năng lực để xây dựng và thực hiện các chiến lược thích ứng cho cộng
đồng thông qua phòng chống thiên tai, lồng ghép với phòng và giảm thiểu rủi ro, thiệt
hại vào các kế hoạch phát triển ở địa phương.
Nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu được xem như một trong những
chiến lược then chốt để dẫn đến chuyển biến của toàn xã hội sẵn sàng cho những hành
động ứng phó. Chúng ta có thể trông đợi vào công nghệ, chính sách, nhưng điều quan
trọng hơn cả là cần phải có những thay đổi trong lối sống và hành vi. Xây dựng một
kênh truyền thông riêng nhằm cung cấp thông tin đầy đủ nhất về các vấn đề biến đổi
khí hậu nghiêm trọng là một giải pháp đối với nước ta. Truyền thông báo chí sẽ đóng
vai trò quan trọng để nâng cao nhận thức của công chúng cũng như tác động đến các
nhà hoạch định chính sách. Báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng như
truyền hình cũng cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác tuyên truyền về
bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Các báo nên có chuyên mục về riêng về
các vấn đề môi trường liên quan đến biến đổi khí hậu, trong khi truyền hình và phát
54
thanh đã có các chuyên mục này. Các bản tin dự báo cũng cần được đưa đến công
chúng một cách nhanh chóng và chính xác hơn. Ngoài ra, cũng cần xem xét việc đưa
các vấn đề về biến đổi khí hậu vào các chương trình giảng dạy để học sinh nắm bắt
được những kiến thức cơ bản từ đó có thái độ và hành động đúng với môi trường và tài
nguyên thiên nhiên. Các trường học cũng có thể tổ chức các hoạt động ngoại khóa tìm
hiểu về thiên nhiên như tổ chức các hình thức tham quan, cắm trại tại các khu bảo tồn,
tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường và đưa ra các sáng kiến về bảo vệ nguồn
nước, biển, bảo vệ rừng và các hệ sinh thái ven biển, phát động các chiến dịch trồng
cây, trồng rừng phòng hộ...
3.5. HỢP TÁC QUỐC TẾ
Việt Nam cần yêu cầu các nước phát triển hỗ trợ tài chính và chuyển giao công
nghệ mới, thân thiện với môi trường nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đồng
thời sẵn sàng phối hợp với các nước phát triển trong việc xây dựng và thực hiện các dự
án CDM tại Việt Nam phục vụ phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính.
Bộ Tài nguyên&Môi trường cần tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc
tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu nói chung và cơ chế phát triển sạch để đạt được các
thỏa thuận hợp tác. Việt Nam cũng cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác tài chính, công nghệ
và xây dựng năng lực trong thời kỳ hậu Kyoto, tích cực tham gia các cuộc hội thảo,
hội nghị và đàm phán quốc tế về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu.
Xây dựng các danh mục các dự án thuộc lĩnh vực biến đổi khí hậu để kêu gọi tài trợ
và tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp và các nước phát triển.
Hợp tác quốc tế trong đào tạo, nâng cao năng lực thông qua đầu tư trực tiếp, tư vấn và
xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm.
Ngoài việc chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, cập nhật và xử lý
kịp thời các thông tin về biến đổi khí hậu, nước biển dâng, Bộ Tài nguyên & Môi
trường đồng thời cần tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế về biến đổi khí hậu
để nghiên cứu xây dựng Chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu và
nước biển dâng của Việt Nam.
55
KẾT LUẬN
• Các nguyên nhân gây biến đổi khí hậu rất đa dạng và phức tạp, do cả tự nhiên và
do con người. Nhưng rõ ràng là con người là tác động đẩy nhanh quá trình này
trong vài thập kỷ qua. Theo các kịch bản biến đổi khí hậu trong Báo cáo đánh giá
lần thứ 4 của IPCC thông qua tháng 12/2007 tại Bali, Inđônêxia: nhiệt độ trung
bình toàn cầu vào cuối thế kỷ này có thể tăng thêm 0,6oC và mực nước biển dâng
từ 0,18 đến 0,38m (kịch bản thấp) và tăng thêm 4oC, mực nước biển dâng từ 0,26
đến 0,59m (kịch bản cao). Cho dù mọi nỗ lực cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng
nhà kính sẽ được tiến hành, nhưng việc giảm ngay lượng khí thải như dự đoán
cũng chưa thể bù đắp nổi những tác động do sự biến đổi khí hậu cho đến ít nhất là
năm 2040. Về lâu dài, biến đổi khí hậu là mối đe doạ hết sức to lớn đối với sự phát
triển con người.
• Nhằm hạn chế tốc độ biến đổi khí hậu, cần định hướng phát triển toàn cầu theo lộ
trình hướng tới một nền kinh tế xanh-sạch, ít cácbon; cắt giảm khí thải nhà kính
gây nóng lên toàn cầu chủ yếu ở các lĩnh vực năng lượng, công nghiệp và giao
thông; cắt giảm trợ cấp cho các nguồn năng lượng hóa thạch; tăng cường sử dụng
hiệu quả năng lượng, nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới, thân thiện với
môi trường.
• Biến đổi khí hậu đã gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản và tài nguyên thiên
nhiên và huỷ hoại môi trường. Một trong hệ quả rõ nhất của biến đổi khí hậu là
nước biển dâng cao và đây thực sự là mối lo ngại trong tương lai đối với các vùng
thấp và nằm dưới mực nước biển, các quốc đảo và quốc gia có biển, đặc biệt là các
nước đang phát triển và kém phát triển. Trong thế kỷ này, hàng trăm triệu người có
thể phải di dời do mực nước biển dâng cao. Thế giới sẽ phải đối mặt với nguy cơ
này trên phạm vi rộng lớn hơn. Nhiều thành phố của các quốc gia ven biển đang
đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm - hậu quả trực tiếp của sự tan băng ở
Bắc và Nam cực. Nhằm hạn chế những tổn thất, cần phải quy hoạch và đưa ra các
giải pháp thích ứng ngay từ bây giờ. Một số nước có thể chỉ bị ảnh hưởng ít, trong
khi một số nước khác có thể bị tác động nặng nề, đe doạ đến tính toàn vẹn lãnh thổ.
Muốn ngăn chặn những mối đe doạ này, đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế chặt chẽ
hơn bao giờ hết.
• Các nước giàu đã nhận thức được việc thích ứng là yêu cầu tất yếu. Nhiều nước đã
đầu tư rất lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng và chiến lược đối phó trong tương lai.
Các nước đang phát triển đối mặt với thách thức nghiêm trọng hơn do khó khăn về
tài chính và thiếu năng lực. Các nước phát triển cần cam kết và tăng cường hỗ trợ
tài chính dưới dạng các quỹ giảm nhẹ biến đổi khí hậu và chuyển giao công nghệ
cho các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển cũng cần nâng cao năng lực
và tạo điều kiện cho những đối tượng dễ bị tổn thương thích ứng với biến đổi khí
hậu thông qua đầu tư vào bảo hiểm, bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục.
• Tác động của biến đổi khí hậu không trừ đất nước nào, dù cho nước đó không góp
nhiều vào nguyên nhân gây biến đổi khí hậu. Theo đánh giá, Việt Nam là nước
56
đang phát triển nằm trong nhóm nước dễ bị tổn thương trước mực nước biển dâng
cao. Hậu quả của mực nước biển dâng làm hệ thống đê biển không thể chống chọi
được với nước dâng do bão như thiết kế dẫn đến nguy cơ vỡ đê. Mực nước biển
dâng cao làm thay đổi chế độ động lực của sóng và dòng chảy ven bờ, làm thay đổi
hình thái bờ biển và sông, gây xói lở bờ và hệ thống đê biển. Mực nước biển dâng
cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra biển sẽ giảm, kéo theo mực nước các con
sông trong nội địa dâng lên, kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn
sẽ đe dọa sự an toàn của hệ thống đê sông, thống đê bao và bờ bao. Tất cả nguy cơ
này đe doạ đến sự tồn tại của các cộng đồng ven biển, các hệ sinh thái và các cơ sở
hạ tầng có tầm quan trọng quốc gia. Bởi vậy, cần xác định và lựa chọn các kịch bản
biến đổi khí hậu và nước biển dâng đủ độ tin cậy và phù hợp với Việt Nam để từ đó
có những biện pháp giảm thiểu và thích ứng phù hợp.
• Nhiều hoạt động kinh tế đang được phát triển ở dải ven biển Việt Nam đã mang lại
những lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc dân, nhưng đồng thời cũng khiến Việt
Nam đang phải đối mặt với một loạt các vấn đề môi trường biển và ven biển, một
phần do hậu quả của sức ép dân số và kinh tế, khả năng quản lý và sử dụng kém
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cộng với những ảnh hưởng do sự biến động
khí hậu toàn cầu, tăng các loại thiên tai như bão, lũ, xâm nhập mặn, triều
cường…Việt Nam đã sớm có sự chuẩn bị nhằm đối phó với tình hình bằng cả khoa
học kỹ thuật và các biện pháp xã hội. Thách thức lớn nhất hiện nay của Việt Nam
trong tình hình biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp là Việt Nam cần đưa ra các
chiến lược, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với sự tiến triển
nhanh chóng của biến đổi khí hậu toàn cầu, xem vấn đề biến đổi khí hậu là một
nhân tố quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sớm hoàn
thiện và đưa ra Chương trình mục tiêu quốc gia đối phó với biến đổi khí hậu trong
năm 2008.
• Để làm giảm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, cần xác
định rõ hai mục tiêu giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu và chiến lược thích ứng
với biến đổi khí hậu với một trong những hậu quả quan trọng nhất đối với Việt
Nam là nguy cơ nước biển dâng cao. Các giải pháp thực hiện hai mục tiêu này có
thể rất đa dạng, như tăng cường các hoạt động nghiên cứu gồm đo đạc, đánh giá
hiện tượng biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, từ đó đưa ra các chính
sách và kế hoạch hành động, tổ chức và thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu
sự biến đổi khí hậu và các tác động bất lợi đến con người và môi trường, xác định
và tổ chức các hành động thích ứng để đối phó với biến đổi khí hậu và mực nước
biển dâng cao. Trong các giải pháp chiến lược này, tăng cường khoa học công nghệ
và nâng cao nhận thức cho cộng đồng cần được chú trọng.
Nhóm biên soạn: Ths. Nguyễn Thị Ngọc Hoàn
Nguyễn Phương Dung
Nguyễn Minh Phượng
57
Các tài liệu tham khảo chính
1. Alex de Sherbinin, Andrew Schiller, Alex Pulsipher, Climate change and the risks of
settlement in the low elevation coastal zone, Magazine of the International Human
Dimensions Programme on Global Environmental Change, October 2007, Issue 2.
2. Coleen Vogel, Three Cities and Their Vulnerabilities to Climate Hazards, Magazine
of the International Human Dimensions Programme on Global Environmental
Change, Issue 2, October 2007 ·
3. Vũ Thanh Ca, Nguyễn Xuân Hiển, Nguyễn Xuân Đạo, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn
Tân Được, Nguyễn Thanh Tâm, Các kết quả đánh giá về khả năng xảy ra sóng thần
trên các vùng bờ biển ở Việt Nam, Hội thảo “Xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sóng
thần cho các vùng bờ biển Việt Nam”, Hà Nội, tháng 8/2007
4. Nguyễn Quang Cầu, Sự truyền triều và xâm nhập mặn Đồng bằng sông Cửu Long và
xu thế xâm nhập sâu của chúng, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc
gia Tp. Hồ Chí Minh, Tập san năm 2005,
5. National Climate Change Programme, People’s Republic of China, 2007.
6. National Adaptation Programme of Action (NAPA), Government of the People’s
Republic of Bangladesh, November 2005,
7. Y. D. Chen, Q. Zhang, T. Yang, C. Xu, X. Chen, and T. Jiang, Behaviors of extreme
water level in the Pearl River Delta and possible impacts from human activities,
Hydrology and Earth System Sciences Discussions, Shanghai, 5 December 2007.
8. Fan Daidu, Li Congxian, Complexities of China’s Coast in Response to Climate
Change, Advances in Climate Change Research, Article ID: 1673-1719 (2006)
9. Md. Golam Mahabub Sarwar, Impacts of Sea Level Rise on the Coastal Zone of
Bangladesh, Lund University International Masters, Programme in Environmental
Science, Nov. 2005
10. GS.TS Phan Nguyên Hồng, Ảnh hưởng của nước biển dâng đến hệ sinh thái rừng
ngập mặn và khả năng ứng phó, Tạp chí Biển, tháng 7+8/2007.
11. PGS.TS Lê Bắc Huỳnh, Cục Quản lý tài nguyên Nước, Thực trạng suy giảm nguồn
nước ở hạ lưu các lưu vực sông và những vấn đề đặt ra đối với quản lý, Tạp chí Khí
tượng thủy văn, 5/2007
12. IPCC, Climate Change 2007: Synthesis Report, 2007, www.ipcc.ch/pdf/assessment-
report/ar4/syr/ar4_syr_spm.pdf
13. Gs.TSKH Nguyễn Đức Ngữ, Quá trình biến đổi khí hậu, Tạp chí Khí tượng thuỷ văn,
tháng 11/2007
14. John Pilgrin, Tác động của mực nước biển dâng đến các sinh cảnh quan trọng ở Việt
Nam, Báo cáo tham luận Ngày đa dạng sinh học quốc tế tại Việt Nam, Hà Nội, 5/2007
58
15. John Church, Sea-level rise and global climate change, World Climate Research
Programm, 02/2008
16. Ths. Nguyễn Thị Phương, Phân viện Khí tượng Thủy văn &Môi trường phía Nam,
Một số nét về mặn vùng hạ lưu sông Sài Gòn-Đồng Nai, Tạp chí Khí tượng thuỷ văn,
12/2006
17. Robert J. Nicholls, OECD Workshop on the Benefits of Climate Policy: Improving
Information for Policy Makers Case study on sea-level rise impacts, Dec.2003
18. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đinh Văn Huy, Bùi Văn Vượng, Các thuỷ vực ven
bờ biển Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, tháng 7/2007, No.1, trang
64.
19. Shouye Yang, Congxian Li, Daidu Fan, Shuguang Liu, Guozhong, Wang, Dejie
Wang, Baohua Li. Impacts of climate changes on Chinese coastal zones and the
adaptation strategy. In abstract of “Climate Change: Building the Adaptive Capacity:
an international conference on adaptation science, management and policy options”.
Yunnan Province, China, May 17-19, 2004. p33
20. Zhu Jianrong, Wu Hui, Shen Huantitng, Impact of the three gorges dam and project
pumping water from the changjiang river into north china on the saltwater intrusion
in the changjiang estuary, State Key Laboratory of Estuarine and Coastal Research,
East China Normal, University, Shanghai 200062
21. Susmita Dasgupta, The Impact of Sea Level Rise on Developing Countries: A
Comparative Analysis, World Bank, 2007
22. Wen Ping, Yao Zhangmin, Yang Xiaoling, An Effect Analysic of the Pearl River
Emergency Water Transfer Project for Repelling Saltwater Intrusion and
Supplementing Freshwater, 2005 www.zwsw.gov.cn/
23. Báo cáo Phát triển Con người 2007-2008: Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu: Đoàn
kết nhân loại trong một thế giới phân cách, UNDP 2007
24. Biến đổi khí hậu - những hiểm hoạ đang đe doạ Việt Nam, Lao động 30/12/2007.
25. Đê biển xuống cấp nghiêm trọng, Thanhnien online, 25/3/2008.
26. Kỷ yếu Hội thảo Hướng tới Chương trình Hành động của Ngành Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, Hà Nội, 1/2008.
27. Nghị định thư Kyoto: Cơ chế phát triển sạch và vận hội mới, Văn phòng dự án Hợp
tác tổ chức và đối thoại quốc gia, Liên minh châu Âu-châu Á về sự tăng cường tham
gia của Việt Nam, Lào và Campuchia vào Cơ chế Phát triển sạch, 4/2005.
28. Nỗi lo hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, Cục Quản lý Tài
nguyên nước, 25/3/2008.
29. Tài liệu Hội nghị về Biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam,
2/2008.
30. Thông tin về thiên tai ở Việt Nam, Cục quản lý đê điều và phòng chống lụt bão trung
ương, www.ccfsc.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TL05_2008R_2.pdf