MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I : Lí LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT
1.1. Khái niệm, đặc điểm của lói suất
1.1.1. Khỏi niệm1.1.2. Đặc điểm
1.2. Phõn loại và một số phõn biệt về lói suất
1.2.1. Phõn loại lói suất
1.2.1.1. Theo tớnh cạnh tranh của cụng cụ nợ
1.2.1.2. Theo nghiệp vụ kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.2.1.3. Phõn loại theo thời gian
1.2.2. Một số phõn biệt về lói suất
1.2.2.1. Lói suất thực - lói suất danh nghĩa
1.2.2.2. Lói suất - Lợi tức
1.3. Cỏc nhân tố ảnh hưởng đến lói suất
1.3.1. Tác động của cung – cầu tiền vay
1.3.2. Lạm phỏt kỳ vọng
1.3.3. Đầu tư
1.3.4. Thuế thu nhập
1.3.5. Ngõn sỏch Chớnh phủ
1.3.6. Cỏc yếu tố khác của đời sống xó hội
1.4. Vai trũ của lói suất
1.4.1. Vai trũ vĩ mụ
1.4.1.1. Lói suất là cụng cụ điều tiết vĩ mụ
1.4.1.2. Lói suất cú vai trũ tớch cực trong kiềm chế lạm phỏt
1.4.1.3. Ảnh hưởng của lói suất đến đầu tư và tiết kiệm
1.4.2. Vai trũ vi mụ
1.4.2.1. Lói suất là yếu tố thỳc đẩy các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả
1.4.2.2. Lói suất là cụng cụ để cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng .
1.5. Một số chớnh sỏch lói suất trong nền kinh tế thị trường
1.5.1. Chớnh sỏch lói suất cố định
1.5.2. Chớnh sỏch lói suất trần
1.5.3. Chớnh sỏch tự do húa lói suất
1.5.4. Chớnh sỏch lói suất ưu đói
14
CHƯƠNG II : TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng chớnh sỏch lói suất và tỏc động đối với nền kinh tế Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn 1986 – 1994
2.1.2. Giai đoạn 1994 – 1997
2.1.3. Giai đoạn 1998 – 1999
2.1.4. Giai đoạn 1999 – 2000
2.1.5. Giai đoạn từ 2000 đến nay
2.2. Những hạn chế của chớnh sỏch lói suất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
2.3. Một số giải phỏp chớnh sỏch lói suất trong thời gian tới
2.3.1. Hoàn thiện môi trường tự do húa lói suất bằng VND
2.3.2.Nõng cao hiệu quả của cỏc cụng cụ lói suất
2.3.3. Chớnh sỏch lói suất cõn bằng
KẾT LUẬN37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay. Còn cầu vốn vay bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp khi muốn vay để đầu tư, mua nhà đất hay xây dựng nhà máy... Vì vậy, đầu tư là nguồn gốc làm phát sinh nhu cầu về vốn vay. Có nhiều tác nhân ảnh hưởng đến cung - cầu vốn vay qua đó tác động đến lãi suất
1.3.2. Lạm phát kỳ vọng
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực tế + tỷ lệ lạm phát
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó lãi suất sẽ có xu hướng tăng lên và ngược lại. Lạm phát tăng, công chúng chuyển phần tiết kiệm của mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hơn; làm giảm cung vốn vay, lãi suất tăng lên. Và tương tự, ngược lại. Do đó, để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng phải tăng tương ứng.
1.3.3. Đầu tư
Đầu tư là nhân tố tác động trực tiếp đến lượng cầu vốn vay. Nhà nước khuyến khích đầu tư làm cho các doanh nghiệp vay tiền và đầu tư nhiều hơn. Từ đó làm biến đổi cầu về vốn vay, tăng lên và đường cầu dịch chuyển sang bên phải làm lãi suất tăng lên và ngược lại.
1.3.4. Thuế thu nhập
Thuế thu nhập luôn có tác động đến lãi suất giống như thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Thông thường, người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa, nên khi thuế thu nhập tăng lên làm giảm đi một phần thu nhập của những của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia chứng khoán. Khi đó lượng tiền cho vay sẽ giảm đi, làm giảm cung về vốn vay, lãi suất tăng lên và ngược lại.
1.3.5. Ngân sách Chính phủ
Tiết kiệm quốc dân = tiết kiệm tư nhân + tiết kiệm chính phủ
Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm quốc dân, cung về vốn vay giảm, làm tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, Chính phủ bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lí dân chúng về sự gia tăng lạm phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất.
1.3.6. Các yếu tố khác của đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất trên thị trường còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố về đời sống xã hội khác như: Sự đa dạng của các công cụ tài chính, sự thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế tài chính trung gian, hiệu suất sử dụng vốn và cả các biến động về kinh tế, chính trị... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất.
1.4. Vai trò của lãi suất
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế thị trường, bởi vì diễn biến của lãi suất phản ánh những động thái của thị trường tiền tệ và kinh tế vĩ mô, lãi suất tác động đến các quyết định đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng của các tác nhân trong nền kinh tế. Tư duy kinh tế hiện đại nói chung đều thừa nhận vai trò quan trọng của chính sách lãi suất như là công cụ quản lý vĩ mô nhằm đạt được cân đối kinh tế, đảm bảo việc phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Vậy, có thể khái quát via trò lãi suất qua 2 nội dung là vai trò vĩ mô và vai trò vi mô.
1.4.1. Vai trò vĩ mô
1.4.1.1. Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô
Đối với NHNN thì lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Sự biến động của lãi suất trong quá trình điều chỉnh của NHNN tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế như đầu tư, tiêu dùng, tiết kiệm, tỷ giá... qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật, miễn là họ có phương tiện thanh toán. Vì vậy bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền nghĩa là lãi suất, NHNN ở bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tác động được sự tăng trưởng nền kinh tế thông qua lãi suất. NHNN có thể làm yếu đi khả năng cho vay của các NHTM, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất, NHNN có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hay, khi muốn đẩy mạnh hoặc kìm hãm phát triển một ngành nào đó, NHNN có thể giảm hoặc tăng lãi suất cho vay để mở rộng hay thu hẹp đầu tư ở ngành này. Lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu kinh tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng tín dụng và thanh toán là công cụ của Nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào các sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có y nghĩa quan trọng đối với các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay vào công nghệ hiện đại trong thời đại hiện nay. Như vậy có thể coi lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông đặc biệt là lượng cung ứng của các ngân hàng vào lưu thông vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng. Việc mở rộng khung lãi suất hoặc tăng lãi suất trần đối với các cơ chế điều hành lãi suất cũ hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng tiền trong lưu thông và ngược lại.
1.4.1.2. Lãi suất có vai trò tích cực trong kiềm chế lạm phát
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung ứng tiền tệ, thu hẹp đầu tư, kiềm chế lạm phát.
1.4.1.3. Ảnh hưởng của lãi suất đến đầu tư và tiết kiệm
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của tới đầu tư, tiết kiệm. Có nhiều y kiến khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm. Nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô tiết kiệm của nhân dân. Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi tiền gửi vào ngân hàng càng lớn. Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi suất dương sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì có khả năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản. Nhờ đó, nguồn vốn nói chung của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên. Ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài chính.
Tóm lại, lãi suất tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế, đến sự phát triển và tăng trưởng của kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lí sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản vốn nhàn rỗi vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
1.4.2. Vai trò vi mô
1.4.2.1. Lãi suất là yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng: doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả lại đúng kỳ hạn cả vốn lẫn lãi. Vì vậy, muốn đảm bảo cho nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hoàn trả không đúng kỳ hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn). Điều này thức đẩy các doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài chính của ngân hàng kinh doanh và tổ chức tín dụng là huy động vốn để cho vay. Khi đó ngân hàng phải trả lãi cho người gửi và thu lãi của người vay. Ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lí để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và lợi nhuận cho mình.
1.4.2.2. Lãi suất là công cụ để cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng
Thời gian gần đây, NHNN Việt Nam chỉ khống chế. Trong kinh tế thị trường, do yêu cầu quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều cạnh tranh quyết liệt về sản phẩm, giá bán, phương thức phục vụ và dịch vụ bán hàng... Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các NHTM đều phải đổi mới để huy động được vốn tối đa và đẩy mạnh cho vay.
1.5. Một số chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường
1.5.1. Chính sách lãi suất cố định
Lãi suất cố định là lãi suất mà NHNN khống chế NHTM cả về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Khi đó sẽ không có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, không thúc đẩy tăng trưởng, chính phủ hoàn toàn có thể kiểm soát được lãi suất, bảo vệ được nhiều doanh nghiệp Nhà nước.
1.5.2. Chính sách lãi suất trần
Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn địng lãi suất cho vay tối đa, khuyến khích huy động vốn, khả năng kiểm soát của chính phủ tốt hơn. Chính phủ ấn định một mức lãi suất và áp đặt cho toàn bộ các ngân hàng, toàn bộ nền kinh tế.
1.5.3. Chính sách tự do hóa lãi suất
Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung. Lãi suất tăng, giảm hoàn toàn do những biến đổi trong cung – cầu về vốn vay trên thị trường. Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo.
1.5.4. Chính sách lãi suất ưu đãi
Chính sách lãi suất ưu đãi là chính sách dành cho một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính sách... với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính sách này làm người đi vay không hoặc ít chú y đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ vào những dự án không mây hiệu quả. Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và phần lớn vốn lấy từ ngân sách Nhà nước. Các đối tượng được vay vốn với lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo, các khu vực vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi... Tuy vay vốn ưu đãi tạo điều kiện cho người vay nhưng lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay.
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng chính sách lãi suất và tác động đối với nền kinh tế Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn 1986 – 1994
Trong hệ thống kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam, mọi hoạt động giao dịch tài chính chính thức đều do Nhà nước độc quyền thực hiện thông qua Ngân hàng Nhà nước (SBV). Hệ thống ngân hàng trước năm 1988 là một hệ thống đơn cấp với NHNN thực hiện chức năng của cả NHTM và NHNN. Bên cạnh đó, Nhà nước sở hữu và trực tiếp kiểm soát hai ngân hàng chuyên doanh là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Bên cạnh việc cùng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Vietcombank có chức năng cụ thể là tài trợ cho hoạt động ngoại thương và quản lý ngoại hối, còn BIDV thực hiện cấp vốn dài hạn cho các dự án cơ sở hạ tầng và công trình công cộng. Toàn bộ hệ thống ngân hàng chỉ là một công cụ để thực hiện các chính sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu tài chính của ngân sách và của các DNNN. Tín dụng chỉ định với lãi suất danh nghĩa thấp và lạm phát cao tạo ra lãi suất thực âm. Hơn thế nữa, lãi suất cho vay còn thấp hơn lãi suất tiền gửi, thể hiện chính sách trợ cấp lãi suất của chính phủ.
Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam.
Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 do Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành mở đầu cho công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, với ba nội dung cải tổ quan trọng:
− Thứ nhất là tách bộ phận quản lý quỹ ngân sách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành nên hệ thống Kho Bạc Nhà nước.
− Thứ hai là tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân hàng chuyên doanh.
− Thứ ba là thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân hàng Công Thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp Việt Nam (sau này đổi tên thành Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn) cùng với hai ngân hàng có trước đó là Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam đảm nhận chức năng kinh doanh thay cho hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
Cả bốn ngân hàng chuyên doanh (NHCD) hoạt động dưới hình thức ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực của mình cho đến năm 1990, khi giới hạn này được xóa bỏ và hệ thống NHTM ra đời theo tinh thần của Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng năm 1990. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng TMQD đều do NHNN quy định. Cũng theo quy định của NHNN, các NHTM duy trì các mức lãi suất cho vay khác nhau đối với cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại. Mức biến thiên lãi suất này thể hiện ưu tiên đầu tư vào những lĩnh vực cụ thể, thay vì phản ánh rủi ro tương đối của các dự án đầu tư. Năm 1988 cũng đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên của Việt Nam bằng quyết định của Hội đồng Bộ trưởng (9/3/1988) cho phép tất cả các tổ chức kinh tế, bao gồm cả các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, được vay tiền và huy động vốn từ công chúng. Trong thời gian này, các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên rất nhiều. Đến cuối thập niên 80, tổng số quỹ và hợp tác xã tín dụng lên tới 7.180, trong khi vào năm 1983 thì hợp tác xã tín dụng đầu tiên mới được thành lập ở miền Nam.
Cho đến cuối năm 1990, tổng số quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng chỉ còn 160. Bên cạnh sự mất mát về tiền, cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1990 còn tạo ra một tác động tâm lý sâu rộng với sự sụt giảm lòng tin nghiêm trọng của người dân đối với hệ thống ngân hàng. Một số nghiên cứu lúc đó cho rằng sự mất niềm tin này cùng với lãi suất thực âm vào lúc đó khiến rất nhiều người dân rút tiền tiết kiệm của mình và chuyển sang vàng hay đô-la Mỹ.
Lãi suất giai đoạn 1989 – 1994 (%/tháng)
2.1.2. Giai đoạn 1994 – 1997
Sau khi ban hành pháp lệnh (và các nghị định, thông tư hướng dẫn) để điều tiết hoạt động của các tổ chức tín dụng, các NHTM cổ phần (TMCP), ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng được phép thành lập và tham gia cung cấp dịch vụ tài chính. Các ngân hàng TMQD đã chuyển đổi từ những tổ chức cho vay chính sách chuyên doanh cho từng khu vực kinh tế cụ thể sang các tổ chức trung gian tài chính theo hướng thương mại hơn.
NHNN đã có những phản ứng tương đối tích cực sau cuộc đổ vỡ tín dụng bằng cách đưa ra các quy định quản lý hoạt động của ngân hàng, trao thêm quyền tự chủ cho các ngân hàng TMQD và tăng cường công tác giám sát. Lạm phát giảm mạnh xuống mức trong phạm vi kiểm soát được, khi NHNN không còn phải in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Trên lý thuyết, NHNN sử dụng một loạt các công cụ chính sách tiền tệ bao gồm lãi suất, trần tín dụng, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn và đấu thầu tín phiếu kho bạc (Phụ lục 1). Tuy nhiên, trên thực tế, mức cung tiền được kiểm soát chủ yếu bằng trần tín dụng áp đặt cho từng NHNN (bắt đầu từ năm 1994). Nói một cách khác, ngân hàng trung ương áp dụng cơ chế kiểm soát cung tiền một cách trực tiếp thay vì sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ như ở nhiều nền kinh tế thị trường.
Thực tế là việc sử dụng các công cụ gián tiếp không phát huy tác dụng trong bối cảnh của hệ thống tài chính Việt Nam lúc đó. Công cụ lãi suất là một phần không thể thiếu của hệ thống áp chế tài chính, thay vì là một công cụ để kiểm soát cung tiền. Từ năm 1990, NHNN đưa ra trần lãi suất cho vay tối đa đối với cả nội tệ và ngoại tệ, phân biệt theo khu vực kinh tế. Tức là các mức trần lãi suất khác nhau được áp dụng cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại - dịch vụ. Lãi suất tiền gửi cũng được phân biệt giữa hộ gia đình và doanh nghiệp.
Tuy vậy, theo thời gian việc điều hành chính sách lãi suất đã được cải thiện đáng kể. NHNN gắn lãi suất danh nghĩa với chỉ số giá để đảm bảo lãi suất thực dương từ năm 1992. Bắt đầu từ năm 1992, lãi suất cho vay đã được nâng lên cao hơn lãi suất tiền gửi - một yêu cầu thiết yếu cho sự hoạt động thông thường của các ngân hàng. Vào năm 1993, việc phân biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế được loại bỏ và chỉ còn được phân biệt theo cho vay đầu tư cố định và cho vay vốn lưu động. Tuy vậy, lãi suất cho vay đầu tư vốn cố định lại thấp hơn lãi suất cho vay vốn lưu động, tạo ra một cơ cấu lãi suất ngược không phù hợp. Tức là, lãi suất dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn hạn. Chính sách này làm cho các ngân hàng không hề có động cơ khuyến khích cho vay dài hạn. Mãi cho đến năm 1996, lãi suất cho vay ngắn hạn mới giảm xuống thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn. NHNN tiếp dục duy trì trần lãi suất cho vay. Từ năm 1995, NHNN cho phép các ngân hàng thương mại được tự do định mức lãi suất tiền gửi với mục tiêu tăng cường cạnh tranh trong huy động vốn.
Phụ lục 1. Các công cụ tiền tệ ở Việt Nam, 1994-1998
Trần tín dụng: Từ năm 1994, NHNN Việt Nam sử dụng trần tín dụng áp dụng cho từng ngân hàng để duy trì các chỉ tiêu tăng trưởng tổng cung tiền và tín dụng. Các mức trần ban đầu được áp dụng cho các ngân hàng TMQD, nhưng sau đó được mở rộng ra cho những ngân hàng khác. Các tiêu chí để xác định trần tín dụng cho mỗi ngân hàng không được công bố. Vào năm 1996, Chính phủ ban hành quyết định cho phép các ngân hàng được mua bán trần tín dụng của mình; tuy nhiên, cho đến năm 1998 không có giao dịch nào được thực hiện.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Từ năm 1995, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được thống nhất ở mức 10% cho tất cả các tổ chức ngân hàng (ngoại trừ quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng cổ phần nông thôn và hợp tác xã tín dụng) và các loại tiền gửi (ngoại trừ tiền gửi nội tệ có kỳ hạn từ 1 năm trở lên).
Tái cấp vốn: NHNN sử dụng phương tiện tái cấp vốn (trên cơ sở thế chấp giấy nợ có giá) để cho các ngân hàng TMQD vay. Lãi suất tái cấp vốn được thống nhất vào năm 1994. NHNN cũng cung cấp một phương tiện tái cấp vốn kỳ hạn rất ngắn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản nảy sinh trong hoạt động thanh toán bù trừ cho các ngân hàng TMQD.
Đấu thấu tín phiếu kho bạc: Bắt đầu từ giữa năm 1995, Chính phủ tiến hành đấu thầu tín phiếu kho bạc để cho phép thị trường có vai trò lớn hơn trong việc xác định lãi suất. Các tín phiếu này chủ yếu được các ngân hàng TMQD mua. Các tín phiếu và trái phiếu khác do Kho bạc Nhà nước phát hành cũng được bán cho khu vực ngoài ngân hàng.
Lãi suất: Lãi suất tiền gửi thực của cá nhân và lãi suất cho vay thực đối với cả cho vay vốn lưu động và vốn cố định được giữ khá nhất quán ở mức lớn hơn 0 trong suốt thời kỳ cải cách, và lãi suất thực của tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã lơn hơn 0 từ năm 1995. Thuế doanh thu đối với ngân hàng được loại bỏ vào năm 1995, nhưng được thay thế bằng giới hạn tối đa về thu nhập lãi suất ròng (tức là giới hạn chênh lệch lãi suất) ở mức 0,35%/tháng. Lãi suất cho vay ngắn hạn có mức trần 1%/tháng vào năm 1998.
(Nguồn: Trích từ Hộp I.2. trong báo cáo của IMF, Vietnam: Selected Issues and Statistical Annex., IMF Staff Country Report No 98/30, T4/1998)
Tuy nhiên, mức chệnh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa được phép là 0,35%/tháng. Như vậy, về một khía cạnh nào đó, các ngân hàng vẫn phải chịu cả trần lãi suất tiền gửi và cho vay, cho dù mức chênh lệch lãi suất thực tế có thể khác nhau giữa các ngân hàng tùy thuộc vào cơ cấu chi phí cụ thể. Chính sách này giúp các NHTM có thể duy trì một tỷ lệ lợi nhuận, nhưng không có lợi cho người gửi tiền. NHTG (1995) lập luận rằng đó chính là nguyên nhân giải thích cho sự tăng trưởng chậm chạp của tiền gửi ngân hàng và tỷ lệ tiền mặt cao trong tổng cung tiền. Lý do căn bản của trần lãi suất là để hạn chế vấn đề lựa chọn bất lợi; tức là hạn chế xu hướng các ngân hàng nâng lãi suất để cạnh tranh huy động vốn rồi cho vay rủi ro, một tình trạng đã xảy ra trong cuộc đổ vỡ quỹ tín dụng vào năm 1990. Tuy vậy, trong trường hợp của Việt Nam, chính sách trần lãi suất là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống áp chế tài chính (ít nhất là trong đầu thập niên 90) và kết hợp với sự chỉ định tín dụng nhằm đảm bảo các khu vực ưu tiên của chính phủ nhận được vốn vay với lãi suất vừa phải. Một minh chứng cho nhận định này là các ngân hàng có thể huy động và cho vay với lãi suất vượt trần đối với vốn huy động cho mục tiêu cụ thể. Tức là đối với những dự án đã xác định, ngân hàng có thể huy động tiền gửi với lãi suất cao hơn trần lãi suất tiền gửi, rồi cho dự án vay toàn bộ với lãi suất cho vay cao hơn lãi suất trần. Nếu ngăn chặn lựa chọn bất lợi là lý do chính yếu để áp đặt trần lãi suất thì kiểu .vốn huy động cho mục tiêu cụ thể. không bao giờ được phép.
Thập niên 90 cũng chứng kiến nỗ lực phát triển thị trường cho vay liên ngân hàng. Thị trường này được thiết lập vào năm 1993. Mục tiêu là để Ngân hàng Nhà nước có thể dựa vào đó làm căn cứ định các mức lãi suất. Tuy nhiên, lượng giao dịch trên thị trường cho vay liên ngân hàng không có xu hướng tăng ổn định do thiếu niềm tin giữa các ngân hàng (Phụ lục 2).
Thị trường tiền tệ mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc cũng bắt đầu được phát triển. Cũng như những nỗ lực phát triển thị trường khác, các đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc không tạo ra lãi suất phản ánh tín hiệu thị trường do Chính phủ đưa ra lãi suất chỉ đạo (tức là trần lãi suất) trong mỗi đợt đấu thầu.
Phụ lục 2. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng Thị trường liên ngân hàng đã được đưa vào hoạt động từ năm 1993, nhưng chưa hoàn toàn phát triển so lượng tiền trung gian còn ít, thiếu hệ thống thanh toán/thanh toán bù trừ trên phạm vi toàn quốc, và quy định hành chính đối với các mức lãi suất. Phần lớn các giao dịch trên thị trường liên quan tới tài trợ của NHNN cho các ngân hàng quốc doanh với các khoản vay không hoàn lại ở mức độ cao và tỷ lệ vốn-tài sản thấp. Thị trường ít được sử dụng như là một trung gian cho các ngân hàng để điều khiển các hoạt động cấp vốn giữa các ngân hàng này. Các vấn đề khó khăn này đang cản trở khả năng của thị trường trong việc hướng dòng vốn ngắn hạn vào hệ thống tài chính và giảm rủi ro một cách hiệu quả.
Thị trường liên ngân hàng do NHNN tổ chức và quy định. Nó có 40 thành viên, bao gồm các ngân hàng quốc doanh, cổ phần và nước ngoài. NHNN đã tuyên bố rằng Ngân hàng đảm bảo các giao dịch giữa các ngân hàng cổ phần và/hay các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nhưng không chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật của việc thanh toán.
Trên thực tế, thị trường liên ngân hàng là một thị trường tập trung. Các giao dịch liên ngân hàng được giải quyết trên cơ sở song phương và được NHNN quy định. Các bên tham gia phải có được sự phê chuẩn của NHNN đối với mỗi giao dịch, và không được lựa chọn bên kia. NHNN cũng quy định lãi suất cho mỗi giao dịch liên ngân hàng.
Nguồn: David Wong, .Việt Nam . Xem xét, đánh giá ngân hàng và thị trường trường tài chính., Bank America, Nghiên cứu Chính sách Kinh tế, Các thị trường đang nổi lên ở châu Á, 5/1996.
2.1.3. Giai đoạn 1998 – 1999
Hệ thống ngân hàng của Việt Nam không phải chịu các tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng châu Á. Chính vì vậy, trong năm 1997 và đầu năm 1998, NHNN đã không xiết chặt kiểm soát lãi suất mà thậm chí còn nới lỏng. Trần lãi suất được nâng lên để các NHTM (đặc biệt là các ngân hàng cổ phần) có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn trong năm 1997. Trong bối cảnh bắt đầu có sự cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng, quy định giới hạn chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi trong khoảng 0,35%/tháng dần dần không còn tác dụng và cuối cùng được hủy bỏ. Tuy nhiên, trái với nhiều dự đoán của chính phủ, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu tác động khá mạnh (mặc dù là gián tiếp) của cuộc khủng hoảng từ giữa năm 1997. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, chất lượng tài sản có của các ngân hàng suy giảm khi các doanh nghiệp vay nợ gặp khó khăn do tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài suy giảm. Nhiều khoản cho vay DNNN của các ngân hàng thương mại quốc doanh trở thành nợ khó đòi. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhập khẩu mở một khối lượng tín dụng thư trả chậm lớn trong hai năm 1995, 1996 và đáo hạn vào cuối năm 1997, đầu 1998. Việc nhiều doanh nghiệp trong số này không có khả năng thanh toán (mà tình hình còn trầm trọng hơn sau khi đồng nội tệ được phá giá 10% vào tháng 8 năm 1998) buộc các ngân hàng phải chịu gánh nặng chi trả cho phía nước ngoài. Một số ngân hàng cổ phần vì thế rơi vào tình trạng gần như phá sản
Từ cuối năm 1998, Chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm giảm nhẹ khó khăn tài chính cho các DNNN, trong đó bao gồm: giãn nợ từ 1-3 năm tới 1-5 năm cho các DNNN khó khăn; các DNNN có thể vay vốn mà không cần tài sản thế chấp (nhưng không áp dụng cho các doanh nghiệp tư nhân) và giảm lãi suất cho vay. Đồng thời tín dụng nội địa được hệ thống ngân hàng bơm mạnh vào nền kinh tế.
Việc hạ lãi suất và nới lỏng tín dụng đã có tác động gì?
Thứ nhất, lãi suất giảm nhưng lượng tiền gửi tại ngân hàng vẫn ổn định.
Thứ hai, tín dụng nội địa tăng không hoàn toàn do lãi suất giảm. Hầu hết sự gia tăng tín dụng nằm ở hạng mục tín dụng chỉ đạo bao gồm tín dụng cho các DNNN, chương trình mía đường, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và khắc phục hậu quả thiên tai.
Thứ ba, gia tăng tín dụng cho khu vực nhà nước trong khi tiền gửi không tăng, nên các NHTM giảm dự trữ phụ trội cũng như tăng vay vốn từ NHNN. Đặc biệt, khi dự trữ phụ trội cạn kiệt, NHNN đã ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng từ 10% xuống 7% lượng tiền gửi ngắn hạn vào tháng 2/1999.
2.1.4. Giai đoạn 1999 – 2000
Thị trường tiền tệ của Việt Nam từ cuối thập niên 80 đã trải qua một quá trình đô-la hóa mạnh mẽ, trong đó đồng đô-la Mỹ và một số đồng ngoại tệ khác ngày càng được sử dụng làm phương tiện thanh toán và phương tiện lưu trữ giá trị tài sản.
Có hai thời điểm là năm 1991 và năm 1999, ở đó tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ tăng mạnh. Nhiều ý kiến cho rằng tình trạng siêu lạm phát vào cuối thập niên 80 là nguyên nhân dẫn tới việc đô-la bắt đầu được thay thế cho tiền đồng trong giao dịch và trong tiền gửi tiết kiệm. Lượng tiền gửi ngoại tệ tăng mạnh vào năm 1991 và chiếm tới 60,1% tổng lượng tiền gửi các loại. Sau năm 1991, chính sách ổn định hóa kinh tế và lạm phát giảm mạnh đã diễn ra cùng với việc tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trong tổng lượng tiền gửi giảm xuống rồi ổn định ở mức 32-33% cho tới trước năm 1999. Báo cáo của IMF về kinh tế Việt Nam năm 2002 còn nhận định rằng hoạt động .tái trung gian hóa. lượng ngoại tệ trước đây nằm ngoài hệ thống ngân hàng, động cơ đa dạng hóa rủi ro của người tiết kiệm và tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng là những yếu tố dẫn tới gia tăng tiền gửi ngoại tệ và tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế. Tác động của khủng hoảng tài chính trong khu vực và sự phá giá đồng nội tệ trong năm 1997 và 1998 đã tạo ra đợt gia tăng tiền gửi ngoại tệ thứ hai vào năm 1999.
Giảm lãi suất trong năm 1999
Về hoạt động cho vay, chênh lệch lãi suất cho vay ngoại tệ và nội tệ vẫn được duy trì, mặc dù đã giảm xuống cùng với tỷ lệ lạm phát. Một tình trạng xảy ra trong năm 1999 là trong khi tiền gửi ngoại tệ tăng cao thì tăng trưởng dư nợ cho vay ngoại tệ lại không theo kịp. Theo quy định của NHNN, các doanh nghiệp chỉ được vay ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị hay chi trả dịch vụ phí mua từ các tổ chức nước ngoài. Hạn chế này đến tháng 9 năm 2000 mới được tháo bỏ, từ đó cho phép các ngân hàng thương mại mở rộng đối tượng khách hàng vay ngoại tệ. Tiền gửi ngoại tệ gia tăng và các NHTM chuyển số tiền này vào các tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất.
Về hoạt động cho vay, chênh lệch lãi suất cho vay ngoại tệ và nội tệ vẫn được duy trì, mặc dù đã giảm xuống cùng với tỷ lệ lạm phát. Một tình trạng xảy ra trong năm 1999 là trong khi tiền gửi ngoại tệ tăng cao thì tăng trưởng dư nợ cho vay ngoại tệ lại không theo kịp. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp chỉ được vay ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị hay chi trả dịch vụ phí mua từ các tổ chức nước ngoài. Hạn chế này đến tháng 9 năm 2000 mới được tháo bỏ, từ đó cho phép các ngân hàng thương mại mở rộng đối tượng khách hàng vay ngoại tệ. Tiền gửi ngoại tệ gia tăng và các ngân hàng thương mại chuyển số tiền này vào các tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất.
Tài sản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam (tỷ USD)
2.1.5. Giai đoạn từ 2000 đến nay
Trước đây NHNN ấn định một trần lãi suất cho vay, ví dụ như trần 0,85%/tháng vào thời điểm trước tháng 8/2000. Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp năm đợt hạ trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, và kết quả là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần.
Tháng 8/2000, Ngân hàng Nhà nước thay thế trần lãi suất bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn.
Cơ chế lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế lãi suất cơ bản cộng biên độ đã trở nên cao hơn trần lãi suất cũ rất nhiều. Như vậy, từ lúc này các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng.
Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã làm giảm đi rõ rệt chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay.
Nói chung, có ba ý kiến khác nhau về cơ chế lãi suất cơ bản:
Ý kiến thứ nhất cho cơ chế mới không có gì khác với trần lãi suất trước đây. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Lý do là chi phí cho vay đối với các đối tượng này thường lớn nên không thể cho họ vay nếu không áp dụng lãi suất cao.
Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép (0,3%/tháng đối với vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vay dài hạn) các ngân hàng có thể định mức lãi suất cho mỗi hợp đồng tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ngầm hiểu là được chính phủ bảo lãnh, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho vay với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng, trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi việc cho khu vực này vay là rủi ro hơn.
Tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, cho phép người vay có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa cũng như nước ngoài. Đến tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng.
Như đã trình bày, thực tế là các ngân hàng đã chủ động xác định lãi suất tiền gửi và cho vay từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. Lãi suất tiền gửi tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên.
Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, nếu không kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” do các ngân hàng nhỏ khó có khả năng giảm lãi suất cho vay để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Một số ngân hàng đề xuất thực hiện một sàn lãi suất cho vay, tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy trước đây bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã từng thống nhất lãi suất sàn nhưng cuối cùng không thực hiện nổi. Đặc biệt, các ngân hàng thương mại cổ phần dường như không thể giảm lãi suất huy động tiền gửi để giảm lãi suất cho vay vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động để rồi thực hiện những khoản đầu tư rủi ro cao. Đây là hiện tượng lựa chọn bất lợi khi ngân hàng chỉ có thể cho vay lãi suất cao nên cuối cùng chỉ còn khách hàng là các dự án rủi ro cao. Sự gia tăng lãi suất tiền gửi và cho vay sau quyết định tự do hóa minh chứng cho lập luận này.
Trái ngược với những ý kiến phản đối tự do hóa lãi suất ở trên, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Khi lãi suất giờ đây phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng sẽ hoạt động theo cơ chế thị trường và sẽ phải đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng cạnh tranh.
Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho với các lãi suất khác nhau tùy theo mức độ rủi ro của khách hàng và chi phí cho vay. Các đối tượng vay như hộ kinh doanh nhỏ hay nông dân không còn bị loại ra ngoài cuộc chơi như trước đây.
Những người ủng hộ tự do hóa lãi suất không nhìn nhận hiện tượng gia tăng lãi suất là kết quả của việc bỏ quy định về biên độ lãi suất cho vay. Theo họ, thực tế là lãi suất đã tăng nhiều tháng trước khi có quyết định tự do hóa lãi suất. Sự gia tăng lãi suất phản ánh tình trạng khan hiếm vốn trong năm 2001 và 2002, khi nguồn vốn của các ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, đặc biệt là vay trung và dài hạn.
Đáng lưu ý là trong khi lãi suất nội tệ tăng lên, thì lãi suất ngoại tệ (cả tiền gửi và cho vay) lại hầu như không nhúc nhích cho dù lãi suất cho vay ngoại tệ đã được tự do hóa trước cả lãi suất cho vay nội tệ. Có ý kiến cho rằng việc Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất liên tục đã giữ cho lãi suất cho vay đô-la Mỹ tại Việt Nam ở vào mức thấp. Thực tế là lượng tiền gửi nội tệ đã tăng nhanh hơn lượng tiền gửi bằng ngoại tệ trong năm 2002, trong khi lãi suất cho vay USD chỉ có 2,85-3%/năm (vào đầu năm 2003) đang hấp dẫn các doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ.
Rõ ràng là tự do hóa lãi suất cho vay đã có tác động tích cực làm cho hệ thống tín dụng ngân hàng sôi động hẳn lên. Khi hoạt động trong một môi trường có giá cả hoàn toàn dựa vào cân đối cung và cầu, các ngân hàng đã phải chủ động tích cực thẩm định để quyết định lãi suất cho vay, phải cạnh tranh để thu hút vốn vay, và phải tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả khi chênh lệch lãi suất giữa đầu vào và đầu ra giảm xuống. Đây là những bước đi rất tích cực của toàn bộ hệ thống trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một nguy cơ là ngân hàng có thể cho vay quá nhiều vào những dự án tuy rủi ro cao nhưng chấp nhận được lãi suất cao, đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại cổ phần có lãi suất đầu vào cao hơn lãi suất đầu vào của ngân hàng quốc doanh. Do vậy, kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy tự do hóa lãi suất phải đi kèm với việc Ngân hàng Nhà nước tăng cường các quy định về kinh doanh thận trọng, đồng thời giám sát hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng. Cần phải tăng cường cơ chế giám sát truyền thống, trong đó tập trung đánh giá chất lượng bảng cân đối kế toán của ngân hàng tại một thời điểm và kiểm tra việc tuân thủ các quy định về vốn và giới hạn trong đầu tư. Hơn thế nữa, NHNN nên bắt đầu chuyển hướng sang việc đánh giá quy trình quản lý rủi ro, chất lượng giám sát của hội đồng quản trị, ban giám đốc ngân hàng và hệ thống kiểm soát nội bộ.
2.2. Những hạn chế của chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã áp dụng chính sách lãi suất thỏa thuận từ 6 năm qua, nhưng lãi suất vẫn chưa phát huy hết tính tích cực của nó bởi việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN vẫn còn tồn tại một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Từ trước đến nay, NHNN vẫn xem lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, nhưng thật ra, lãi suất là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Do đó, NHNN vẫn điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế kiểm soát trực tiếp. Đây là hạn chế lớn nhất trong việc điều hành chính sách lãi suất từ trước cho đến nay.
- NHNN vẫn còn ban hành nhiều loại lãi suất khác nhau như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… Nhưng thực tế hiện nay, lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng thoát ly dần với các loại lãi suất do NHNN công bố, đặc biệt đối với lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản đã xơ cứng trong một thời gian tương đối dài, trong khi lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng luôn luôn thay đổi. Do vậy, chúng ta có thể nói rằng lãi suất cơ bản hầu như không còn được dùng “làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định (Điều 9, khoản 12). Và cũng do vậy, Điều 18 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định “Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản” gần như không còn cần thiết.
- Các loại lãi suất nói trên thường mang tính hình thức do NHNN chưa thực hiện hoàn toàn chức năng người cho vay cuối cùng. Hơn nữa, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu chỉ được thực hiện một cách hạn chế do lượng tiền cung ứng không được điều hành bởi NHNN mà bởi Chính phủ; đồng thời các giấy tờ có giá chưa nhiều nên cánh cửa tái chiết khấu khó có thể mở rộng.
- Việc điều hành chính sách lãi suất chưa phù hợp với các công cụ khác của chính sách tiền tệ như thị trường mở, tái chiết khấu… do các công cụ của thị trường tiền tệ này hoạt động quá yếu ớt và các tổ chức tín dụng tham gia cũng không nhiều. Mức độ phù hợp giữa lãi suất với tỷ lệ lạm phát cũng vậy. Trong nhiều năm qua, lãi suất có xu hướng hạ thấp, nhưng diễn biến của lạm phát thay đổi bất thường khiến cho lãi suất thực thiếu ổn định. Mặt khác, việc điều hành chính sách lãi suất hầu như không tác động nhiều đến mục tiêu kiềm chế lạm phát hoặc ngăn chặn giảm phát.
- So với sự biến động của các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ quốc tế như SIBOR, LIBOR hoặc lãi suất của Fed và lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố cũng có lúc không phù hợp với nhau. Ví dụ như từ tháng 12/2001 đến tháng 6/2003 lãi suất của Fed, LIBOR và SIBOR có xu hướng hạ dần, trong khi đó lãi suất cơ bản lại có xu hướng tăng lên. Từ tháng 6/2006 lãi suất của Fed, LIBOR và SIBOR có xu hướng tăng lên, trong khi đó, lãi suất cơ bản vẫn xơ cứng, không hề thay đổi.
2.3. Một số giải pháp chính sách lãi suất trong thời gian tới
2.3.1. Hoàn thiện môi trường tự do hóa lãi suất bằng VND
Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi quy định về cơ chế tài chính đối với các tổ chức tín dụng đồng thời tiến hành đồng bộ một số biện pháp ở tầm vĩ mô. Ở tầm vĩ mô các ngân hàng cũng phải tìm cách tăng cường khả năng cạnh tranh.
2.3.2.Nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất
Ngân hàng nhà nước cần xây dựng một đề án lãi suất trên cơ sở lãi suất liên ngân hàng và các tỉ lệ lãi suất khác.
Các loại lãi suất cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các công cụ lãi suất này
2.3.3. Chính sách lãi suất cân bằng
Ngoài hai giải pháp trên, em xin phân tích sâu hơn vào giải pháp thứ ba này – chính sách cân bằng lãi suất.
Nội dung của chính sách lãi suất cân bằng nói trên được xác định bằng mô hình: Rf = f(x1, x2, x3, x4, x5, x6)
Trong đó:
- x1 là cân bằng cung - cầu vốn TTTT sơ cấp.
- x2 là lãi suất thực dương.
- x3 là cân bằng cung - cầu vốn khả dụng của TCTD trên thị trường nội tệ liên ngân hàng
- x4 là cân bằng giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn VND với mức tăng tỷ giá USD/VND và lãi suất tiền gửi ngắn hạn USD
- x5 là lãi suất thực tiền gửi hoặc cho vay ngắn hạn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- x6 là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân thực tế của các TCTD.
Theo cơ chế hình thành lãi suất TTTT và kết quả phân tích, đánh giá quan hệ giữa lãi suất và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong thời kỳ 1988 - 2004, để điều hành chính sách lãi suất cân bằng NHNN cần phải điều tiết lãi suất TTTT thoả mãn các điều kiện có tính định lượng như sau:
- x1 là cân bằng cung - cầu vốn thị trường, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng vốn huy động và vốn tín dụng của hệ thống TCTD phải tương ứng với nhau, vì trong những năm tới, kênh tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ yếu trong huy động tiết kiệm và cung ứng vốn cho đầu tư phát triển; việc sử dụng quan hệ các chỉ số vốn tín dụng nói trên phản ánh tương đối chính xác quan hệ cung - cầu vốn thị trường.
- x2 = R – CPI > 0, trong đó R là lãi suất tiền gửi danh nghĩa ngắn hạn VND của TCTD, CPI là chỉ số giá tiêu dùng; áp dụng công thức hiệu ứng của Fisher là lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
- x3 là cân bằng giữa cung - cầu vốn khả dụng của TCTD mà cầu vốn khả dụng là số vốn các TCTD cần có để đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên cho khách hàng, được NHNN dự báo, hàng tuần, tháng hoặc quý để điều tiết tiền tệ; còn cung vốn khả dụng của TCTD bao gồm tiền mặt tại quỹ + tiền gửi tại NHNN vượt mức DTBB + hạn mức chiết khấu chưa sử dụng + giá trị giấy tờ có giá có thể bán trên thị trường liên ngân hàng phải đủ hoặc dư thừa so với nhu cầu vốn của thị trường.
- x4 là cân bằng giữa lãi suất VND – tỷ giá hối đoái – lãi suất USD theo phương trình lãi suất tiền gửi VND = lãi suất tiền gửi ngắn hạn USD + mức tăng tỷ giá VND so với USD + hệ số k, trong đó hệ số 2% để đảm bảo³k là chênh lệch lợi tức giữa tiền gửi VND và tiền gửi USD và k tính hấp dẫn của lãi suất VND, tránh chuyển dịch tiền gửi VND sang USD và hỗ trợ huy động vốn ở trong và ngoài nước.
- x5 < tốc độ tăng GDP thực tế, tức là lãi suất thực là phần giá trị gia tăng mà người gửi tiền nhận được từ kết quả hoạt động của nền kinh tế trong một thời hạn nhất định phải nhỏ hơn mức độ gia tăng của cải thực của nền kinh tế, thì mới khuyến khích tiết kiệm, đầu tư.
- x6 là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động thực tế bình quân của TCTD và 3% < x6 < 6%, vì theo thống kê chênh lệch này của các TCTD trong 10 năm qua (1995 - 2004) giao động trong khoảng 3%-6% và với mức này đủ để các TCTD có thể bù đắp chi phí; đồng thời, theo thông lệ quốc tế và các kiến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thì chênh lệch lãi suất của các NHTM Việt Nam phải ở mức 5% - 6% để bù đắp đủ dự phòng rủi ro và tái đầu tư hiện đại hoá công nghệ.
Vấn đề đặt ra là tại sao không áp dụng chính sách lãi suất thấp, ổn định hoặc là chính sách lãi suất cao mà lại lựa chọn chính sách lãi suất cân bằng trong những năm tới? cơ sở lý luận và thực tiễn của sự lựa chọn này như thế nào? có thể được xem xét như sau:
- Trong giai đoạn 2005 – 2010, chính sách tiền tệ theo đuổi đa mục tiêu là kiềm chế lạm phát ở mức một con số, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức cao (trên 7%/năm) và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng mà về mặt lý thuyết và thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua cho thấy các mục tiêu này không phải hoàn toàn thống nhất với nhau. Với lãi suất cân bằng sẽ kết hợp được vấn đề biến động của lãi suất do cung - cầu vốn thị trường và sự điều tiết tiền tệ của NHNN, để vừa kiềm chế lạm phát, vừa tạo điều kiện cho TCTD huy động vốn, mở rộng tín dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Lãi suất TTTT đã được tự do hoá và hình thành chủ yếu do tác động của cung - cầu vốn; sự can thiệp, điều tiết của NHNN chủ yếu bằng công cụ CSTT gián tiếp và chỉ trong một giới hạn mức cung ứng tiền tệ đã được xác định, nếu không sẽ gây nên tác dụng ngược là lạm phát cao, tăng trưởng kinh tế chậm lại.
- Nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường XHCN, quy mô nhỏ, hội nhập thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế; VND là đồng tiền yếu, chưa có khả năng chuyển đổi, lãi suất VND chịu tác động trực tiếp của lãi suất TTTT quốc tế; với mức lãi suất cân bằng vận động theo biến động của TTTT trong và ngoài nước sẽ hạn chế rủi ro thị trường và mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp chênh lệch “âm” giữa tiết kiệm và đầu tư hàng năm khoảng 10-15% GDP.
- Tình trạng đô la hoá nền kinh tế còn kéo dài trong vài năm tới; TTTT phát triển còn ở mức thấp; chính sách tỷ giá là thả nổi có kiểm soát; thị trường bất động sản đang hình thành và có nhiều rủi ro. Vì thế, với chính sách lãi suất cân bằng, lãi suất VND có thể hấp dẫn hơn so với đầu tư tài sản khác, do vậy sẽ hạn chế tình trạng đô la hoá, xáo trộn thị trường ngoại hối và thị trường bất động sản do việc dịch chuyển VND sang dự trữ bằng USD hoặc đầu cơ bất động sản.
- Theo những nghiên cứu gần đây của IMF, thực tiễn ở nhiều nước theo đuổi chính sách lãi suất thấp và ổn định, tức là lãi suất thực tế giảm xuống dưới mức cân bằng trên thị trường, thì không những cản trở đầu tư mà còn làm giảm hiệu quả đầu tư là do với lãi suất thấp làm gia tăng nhu cầu đầu tư, nhưng không có đủ nguồn vốn đáp ứng và không tạo ra đủ tích luỹ để tài trợ cho những đầu tư này. Nếu thực thi chính sách lãi suất cao, có thể có lợi cho hoạt động kinh doanh của TCTD trong ngắn hạn, nhưng về trung hạn sẽ kìm hãm việc mở rộng đầu tư, không phù hợp với mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế.
- Lãi suất ảnh hưởng đến cung - cầu các nguồn vốn có thể đầu tư và các quyết định về đầu tư, tiêu dùng của TCKT và dân cư. Nếu NHNN tác động làm cho lãi suất thực tế quá cao hoặc quá thấp so với mức cân bằng của thị trường và vượt quá khả năng điều tiết của mình, thì có nguy cơ làm méo mó các quyết định đầu tư, tiêu dùng và khi đó người dân sẽ gửi tiết kiệm vào TCTD để hưởng lãi hơn là đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, nếu lãi suất thực quá cao; hoặc người dân chuyển sang dự trữ ngoại tệ, đầu cơ bất động sản, nếu lãi suất thực “âm” thì cả hai khuynh hướng này đều không thích hợp.
- Với chính sách lãi suất cân bằng, tạo điều kiện cho thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu phát triển, tăng khối lượng hàng hoá và độ sâu của thị trường tài chính, tạo điều kiện cho NHNN thực hiện CSTT có hiệu quả.
Với mô hình chính sách lãi suất cân bằng nói trên, không phải lúc nào lãi suất cân bằng thị trường cũng thỏa mãn đồng thời tất cả các điều kiện trên, nhưng ít nhất là đáp ứng được một số điều kiện chủ yếu là cân bằng cung - cầu vốn, lãi suất thực dương, cân bằng lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất USD trong ngắn hạn và dài hạn thì cần thoả mãn đủ các điều kiện.
Để thực thi chính sách lãi suất cân bằng, đòi hỏi NHNN cần xem xét, đánh giá thực trạng cơ chế kiểm soát lãi suất hiện nay để có những cải tiến thích hợp như : Lựa chọn lãi suất chủ đạo, điều chỉnh mô hình kiểm soát lãi suất hành lang thị trường liên ngân hàng với biên độ rộng hơn hiện nay khoảng 3%, trần là lãi suất cho vay qua đêm, và nên áp dụng đồng bộ việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, ban hành đồng bộ cơ chế để tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện một cách phổ biến các công cụ phái sinh lãi suất, tiền tệ nhằm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ và tự phòng ngừa rủi ro.
KẾT LUẬN
Như vậy có thể thấy lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí,vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mỗi chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khỏe của nền kinh tế. Nó tác động đến những quyết định cá nhân như: chi tiêu hay để dành, mua nhà hay mua trái khoán hay gửi khoản vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến các quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc các gia đình như: dùng vốn để đầu tư mua thiết bị mới cho các nhà máy hoặc để gửi tiết kiệm trong một ngân hàng. Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội nhập với khu vực và thế giới, đất nước đã có những cải cách cơ bản trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng và tài chính. Trong những điều kiện như vậy, việc nhận thức lại những vấn đề cơ bản về lãi suất, cũng như việc học tập kinh nghiệm quản lí và điều hành chính sách lãi suất của các nước phát triển là rất cần thiết. Điều này không chỉ quan trọng đối với quá trình xây dựng và điều hành một chính sách lãi suất phù hợp với cơ chế quản lí kinh tế hiện nay, mà còn rất quan trọng đối với quá trình hình thành và hoạt động một cách có hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam, góp phần giải quyết những khó khăn về vốn và hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam đang trong quá trình tự do hóa lãi suất. Cơ chế điều hành lãi suất hiện nay vẫn còn có những bất cập nhất định. Trước yêu cầu thực hiện định hướng chiến lược phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện chính sách lãi suất của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
David Begg (1992), Kinh tế học, Nhà xuất bản Giáo dục – Hà Nội
Hiệp hội Ngân hàng (2000-2005), Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ
Frederic S.Mishkin (1999), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Khoa học - Kỹ thuật Hà Nội.
Lê Vinh Danh (1996), Tiền và hoạt động ngân hàng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Hà Nội.
Maynard Keynes (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Nhà xuất bản Giáo dục – Hà Nội.
Nguyễn Đăng Dờn (2000), “Vài ý kiến về lãi suất, lãi suất cơ bản và xu hướng tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng – Hà Nội.
Nguyễn Đồng Tiến (2002), “Xây dựng lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Trung ương trong điều hành chính sách tiền tệ”, Tạp chí Ngân hàng – Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Hùng (1998), Lý thuyết tiền tệ ngân hàng, Nhà xuất bản Tài chính – Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Oánh (1999), “Một số vấn đề về định hướng điều hành lãi suất theo tinh thần của Luật ngân hàng Nhà nước”, Tạp chí Ngân hàng (số chuyên đề) – Hà Nội.
Nguyễn Xuân Luật (2002), “Lãi suất và diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ”, Tạp chí Chứng khoán – Hà Nội.
Nguyễn Xuân Luật (2002), “Về cơ chế điều hành lãi suất hiện nay”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ - Hà Nội.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước từ 1991 đến 2005.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện tiền tệ tín dụng, Lãi suất ngân hàng, tập 1,2, Hà Nội.
Ricardo, Các nguyên tắc Kinh tế chính trị - Principles of Political Economiccs, Nhà xuất bản Giáo dục – Hà Nội.
“Tự do hóa lãi suất trong tiến trình hội nhập” (2006), Báo điện tử Bộ tài chính Việt Nam.
World Bank (2002), Annual Report.
Các trang web:
www.sbv.gov.vn
www.vnn.vn/kinhte
www.baodoanhnghiep.com.vn
www.vneconomy.com.vn
www.vnexpress.net
www.mot.gov.vn.
...............
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72615.DOC