Với 96% cỏc DN Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ. Nếu so sỏnh với cỏc DN vừa và Nhà nước ngoài, thỡ cỏc DN của ta thuộc dạng siờu nhỏ, cả quy mô tài chính và lao động. Do vậy nếu tăng lương tối thiểu cho tất cả cỏc loại hỡnh DN sẽ ảnh hưởng tới tỡnh trạng việc làm của người lao động trong khối DN này. Bởi khả năng chi trả cho DN là khỏc nhau. Sẽ cú những DN thua lỗ phỏ sản, mất cụng nhõn và một kịch bản khú trỏnh khỏi là không ít người lao động bị sa thải bổ sung vào đội ngũ thất nghiệp hoặc chuyển dịch việc làm sang khu vực DN khỏc. Mặt khác, khi lương tối thiểu tăng có thể sẽ ảnh hưởng đến việc ra đời thêm các DN tư nhân (những DN này hiện nay tạo việc làm khỏ nhiều cho lực lượng lao động dôi dư) vỡ chi phớ lao động cao khiến chủ DN phải cõn nhắc. Khi cơ hội tỡm việc làm ở các DN tư nhân giảm thỡ cũng cú nghĩa là sức ộp giải quyết công ăn việc làm cho lao động dôi dư của khu vực DN Nhà nước tăng lên. Điều này gõy thờm sức ộp cho vấn đề giải quyết việc làm khu vực Nhà nước.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của cung cầu lao động và một số yếu tố khác trên thị trường lao động tới tiền lương tối thiểu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lương đối với lao động giản đơn (chưa qua đào tạo nghề) trên thị trường lao động
Phương pháp này được xác định trên cơ sở: (1) thống kê các mức lương thấp nhất Chính phủ quy định áp dụng cho các đối tượng hưởng lương khác nhau; và (2) tính bình quân các mức lương thấp nhất thực trả trên thị trường lao động. Kết quả của phương pháp này phụ thuộc vào mẫu và các tiêu chí điều tra tiền lương thực trả thấp nhất trên thị trường lao động (hiện chưa có mẫu điều tra chuẩn).
Phương pháp 3: Xác định từ khả năng của nền kinh tế
Phương pháp này được xác định trên cơ sở các số liệu công bố của Tổng cục Thống kê về quỹ tiêu dùng cá nhân dân cư trong GDP, lao động làm việc trong nền kinh tế, quy mô hộ gia đình, thời gian làm việc hưởng lương, năng suất lao động xã hội và tương quan về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Kết quả của phương pháp này phụ thuộc vào việc xác định hệ số nuôi con, tỷ trọng tiền lương trong tổng thu nhập, quan hệ giữa lương bình quân so với lương thấp nhất... (về các hệ số điều chỉnh này còn có ý kiến khác nhau).
Phương pháp 4: Xác định từ chỉ số tăng giá tiêu dùng
Kết quả của phương pháp này là tính đủ trượt giá tiêu dùng vào lương tối thiểu hiện áp dụng để giữ tiền lương thực tế bằng thời kỳ trước (chưa tính tăng trưởng GDP và mức tăng năng suất lao động xã hội). Trước năm 2001, bù đủ trượt giá vào lương là mục tiêu của chính sách tiền lương ở nước ta, nhưng từ năm 2001 mức lương tối thiểu chung đã được điều chỉnh cao hơn mức tăng giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố. Tuy nhiên, đến nay mức lương tối thiểu chung (450.000 đồng/tháng), theo nhiều chuyên gia đánh giá là vẫn chưa đáp ứng được mức sống tối thiểu của người lao động, chưa thực hiện được các chức năng của tiền lương tối thiểu. Vì vậy, phương pháp này chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi tiền lương tối thiểu đã đảm bảo được mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết yếu của người lao động.
Căn cứ kết quả của 4 phương pháp tiếp cận xác định mức lương tối thiểu chung nêu trên, từ năm 1993 đến nay khi trình Chính phủ ấn định mức lương tối thiểu chung, chúng ta đều đưa ra một miền xác định lương tối thiểu, với sự chênh lệch nhau nhiều lần giữa mức cao nhất so với mức thấp nhất (thấp nhất bằng mức bù trượt giá; cao nhất là nhu cầu tối thiểu, theo những tính toán thời gian gần đây đó là mức lương thấp nhất được áp dụng ở doanh nghiệp nhà nước 1.050.000 đồng/tháng). Với cách làm này và trong điều kiện ngân sách khó khăn thì đương nhiên quyết định chính sách là ấn định mức lương tối thiểu thuộc miền xác định gần cận dưới. Đây là nhược điểm cơ bản của việc xác định tiền lương tối thiểu ở nước ta từ năm 1993 đến nay; đồng thời do mức lương tối thiểu chung là “nền” của chế độ tiền lương đã dẫn đến chính sách tiền lương rất lạc hậu so với thực tiễn, gây khó khăn cho cải cách cơ bản chính sách tiền lương theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
3.3 .2 Xác định mức lương tối thiểu vùng
Mức lương tối thiểu vùng có thể được xác định theo 5 yếu tố: (1) mức sống tối thiểu của người lao động trong vùng; (2) mức sống chung đạt được trong vùng (vùng mức sống); (3) mặt bằng tiền lương trong vùng; (4) giá cả tiêu dùng trong vùng; và (5) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn của vùng.
3.3.3 Xác định mức lương tối thiểu ngành
Mức lương tối thiểu ngành có thể được xác định theo 3 yếu tố: (1) chất lượng và điều kiện lao động theo yêu cầu của ngành; (2) quan hệ cung cầu lao động của ngành; và (3) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn của ngành.
Thực trạng
1.Cải cách tiền lương ở Việt Nam
Từ năm 1993 trở lại đây, Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và được điều chỉnh từng năm theo mức độ trượt giá để bù đắp tiền lương thực tế và cải thiện đời sống theo mức độ tăng trưởng GDP. Cụ thể là:
+) Năm 1993 : 120.000đ/tháng
+) Năm 1997: 144.000đ/tháng
+) Năm 1999: 180.000đ/tháng
+) Năm 2001: 210.000đ/tháng
+) Năm 2003: 290.000đ/tháng
+) Từ 01/10/2005 đến 01/10/2006: 350.000đ/tháng
+) Từ 01/10/2006 đến nay: 450.000đ/tháng
Như vậy tính ra từ năm 1993 đến tháng 10/2006 đã có đến 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu. Tính bình quân, chưa đến 2 năm thì lại có một lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu.
Đặc biệt từ năm 2000 đến năm 2006, chỉ trong vòng 6 năm, Nhà nước đã phải thực hiện 5 lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Xét về mặt bản chất, việc điều chỉnh lương tối thiểu trong thời gian qua có cả yếu tố tăng thu nhập thực tế cho người lao động, và có cả yếu tố bù đắp phần thu nhập thực tế bị mất đi do giá của nhiều mặt hàng thiết yếu tăng lên. Tất nhiên, đây là cả một sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống của người lao động trong khu vực Nhà nước.
Tuy nhiên, nhìn vào diễn biến của chỉ số lạm phát tiền tệ trong những năm gần đây thì chỉ số giá hàng tiêu dùng vẫn cao; do vậy, tác động làm tăng thu nhập thực tế cho người lao động qua các lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu vẫn chưa đủ độ để “khoả lấp” phần tiền thu nhập thực tế bằng tiền lương bị giảm sút do tốc độ tăng giá vẫn cao hơn tốc độ tăng của tiền lương. Để khắc phục được nhược điểm này, có thể có nhiều giải pháp khác nhau. Trong số các giải pháp đó thì hoặc là ổn định được giá cả; hoặc là tiền lương tối thiểu cần được điều chỉnh kịp thời hơn mỗi khi giá cả hàng hoá - dịch vụ tiêu dùng tăng lên. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã kết hợp cả hai giải pháp này. Tuy nhiên, việc kết hợp đó còn những hạn chế nhất định nên hiệu quả của mỗi lần điều chỉnh lương tối thiểu là chưa cao; thậm chí còn có những tác động ngược lại đối với phát triển kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng, việc điều chỉnh tiền lương đã được mọi người “biết trước” một cách quá sớm, nên lương chưa được điều chỉnh thì giá cả đã tự động tăng lên. Vì vậy, ý nghĩa kinh tế - xã hội của mỗi lần điều chỉnh tiền lương không được thể hiện một cách rõ nét. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này được bắt nguồn từ việc quan niệm quan hệ giữa giá cả trong nước với giá cả trên thị trường thế giới qua một số mặt hàng chiến lược như xăng dầu, sắt thép, phân bón chưa thật phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Đó là quan niệm về sự thống nhất giữa các hệ thống giá cả nội địa ở từng quốc gia với giá cả trên thị trường mang tính toàn cầu. Do quan niệm như vậy, nên mỗi lần giá cả trên thị trường trong nước tăng lên là được giải thích ngay là, do giá dầu thô, giá sắt thép, giá phân bón trên thị trường thế giới tăng lên, thì giá trên thị trường trong nước cũng phải tăng theo. Những cách quan niệm còn khác nhau trong giới hoạch định chính sách là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tiền lương tối thiểu đã được điều chỉnh một cách liên tục. Bên cạnh đó là các quan niệm còn khá xa nhau về tiền lương tối thiểu. Lương tối thiểu được sử dụng để làm cơ sở cho việc trả lương cho những người lao động trong bộ máy Nhà nước có gì khác với mức lương tối thiểu của các thành phần kinh tế không phải là Nhà nước. Tình trạng chưa rõ ràng về quan niệm lương tối thiểu là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự không công bằng về thu nhập trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ Nhà nước ra làm ngoài. Vấn đề đáng lưu tâm hơn là, do chưa có sự rõ ràng trong quan niệm về lương tối thiểu, về thu nhập giữa các thành phần kinh tế khác nhau nên đã và đang tồn tại tình trạng không ít khu vực Nhà nước có mức lương rất cao; đặc biệt là ở một số ngành dịch vụ. Rõ ràng là, với những ngành như vậy, Ngân sách Nhà nước đã và đang bị mất đi một khoản thu khá lớn. Do vậy, ý nghĩa của việc xác định lương tối thiểu là rất lớn.
Hệ thống tiền lương tối thiểu ở nước ta hiện nay
Bộ luật Lao động hiện hành đã quy định hệ thống tiền lương tối thiểu ở nước ta có mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và mức lương tối thiểu ngành.
Mức lương tối thiểu chung là mức lương sàn thấp nhất (lưới an toàn) bắt buộc áp dụng chung trong mọi quan hệ lao động. Ở nước ta hiện nay, mức lương tối thiểu chung được dùng làm "nền" để tính các mức lương trong các thang, bảng lương và phụ cấp của người hưởng lương và là căn cứ để tính các chế độ bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc (trừ khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có mức lương tối thiểu riêng).
Mức lương tối thiểu vùng (cao hơn mức lương tối thiểu chung) được quy định để nhấn mạnh yếu tố đặc thù vùng mà khi xác định mức lương tối thiểu chung chưa tính đến. Mức lương tối thiểu vùng có 3 chức năng cơ bản: (1) bảo đảm sức mua ngang nhau của mức lương tối thiểu tại các vùng khác nhau; (2) điều tiết cung cầu lao động; và (3) khuyến khích phân bố đầu tư hợp lý giữa các vùng. ở nước ta hiện nay, khu vực kinh tế FDI đã được áp dụng các mức lương tối thiểu vùng (còn khu vực trong nước chưa áp dụng).
Mức lương tối thiểu ngành (cao hơn mức lương tối thiểu vùng) được hình thành từ thoả ước lao động tập thể ngành (yêu cầu của thị trường lao động phát triển) để áp dụng chung trong ngành đó. Mức lương tối thiểu ngành có 3 chức năng cơ bản: (1) bảo đảm mức lương phù hợp với mức độ phức tạp thấp nhất trong ngành; (2) điều tiết cung cầu lao động; (3) loại trừ cạnh tranh không công bằng giữa các ngành. ở nước ta hiện nay chưa áp dụng các mức lương tối thiểu ngành. định mức lương tối thiểu chung
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên chế độ tiền lương trong nền kinh tế này vừa mang tính chất thị trường, vừa mang tính chất định hướng XHCN. Nghĩa là chế độ tiền lương vừa chịu sự chi phối bởi thị trường lao động, vừa chịu sự chi phối bởi nguyên tắc phân phối theo lao động. Điều này cho thấy, không nên cực đoan cho rằng, tiền lương chỉ là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, hoặc ngược lai, tiền lương chỉ là kết quả của việc phân phối theo lao động. Bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay, năng suất lao động xã hội rất thấp, sự cạnh tranh gay gắt, bộ máy quản lý cồng kềnh, các khoản khấu trừ quá lớn nên quỹ tiền lương sẽ thấp. Trong điều kiện đó, nếu tiền lương chỉ là kết quả của phân phối theo lao động thì tiền lương sẽ thấp, thậm chí không đủ để duy trì cuộc sống cho bản thân người lao động.. Nhưng, nếu tiền lương là giá cả của hàng hoá sức lao động, thì vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ doanh nghiệp luôn luôn muốn trả lương thấp. Thêm vào đó, do sức ép của cạnh tranh, của thất nghiệp, làm cho người công nhân phải chấp nhận lương thấp tới mức chỉ tạm đủ cho bản thân sống, miễn là có được việc làm. Vì vậy, yêu cầu của cải cách chế độ tiền lương ở nước ta hiện nay là tiền lương phải bảo đảm cho người lao động duy trì được năng lực lao động, nuôi con cái và chi phí đào tạo cho bản thân người lao động ở điều kiện bình thường. Điều đó đòi hỏi, trong các doanh nghiệp nhà nước, việc trả lương vừa tuân theo cơ chế thị trường là thuận mua vừa bán sức lao động (tức phải được thoả thuận giữa người lao động với doanh nghiệp về mức lương), vừa đảm bảo tính chất XHCN là phân phối theo lao động, nhưng mức lương không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tiền lương công nhân cũng không được thấp hơn lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, việc xác định lương tối thiểu là vấn đề quan trọng và cần thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà cả cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
3. Tác động của tiền lương tối thiểu
3.1 Mối quan hệ giá – lương - tiền
Giá - lương - tiền là quan hệ kinh tế vĩ mô rất nhạy cảm. Khi quan hệ giá - lương - tiền hợp lý sẽ có tác dụng kích thích sản xuất, bảo đảm đời sống cho người lao động và góp phần vào ổn định kinh tế đất nước. có 2 loại tiền lương là tiền lương danh nghĩa phụ thuộc vào cường độ, năng suất, hiệu quả công việc và tiền lương thực tế. Tiền lương thực tế chính là khối lượng hàng hoá có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt. Tiền lương thực tế bị ảnh hưởng bởi giá cả, lạm phát. Khi giá cả tăng, tiền lương thực tế giảm. Nếu tiền lương danh nghĩa không tăng, thì tiền lương thực tế sẽ giảm đi, cuộc sống của người lao động sẽ giảm. Khi giá tăng, lương không tăng thì đời sống của người hưởng lương sẽ khó khăn. Nếu giá tăng, lương cũng tăng sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng mạnh, một mặt góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế cao song mặt khác sẽ tạo ra tâm lý "bù giá vào lương" của người lao động và làm giảm lòng tin của người lao động vào giá trị của đồng tiền. Hiệu quả tăng lương bị triệt tiêu bởi giá. Hiện nay, Việt Nam đang trong tình trạng mức giá luôn tăng và lương cũng tăng theo. Hoặc nhìn theo cách tích cực hơn, lương tăng và giá cũng tăng theo. Tuy nhiên, trong khi tiền lương tăng với nhịp độ chậm rãi thì chỉ số giá cả luôn tăng với tốc độ chóng mặt. Mặc dù, nếu thử làm phép so sánh, thì tốc độ tăng lương vẫn đủ để bù đắp chỉ số tăng giá nhưng cơ bản do nền lương cơ bản hiện nay quá thấp nên việc điều chỉnh lương bị mất đi ý nghĩa tăng thu nhập cho người làm công ăn lương. Việc điều chỉnh lương mới chỉ mang ý nghĩa bù trượt giá chứ chưa thực sự đem lại niềm vui tăng lương. Mặt khác, lương không phải là thu nhập chính của nhiều đối tượng. Ngay cả những công chức mẫn cán nhất cũng phải thừa nhận rằng tiền lương của họ không đủ để... tái sản xuất. Nhất là khi giá cả leo thang với tốc độ tên lửa như trong năm vừa qua
Bên cạnh đó, cứ khi nào lương chuẩn bị tăng thì giá đã tăng trước. Điều này càng đúng vào thời điểm hiện nay, khi mà áp lực tăng giá vốn đã rất lớn. Đơn cử, vào thời điểm tháng 10/2006, khi mức lương tối thiểu tăng lên 450.000 đồng/tháng thì ngay cả đến mớ rau - không có liên quan trực tiếp đến tiền lương cũng tăng trung bình khoảng 20%. Hiện tượng tăng giá này phản ánh đúng quy luật kinh tế. Khi tất cả mọi người đều biết rằng vào một thời điểm nhất định trong tương lai, nhiều người dân sẽ được tăng thêm 20% tiền thu nhập, cảm nhận chung của thị trường là nền kinh tế đột nhiên có thêm một lượng lớn tiền trong khi lượng hàng hoá vẫn vậy nên giá tăng là phải.
Những tác động đến đời sống kinh tế-xã hội
Qua nghiên cứu những biến động về giá, lương và cung tiền thời gian qua có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, theo kết quả khảo sát tiền lương (Vietnam Salary Survey 2005) đã phân tích dữ liệu 208 công ty trong và ngoài nước với 35.000 nhân viên làm việc ở mọi ngành nghề cho thấy, lao động phổ thông có mức lương cơ bản hàng năm tăng khoảng 7,8% giai đoạn 2004-2005; nhân viên văn phòng bao gồm các chuyên gia và giới quản lý tăng 10%. Riêng các lao động làm trong khu vực Nhà nước, tiền lương năm 2004 tăng 31%, nhưng tiền lương trong năm 2005 lại chỉ tăng có 3,4%. Trong khi đó, tốc độ tăng giá năm 2004 là 9,5%, năm 2005 lên tới xấp xỉ 8%. Như vậy, nhìn chung tốc độ tăng lương của lao động phổ thông hiện mới chỉ theo kịp tốc độ tăng giá. Điều này đồng nghĩa với việc tiền lương thực tế của người lao động hầu như không tăng do tốc độ tăng giá quá cao. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho dòng dịch chuyển "chất xám" từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế FDI trở nên mạnh mẽ trong khoảng 2 năm lại đây.
Tóm lại, trong những năm gần đây tăng trưởng kinh tế cao dựa trên giá tăng, lương tăng, cung tiền tăng cho thấy nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đang phát triển theo chiều rộng tiêu hao nhiều nguyên nhiên vật liệu mà hiệu quả thấp và giá trị VND chưa thực sự được nâng cao. Thêm nữa, hiện tượng giá tăng - lương tăng - cung tiền tăng trên thực tế đã tạo ra tăng trưởng "ảo", thiếu tính bền vững. Điều này rất đáng lo ngại khi nền kinh tế Việt Nam đang trên đà hội nhập với kinh tế quốc tế.
Tác động của tiền lương tối thiểu tới người lao động trong các khu vực
Theo điều tra cho thấy thu nhập bình quân một lao động trong doanh nghiệp Nhà nước là 2.142.000 đồng mỗi tháng, của lao động trong doanh nghiệp dân doanh là 1.303.000 đồng, của lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.945.000 đồng, tiền công của một lao động làm việc trong khu vực phi chính thức khoảng 15- 45 nghìn đồng mỗi ngày.
Theo đánh giá, tiền lương, tiền công bắt đầu tuân theo hướng thị trường, nghĩa là sức lao động được trả giá theo khả năng. Tuy nhiên mức lương tối thiểu chung chưa bảo đảm mức sống tối thiểu. Từ năm 2000 đến nay, đã có bốn lần điều chỉnh lương tối thiểu chung từ 180 nghìn đồng một tháng lên 450 nghìn đồng một tháng, trong khi chỉ số giá tiêu dùng tăng 35% (so với năm 2000), là cơ sở để hình thành giá tiền công trên thị trường lao động, bước đầu khắc phục tính bình quân trong phân phối. Tiền lương và thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp nói chung được cải thiện. Năm 2006, tiền lương bình quân một lao động trong doanh nghiệp Nhà nước đạt 2,1 triệu đồng mỗi tháng (những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, lao động giỏi đạt mức lương bình quân cao hơn 4 - 5 lần mức bình quân chung); trong các doanh nghiệp dân doanh, tiền lương bình quân đạt 1,6 triệu đồng một người mỗi tháng (người có trình độ chuyên môn, kĩ thuật cao, tiền lương gấp 5-6 lần mức bình quân chung); trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mức tiền lương bình quân đạt 2,2 triệu đồng một người mỗi tháng (lao động quản lí, có chuyên môn, kĩ thuật cao, lương gấp 15-20 lần so với mức bình quân chung). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc trả lương theo năng suất lao động là hoàn toàn phù hợp với quan hệ cung - cầu lao động cũng như xu thế chung. Tuy nhiên, các chính sách tiền lương, tiền công hiện nay trong nhiều loại hình doanh nghiệp vẫn còn chưa hợp lý, chưa sát với cung-cầu của thị trường đặc thù này. Theo Vụ Tiền lương - Tiền công thì so với mức sống tối thiểu hiện nay, mức lương tối thiểu của NLĐ vẫn chưa được bảo đảm. Ngoài ra, trong mỗi loại hình doanh nghiệp, mỗi ngành thì mối quan hệ này có điều chưa hợp lý. Đó là, doanh nghiệp nhà nước tốc độ tăng tiền lương quá nhanh so với tốc độ tăng năng suất lao động (năm 2004 năng suất lao động tăng 8,2% thì tiền lương bình quân lại tăng 16,9%). Ngược lại, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp dân doanh tiền lương tăng chưa tương ứng với tốc độ lợi nhuận và tốc độ tăng năng suất lao động. Năm 2004 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi nhuận tăng 41,2%, năng suất lao động tăng 18,3% thì tiền lương của NLĐ chỉ tăng 12,6%. Đối với doanh nghiệp dân doanh, lợi nhuận tăng 54,3%, năng suất lao động tăng 10,3% thì tiền lương của NLĐ chỉ tăng 3%.
Theo Vụ trưởng Vụ Tiền lương - Tiền công (Bộ LĐ-TB&XH), lương tối thiểu hiện nay cũng đang có những tồn tại do việc quy định không thống nhất giữa các khu vực đã tạo ra mâu thuẫn, chưa theo nguyên tắc bình đẳng trong kinh tế thị trường. Mức lương tối thiểu chung thấp hơn mức thực trả trên thị trường lao động, chưa phản ánh đầy đủ được sự chênh lệch về giá cả sinh hoạt, chi tiêu, mức sống dân cư giữa các vùng, các loại hình doanh nghiệp. Chính vì thế, tiền lương trả cho NLĐ ở nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khu vực nhà nước vẫn chưa gắn với thị trường lao động...Tuy nhiên, theo đánh giá của Vụ Tiền lương - Tiền công (Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội), mức lương tối thiểu chung chưa bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động; mặt khác, cũng chưa tách được mức lương tối thiểu áp dụng trong khu vực sản xuất, kinh doanh và mức áp dụng trong khu vực hành chính, sự nghiệp. Việc điều chỉnh mức lương tối thiểu khu vực sản xuất, kinh doanh phải phụ thuộc vào ngân sách, chưa phù hợp với quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường. Đặc biệt, tiền lương trong công ty nhà nước chưa gắn với thị trường lao động, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chưa thu hút, khuyến khích người có tài, có trình độ. Một số doanh nghiệp “ép” tiền công, không thực hiện đầy đủ chính sách với người lao động...
Giá cả sức lao động của người lao động hiện được coi là thấp, không đủ để trang trải cho các chi phí hằng ngày, nhất là chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng. Để bảo đảm tiền lương, tiền công cho NLĐ theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, không hạn chế mức thu nhập tối đa đối với những lao động chuyên môn kỹ thuật cao, Bộ LĐTB&XH cho rằng, chính sách tiền lương cần phải tuân thủ theo nguyên tắc thị trường. Đó là không phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp, cho phép các doanh nghiệp tự chủ trong việc chi trả lương thông qua cơ chế thương lượng, không khống chế mức trần (đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh). Với cơ chế này, các doanh nghiệp lớn được quyền thuê giám đốc, tổng giám đốc và trả lương theo đóng góp của NLĐ đối với doanh nghiệp.
3.3 Tác động của cung cầu lao động và một số yếu tố khác trên thị trường lao động tới tiền lương tối thiểu
Thị trường lao động được xác định là một trong những thị trường quan trọng của nền kinh tế, chủ trương này đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: " Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm những thị trường quan trọng nhưng còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ
Quá trình đổi mới và phát triển kinh tế cùng với những cải cách đáng kể của đất nước đã đặt ra các tiền đề quan trọng cho sự phát triển thị trường lao động. Hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, tác động đồng bộ đến cung, cầu lao động kết hợp với việc thiết lập các thể chế, chính sách thị trường lao động như: ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Lao động và các luật liên quan; ban hành nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn, quy định các thể chế về thị trường lao động như chế độ tuyển dụng, hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động, tiền lương và thu nhập…để thiết lập mối quan hệ lao động, góp phần thúc đẩy thị trường lao động phát triển. Chính vì vậy, các hoạt động liên quan đến cung, cầu và sự chắp nối cung cầu trên thị trường lao động ngày càng được phát triển cả về quy mô và hình thức hoạt động. Các hoạt động giao dịch, tư vấn, cung cấp thông tin về thị trường lao động đang ngày càng sôi động, đa dạng và phong phú. Hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm đã có những bước đột phá đáng kể (đến nay cả nước đã có 161 trung tâm giới thiệu việc làm, khoảng 3.000 doanh nghiệp họat động giới thiệu việc làm và nhiều tổ chức cung ứng lao động), cả nước đã tổ chức trên 90 hội chợ việc làm ở cấp tỉnh và hàng trăm hội chợ việc làm ở các trung tâm giới thiệu việc làm, các trường, các doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động của thị trường lao động, tiền lương, tiền công đã được xác định tuỳ theo từng loại lao động trên thị trường.
Giá cả sức lao động được hình thành và điều chỉnh theo quy luật giá trị, cung cầu và cạnh tranh. Như vậy các yếu tố này đã tác động qua lại và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thị trường lao động. Khi thị trường được xác lập người lao động và người sử dụng lao động tự do thỏa thuận mức tiền lương, tiền công theo yêu cầu công việc và trình độ năng lực làm việc và đương nhiên mức thỏa thuận này bị chi phối bởi các quy luật nêu trên. Có thể nhận thấy, các hoạt động phát triển thị trường lao động đang được lành mạnh hóa, các giao dịch thuê mướn, sử dụng lao động được thực hiện công khai, minh bạch, người lao động có quyền làm việc cho bất cứ ai, miễn là công việc đó không bị pháp luật cấm và được trả lương xứng đáng với công sức bỏ ra. Chính vì vậy mức lương cho các vị trí công việc đang được điều chỉnh phù hợp với quy luật thị trường. Chênh lệch mức lương giữa người làm quản lý, kỹ thuật, khoa học ngày được phân định rõ hơn. Thu nhập tiền lương giữa các công việc, ngành nghề ngày càng phân biệt rõ và đã trở thành động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động, khuyến khích người lao động nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn để có thể làm việc ở những vị trí có mức lương cao hơn.
Thị trường lao động ở nước ta vẫn ở giai đoạn đầu, xét về tổng thể, cung lao động lớn hơn cầu lao động, được phát triển tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia; ở các vùng kinh tế chậm phát triển thì thị trường lao động còn ở mức độ sơ khai. Vì vậy, tình trạng di chuyển lao động diễn ra ngày càng mạnh, chủ yếu theo hướng Bắc – Nam, nông thôn – thành thị, và vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cung lao động có chất lượng cao ít, chưa đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển, ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các thị trường khác. Tiền lương, tiền công chưa thoả đáng, chưa khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng; chưa thực hiện được kích cầu để sản xuất phát triển. Hệ thống thông tin thị trường lao động vẫn chưa được thiết lập một cách đồng bộ trong cả nước để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Theo báo cáo thống kế gần đây, mức thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp từng bước được cải thiện, năm 2005, bình quân đạt 1.840 nghìn đồng/người/tháng, tăng 11,5% so với năm 2004. Tuy nhiên, tiền lương bình quân tháng của một lao động trong các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp mặc dù tăng qua các năm, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập so với giá cả sức lao động của họ. Số vụ đình công vẫn tiếp tục tăng, đặc biệt là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp tư nhân và chủ yếu tập trung ở các tỉnh/thành phố có thị trường lao động phát triển như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai cho thấy dấu hiệu bộc lộ các mâu thuẫn giữa người lao động và sử dụng lao động mà nguyên nhân sâu xa là bất hợp lý về tiền công, tiền lương và một số quyền lợi khác
4. Ưu nhược điểm của tiền lương tối thiểu
4.1 Ưu điểm
Đánh giá việc thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu từ 1993 đến nay có thể thấy những điều chúng ta làm được như sau:
- Từng bước hoàn thiện cơ sở lý thuyết về tiền lương tối thiểu, đã xá định được hệ thống khung lý thuyết về tạô điều kiện cho việc xây dựng, áp dụng, quản lý tiền lương tối thiểu ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới
- Đã xác định được mức lương tối thiểu ngày càng khoa học qua các thời kỳ. Hệ thống tiền lương trong một chừng mực nhất định đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định chính sách tiền lương mang đặc thù của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bước đầu làm cơ sở cho việc điều tiết quan hệ lao động trong xã hội cũng như trong các tổ chức doanh nghiệp
- Hoàn thiện dần cơ chế tiền lương tối thiểu. Từ chỗ chỉ có một mức lương duy nhất nay đã được mở rộng theo ngành, theo vùng, theo khu vực. Từ chỗ quy định việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thuộc quyền của Nhà nước đến chỗ cho phép các doanh nghiệp có thể nâng lương tối thiểu trong khuôn khổ nhất định. Thêm vào đó mức lương tối thiểu không chỉ bị cố định mà được điều chỉnh theo biến động của thị trường
Với kết quả như trên, từng bước phát huy vai trò của tiền lương tối thiểu như là một công cụ của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, điều tiết thu nhập giữa người lao động và người sử dụng lao động, thu hút và điều tiết nguồn nhân lực giữa các ngành, các vùng . Đã thực hiện được tiền tệ hoá tiền lương và loại bỏ dần các khoản bao cấp, phân phối ngoài tiền lương từ ngân sách nhà nước. Đây là điểm thay đổi cơ bản nhất trong cải cách tiền lương năm 1993. Lần đầu tiên mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố được áp dụng trong cả khu vực Nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh làm thay đổi nội dung và bản chất của chế độ tiền lương. Việc cho phép các doanh nghiệp Nhà nước từ năm 1997 được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm theo ngành, vùng so với mức tiền lương tối thiểu chung đã thúc đảy các doanh nghiệp sắp xếp lại tổ chức sản xuất, tổ chức lao động tính đúng chi phí tiền lương, tiết kiệm chi phí, tăng tiền lương gắn với tăng lợi nhuận và cũng là một bước tách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh tự lo nguồn trang trải
Nhược điểm
- Mức độ bao phủ (áp dụng) của tiền lương tối thiểu còn thấp. Việt Nam hiện tại có khoảng 8 triệu người làm công ăn lương, chiếm 20% lao động xã hội. Tuy nhiên, hệ thống tiền lương tối thiểu chỉ áp dụng chủ yếu trong 2 khu vực là Nhà nước và đầu tư nước ngoài, tức là khoảng 10% lao động xã hội. Thực tế các nước đã chỉ ra rằng, tác động của tiền lương tối thiểu phụ thuộc vào phạm vi bao phủ. Nếu phạm vi bao phủ của tiền lương tối thiểu thấp, thì việc tăng tiền lương tối thiểu ít có tác dụng trong việc cải thiện vị thế của những người lao động không có trình độ tay nghề trên thị trường cũng như tương quan cung-cầu trên thị trường lao động.
- Thiếu khung pháp lý và bộ máy quản lý cho phép theo dõi, giám sát và điều chỉnh các mức tiền lương tối thiểu. Vai trò của tiền lương tối thiểu chỉ thực sự phát huy nếu có cơ chế giám sát thực hiện. Tuy nhiên, kể từ năm 1993 đến nay, chúng ta vẫn chưa có khung chính sách và thể chế thích hợp để thực hiện việc giám sát tình hình thực hiện các mức tiền lương tối thiểu ban hành.
- Quan điểm ngân sách nặng nề khi thiết kế, điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Một trong những tồn tại lớn (nếu không nói là quyết định) trong khi thiết kế và điều chỉnh tiền lương tối thiểu là gắn quá chặt với việc cân đối ngân sách. Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thường do “sức ép bên ngoài” hơn là do tác động của của các yếu tố có liên quan như giá cả sinh hoạt, trình độ phát triển của mức sống, năng suất lao động...
Theo tổng kết của ILO, việc áp dụng quan điểm ngân sách khi điều chỉnh tiền lương tối thiểu đã khiến cho tiền lương không phải là đòn bẩy cho các cải cách hành chính và kinh tế, mà trở thành các yếu tố cản trở quá trình cải cách này, là sự minh hoạ, chạy theo đuôi của các nhân tố về tổ chức và quản lý. Bên cạnh đó, quan điểm ngân sách đã bó hẹp bản chất của tiền lương trong phạm trù phân phối đơn thuần, mà không nhìn nhận việc tăng tiền lương (trong đó có tiền lương tối thiểu) như một yếu tố đầu tư (vì lao động là yếu tố đầu vào của sản xuất); Điều này đã tách tiền lương tối thiểu khỏi các căn cứ kỹ thuật của nó như trình độ phát triển sản xuất, năng suất lao động, các lợi thế cạnh tranh......
- Tiền lương tối thiểu điều chỉnh thấp, không đủ chi cho nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ. Về lý thuyết, khi xây dựng các mức tiền lương tối thiểu, nhu cầu của người lao động được ưu tiên xem xét và tính toán tỷ mỷ. Tuy nhiên, khi ban hành thường không bảo đảm. Ví dụ, tại thời điểm 1/4/1993, mức tiền lương tối thiểu tính toán là 170 nghìn đồng/người/tháng, trong khi đó, mức tiền lương tối thiểu ban hành chỉ có 120 nghìn, bằng 70%. Việc điều chỉnh các mức tiền lương tối thiểu rất chậm, không theo kịp với tốc độ tăng giá cả các mặt hàng thiết yếu, nên khả năng tái sản xuất sức lao động của tiền lương tối thiểu ngày càng bị giảm đi. Ví dụ: Nếu điều chỉnh tương ứng với tốc độ tăng giá cả thì mức tiền lương đủ sống tại thời điểm điều chỉnh lần 1 (năm 1997) phải đạt 289 ngàn; tại lần điều chỉnh thứ 2 (1999) phải đạt 312 ngàn đồng và tại lần điều chỉnh thứ 3 (2001) phải đạt 308 ngàn đồng. Nếu lấy mức tiền lương tối thiểu qui định năm 1993 là 120 ngàn đồng, điều chỉnh với tốc độ trượt qua các năm thì cần phải đạt 200 ngàn (1997); 225 ngàn (1999) và 240 ngàn (2001)
Dưới giác độ kinh tế, chính sách tiền lương tối thiểu “thấp hợp lý” đã hạn chế tính linh hoạt và hiệu quả của các doanh nghiệp, không khuyến khích các cơ sở kinh tế nhà nước sử dụng và bố trí lao động hợp lý, tạo ra sự chia cắt thị trường lao động giả tạo, sự gian dối và lộn xộn trong hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, khiến thất thu ngân sách.
Tiền lương tối thiểu thấp đã tác động tiêu cực đến năng suất lao động. Trong thời kỳ 1993-1998, theo tính toán của một số chuyên gia quốc tế, mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động (khoảng 8%/năm so với mức tăng NSLĐ khoảng 6%). Nếu coi tiền lương là một trong những chỉ số phản ánh hiệu quả sử dụng lao động, thì chỉ tiêu này của Việt Nam vào loại thấp của châu á. Tỷ lệ hoàn trả của tiền lương của Việt Nam đối với mỗi năm học tuy có cao hơn nhưng chỉ đạt khoảng 5% so với mức 11% của các nước châu á, 13% châu Phi và 14% của châu Mỹ la tinh.
Hơn nữa, do tiền lương là một bộ phận chính của thu nhập, việc áp dụng chính sách tiền lương thấp có tác động tiêu cực đến tổng cầu hàng hoá, làm giảm sức mua của dân cư, giảm khả năng mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp, kìm hãm giá cả, kết quả là giảm khả năng tích luỹ, đầu tư và do vậy tác động tiêu cực đến khả năng mở rộng việc làm của doanh nghiệp.
- Trong thiết kế, việc gắn tiền lương tối thiểu của khu vực nhà nước với mức tiền lương tối thiểu chung trong điều kiện cơ chế thị trường còn nhiều bất cập
Mặc dù có sự phân định khá rõ vai trò của tiền lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường, nhưng khi thiết kế lại gắn quá chặt với mức tiền lương tối thiểu thấp nhất trong khu vực nhà nước, kết quả là điều chỉnh rất khó khăn. Về bản chất, các yếu tố chi phối mức tiền lương tối thiểu chung và mức tiền lương thấp nhất trong khu vực ngân sách khác nhau. Tiền lương tối thiểu chủ yếu bị điều chỉnh theo quan hệ cung-cầu lao động trên thị trưng, trong khi đó, khu vực hưởng lương từ ngân sách không có quan hệ thị trường. Theo các chuyên gia ILO, việc gắn mức tiền lương tối thiểu chung hệ thống tiền lương trong khu vực nhà nước đã gây các tác động tiêu cực cho cả 2 khu vực. Đối với khu vực có quan hệ thị trường, tiền lương tối thiểu không thực hiện được chức năng “lưới an toàn trong xã hội” do không có các chế tài thực hiện. Đối với khu vực hưởng lương ngân sách, lại gây cản trở việc mở rộng hệ số, bội số thang lương, bảo đảm mức tiền công tương xứng. Nhìn chung, cách làm này đã biến tiền lương tối thiểu trở thành một công cụ kiểm soát các mức chi trả hơn là công cụ bảo vệ người lao động.
- Tương tự, việc gắn tiền lương tối thiểu chung với các chính sách trợ cấp và ưu đãi xã hội đã khiến tiền lương tối thiểu trở thành một công cụ kiểm soát mức chi tiêu xã hội hơn là công cụ để bảo đảm mức sống cho cho các đối tượng này.
Theo kinh nghiệm của ILO, thiết kế các mức trợ cấp trên cơ sở mức tiền lương tối thiểu chung đã tạo ra những vòng luẩn quẩn. Một mặt, không thể tăng tiền lương tối thiểu chung do mỗi lần điều chỉnh lại liên quan đến rất nhiều các đối tượng khác nhau, tạo gánh nặng cho ngân sách. Mặt khác, cũng không cho phép sự điều chỉnh các mức trợ cấp và ưu đãi xã hội linh hoạt để bảo đảm mức sống tối thiểu cho các đối tượng thụ hưởng. Kết quả là đời sống của những người hưởng trợ cấp xã hội gặp khó khăn, nhiều người sống dưới mức nghèo khổ.
5. Vai trò của Nhà nước
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của đất nước, là một trong những động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước. Tiền lương cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm, có ảnh hưởng to lớn đến tình hình kinh tế xã hội. Việc trả lương cho người lao động theo nguyên tắc thực hiện chính sách tiền lương thống nhất, nhưng cơ chế phân phối tiền lương được phép linh hoạt. Các cơ quan đơn vị được quản lý toàn diện các nguồn tài chính làm ra, nguồn ngân sách cấp, nguồn ngân sách hỗ trợ để chủ động chi tiêu phát triển hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ, trả lương cho cán bộ công chức. Nhà nước thực hiện vai trò giám sát và điều tiết thông qua các công cụ vĩ mô.
Theo đó, đối với khu vực sự nghiệp, thực hiện phân loại các đơn vị sự nghiệp dựa theo khả năng tự đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động (tự đảm bảo toàn bộ, tự đảm bảo một phần, ngân sách nhà nước lo) để xây dựng, thiết kế các phương thức trả lương khác nhau trên cơ sở gắn với năng suất, hiệu quả từng cơ quan, đơn vị và kết quả công việc của mỗi người lao động. Trên cơ sở phân loại này, Nhà nước thực hiện trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ và vai trò thanh tra, kiểm tra nhằm thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động. Đồng thời với việc phân loại, thực hiện cơ chế quản lý tiền lương nói trên, khẩn trương sửa đổi các quy định hiện hành về phân phối, sử dụng học phí, viện phí và các khoản thu sự nghiệp, tạo điều kiện đi vào cơ chế quản lý mới về tiền lương, thu nhập trong các lĩnh vực này. Tuy nhiên, bài học rút ra từ việc thực hiện Nghị định 10/2002/ND-CP là để tránh tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp toàn bộ của ngân sách nhà nước, cần tập trung chỉ đạo, giao trách nhiệm cụ thể cho các Bộ, ngành và địa phương trong việc giao quyền chủ động về tổ chức công việc, về quản lý và sử dụng lao động, về quản lý tài chính cho đơn vị. Qua đó tạo điều kiện cho các đơn vị tự đảm bảo kinh phí tăng thêm khi Nhà nước điều chỉnh chính sách tiền lương . Ngân sách chỉ hỗ trợ khi đã khai thác hết khả năng tại chỗ.
Đối với khu vực quản lý hành chính, cần thực hiện tinh giản biên chế và rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, chuyển bộ phận làm công tác dịch vụ sang chế độ hợp đồng thuê khoán theo công việc, triển khai mở rộng khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành và địa phương trên cả nước. Các đơn vị được chủ động sử dụng nguồn kinh phí được khoán, được quyền trả lương cao hơn mức quy định chung trên cơ sở đảm bảo hiệu quả và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
- Nhà nước đã thể hiện chính sách tiền lương làm cơ sở cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ký hợp đồng lao động, thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động.
- Nhà nước qui định việc xây dựng thang, bảng lương mang tính chất định hướng, giao doanh nghiệp chủ động xây dựng và trả lương phù hợp với quan hệ cung, cầu lao động trên thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp quy định các chế độ có lợi cho người lao động.
- Chính sách tiền lương do Nhà nước ban hành đã góp phần tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ chính đáng quyền lợi của người lao động và từng bước nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về tiền lương trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được thực hiện như sau:
Bộ lao động Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý về Nhà nước về tiền lương ở cấp cao nhất. Bộ LĐ-TBXH ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn các doanh nghiệp phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương, các thông số tiền lương và các hệ số điều chỉnh cần thiết và thông báo các thông tin cần thiết về tiền lương trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Qua đó chỉ đạo việc quản lý tiền lương của các bộ, ngành và địa phương toàn quốc
Các bộ quản lý chuyên ngành, các địa phương cấp tỉnh, thành phố có trách nhiệm và quyền hạn quản lý công tác tiền lương của các doanh nghiệp, cơ quan trong phạm vi của mình trên cơ sở chỉ đạo của Bộ LĐ-TBXH. Trong đó phải báo cáo thường xuyên lên Bộ LĐ-TBXH về công tác quản lý lao động tiền lương tại bộ, ngành mình
Phương hướng và giải pháp nâng cao tính hiệu quả của tiền lương tối thiểu
1. Định hướng thay đổi chính sách tiền lương tối thiểu ở nước ta
Thực trạng tiền lương tối thiểu ở nước ta nêu trên đã dẫn đến các doanh nghiệp không bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường; đồng thời đã tạo ra chênh lệch quá lớn về tương quan tiền lương giữa đội ngũ cán bộ, công chức (những người sáng tạo ra và vận hành thể chế nền hành chính, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước) với mặt bằng tiền lương trên thị trường lao động (công chức chỉ được tính lương trên cơ sở mức lương tối thiểu chung 450.000 đồng/tháng là mức thấp nhất trên thị trường lao động). Để giải quyết những bất hợp lý này cần thay đổi cơ bản chính sách tiền lương tối thiểu theo hướng:
1.1 Thay đổi phương pháp xác định mức lương tối thiểu chung
Trên cơ sở hoàn chỉnh các thông số của 4 phương pháp tiếp cận xác định mức lương tối thiểu chung đang được sử dụng ở nước ta nêu trên, cần đẩy nhanh tiến độ điều chỉnh mức lương tối thiểu chung để có thể áp dụng được một mức lương tối thiểu chung thống nhất giữa các loại hình doanh nghiệp. Khi mức lương tối thiểu chung đạt tới mức bảo đảm được mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết yếu của người lao động (nhiều chuyên gia đánh giá mức này chính là mức lương tối thiểu ở các doanh nghiệp FDI) thì dùng kết quả của phương pháp tiếp cận theo nhu cầu thiết yếu này làm “trung tâm”, trên cơ sở đó ấn định và điều chỉnh mức lương tối thiểu chung (MLmin chung) theo công thức:
MLmin chung = MSmin x k1 x k2 x k3
Trong đó:
- MSmin: Kết quả (mức tiền) của phương pháp tiếp cận từ mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết yếu của người lao động. MSmin cũng cần được điều chỉnh trong từng kế hoạch 5 năm để tiếp cận với chuẩn nghèo trong khu vực và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống theo hướng giảm dần chi cho ăn uống trong tổng chi tiêu cho đời sống;
- Hệ số k1: Hệ số điều chỉnh theo kết quả của phương pháp tiếp cận từ điều tra tiền lương của lao động giản đơn trên thị trường lao động;
- Hệ số k2: Hệ số điều chỉnh theo kết quả của phương pháp tiếp cận từ khả năng của nền kinh tế. Các phương án điều chỉnh (các giá trị k2 khác nhau) trong từng giai đoạn được xác định xoay quanh (thấp hơn, bằng hoặc cao hơn) mức tăng trưởng GDP;
- Hệ số k3: Hệ số điều chỉnh của phương pháp tiếp cận từ chỉ số giá tiêu dùng. Khi lạm phát (k3 > 1,0) thì phải tính đủ để không giảm tiền lương thực tế; khi giảm phát (k3 < 1,0) thì xác định k3 = 1,0 (coi như đã tăng lương thực tế).
Xác định mức lương tối thiểu chung theo công thức nêu trên sẽ thực hiện được chính sách tiền lương tối thiểu linh hoạt, có bảo đảm trong cơ chế thị trường (cơ sở của Luật lương tối thiểu) và tạo thuận lợi để cải cách cơ bản chính sách tiền lương. Phương pháp tích số này khác cơ bản và khắc phục được nhược điểm của việc xác định miền tiền lương tối thiểu theo 4 phương pháp tiếp cận đã thực hiện ở nước ta hiện nay.
2.2. Xác định tần suất điều chỉnh mức lương tối thiểu
Do các yếu tố dùng để xác định mức lương tối thiểu được xác định theo số liệu thống kê hàng năm, vì vậy về nguyên tắc mức lương tối thiểu cũng phải điều chỉnh theo năm. Tuy nhiên, trong trường hợp nền kinh tế gặp khó khăn do tăng trưởng chậm, khủng hoảng, thiên tai,... thì mức lương tối thiểu có thể điều chỉnh theo giai đoạn trong nhiều năm, nhưng nguyên tắc cao nhất là phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động của người lao động. Đồng thời để duy trì trạng thái cân bằng của thị trường lao động thì tỷ lệ thất nghiệp là căn cứ rất quan trọng để quyết định tần suất điều chỉnh mức lương tối thiểu.
2.3. Thay đổi cơ chế áp dụng mức lương tối thiểu
Trên cơ sở thay đổi phương pháp xác định mức lương tối thiểu chung như đề cập ở trên, cần thay đổi cơ chế áp dụng mức lương tối thiểu theo hướng:
- Đối với các doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động:
Tiến tới bãi bỏ cơ chế quy định hệ số tăng thêm tiền lương tối thiểu so với mức lương tối thiểu chung như đang làm hiện nay, tiến tới áp dụng 01 mức lương tối thiểu chung giữa các loại hình doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp FDI). Việc áp dụng mức lương tối thiểu thực trả cao hơn mức lương tối thiểu chung để doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp tự quyết định tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động và quyền tự chủ của đơn vị.
- Đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước:
+ Xem xét sửa đổi lại Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng quy định đóng, hưởng bảo hiểm xã hội trên cơ sở mức lương thực trả thay cho việc tính theo mức lương tối thiểu chung như đang làm hiện nay. Trên cơ sở đó, tiền lương của các đối tượng này được điều chỉnh (tăng, giảm) theo mặt bằng tiền lương thực trả trên thị trường và như vậy có lẽ không cần thiết phải quy định lương tối thiểu đối với các đối tượng này.
+ Trường hợp chưa sửa Luật Bảo hiểm xã hội (vẫn tính đóng, hưởng trên cơ sở mức lương tối thiểu chung) thì để đồng thuận trong xã hội (do lương hưu tính theo % lương tại chức) không nên áp dụng mức lương tối thiểu riêng đối với công chức tại chức cao hơn mức lương tối thiểu chung mà thực hiện theo hướng quy định áp dụng chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức tại chức theo sự thay đổi của tiền lương trên thị trường lao động (mức phụ cấp được xác định bằng chênh lệch giữa mức lương thấp nhất thực trả tính bình quân trên thị trường lao động so với mức lương tối thiểu chung từng thời kỳ).
Thực hiện thống nhất 01 mức lương tối thiểu giữa các loại hình doanh nghiệp và thực hiện cơ chế điều chỉnh tiền lương của cán bộ, công chức theo mặt bằng tiền lương thực trả trên thị trường lao động chính là cơ sở để thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt (có lên, có xuống) theo thị trường lao động; đồng thời cơ bản khắc phục được bất hợp lý giữa tiền lương của cán bộ, công chức với tiền lương của khu vực doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và chống tham nhũng. Theo định hướng này thì mức lương tối thiểu chung hiện nay cần điều chỉnh tăng tương đối cao (hiện nay mức lương tối thiểu chung 450.000 đồng cho khu vực trong nước mới đạt khoảng 63% mức lương tối thiểu theo vùng thấp nhất 710.000 đồng của khu vực FDI, đó là chưa tính trượt giá và tăng trưởng kinh tế hằng năm). Việc tăng lương tối thiểu ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như cơ cấu chi ngân sách nhà nước, thất nghiệp, giá cả, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tương quan mức sống giữa các tầng lớp dân cư,... Đây là thách thức lớn nhất của cải cách cơ bản chính sách tiền lương ở nước ta và chỉ khi tiền lương tối thiểu (nền của chính sách tiền lương) phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng các thang lương, bảng lương, phụ cấp lương, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập đối với các đối tượng hưởng lương mới có ý nghĩa đầy đủ trong thực tiễn.
2. Lộ trình thống nhất tiền lương tối thiểu
Khi gia nhập WTO, các cam kết hội nhập sẽ dựa trên nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp (DN). Yêu cầu hội nhập đặt ra là đến năm 2010 chúng ta phải thống nhất một mức lương tối thiểu, không phân biệt loại hình DN, nhằm tuân thủ các cam kết của WTO. Nhà nước không còn can thiệp sâu vào cơ chế tiền lương, hai chế độ lương tối thiểu giữa khu vực DN trong nước và khu vực có vốn nước ngoài sẽ chấm dứt. Hiện nay chúng ta đang tồn tại 2 mức lương tối thiểu riêng cho 3 loại hình DN: DN Nhà nước từ tháng 1/10/2006 là 450.000 đ/tháng. DN tư nhân không được trả thấp hơn mức lương tối thiểu chung của Nhà nước. DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) mức thấp nhất là 710.000đ/tháng, cao nhất là 870.000 đ/tháng. Tính ra khoảng cách này quá lớn giữa 2 khu vực DN. Lương tối thiểu tại khu vực FDI hiện đang gấp 2,02 lần so với khu vực trong nước. Nhưng chúng ta chỉ có vài năm, liệu có thể rút ngắn và ngang bằng khoảng cách đang ngày một tăng giữa 2 mức lương tối thiểu? Nhiều tính toán hiện nay cho biết, trong thời gian ngắn mà phải chi trả số lương cao gấp hơn 2 lần thì các DN vừa và nhỏ hầu như không đủ sức về tài chính để chi trả, mà loại hình DN này ở nước ta có khoảng 200.000 DN. Nếu chi trả được thì phải có sự tăng tốc "phi mã" mới đạt được 870.000đ/tháng vào năm 2010, tương đương với mức cao nhất ở khu vực DN FDI hiện nay, đây là chưa kể lương tối thiểu ở các DN FDI vẫn tiếp tục tăng vào năm 2008 và 2010. Song, điều đáng nói là lương tối thiểu hiện nay có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh. Khác với nước ngoài, lương tối thiểu Việt Nam là cơ sở để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc. Bởi thế, mỗi lần tăng lương tối thiểu là một lần ngân sách Nhà nước (NSNN) oằn mình gánh thêm hàng loạt khoản tăng theo. Đó là lý do vì sao mức lương tối thiểu nhiều năm qua không được cải thiện đáng kể.
Sẽ có sự chuyển dịch cơ cấu lao động
Với 96% các DN Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ. Nếu so sánh với các DN vừa và Nhà nước ngoài, thì các DN của ta thuộc dạng siêu nhỏ, cả quy mô tài chính và lao động... Do vậy nếu tăng lương tối thiểu cho tất cả các loại hình DN sẽ ảnh hưởng tới tình trạng việc làm của người lao động trong khối DN này. Bởi khả năng chi trả cho DN là khác nhau. Sẽ có những DN thua lỗ phá sản, mất công nhân và một kịch bản khó tránh khỏi là không ít người lao động bị sa thải bổ sung vào đội ngũ thất nghiệp hoặc chuyển dịch việc làm sang khu vực DN khác. Mặt khác, khi lương tối thiểu tăng có thể sẽ ảnh hưởng đến việc ra đời thêm các DN tư nhân (những DN này hiện nay tạo việc làm khá nhiều cho lực lượng lao động dôi dư) vì chi phí lao động cao khiến chủ DN phải cân nhắc. Khi cơ hội tìm việc làm ở các DN tư nhân giảm thì cũng có nghĩa là sức ép giải quyết công ăn việc làm cho lao động dôi dư của khu vực DN Nhà nước tăng lên. Điều này gây thêm sức ép cho vấn đề giải quyết việc làm khu vực Nhà nước.
Một giả thuyết được đưa ra là trong khi có thể có sự chuyển dịch mạnh mẽ nguồn lao động phổ thông thì tình trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng lại có thể xảy ra. Bởi 2 lý do sau: Thứ nhất, trước sức ép tài chính cho trả lương, sự thiếu hụt lao động có kỹ năng sẽ dẫn đến một thực tế là DN phải trả mức lương cao để có thể tuyển được lao động có trình độ. Điều này sẽ tốt hơn việc có nhiều lao động phổ thông mà không hiệu quả. Thứ hai, khi lương tối thiểu được nâng lên ở một mặt bằng chung cho tất cả các loại hình DN thì lực lượng lao động có kỹ năng cũng yên tâm khi có đồng lương ổn định và khả năng nhảy việc sẽ ít xảy ra.
Vấn đề đặt ra đối với các DN Việt Nam khi thống nhất lương tối thiểu là: phải duy trì và ổn định được lực lượng lao động, nhất là lực lượng lao động có kỹ thuật, tay nghề. Tuy nhiên, nếu các DN trong nước xem đợt điều chỉnh lương tối thiểu như một cuộc kiểm duyệt thử sức trước khi vào WTO, có lẽ các DN sẽ biết biến áp lực thành động lực để phát triển nâng cao sức cạnh tranh. Việc thay đổi mức LTT chắc chắn có hai tác động lớn, nhất là các DN sử dụng nhiều LĐ. Một là, tăng lương thì người lao động sẽ làm việc tốt hơn và DN sẽ "giữ chân" được LĐ. Nhưng ngược lại, chi phí đầu vào của DN tăng, rồi chi phí đóng bảo hiểm cho NLĐ cũng tăng. Vậy thì DN cần phải tính toán tốt nhất mức tăng chi phí đầu vào và mức tăng năng suất của NLĐ tạo ra để năng suất lao động tạo ra phải cao hơn.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nhà xuất bản giáo dục - Giáo trình kinh tế lao động PGS, PTS Phạm Đức Thành và PTS Mai Quốc Chánh
Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Đổi mới cơ chế và chính sách quản lý lao động tiền lương trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Tống Văn Đường
Nhà xuất bản thống kê – Tìm hiểu về cải cách chính sách tiền lương
Thị truòng lao động Việt Nam định hướng và phát triển - N
guyễn Thị Lan Hương
www.vnn.vn
www.mof.gov.com
www.nguoilaodong.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Q0088.doc