Đề tài Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Đã có hơn 800 Công ty của hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư tại Việt Nam trong đó có một số Công ty tầm cỡ hàng đầu thế giới khiến thị trường thêm sôi động. Mỹ, các nước Tây Âu và Nhật Bản chú trọng đầu tư vào khai thác dầu khí sản xuất và lắp ráp ô tô, điện tử, viễn thông, thì các nước NICs lại tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ điện tử, chế biến thực phẩm và khách sạn, du lịch. Đến nay đã có 48 khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập và hoạt động tại 3 vùng kinh tế trọng điểm, thu hút 357 xí nghiệp chủ yếu là các xí nghiệp vừa và nhỏ từ Đài Loan, Hàn Quốc, Singapo và Nhật Bản . Trong số các đối tác nước ngoài, các nước NICs ở Đông Á, các nước ASEAN và Nhật Bản luôn là những đối tác dẫn đầu chiếm khoảng 3/4 số vốn. Tính đến cuối năm 1997, nhóm nước này có 1340 dự án với tổng số vốn đăng ký 21.820.000 USD chiếm 69,8 % dự án và 67,9% vốn đầu tư nước ngoài của các dự án đang hoạt động. Nếu như trong những năm đầu thực hiện luật đầu tư nước ngoài, Đài Loan và Hồng Kông luôn là những đối tác dẫn đầu thì từ năm 1993 Nhật Bản, Singapo, Hàn Quốc và một số nước ASEAN đã trở thành những nhà đầu tư lớn chiếm ưu thế trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng. Với vị trí số một năm 1993 thuộc về Malaixia, năm 1994 thuộc về Singapo, năm 1995 thuộc về Nhật Bản , năm 1996 thuộc về Singapo (tính theo số vốn đăng ký của các dự án đang hoạt động). Sự đổi ngôi này trong vị trí đầu tư thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng của các nước, trước hết là các nước Châu Á đối với thị trường đầu tư Việt Nam. Sau hơn 10 năm thực hiện đầu tư FDI nguồn vốn đầu tư từ các nước Châu Á - Thái Bình Dương chiếm tỷ trọng 71,53% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, trong khi đó nguồn vốn đầu tư các nước công nghiệp phát triển khác như Anh, Đức, Mỹ còn chiếm tỉ trọng thấp. (Bảng 10)

doc60 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u trường hợp vào kiểm tra gian lận thương mại, các cơ quan hải quan đã giữ hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu ở cửa khẩu khá lâu gây ách tắc cho hoạt động các doanh nghiệp FDI. 2.2.5. Yếu kém trong việc kiểm tra của các cơ quan chức năng đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Có thể nói trong lĩnh vực này chúng ta kiểm tra thì nhiều nhưng chất lượng không đạt yêu cầu vì cán bộ được cử đi kiểm tra chưa đủ trình độ phát hiện những vi phạm của đơn vị, đặc biệt là lĩnh vực tài chính, về giá nhập khẩu nguyên liệu, giá xuất khẩu thành phẩm đích thực. Sự buông lỏng quản lý, trong đó bao gồm công tác kiểm tra của các đơn vị chủ quản bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài đã dẫn đến tình trạng không phát hiện được những yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, chỉ đến khi doanh nghiệp lỗ hàng trăm tỷ đồng, cơ quan quản lý Nhà nước mới được biết. II- Những nét cơ bản trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN và quá trình đổi mới chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. 1. Những nét cơ bản trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN. Nói chung, luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN đều đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung. Đến nay, nét nổi bật của chúng có thể nêu tóm tắt như sau: 1.1. Đối với Singapo. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nguồn vốn quan trọng nhất trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá. Khác với nhiều nước khi tiến hành công nghiệp hoá, Singapo không đi vay nợ để đầu tư. Để giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư, Chính phủ Singapo đã tạo một môi trường hấp dẫn cho các nhà tư bản nước ngoài trực tiếp bỏ vốn vào đầu tư. Trong kêu gọi và thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài Chính phủ Singapo sử dụng chủ yếu các đòn bẩy kinh tế để điều chỉnh theo mục tiêu và cơ cấu kinh tế của quá trình công nghiệp hoá. Nhằm hướng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực như mục tiêu phát triển kinh tế của Singapo, Chính phủ đã dự kiến trước và đưa ra bảng phân loại các xí nghiệp, các ngành sản xuất cần gọi vốn đầu tư và đi cùng với nó là các chế độ ưu đãi cụ thể và có phân biệt. Đối với những xí nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn, các chủ đầu tư được hưởng các ưu đãi đặc biệt. Nếu vốn đầu tư có quy mô từ 1 triệu đô la Singapo (SD) trở lên được miễn thuế 5 năm (kể cả lãi ỏ phần và thuế thu nhập). Đối với những xí nghiệp đầu tư sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu, hàng năm có giá trị hàng hoá xuất khẩu ít nhất 100.000 SD được miễn 90% thuế. Nếu xí nghiệp thuộc loại sản xuất không phải hướng về xuất khẩu thì đánh thuế với mức tỷ suất 40% thì xí nghiệp thuộc loại sản xuất hướng về xuất khẩu chỉ bị đánh ở mức 4%. Nếu một xí nghiệp thuộc loại sản xuất hướng về xuất khẩu lại vừa là xí nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn thì thời gian được hưởng chế độ miễn thuế kéo dài tới 8 năm. Và nếu xí nghiệp vừa có cả hai điều kiện trên lại có vốn đầu tư vào tài sản cố định từ 150 triệu USD trở lên thì thời gian được miễn thuế có thể kéo dài tới 15 năm. Còn đối với vốn đầu tư vào các xí nghiệp trên cơ sở mở rộng, nâng cấp các xí nghiệp hiện có, và mặc dù có quy mô 10 triệu USD trở lên, tuy cũng được hưởng một số ưu đãi, nhưng chỉ được hưởng tỷ lệ miễn giảm thuế so với các loại xí nghiệp nêu trên. Trong khi đó, đối với một số xí nghiệp mặc dù có quy mô nhỏ (vốn đầu tư từ 1 triệu USD trở xuống) nhưng nếu sản phẩm sản xuất ra thuộc loại chất lượng cao thì vẫn được hưởng ưu đãi về thuế. Các loại xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (nói chung) đều được miễn thuế nhập khẩu các thiết bị có liên quan đến việc thực hiện dự án đầu tư, được phép tự do chuyển lợi nhuận về nước, nếu trong quá trình kinh doanh còn bị lỗ thì được xem xét để kéo dài thời gian miễn giảm thuế. Tóm lại, để thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Chính phủ Singapo coi đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một bộ phận không thể thiếu được trong cơ thể kinh tế thống nhất của họ. 1.2. Đối với Malaixia: Có thể nói Malaixia là một trong những quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn bởi: Sự ổn định của chính trị - xã hội, sự phát triển của kết cấu hạ tầng cơ sở, sự nhanh nhạy linh hoạt của Chính phủ trong việc ban hành các chính sách kinh tế (nhất là chính sách đối với đầu tư nước ngoài) phù hợp với đặc điểm thực tế của từng thời kỳ. Chính phủ Malaixia không trưng thu, không quốc hữu hoá đối với vốn đầu tư của các nhà tư bản nước ngoài. Đồng thời, cho phép các nhà đầy tư nước ngoài được tự do chuyển lợi nhuận về nước. Về các chế độ ưu đãi: Cũng tương tự như Singapo, Chính phủ Malaixia đã căn cứ vào đặc điểm, vị trí, trình độ công nghệ, danh mục khuyến khích của ngành nghề: Quy mô xuất khẩu sản phẩm quy mô và khu vực đầu tư để đề ra chính sách, trong đó quy định rõ các mức độ ưu đãi. Thí dụ: Đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nếu thuộc đối tượng là các “xí nghiệp tiên phong” các xí nghiệp sử dụng nhiều lao động thì được hưởng chế độ miễn giảm thuế từ 2 - 5 năm (tuỳ quy mô đầu tư). Đối với các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực miền Tây, miền Trung - Bắc và một số khu vực xa xôi hẻo lánh thuộc miền Đông thì thời gian miễn giảm thuế có thể kéo dài đến 10 năm. So với nhiều quốc gia thì chính sách đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaixia có điều tương đối đặc biệt là chỉ sau 10 năm kêu gọi vốn đầu tư trược tiếp nước ngoài, Chính phủ Malaixia đã ban hành chính sách khống chế dần tỷ lệ vốn nước ngoài trong các doanh nghiệp liên doanh, tuy nhiên, chính sách này chỉ với mục đích nhằm nâng cao vị trí của các nhà đầu tư trong nước, đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích, cũng như những dự kiến của các nhà đầu tư nước ngoài. 1.3. Đối với Indonexia. Giống như nhiều nước khác, Chính phủ Indonexia đã đưa ra một danh mục các ngành nghề và khu vực cần ưu tiên, mà ở đó sẽ có các chế độ khuyến khích đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu như trước đây có một số lĩnh vực cân đối với đầu tư nước ngoài như: Điện lực, hải cảng, thông tin, các ngành bất động sản, nhà hàng, khách sạn, may mặc, thì nay Chính phủ Indonexia đã cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép đầu tư kinh doanh trong các lĩnh vực này. Về tỷ lệ góp vốn: Nếu khi trước đây trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được góp một tỷ lệ cổ phần không quá 49% thì nay tỷ lệ được nâng lên không quá 95%. Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, Chính phủ Indonexia cho phép các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đầu tư cổ phiếu trong các ngân hàng thương mại với tỷ lệ tối đa là 49%. Bên cạnh mở các ngân hàng tại thủ đô, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được phép mở các chi nhánh ngân hàng tại 6 thành phố khác. Về thời gian hoạt động các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định tối đa không quá 30 năm (trước đây là 15 năm). Đối với các doanh nghiệp thuộc danh mục ưu tiên đều được cấp giấy phép cố định và họ được quyền tự do mở rộng sản xuất, thay đổi chủng loại sản phẩm trong phạm vi quy định của ngành. Và, được quyền tăng công suất sản xuất lên không quá 30% so với công suất ghi trong giấy phép đầu tư. Các ưu đãi về thuế: Indonexia hoàn toàn miễn thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá, vật tư thiết bị nhập khẩu phụ vụ cho việc thực hiện các dự án đầu tư. Miễn thuế lợi nhuận công ty (kể cả phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư) thuế lãi cổ phần với thời hạn không quá 5 năm kể từ khi xí nghiệp bắt đầu hoạt động (hoặc từ thời điểm số lợi nhuận bắt đầu tái đầu tư) sau thời gian trên, được giảm 50% thuế lợi nhuận công ty với thời hạn không quá 5 năm. Trong quá trình hoạt động, nếu doanh nghiệp bị Nhà nước Indonexia quốc hữu hoá, hoặc không may gặp rủi ro thì tuỳ theo mức độ cụ thể, Chính phủ Indonexia sẽ bồi hoàn số thiệt hại đó. 1.4. Đối với Philipin: Chính phủ cũng đã có những thay đổi lớn trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như trước đây việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng là do Nhà nước độc quyền, thì nay, Chính phủ Philipin đã khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư theo công thức xây dựng kinh doanh - chuyển giao (BOT). Đồng thời đối với một số lĩnh vực trước đây chỉ khống chế một tỷ lệ nhất định phần góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài như ngành hoá dầu, ngành điện, kinh doanh xăng dầu.... thì nay cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào đó có thể tới mức 100% vốn nước ngoài. Về hoạt động tài chính tiền tệ Chính phủ Philipin cho phép mở các chi nhành ngân hàng nước ngoài hoàn toàn mới hoặc có thể mua với 70% cổ phiếu cuả ngân hàng Philipin. Đối với đầu tư nước ngoài, tiền lợi nhuận, tiền lương và mọi khoản thu nhập của người nước ngoài sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ có thể chuyển ra nước ngoài một cách tự do, mà không cần một sự hạn chế nào cả. Ngoài ra, người nước ngoài được miễn thuế thu nhập 3 năm (kể từ ngày doanh nghiệp kinh doanh có lãi) và giảm 50% trong thời hạn 5 năm tiếp theo, sau đó đối với từng trường hợp cụ thể có thể xem xét để giảm 15% trong thời hạn từ 5 năm đến 10 năm. Đối với các vật tư, thiết bị đưa vào thực hiện dự án đầu tư, cũng như hàng hoá tiêu dùng (trong khoảng thời gian từ 4 - 8 năm, tuỳ theo loại dự án) của những người vào làm việc trong các dự án đều được miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu. Trong quá trình kinh doanh, nếu bị lỗ, Chính phủ Philipin cho phép các doanh nghiệp lấy lợi nhuận của năm sau để bù cho số tiền bị lỗ của các năm trước đó. 1.5. Đối với Thái Lan. Hàng năm Chính phủ đều đưa ra bảng danh mục các cơ sở cần gọi vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có ghi rõ theo thứ tự ưu tiên. Chính sách ưu tiên đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thể hiện rất rõ ý đồ điều chỉnh, hướng dẫn đầu tư trong ngành và vũng lãnh thổ của Chính phủ Thái Lan. Đối với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư vào các khu vực loại 2, loại 3 ngoài Băng Kốc, đều được miễn thuế nhập khẩu vật tư, thiết bị và miễn thuế doanh thu trong thời hạn từ 4 đến 8 năm. Tóm lại, giữa các quốc gia này có nhiều điểm giống nhau trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng thực tế lại đạt được những kết quả rất khác nhau trong thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để có được những kết quả khác nhau đó, cái chính không phải là ở chỗ khác nhau trong chính sách mà còn ở khác nhau về tính hấp dẫn của môi trường đầu tư (nói chung). Trải qua thời gian, chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước này cũng biết bao lần điều chỉnh, sửa đổi rồi mới khẳng định được sự tồn tại và đóng góp của mình cho quá trình phát triển của các nước như hôm nay. Vậy ở nước ta quá trình đổi mới chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam như thế nào? 2. Quá trình đổi mới chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam: Chính phủ Việt Nam luôn thể hiện sự mong muốn cố gắng tạo ra một môi trường hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và làm cho công tác đầu tư nước ngoài ở nước mình ngày một đạt hiệu quả hơn. “Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/11/1996 chính là dựa trên cơ sở kế thừa, bổ sung, đổi mới và hoàn thiện các luật cùng loại đã ban hành trong các thời kỳ trước đây. 2.1. Điều lệ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 1977. Đây là văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về đầu tư trực tiếp nước ngoài là “để phục vụ tốt công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam”. Với mục đích như vậy, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và hai bên cùng có lợi “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoan nghênh việc đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam” Các hình thức đầu tư gồm: Hợp tác sản xuất chia sản phẩm, xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp, xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Trong đó, vốn của bên nước ngoài góp vào xí nghiệp hoặc công tư hỗn hợp không dưới 30% và không vượt quá 49% tổng số vốn. Thời gian hoạt động từ 10 đến 15 năm, trường hợp đặc biệt có thể kéo dài hơn. Mức thuế lợi tức của các công ty, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được điều lệ qui định là 30%, 40%, 50% tuỳ theo ngành nghề đầu tư. Nhìn chung, ba mức thuế lợi tức nên trên không thể hiện rõ sự khuyến khích đầu tư với số vốn lớn, với kỹ thuật sản xuất cao mà mới chỉ khuyến khích đầu tư vào ngành sản xuất dành cho xuất khẩu. Các xí nghiệp, công ty ở những ngành kinh tế đòi hỏi kỹ thuật cao và có số vốn đầu tư lớn lại phải nộp mức thuế cao hơn mức thuế ở các ngành xuất khẩu 10%. Về vấn đề vốn, điều lệ qui định mức góp vốn tối đa của bên nước ngoài không vượt quá 49%. Thời gian hoạt động từ 5 -10 năm “nếu do yêu cầu của nền kinh tế quốc dân phải quốc hữu hoá thì Chính phủ Việt Nam sẽ mua lại theo giá cả hợp lý, do các bên thoả thuận. Tiền mua lại được trả bằng ngoại tệ mức đầu tư, trong một thời gian thoả đáng”. Có thể nói đây chính là một trong những yếu tố tác động làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. 2.2 Luật đầu tư nước ngoài 1987. So với điều lệ 1977, luật này đã cụ thể hơn, rõ ràng hơn và thực tế hơn. đầu tư nước ngoài được coi là biện pháp để mở rộng hợp tác với nước ngoài nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là biện pháp được sử dụng nhằm “khai thác có hiệu quả tài nguyên lao động và các tài nguyên khác để đẩy mạnh xuất khẩu”. Thái độ của Nhà nước đối với vấn đề đầu tư nước ngoài sáng rõ hơn “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ hoan nghênh mà còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam”. Khác với điều lệ 1977, luật 1987 cam kết “đảm bảo quyền sở hữu đối với vốn đầu tư ... tạo mọi điều kiện thuận lợi và định các thủ tục dễ dàng” cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Chính phủ đảm bảo “vốn và tài sản của các tổ chức cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính. Xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không bị quốc hữu hoá” và “đối xử công bằng và thoả đáng đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài” thời gian hoạt động của các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được nới rộng không quá 20 năm. Luật 1987 không qui định mức góp vốn tối đa mà chỉ qui định mức tối thiểu không thấp hơn 30 % tổng số vốn đầu tư. Luật này cũng đưa ra những mức thuế nhằm ưu đãi hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thuế lợi tức từ mức 30%, 40%, 50% giảm xuống chỉ còn các mức từ 15% đến 25% tổng lợi nhuận thu được. Thêm vào đó các công ty, xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được miễn thuế trong thời gian 2 năm và giảm 50% thuế trong 2 năm tiếp theo kể từ khi có lãi. Lợi nhuận của các nhà đầu tư được tự do chuyển ra nước ngoài và chỉ phải chịu mức thuế từ 5 đến 10%. Nếu số lợi nhuận này dùng để đầu tư trở lại thì sẽ được miễn thuế. Có thể nói rằng luật đầu tư nước ngoài 1987 đã tiến một bước rất dài so với điều lệ 1977. Nhận thức của chúng ta về vai trò, vị trí, tác dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân rõ ràng, thực tế hơn. Tính mục đích của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bộ luật thể hiện rõ hơn, cụ thể hơn. Lợi ích kinh tế của đất nước được đặt ra hài hoà hơn trong mối quan hệ với chủ quyền kinh tế luật đầu tư này lần đầu tiên mang sắc thái của một luật khuyến khích đầu tư. 2.3. Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi bổ sung) 1992 Luật lần này nêu vấn đề tư nhân tham gia tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách cụ thể hơn; rõ ràng hơn và có tính khả thi hơn. Bên Việt Nam là “một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế” gồm doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, các doanh nghiệp được thành lập theo luật công ty, doanh nghiệp tư nhân thành lập theo luật doanh nghiệp tư nhân. Như vậy khác luật sửa đổi năm 1990 mọi thành phần kinh tế ở nước ta đều có thể tham gia hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư luật năm 1992 mở ra các hình thức đầu tư nước ngoài mới, đó là hình thức khu chế xuất và hợp đồng xây dựng, kinh doanh chuyển giao. Đây là một bước tiến đáng kể về quan điểm: từ không chấp nhận (trước 1977) đến chấp nhận đầu tư nước ngoài ở từng xí nghiệp, công ty và đén giai đoạn này là cho phép hình thành khu kinh tế nước ngoài có ranh giới địa lý trên lãnh thổ Việt nam - khu chế xuất. Hơn thế trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của các bên tham gia hợp tác đầu tư thì Nhà nước Việt Nam sẽ “có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư”. Lần đầu tiên chúng ta có quy định khuyến khích các dự án sử dụng nhiêù lao động. Điều 67 áp dụng thuế suất 20% cho các dự án có 2 trong số các điều kiện sau: sử dụng từ 500 lao động trở lên, sử dụng công nghệ tiên tiến xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm, vốn pháp định hoặc vốn đóng góp để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh có ít nhất từ 10 triệu USD trở lên. 2.4. Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi bổ sung) 1996 Với đường lối nhất quán nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, Nhà nước Việt Nam “bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài: Tạo điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam”. Chậm nhất là 60 ngày kể từ ngày các nhà đầu tư nạp đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan cấp giấy phép Việt Nam sẽ chính thức thông báo kết quả xem xét đơn đề nghị của họ. Luật đầu tư 1996 định rõ lĩnh vực và địa bàn cần khuyến khích đầu tư như: sản xuất hàng xuất khẩu: nuôi trồng chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam; xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng; đầu tư vào địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa; những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Nếu như các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải nộp thuế lợi tức bằng 25% lợi nhuận, các doanh nghiệp thuộc đối tượng khuyến khích đầu tư phải nộp 20% thì các doanh nghiệp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích chỉ nộp 15% và nếu là doanh nghiệp thuộc đối tượng đặc biệt khuyến khích thì chỉ phải nộp 10%. Cũng tùy theo lĩnh vực và địa bàn đầu tư mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được miễn thuế lợi tức tối đa là 2 năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu kinh doanh có lãi, sau đó được giảm 50% thuế lợi tức trong thời gian tối đa là 2 năm tiếp theo. Đối với các doanh nghiệp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì thời gian miễn (cũng như giảm 50%) thuế lợi tức tương ứng tối đa là 4 năm. Các doanh nghiệp thuộc đối tượng đặc biệt khuyến khích đầu tư thì thời gian miễn thuế lợi tức có thể được kéo dài hơn, nhưng tối đa không quá 8 năm. “Chính phủ Việt Nam khuyến khích việc chuyển giao nhanh công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến”. Đồng thời “bảo đảm việc hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu và một sô công trình quan trọng khác”. 3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. 3.1. Mục đích của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được thể hiện rõ trong nội dung luật mới tiên tiến, đã được biến thành các điều mục ưu đãi về tài chính và các điều kiện đầu tư khác trong các chính sách của chúng ta. Tuy vậy, thứ tự ưu tiên của các mục tiêu ấy cần phải được làm rõ hơn. Chẳng hạn, giữa yêu cầu giải quyết việc làm và đổi mới công nghệ cần phải xử lý đúng đắn hơn trong từng thời kỳ. Trước mắt cần khuyến khích và ưu đãi những dự án sử dụng nhiều lao động để tạo thêm nhiều việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp và tăng nguồn tích luỹ cho đất nước. Mặt khác, trong những giới hạn nhất định có thể ưu tiên tiếp thu những công nghệ bậc cao nhằm sản xuất những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế hoặc thay thế nhập khẩu. 3.2. Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ còn biểu hiện thiếu cân đối. Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh các chính sách ưu đãi về tài chính và điều kiện đầu tư có lẽ nên có thêm những quy định khác thuận lợi hơn, nhằm thu hút ngày càng nhiều hơn các dự án đầu tư cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa của đất nước. 3.3. Một trong những mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là phát huy thế mạnh về tài nguyên đa dạng của nước ta. Do đó, cần thiết phải có quy hoạch tổng thể về khai thác và bảo vệ để đảm bảo phát triển bền vững. Các mối quan hệ cần phải giải quyết bằng các chính sách ở đây là: cái gì ta tự khai thác và cái gì cần đầu tư hợp tác, khai thác và chế biến ở mức độ nào, tạm thời xuất khẩu nguyên liệu thô, hay phải là xuất khẩu sản phẩm, khai thác và bảo vệ môi trường, cần khai thác và khuyến khích khai thác và tái tạo v.v... 3.4. Một thực tế là trong các xí nghiệp liên doanh, bên Việt Nam chỉ có số vốn góp rất thấp; chủ yếu bằng tiền thuê đất, tiền nhà xưởng, thiết bị cũ do đó không những phần lãi được chia thấp mà sau này khi hết hạn, thanh lý hợp đồng sẽ bất lợi cho phía ta. Vấn đề là cần phải cải biến mối tương quan này trong thời gian tồn tại của dự án. Biện pháp duy nhất là chính sách tài chính: thuế và giá thuê sao cho phía Việt Nam có thể mua dần cổ phần, để khi kết thúc dự án phía ta có thể nhận cơ sở mà không hoặc ít phải thanh toán chi phí. 3.5. Việt Nam chưa có được một thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động để tạo ra khả năng huy động các nguồn vốn trong nước đáp ứng cho các nhu cầu đầu tư. Đó là một trong những yếu tố gây nên tình trạng: Một số doanh nghiệp trong nước khi thiếu vốn để duy trì và mở rộng sản xuất thường mang nặng tâm lý tìm cách kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà chưa tìm được giải pháp để khai thác các nguồn vốn trong nước. 3.6. Một số biểu hiện thiếu ổn định trong chính sách xuất nhập khẩu, trong chính sách tiền tệ (nhất là đối với ngoại tệ) của chúng ta trong thời gian qua cũng đang trở thành những tác động không tốt đối với các nhà đầu tư (nhất là các nhà đầu tư nước ngoài) III. Những điều kiện và giải pháp để gia tăng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong điều kiện khủng hoảng. 1. Nhiệm vụ thu hút FDI trong thời gian tới. Chúng ta đặt mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đến năm 2020 với tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 9% - 10% năm. Đây là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn bởi vì tích luỹ dành cho đầu tư của chúng ta rất thấp, mục tiêu đặt ra là phải đạt tổng mức vốn đầu tư tối thiểu từ 250 - 300 tỷ USD trong giai đoạn 2000 - 2010. Trong khi các chính sách và biện pháp động viên thu hút vốn đầu tư từ khu vực ngoài quốc doanh còn chưa phát huy hiệu quả vì việc hoạt động qua việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài đang được tiến hành rất dè dặt, cũng như thị trường chứng khoán chưa hình thành. Nếu gửi tỷ lệ như thời kỳ 10 năm trước thì nguồn vốn này dự kiến sẽ được huy động từ bên ngoài gồm ODA khoảng 15 - 20 tỷ/năm còn lại cho 100 tỷ USD sẽ huy động qua FDI (bình quân mỗi năm cần thu hút 10 tỷ USD). Nếu so sánh mức huy động vốn FDI trong 10 năm qua trung bình 1 năm đạt được 3,2 tỷ USD thì có thể thấy được đây là một nhiệm vụ không đơn giản. Trong khi đó cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á dù ít dù nhiều cũng đã và sẽ ảnh hưởng tới hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Chính vì vậy mà để thực hiện được nhiệm vụ đặt ra đối với FDI trong 10 năm tới cần có những điều kiện và giải pháp cụ thể. 2. Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về quá trình thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI cho công nghiệp hoá. 2.1. ổn định kinh tế và chính trị là cơ sở để tăng cường thu hút FDI. Khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư dài hạn, ổn định chính trị và kinh tế là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là các nước mới chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế cao, dung lượng thị trường lớn khiến Trung Quốc và ASEAN có môi trường hấp dẫn FDI nhất. 2.2. Cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam, FDI là nguồn vốn bổ sung cực kỳ quan trọng phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 dự tính chúng ta sẽ thu hút và sử dụng khoảng từ 13 - 15 tỷ USD FDI (trong tổng vốn huy động khoảng 40 tỷ USD. Mục đích này khó hoàn thành nếu môi trường đầu tư không được cải thiện. Hiện nay, giá thuê nhà đất ở Việt Nam quá cao, tới mức gần tương đương với các thành phố đắt đỏ nhất thế giới. Hơn nữa, tình trạng tham nhũng, quan liêu hành chính, tiêu cực, kém hiệu quả. Vẫn còn khá phổ biến. Phương thức quản lý cồng kềnh, các thủ tục rắc rối, phiền hà, kéo dài thời gian làm giảm lại tiến độ phê chuẩn và thực hiện dự án. Những hạn chế này làm giảm sức hấp dẫn, sức cạnh tranh của thị trường đầu tư Việt Nam, do vậy bên cạnh luật đầu tư, các văn bản dưới luật cũng phải nhằm mục tiêu khắc phục những bất hợp lý nảy sinh. Thi hành chế độ một cửa có hiệu lực, điều chỉnh hệ thống giá cả có liên quan nhằm giảm chi phí cho chủ đầu tư, chú trọng đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định dự án. Ngoài ra, cần huỷ bỏ những ràng buộc hệ thống ngân hàng và các dịch vụ kèm theo nhằm tạo môi trường thông thường cho các nhà đầu tư. Thành lập các khu vực mậu dịch tự do, khu chế xuất cho các ngành công nghiệp xuất khẩu hoạt động, khuyến khích hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là giải pháp hữu hiệu thu hút FDI và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào công cuộc kinh doanh ở Việt Nam. 2.3. Chú trọng xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng. Đây là điều hết sức quan trọng khi nhà đầu tư quyết định đầu tư vốn của mình. Cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư của dự án. Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn lạc hậu, đường xá cầu cống, bến cảng, sân bay, thông tin liên lạc v.v... của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được điều kiện sản xuất kinh doanh. 2.4. Nâng cao trình độ, chất lượng của nguồn nhân lực, là nước có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động quá rẻ. Nhưng khi FDI chuyển sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật, nó sẽ đòi hỏi trình độ của lực lượng cán bộ và tay nghề của công nhân. 2.5. Bên cạnh việc mở cửa đẩy mạnh phát triển các quan hệ đối ngoại, cần chú ý nâng cao năng lực nội sinh của dân tộc. Việt Nam kiên trì thực hiện chính sách mở cửa, từng bước hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế để tạo thuận lợi cho việc hội nhập: chú trọng phát triển các mối quan hệ hợp tác, chủ động tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh cuộc cạnh tranh toàn cầu quyết liệt, thì những cuộc cải cách trong nước về cơ cấu, tự do hoá về mặt chính sách, thắt chặt chi tiêu ngân sách, tăng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, hạn chế những ràng buộc đối với các doanh nghiệp, nâng cao năng lực trình độ cán bộ quản lý, các bộ kinh doanh nhằm có thể hấp thụ và biến những tác động ảnh hưởng thuận lợi của khu vực và kinh tế thế giới thành năng lực dân tộc, thì chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tụt hậu và đuổi kịp các nước trong khu vực. 2.6. Cần quan tâm đúng mực đến chiến lược quy hoạch tổng thể thu hút FDI. Đây là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định hiệu quả kinh tế - xã hội chung của đất nước, thiếu vốn chiến lược và quy hoạch tổng thể sẽ gây tác hại lâu dài khó khắc phục được hậu quả. 2.7. Tăng cường vai trò điều tiết, quản lý của Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu cho từng thời kỳ, trên cơ sở đó bố trí cơ cấu vốn đầu tư một cách hợp lý, thu hút FDI vào những ngành, vùng theo mục tiêu định hướng, tránh tình trạng tự phát. Đẩy mạnh việc cải cách nền hành chính quốc gia như: phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng trong bộ máy hành chính, tinh giảm theo hướng gọn nhẹ, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy này... nhằm ngăn chặn nạn tham nhũng, quan liêu, gây phiền hà cho các chủ đầu tư. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước theo quy định của pháp luật đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hoạt động này góp phần tìm ra những biện pháp, điểm yếu kém, những mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và đưa ra những giải pháp xử lý kịp thời, giữ cho môi trường đầu tư ổn định. Đảm bảo công bằng giữa các thành phần kinh tế. Khai thác tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế là rất quan trọng. Bên cạnh việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. Tất cả các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường cần có luật chơi chung, không phân biệt đối xử, tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng. Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc cải tổ hệ thống kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. 3. Những điều kiện và giải pháp để gia tăng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. 3.1. Những vấn đề thuộc về nhận thức ở tầm vĩ mô. Điều trước hết và quan trọng nhất là cần có nhận thức đúng và nhất quán đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, coi nó là một vấn đề của chiến lược kinh tế xã hội, coi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam... như đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta. ở đây sẽ đề cập đến 3 vấn đề về nhận thức cần được lưu ý. Một là có một số cặp quan hệ không thể không tính đến khi bàn đến đầu tư nước ngoài đó là kinh tế và chính trị, kinh tế và an ninh quốc gia, kinh tế và xã hội. Để giải quyết đúng đắn các cặp quan hệ này cần dựa trên cwo sở tư duy mới về thế giới sang chiến tranh lạnh, về một thế giới đa cực, đang chay đua vào thế kỷ mới bằng sức mạnh về kinh tế và khoa học công nghiện hiện đại. Hai là, vấn đề ta tự làm hay là cho cả người nước ngoài cùng làm cũng đang nổi lên như là một vấn đề thời sự. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối “đổi mới và mở cửa” của Đảng, chúng ta có đủ điều kiện để bàn bạc về việc ta tự làm mà phần lớn bằng vốn phải vay của nước ngoài, hay cho người nước ngoài cùng làm là có lợi. Chúng ta làm chủ đất nước, nên có cả hai quyền mà người nước ngoài không có: đó là quyền muốn làm cái gì, làm ở đâu, với quy mô nào cũng được và quyền cho phép người nước ngoài làm trong lĩnh vực nào, theo phương pháp nào đối với các dự án đầu tư của họ. Chúng ta không nên tranh luận một cách trừu tượng, lý thuyết chung chung, mà phải thật sự xuất phát từ thực tế đã diễn ra ở nước ta trong một thời gian dài có lẽ là đủ dài để đưa ra kết luận cần thiết, vì đây là vấn đề rất quan trọng trong chiến lược phát triển sắp tới. Chúng ta thử tính xem với cả hai quyền trên thì trong hơn 10 năm qua ta làm được bao nhiêu dự án có giá trị về công nghiệp, về chế biến nông sản thực phẩm, về khách sạn, du lịch v.v... Ba là, gắn liền với vấn đề trên là việc xử lý mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, giữa vốn ODA với vốn đầu tư nước ngoài. Trong năm năm 1991 - 1995, nước ta đã sử dụng 15,6 tỷ USD vốn đầu tư, trung bình mỗi năm hơn 3 tỷ USD, mặc dù đó là số vốn quá ít nếu so với các nước trong khu vực, nhưng cũng đã tạo ra được tốc độ phát triển cao, bởi vì điểm xuất phát để tính chỉ số tăng trưởng hàng năm còn rất thấp. Nhu cầu vốn đầu tư của thời kỳ 1996 - 2000 là 40 - 42 tỷ USD, gấp 2,7 lần năm trước đó. Vốn trong nước cần huy động là 21 - 22 tỷ USD, trong đó chỉ có vốn ngân sách mỗi năm khoảng 1 tỷ USD là chắc chắn mà nguồn vốn này xem ra cũng khó tăng nhanh được, bởi vì nguồn thu ngân sách tăng thêm cần phải thoả mãn bao nhiêu yêu cầu cấp bách về tăng chi thường xuyên để duy trì bộ máy Nhà nước, chi cho giáo dục, y tế, cho phúc lợi xã hội. Hai nguồn vốn đầu tư lớn nhất và ngày càng trở nên quan trọng hơn, là vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và vốn nhàn rỗi của dân cư thì vẫn còn là những đại lượng khó xác định. Các doanh nghiệp trước đây cũng trông vào vốn vay nước ngoài, hiện đang ở vào giai đoạn suy thoái, thua lỗ, ít có tích luỹ, còn các ngân hàng trong nước thì đang cần có thời gian củng cố thì mới mở rộng hoạt động tín dụng đầu tư được. Vấn đề đặt ra là nếu chúng ta coi nhiệm vụ có tính chiến lược của vài chục năm sắp tới là tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định thì lời giải của bài toán là phải tranh thủ mọi nguồn vốn có thể huy động được để bảo đảm mục tiêu đó, mà không nên tự định ra một giới hạn trên cho việc huy động các nguồn vốn đầu tư. 3.2. Những vấn đề cụ thể. Nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư bằng các biện pháp. 3.2.1. Những điều kiện và giải pháp trước mắt - Tổ chức triển khai nhanh vào hiệu quả Nghị định số 10/1998/NĐ - CP ban hành ngày 23 - 1 - 1998 của chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động trực tiếp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vì trong nghị định này đã giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục triển khai dự án, cách đánh thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi tức, cụ thể hoá những ngành, những vùng ưu tiên, ưu đãi đầu tư v.v... nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn FDI. - Tổ chức dịch chuẩn những văn bản pháp lý của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư FDI ra tiếng Anh ngay từ cấp ban hành và tổ chức thông tin chúng công khai ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị có liên quan tránh được sự diễn giải và áp dụng tuỳ tiện ở các cấp thừa hành gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Để hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự có ý nghĩa tích cực thì về cơ bản phải dung hoà được lợi ích của cả hai bên, thể hiện thiện chí của cả chủ đầu tư và nước tiếp nhận vốn đầu tư. Đối với chủ đầu tư, mục đích cuối cùng là lợi nhuận dù rằng ban đầu có thể không là như vậy, đối với nước tiếp nhận đầu tư là sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách, đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất và vươn ra thị trường thế giới... những mục tiêu trên đôi khi mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn để khuyến khích thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư thì nước muốn tiếp nhận phải sử dụng các đòn bẩy kinh tế, điều đó trước mắt sẽ giải quyết việc làm cho người lao động và ngược lại. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước ASEAN cũng như ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy để có thể thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ nhu cầu trong nước thì cần hoàn thiện môi trường pháp luật. + Thể chế hoá các quy định pháp lý kinh tế, đầu tư sang hình thức luật: Tuy khung pháp luật về đầu tư đã khá đầy đủ, nhưng để hoàn chính nước ta cần chuyển đổi những pháp lệnh, quy chế và các quy định bằng các văn bản dưới luật sang hình thức luật để có giá trị pháp lý cao hơn. Nhất là đối với quy chế khu công nghiệp tập trung, quy chế xây dựng khu đô thị mà hiện nay đã phát triển mạnh như khu công nghiệp Amata, đồng Nai với Thái Lan, hay khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (Sông Bé) khu đô thị Nam Thăng Long, đường Nam Nhà Bè - Bắc Bình Chánh. Việc thể chế hoá sẽ đem lại niềm tin ở các nhà đầu tư về việc đỡ phải đối phó với sự thay đổi điều chỉnh quá nhiều về pháp lý kinh tế, đầu tư, và trong điều kiện có thay đổi thì họ có thể yên tâm về bồi thường thiệt hại do những thay đổi quy định trong luật. + Hoàn thiện hệ thống luật kinh tế cần sớm ban hành các luật thương mại, luật kinh doanh bất động sản, luật thị trường và kinh doanh chứng khoán, quy chế khu công nghiệp kỹ thuật cao. Cần hoàn chỉnh các văn bản dưới luật về quy chế cổ phần hoá, bảo vệ môi trường, chuyển giao công nghệ, đấu thầu cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật phải đảm bảo tính hệ thống, tính khoa học, tính thực tiễn, nhất là tính khả thi. + Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế: Việc hoàn thiện hệ thống thuế một cách có hệ thống đặc biệt là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để hội nhập và hợp tác thuế quan với các nước ASEAN. Mở rộng hệ thống hiệp dịnh thuế song phương, theo dõi và thực hiện tốt các hiệp định đã ký là những phương cách tốt để thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Ngành thuế đang nghiên cứu sửa đổi bổ sung cải cách thuế bước 2 trong đó cơ bản là 3 dự luật thuế mới đối với nước ta. Dự luật thuế giá trị gia tăng để khắc phục nhược điểm của thuế doanh thu. Dự luật thuế thu nhập công ty thay thế thuế lợi tức. Dự luật thuế thu nhập cá nhân thay cho pháp lệnh thuế thu nhập dân cư và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Luật thuế doanh thu tiêu thụ đặc biệt được Quốc Hội thông qua kỳ họp thứ 8 khoá IX trong năm 1995 tuy có mục tiêu là làm đơn giản hơn các mức thuế suất phù hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh, khắc phục nhược điểm sơ hở trong chính sách thuế nhưng vẫn chưa phải là hợp lý mà cần phải sớm được thay thế bằng luật thuế giá trị gia tăng. Cần phải ban hành pháp lệnh đưa việc thu phí và lệ phí thống nhất, công tác quản lý phải đi vào nề nếp để tránh tình trạng nhiều phí và lệ phí tuy không lớn nhưng không hợp lý làm phiền hà nhiều người đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. + Cương quyết xử phạt các hành động trốn thuế. Trong hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh bên Việt Nam vẫn có hiện tượng hạch toán sai lệch nội dung, nghiệp vụ kinh tế để giảm daonh thu, giảm lãi, chuyển doanh thu chịu thuế suất cao sang chịu thuế suất thấp hơn để cho bên nước ngoài lợi dụng trốn thuế. Xí nghiệp nước ngoài có nhiều cơ hội để thực hiện thủ đoạn trốn thuế như: nâng giá tài sản góp vốn, nâng giá nguyên vật liệu để giảm tích luỹ, giảm thuế lợi tức, hạ giá bán sản phẩm đặc biệt giá bán nội bộ công ty đa quốc gia. Bán nguyên vật liệu đã được miễn thuế nhập khẩu ra thị trường nội địa trốn thuế, chuyển lợi nhuận hoặc chuyển đối tác mà thực chất là bán cổ phần. Trong việc dây dưa tồn đọng thuế còn do đối tác trong nước là quốc doanh hỗ trợ. Quyết toán các chi phí cao bất hợp lý cũng thường xuyên xảy ra để giảm lợi tức chịu thuế cần phải được thu hồi cho ngân sách. + Quy định cụ thể và hạn chế miễn thuế nhập khẩu thiết bị vật tư: Thuế nhập khẩu nguyên liệu vật tư thiết bị máy móc để xây dựng công trình được miễn thuế nên có các khoản khuyến khích sử dụng vật tư nguyên liệu và cả thiết bị sản xuất trong nước. Các thiết bị kỹ thuật cao mới phải nhập kkhaaur và tiêu chuẩn công nghệ, máy móc, tình trạng sử dụng phải được kiểm tra của các tổ chức tư vấn, kiểm tra chuyên ngành. Còn các thiết bị khác khuyến khích sử dụng trong nước để kích thích công nghiệp nặng cơ khí chế tạo là mục tiêu công nghiệp hoá phải đi qua. + Sửa đổi tính chất quyết định của Hội đồng quản trị trong xí nghiệp liên doanh: Các quy định về điều lệ xí nghiệp quá cứng nhắc, đôi khi chỉ là hình thức. Giảm các vấn đề cần sự nhất trí 100% của hội đồng quản trị để việc quản lý xí nghiệp liên doanh được linh hoạt hơn. + Mở rộng ngành nghề được phép đầu tư: Để đa dạng hoá các hoạt động kinh tế, cần thêm hình thức công ty thuê mua thiết bị máy móc giúp các nhà sản xuất hạn chế được trong việc đầu tư vào vốn cố định, hay công ty thương mại. Cho phép những tập đoàn lớn có tiếng đã kinh doanh đa ngành được lập công ty liên doanh thực hiện một lúc nhiều dự án. Điểm này có hạn chế là thường chỉ phù hợp với hình thức 100% vốn nước ngoài vì quy mô vốn lớn khó tìm đối tác trong nước. Tuy nhiên không vì lợi nhuận mà cho phép kinh doanh các ngành có hại đến bản sắc văn hoá dân tộc hay an ninh xã hội như kinh doanh cờ bạc, sex. Cần tăng mức thuế và hạn chế kinh doanh sân golf, rượu, thuốc đá. + Thể chế hoá các ưu đãi đầu tư trong nước. Cần thể chế hoá việc dành một số lĩnh vực, dự án cho đầu tư trong nước và có những ưu đãi khuyến khích nhất định. Không thể vì muốn phát triển nhanh hay vì quyền lợi cục bộ mà kéo dài tình trạng đem tất cả những ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao, dễ kiếm lời cho nước ngoài đầu tư. + Định hướng và quy hoạch thu hút đầu tư vào các ngành then chốt về cơ sở hạ tầng điện lực, đường cao tốc, bến cảng, sân bay theo hình thức BOT, thu hút vào các dự án khai thác quặng mỏ và vật liệu cơ bản, vào lĩnh vực công nghệ cao. Cần có những biện pháp ưu đãi có trọng điểm để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực có tác dụng thúc đẩy phát triển như phát triển cơ sở hạ tầng: nhà máy điện, cấp thoát nước, chế biến rác thải, cầu đường đang yếu, xây dựng khu công nghiệp tập trung, bưu chính viễn thông, bến cảng sân bay, điện tử tin học. Muốn như vậy cần phải chuẩn bị tốt các dự án khả thi, đơn giản hoá thủ tục thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài và chuẩn bị đối tác phía Việt Nam tương xứng với quy mô và trình độ dự án. + Cải cách thủ tục hành chính: cải tiến hành chính quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hợp tác đầu tư là biện pháp chủ yếu để cải thiện môi trường đầu tư. Cần xác định chế độ quản lý xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng bỏ cơ quan chủ quản của các ngành và địa phương là biện pháp hữu hiệu làm giảm tiêu cực và tạo tính chủ động thực sự cho xí nghiệp. Cần đơn giản hoá quy trình thủ tục xét duyệt, thẩm định dự án đầu tư như định hướng tiến đến quy trình một cửa và thời hạn xét duyệt rút ngắn tối đa. Rà soát lại các quy định rườm rà bất hợp lý, không cụ thể dễ tạo thành các tiêu cực trong các ngành đặc biệt về xây dựng, xuất nhập khẩu và quản lý xuất nhập cảnh, cấp visa, cư trú, bảo vệ môi trường. Trong việc cải tiến thủ tục hoá đơn, chứng từ trong ngành thuế cần thiết phải xây dựng thành quy trình thủ tục hợp lý và ổn định về các công tác, sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn, các trình tự và thủ tục nộp thuế thoái bỏ tiền thuế. + Mở rộng và thể chế hoá hoạt động tư vấn pháp luật về đầu tư: Đây là lĩnh vực quan trọng nhưng còn bỏ trống hoạt động tự phát thiếu tổ chức, thiếu chỉ đạo của ngành và đoàn luật sư. Trong khi đó lĩnh vực này rất quan trọng đối với các nhà đầu tư song hầu hết chỉ do luật sư và các công ty luật, công tư tư vấn nước ngoài đảm trách. Hoạt động trên đã tạo nên không ít tiêu cực trong việc thiết lập, thẩm định và triển khai dự án đầu tư. Vì vậy cần nâng cao trình độ nghiệp vụ về tư vấn pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các luật sư trong nước, nhất là tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Cần sớm hình thành các tổ nghiên cứu pháp luật chuyên ngành như: tổ về luật đầu tư nước ngoài, tổ về giải quyết các tranh chấp kinh tế v.v. để làm nòng cốt trong việc nghiên cứu các nội dung và pháp luật chuyên ngành, đóng góp ý kiến sâu sắc cho các dự thảo luật, pháp lệnh... khi cần. Trong tiến trình đổi mới sang kinh tế thị trường, khung pháp lý có tác dụng cơ bản xác lập luật của thị trường cho mọi thành phần tham gia. Trong đó luật đầu tư nước ngoài đã có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đầu tư và cải thiện bộ mặt kinh tế của đất nước. Quá trình chuyển đổi và bổ sung sửa chữa các luật và văn bản luật vẫn còn tiếp tục để toàn khung pháp lý cho hoạt động kinh tế, đặc biệt luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cần được ưu tiên hoàn thiện trước vì các nhà đầu tư nước ngoài quen và đòi hỏi phải được biết rõ toàn bộ luật chi phối các hoạt động kinh doanh của họ cả trong trường hợp xấu nhất. - Đặc biệt chú ý tính nhất quán của các cấp thừa hành thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với các nhà đầu tư có vốn FDI tránh tình trạng mỗi cấp thừa hành diễn giải luật và chủ trương của Nhà nước một cách tuỳ tiện gây phiền hà cho nhà đầu tư - Sớm thực hiện nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 4 áp dụng cơ chế một khung giá dịch vụ: điện, nước, du lịch... đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. - Củng cố sự hoạt động của hệ thống ngân hàng, xem xét lại các chính sách mở tài khoản, chính sách chuyển đổi ngoại tệ v.v... đối với các doanh nghiệp FDI, ít nhất cũng phải tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trả nợ nước ngoài trong thời gian hoạt động chưa có hiệu quả. - Tiếp tục duy trì sự hoạt động của các cơ quan chức năng được lập ra từ tháng 4/1998 nhằm giải quyết cấp bách, tháo gỡ những khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Cho phép thí điểm một số công ty có vốn đầu tư FDI đang làm ăn thuận lợi tại Việt được chuyển đổi từ hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần, bước thử nghiệm này giúp cho đa dạng hoá các loại hình đầu tư tăng khả năng huy động vốn từ mọi nguồn, ngoài ra tạo tiền đề cho các doanh nghiệp có vốn FDI sau này tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. - Tăng cường hoạt động tiếp thị đầu tư. + Chuyển hướng tiếp thị sang các nước Châu Âu, Châu Mỹ giảm dần tỷ trọng thu hút vốn từ khu vực nói tiếng Hoa để thực hiện cân bằng giữa các lực lượng đầu tư. + Tham gia mạng Internet - mở trang Web giới thiệu về môi trường và cơ hội, tiềm năng đầu tư. + Phối hợp với bộ ngoại giao, bộ thương mại và bộ kế hoạch đầu tư tổ chức các hội thảo quốc tế ở từng khu vực giới thiệu về tiềm năng đầu tư ở Việt Nam. + Giới thiệu sách báo, catalogue bằng các thứ tiếng thông dụng để tổ chức tuyên truyền vận động đầu tư khắp toàn cầu. + Tổ chức đối thoại, xúc tiến đầu tư thông qua cộng đồng các doanh nghiệp nước ngoài mà cách đây không lâu chính phủ Việt Nam cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI được thành lập. - Thành lập một trung tâm đầu mối để giải quyết các vướng mắc có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. - Rà soát lại cơ cấu đầu tư, đảm bảo cân đối vốn huy động vào các ngành, lĩnh vực địa bàn lãnh thổ, tránh hiện tượng đầu tư vốn kém hiệu quả. Trong thực tế theo số liệu thống kê tới tháng 7 năm 1997, cơ cấu vốn FDI là: công nghiệp 46,8%; khách sạn, căn hộ, văn phòng: 35%; dịch vụ: 18,2%. Theo số liệu trên, số lượng vốn đầu tư FDI vào lĩnh vực khách sạn, căn hộ, văn phòng chiếm tỷ trọng khá lớn (35%). Hiện nay ở Việt Nam nói chung (chủ yếu là Hà Nội, thành phố HCM và các thành phố lớn) đã có dấu hiệu dư thừa năng lực của khách sạn và căn hộ do đầu tư tăng quá nhanh so với nhu cầu. Đây cũng là một trong các nguyên nhân làm giảm hiệu quả vốn đầu tư và góp phần vào khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan và một số nước khác. - Có quy hoạch cụ thể xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế tự do, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Đối với một số công ty liên doanh hoạt động có lãi, sớm có giải quyết như chuyển nhượng vốn cho nước ngoài hoặc đối tác thứ ba khác, không nên để lỗ kéo dài. - Quản lý phải quan tâm từ khâu đầu đến khâu cuối tức là quan tâm đến cả ba khâu từ khâu thẩm định, quản lý quá trình triển khai và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI. - Thu hút FDI vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa không chỉ bằng ưu đãi thuế mà cần xây dựng cơ sở hạ tầng mới có thể kéo các nhà đầu tư nước ngoài vào. - Cần thi hành chính sách hữu hiệu để giảm tối đa sự phân hoá giữa giàu nghèo giữa các địa phương giữa các tầng lớp dân cư hiện nay đang là một trong những căn bệnh khó chữa trị của các nước đang phát triển trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong đó có hợp tác FDI. - Cần xử lý nghiêm khắc những hiện tượng tham nhũng, làm trái với những quy định của pháp luật của các cán bộ thừa hành, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư. - Cần phải đổi mới công tác đào tạo để đáp ứng nhu cầu thực hiện một lực lượng lao động dồi dào và sẽ có thể cung ứng hàng năm cho các doanh nghiệp FDI. Nhưng đến nay sau 10 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, lực lượng lao động của ta đã bộc lộ khá nhiều yếu kém, thể hiện ở trình độ tay nghề và khả năng ngoại ngữ. 3.2.2. Những điều kiện và giải pháp lâu dài. - Sớm thông qua và ban hành công khai quy hoạch các dự án FDI từ đây đến năm 2000 và những năm tiếp theo. - Xét duyệt và công khai chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam khi buôn bán với các nước và với các nước AFTA từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp cho các nhà đầu tư hoạch định chính sách xuất khẩu sản phẩm của mình trong tương lai. - Hoàn thiện hoạt động hải quan phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động xuất nhập khẩu của các dự án FDI. - Thúc đẩy đàm phán thương mại với Mỹ, với tổ chức WTO tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI xuất khẩu thuận lợi sang thị trường Mỹ và các nước khác trên thế giới - Xây dựng quy hoạch tổng thể chiến lược thu hút đầu tư FDI tại Việt Nam, trên cơ sở quy hoạch tổng thể này các ngành, các địa phương đề xuất những giải pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Tóm lại cũng như các nước trong khu vực, hoạt động đầu tư FDI đang gặp khó khăn nhưng với những giải pháp trên hy vọng rằng hoạt động FDI của Việt Nam sẽ gia tăng trong những năm tới. Kết Luận Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu á bắt đầu từ tháng 7/ 1997 kéo dài đã hơn một năm và cho đến nay người ta vẫn chưa thấy hết được những tác động của nó. Trên đây là toàn bộ diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng này, tác động của nó đến các nước nói chung và đến Việt Nam nói riêng, những bài học và những giải pháp nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng ở các nước và ở Việt Nam. Mong rằng Việt Nam nói riêng và các nước bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này nói chung sớm khắc phục được hậu quả, phát triển đất nước với tốc độ cao Tài Liệu Tham Khảo - Tạp chí: những vấn đề kinh tế thế giới: Số 3 - 1997 (trang 9 - 15); số 6/ 1997(trang 25 - 33), số 1 - 1998 (trang 6 - 10); số 2/1998 (trang 22 - 25) số 3/1998 (trang 10 - 15). - Thương mại số 12/1998 (trang 24 - 27); số 14/1998; số 6/1998 - Thị trường tài chính tiền tệ: số 6/1998 (trang 24 - 41), số 12/1997 (trang 28) số 8/1998 (trang 23, 24); số 9/1998 (trang 30 - 34); số 7/1998 (trang 28, 29); số 4/1998 (trang 13, 14). - Kinh tế và phát triển - Ngoại thương 16 -12/9/1998; 23 - 29/9/1998 (trang 27,28); 30/9 - 6/10/1998 (trang 26, 27). - Tài chính số 4/1998 (trang 36 - 41); số 7/1998 (trang 31 - 40); số 12/1997 (trang 42, 43), số 10/1998 (trang 40 - 47); số 8/1998 (trang 36 - 39); số 11/1997 (trang 41,42). - Việt Nam và Đông Nam á ngày nay số 4/1998 (trang 14 - 17); số 1/1998 (trang 14, 15). - Nghiên cứu kinh tế: số 2, 4, 5/ 1998; số 10, 12/1997. - Thông tin tài chính tiền tệ số 3 tháng 2/1998 (trang 19, 20); số 9 (5/1998); số 11 tháng 6/1998 (trang 7 - 11); số 12 tháng 6/1998 (trang 27, 28) - Phát triển kinh tế số 95/1998 (trang 20 - 35) - Con số và sự kiện: số 1, 2, 3, 4, 8, 9/1998; số 8, 9, 10, 11/1997. - Nghiên cứu lý luận: số 9/1998; 9/1997. - Thông tin lý luận: 9/1998 - Công nghiệp: số 8, 19/1998. - Kinh tế thế giới: số 3, 4, 6, 10/1997; số 1, 2, 3, 4/1998. - Thông tin tài chính: số 6, 16/1997; số 3, 5, 8, 9, 1, 12, 15, 17/1998. - Thị trường giá cả: số 9, 10, 11/1997; số 1, 4, 7, 8/1998 - KT Sài Gòn số 10, 11, 20, 21, 23, 28, 35, 36, 37, 41, 42, 43/1998 - Thời báo kinh tế: số 70 trang 14; số 80 trang 14; số 88 trang 14. - Báo đầu tư: số 100, 104. Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0011.doc
Tài liệu liên quan